-
BA
MƯƠI BA VỊ TỔ ẤN-HOA
H.T Thích Thanh Từ
soạn dịch
Tu Viện
Chơn Không 1971
Thành Hội
Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh Ấn Hành - PL. 2534 - 1990
ẤN ĐỘ
15. Bồ-Tát Ca-Na-Đề-Bà (Kanadeva)
Cuối thế
kỷ thứ sáu sau Phật Niết-bàn.
Ngài dòng Tỳ-Xá-Ly ở Nam-Ấn.
Thuở nhỏ Ngài bẩm tánh thông minh,biện tài vô ngại, Ban sơ Ngài
học phong tục trong nước, ưa làm việc phước thiện. Khi Tổ Long-Thọ
đến nước nầy, Ngài tìm đến yết kiến. Tổ Long-Thọ muốn thử
Ngài,sai đồ đệ múc một thau nước đầy để ở trước lối vào. Ngài đi
qua lấy cây kim bỏ vào, rồi thẳng đến yết kiến Tổ.
Thầy trò gặp nhau vui vẻ
lãnh hội, khi Tổ Long-Thọ thuyết pháp hiện tướng vầng trăng tròn,
Ngài thầm ngộ yếu chỉ. Ngài theo Tổ xuất gia và được truyền tâm
ấn.
Sau khi đắc pháp, Ngài vân
du khắp nơi, lần lượt sang nước Ca-Tỳ-La để giáo hóa.Trong nước
nầy có ông trưởng giả tên Tịnh-Đức sanh được hai người con trai,
người cả tên La-Hầu-La-Điểm,người thứ tên La-Hầu-La-Đa. Ông hằng
ngày chỉ săn sóc vườn tược. Hôm nọ,một cây trong vườn nẩy sanh
thứ nấm lạ, ông nhổ về ăn thử, thực ngon lành. Song chỉ ông và
người con thứ hằng ngày đều nhổ được nấm ăn,ngoài ra không ai
nhổ được. ông bảo con thứ:
-Nấm cây nầy chỉ ta và ngươi
được ăn, ắt là việc phi thường.Ước gì có ai thông hiểu giải
thích cho việc này.
-
La-Hầu La-Đa nói kệ:
-
Thử mộc sanh kỳ nhĩ,
-
Ngã thực bất khô khao,
-
Trí giả giải thử nhơn,
-
Ngã hồi hướng Phật đạo .
Dịch :
-
Cây nầy sanh nấm lạ,
-
Con ăn rất ngon lành,
-
Người trí giải nhơn nầy,
-
Con xin theo Phật đạo .
Chợt gặp Bồ-Tát Đề-Bà đến
nhà,cha con ông Tịnh Đức vui mừng đem việc nầy ra hỏi. Ngài dạy
:
-Khi xưa lúc ông hai mươi
tuổi thường mời một vị Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Vị Tỳ-kheo ấy
tuy có chút ít giới hạnh mà con mắt pháp chưa sáng,tâm không
thấu lý,luống nhận sự cúng dường của ông. Song vị Tỳ-kheo ấy có
chút ít tu hành nên khỏi sa vào đường ác,vẫn phải làm cây sanh
nấm nầy để trả nợ cho ông. Xưa khi vị Tỳ-kheo ấy đến nhà
ông,trong nhà chỉ có ông và người con thứ nầy thành kính cúng
dường,còn bao nhiêu người đều không vui. Vì thế,nên nấm hiện nay
chỉ hai cha con ông được hưởng. Ngài lại bảo:
-Ông nay được bao nhiêu tuổi
?
Trưởng giả thưa:
-Tôi được 79 tuổi.
Ngài nói kệ :
-
Nhập đạo bất thông lý,
-
Phục thân hoàn tín thí,
-
Nhữ niên bát thập nhất,
-
Thử mộc diệc vô nhĩ.
Dịch :
-
Vào đạo không thông lý,
-
Hoàn thân đền tín thí,
-
Trưởng giả tuổi tám mốt,
-
Cây nầy không sanh nấm.
Ông trưởng giả nghe nói
xong,biết rõ duyên trước càng thêm thán phục, Ông thưa :
-Tôi già yếu tuy muốn xuất
gia e không kham theo thầy. Đứa con thứ của tôi hết lòng mộ
đạo,tôi xin cho nó theo làm thị giả cho thầy,mong thầy dung nạp.
Ngài hoan hỷ chấp nhận La-Hầu-La-Đa xuất gia và triệu tập các vị
thánh tăng đến truyền giới.
Ngài du hóa đến nước
Ba-Liên-Phất gặp lúc ngoại đạo hưng thịnh Phật pháp lu mờ. Ngài
đem hết khả năng chuyển hóa ngoại đạo trở về quy y Tam-Bảo,khiến
xứ nầy Phật pháp hưng thịnh lại.
Khi già yếu, Ngài gọi La-Hầu-La-Đa
đến phó chúc pháp nhãn tạng và dặn dò đừng để đoạn diệt. Kế nói
kệ :
-
Bổn đối truyền pháp nhơn,
-
Vị thuyết giải thoát lý,
-
Ư pháp thật vô chứng,
-
Vô chung diệc vô thủy.
Dịch :
-
Xưa đối người truyền pháp,
-
Vì nói lý giải thoát,
-
Nơi pháp thật không chứng,
-
Không chung cũng không thủy.
Dặn dò xong,Ngài nhập định
ngồi nghiêm chỉnh thị tịch. La-Hầu-La-Đa và đồ chúng xây tháp
cúng dường.
Ngài là Bồ-Tát thứ ba làm
nổi bật giáo lý Đại-Thừa. Những tác phẩm Ngài trước thuật:
1.-Bách luận,
2.-Bách tự luận,
3.- Đại trượng phu luận,
4.-Đề-Bà Bồ-Tát phá Lăng-Già
kinh trung ngoại đạo tiểu-thừa tứ tông luận,
5.- Đề-Bà Bồ-Tát thích
Lăng-Già kinh trung ngoại đạo tiểu-thừa Niết-bàn luận…
Những bộ luận trên nổi tiếng
nhất là bộ Bách-luận và Đại-Trượng-Phu luận .
16. Tổ La-Hầu-La-Đa (Rahulata)
Đầu thế
kỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn .
Ngài dòng Phạm-Ma ở nước Ca-Tỳ-La,
Thuở nhỏ đã có sẵn lòng mộ đạo. Khi lớn do cơ duyên trong vườn
có cây mọc nấm, Tổ Đề-Bà giải thích nhơn do,mà Ngài được xuất
gia. Sau khi được truyền tâm ấn,Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa
nhơn gian,lần lượt đến phía Nam thành Thất-La-Phiệt gặp sông
Kim-Thủy. Ngài bảo chúng :
-Các ngươi biết chăng ? Vừa
thấy bóng năm đức Phật hiện dưới dòng sông, ta lấy bát mút nước
nếm có mùi vị lạ, ngược dòng sông nầy chừng năm trăm dặm sẽ có
bực chí nhơn ở, hiệu là Tăng-Già-Nan-Đề.
Ngài bèn dẫn chúng theo ven
bờ sông trở lên,quả nhiên thấy Nan-Đề đang ngồi thiền trong thất
đá.Ngài và đồ chúng
dừng lại xem,chờ đến bảy
ngày Nan-Đề mới xuất định. Ngài hỏi Nan-Đề: -Thân ông định hay
tâm ông định ?
Nan-Đề đáp:
-Thân tâm đều định.
–Thân tâm đều định sao có
xuất nhập ?
–Tuy có xuất nhập mà không
mất tướng định,như vàng ở trong giếng,vàng ra ngoài giếng,thể
vàng vẫn yên lặng.
-Nếu vàng ở trong giếng,vàng
ra ngoài giếng,thể vàng không động tịnh,thì vật gì ra vào ? -<Nơi
vàng không động tịnh thì vật gì ra vào> ?
-Đã thừa nhận vàng ra vào mà
thể vàng không động tịnh.
-Nếu vàng ở trong giếng thì
ra là vật gì ?
–Vàng,nếu ra ngoài thì ở
trong giếng không phải vàng,Vàng nếu ở trong giếng thì ra không
phải vật.
–Nghĩa nầy không đúng.
–Lý kia chẳng nhằm.
–Nghĩa nầy đã ngã.
–Nghĩa kia chẳng thành.
–Nghĩa kia chẳng thành mà
nghĩa của ta thành.
–Nghĩa ta tuy thành mà pháp
không có ta.
–Nghĩa ta đã thành vì ta mà
không ta.
–Ta mà không ta lại thành
nghĩa gì ?
–Vì ta không ta nên thành
nghĩa của ngươi.
–Nhơn giả thờ vị thánh nào
mà được <không ta> ấy ?
-Thầy ta là Bồ-Tát Ca-Na-Đề-Bà
chứng được <không ta>. Nan-Đề tán thán :
-Cúi đầu lễ Đề-Bà,người tạo
thành nhơn giả. Vì nhơn giả <không ta>, tôi muốn thờ nhơn giả.
Ngài bảo :
-Vì ta đã<không ta>, ngươi
cần thấy ta ta. Ngươi nếu thờ nơi ta, biết ta chẳng ta ta.
Nan-Đề tâm được rỗng rang
liền đảnh lễ nói kệ :
Tam giới nhất minh đăng, Hồi
quang nhi chiếu ngã, Thập phương tất khai lãng, Như nhật hư
không trụ.
Dịch : Ba cõi một ngọn đèn,
Ánh sáng soi chiếu con, Mười phương đều sáng lạng, Như mặt trời
trong không.
Nan-Đề nói kệ xong,lại đảnh
lễ cầu xin thế độ. Ngài bảo:
-Tâm ngươi tự tại chẳng lệ
thuộc vào ta,cần gì nương nhờ mà cầu giải thoát. Một hôm, Ngài
gọi Nan-Đề đến bảo :
-Nay ta đã già không còn ở
đời bao lâu, đại pháp nhãn tạng của Như-Lai trao lại cho ngươi.
Nghe ta nói kệ :
Ư pháp thật vô chứng, Bất
thủ diệc bất ly, Pháp phi hữu vô tướng, Nội ngoại vân hà khởi.
Dịch : Nơi pháp thật không
chứng, Chẳng giữ cũng chẳng lìa, Pháp chẳng tướng có không,
Trong ngoài do đâu khởi.
Nan-Đề nghe kệ xong càng
thêm cung kính, nói kệ tán thán :
Thiện tai đại thánh giả, Tâm
minh du nhật nguyệt, Nhất quang chiếu thế giới, Ám ma vô bất
diệt.
Dịch : Lành thay ! bậc đại
thánh, Tâm sáng như nhật nguyệt, Ánh sáng chiếu thế giới, Ma tối
diệt hết sạch.
Ngài ngồi trên tòa lặng lẽ
thị tịch. Bốn chúng xây tháp cúng dường .
17. Tổ Tăng-Già-Nan-Đề (Sanghanandi)
Giữa thế
kỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn.
Ngài là hoàng-tử con vua
Bảo-Trang-Nghiêm ở thành Thất-La-Phiệt. Ngài sanh chưa bao lâu
đã biết nói,mà thường nói việc Phật pháp. Năm bảy tuổi, Ngài
chán thú vui ở đời,cầu xin xuất gia. Ngài nói kệ xin cha mẹ :
Khể thủ đại từ phụ, Hòa nam
cốt huyết mẫu, Ngã kim dục xuât gia, Hạnh nguyện ai mẫn cố .
Dịch : Cúi đầu lễ cha lành,
Nép mình lạy mẹ hiền, Nay con muốn xuất gia, Xin thương xót nhận
cho .
Cha mẹ cố khuyên giải không
cho. Ngài phải nhịn ăn nài nỉ cho kỳ được. Đối cùng cha mẹ thấy
chí Ngài quá mạnh không sao ngăn nổi,nên cho xuất gia với điều
kiện ở một ngôi nhà riêng trong hoàng cung. Vua thỉnh Sa-Môn
Thiền-Lợi-Đa về dạy Phật pháp cho Ngài. Từ đây Ngài được pháp
danh là Tăng-Già Nan-Đề. Ngài ở trong hoàng cung chín năm tu
hành,mới được thọ giới cụ túc. Một hôm,Ngài tự cảnh tỉnh :
-Ta đã thọ giới cụ túc mà
còn ở trong nhà thế tục nầy sao ? Chợt một buổi chiều trời quang
mây tạnh, Ngài nhìn thấy một con đường bằng phẳng, ở xa đầu kia
lố dạng một ngọn núi xanh. Ngài liền cất bước nhắm hòn núi thẳng
tiến. Ngài đi đến dưới núi mà trời chưa tối. Tự Ngài tìm được
thất đá rồi ngồi thiền nơi ấy. Năm ấy Ngài 26 tuổi.
Sáng hôm sau,vua nghe mất
Thái-tử cho người tìm kiếm khắp nơi không được. Bực mình,vua
đuổi Sa-Môn Thiền-Lợi-Đa ra khỏi thành. Ngài tu thiền ở đây ngót
mười năm,mới có cơ duyên gặp Tổ La-Hầu-La-Đa được truyền chánh
pháp. Sau khi đắc pháp,Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa khắp nơi
làm lợi lạc quần sanh.Một hôm,Ngài bảo đồ chúng
-Thầy ta La-Hầu-La-Đa thường
nói nước Ma-Đề sẽ ra đời một vị thánh tên Già-Da-Xá-Đa nối ta
truyền pháp. Nay ta và các ngươi sang nước ấy tìm. Ngài liền dẫn
đồ chúng du hóa nước Ma-Đề. Đang đi trong nước nầy,bỗng có một
luồng gió mát lành từ phương tây thổi đến làm mát khỏe toàn
chúng, Ngài bảo chúng :
-Đây là đạo đức phong,ba
ngàn dặm về phía tây ắt gặp thánh nhơn. Thầy trò đi đến một hòn
núi nhìn lên đảnh có áng mây năm sắc.
Ngài bảo chúng :
-Trên đảnh núi có mây tía
như cái lọng ắt là chỗ thánh nhơn ở. Lên đến đảnh,quả nhiên thấy
một mái nhà tranh nằm bên cạnh núi. Một đứa bé cầm gương tròn,
đến trước bái Ngài. Ngài hỏi :
-Ngươi bao nhiêu tuổi
?
Đứa bé thưa :
-Trăm tuổi.
–Ngươi còn bé mà sao trăm
tuổi ?
–Tôi chẳng hiểu sao,chính
tôi một trăm tuổi.
–Ngươi có căn cơ lành chăng
?
-Phật đâu không nói kệ :<Nếu
người sanh trăm tuổi không hội được cơ duyên chư Phật,chẳng bằng
sanh một ngày,mà được hiểu rành rõ>.
–Ngươi cầm gương tròn ý muốn
làm gì ?
Đứa bé nói kệ :
-
Chư Phật đại viên giám,
-
Nội ngoại vô hà ế,
-
Lưỡng nhơn đồng đắc kiến,
-
Tâm nhãn giai tương tợ.
Dịch :
-
Chư Phật gương tròn lớn,
-
Trong ngoài không vết che,
-
Hai người đồng được thấy,
-
Tâm mắt đều giống nhau .
Cha mẹ thấy đứa bé đối đáp
hợp đạo như thế, đồng ý cho Ngài làm thị giả,Ngài nhận đứa bé
dẫn về tịnh-xá cạo tóc thọ giới,cho hiệu là Già-Da-Xá-Đa. Một
hôm,gió thổi cái linh treo trên điện Phật khua động, Ngài hỏi
Xá-Đa:
-Linh kêu hay gió kêu
?
–Xá-Đa thưa:
-Chẳng phải linh kêu,chẳng
phải gió kêu,mà tâm con kêu.
–Tâm ngươi là cái gì ?
-Đều lặng lẽ.
–Hay thay! ngươi khéo hội lý
Phật,nên nói pháp yếu,nối đạo cho ta,chẳng phải ngươi còn ai ?
Ngài liền nói kệ
-
Tâm địa bổn vô sanh,
-
Nhơn địa tùng duyên
khởi,
-
Duyên chủng bất tương phòng,
-
Hoa quả diệc phục nhi .
Dịch :
-
Đất tâm vốn không sanh,
-
Nhơn đất từ duyên khởi,
-
Duyên giống chẳng ngại nhau,
-
Hoa trái cũng như thế .
Nói kệ xong, Ngài nắm cành
cây mà hóa. Đồ chúng bàn nhau: < Thầy ta diệt độ ở dưới tàng cây,
cũng là điềm che mát cho kẻ sau >. Liền làm lễ hỏa táng tại đây
.
18. Tổ Già-Da-Xá-Đa (Gayasata)
Cuối thế
kỷ thứ bảy sau Phật Niết-bàn.
Ngài họ Uất-Đầu-Lam ở nước
Ma-Đề, cha hiệu Thiên-Cái, mẹ là Phương-Thánh. Bà Phương-Thánh
thọ thai,một đêm mộng thấy có người cầm cái gương báu đến nói: "Tôi
đến". Bà chợt tỉnh giấc,nghe toàn thân nhẹ nhàn thanh thản, khác
hơn ngày thường. Trong nhà có mùi hương lạ, vài lằn hào quang
xuất hiện. Bảy ngày sau, Bà sanh ra Ngài.
Thân Ngài trong sáng giống
như lưu-ly. Ngài thích chỗ vắng vẻ,nói ra những lời siêu việt.
Nhà cha mẹ Ngài ở trên núi Bảo-Lạc-Ca. Sau khi Ngài ra đời,ngôi
nhà nầy luôn luôn có áng mây tía che đậy trên không. Tổ
Tăng-Già-Nan-Đề nhơn thấy áng mây ấy,tìm đến gặp Ngài. Từ đó,
Ngài theo làm đệ tử Tổ
Về sau, Ngài được Tổ truyền
tâm ấn và thống lãnh đồ chúng. Tùy duyên, Ngài đi vân du khắp
nơi để giáo hóa làm lợi ích cho quần sanh. Khi tuổi đã già, Ngài
du hóa đến nước Nguyệt-Chí. Trong nước nầy có người dòng
Bà-La-Môn
Tên Cưu-Ma-La-Đa tuổi được
30 tu theo ngoại đạo,chủ thuyết tự nhiên. Ông có nuôi một con
chó,mỗi khi ăn xong, con chó ra hành lang dưới tấm rèm nằm. Có
những khi mưa gió ướt cả mình,mà nó vẫn nằm đó. Người nhà sợ nó
lạnh đuổi đi chỗ khác,rồi nó cũng trở lại chỗ đó nằm. Ông
Cưu-Ma-La-Đa lấy làm lạ, đem việc đó hỏi thầy ông, nhưng không
giải được điều gì. Ông mong có dịp gặp những bậc tu hành đạo đức
cao cả để nhờ giải nghi.
Ngài cùng đồ chúng đi đến
gần nhà người Bà-la-môn nầy,bỗng thấy khí đại thừa xông lên.
Ngài dừng lại bảo chúng:
-Khí nầy nếu vòng tròn như
khoen đeo tai là có Bồ-Tát bên cạnh. Nay khí nầy tương tợ vòng
tròn ắt có thánh nhơn gần đây. Thầy trò đi đến một đỗi,bỗng có
người Bà-la-môn đến hỏi thị giả:
-Thầy đây là người gì ?
Thị giả đáp:
-Là đệ tử Phật.
Người ấy liền chạy thẳng vào
nhà đóng cửa lại. Ngài đi theo đến nơi gõ cửa. Trong nhà nói
vọng ra rằng:
-Nhà nầy không có người.
–Ngài hỏi:
-Đáp không người đó là ai ?
Cưu-Ma-La-Đa nghe nói bèn có
vẻ lạ, nghi là bậc đạo hạnh bèn mở cửa. Ra thấy Ngài, ông chào
và thỉnh ngồi ghế giữa, đoạn đem nghi vấn về con chó ra hỏi.
Ngài giải thích:
-Con chó nầy là cha của ông,
bởi có chút ít nghiệp nên đọa làm súc sanh. Xưa kia cha ông đem
cả ngàn đính vàng để trong cái hũ lén chôn dưới rèm. Đến khi
người chết,chưa gặp ông để trối lại,vì còn tiếc của nầy nên sanh
ra làm chó để gìn giữ. Nếu ông đào được, ắt nó sẽ bỏ đi.
Cưu-Ma-La-Đa liền cho người đào chỗ con chónằm,quả nhiên được hũ
vàng đúng như lời Ngài nói. Ông hết lòng kính phục phát nguyện
xuất gia. Ngài hoan hỷ chấp nhận làm lễ xuất gia thọ giới và cho
làm thị giả. Thấy cơ duyên đã mãn, Ngài kêu Cưu-Ma-La-Đa đến dặn
dò:
-Xưa Như-Lai đem đại pháp
nhãn trao cho Tổ Ca-Diếp truyền lần đến ta, nay ta truyền lại
cho ngươi. Ngươi nghe ta dạy:
-
Hữu chủng hữu tâm địa,
-
Nhơn duyên năng phát manh,
-
Ư duyên bất tương ngại,
-
Đương sanh sanh bất sanh.
Dịch:
-
Có giống có đất tâm,
-
Nhơn duyên hay nẩy mầm,
-
Đối duyên chẳng ngại nhau,
-
Chính sanh, sanh chẳng sanh..
Cưu-Ma-La-Đa cung kính vâng
dạy, đảnh lễ thọ lãnh. Ngài dùng mười tám phép thần biến rồi vào
viên tịch. Đồ chúng hỏa táng và lượm xá-lợi xây tháp cúng dường
.
19. Tổ Cưu-Ma-La-Đa (Kumarata)
Đầu thế
kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn.
Ngài dòng Bà-la-môn ở nước
Nguyệt-Chí. Gia đình Ngài trước kia giàu có, song cha Ngài vì
bịnh tham tiếc chỉ một bề bo bo giữ của. Nhơn việc con chó nằm
ngoài rèm,gặp Tổ Già-Da-Xá-Đa giải nghi, Ngài phát tâm theo đạo
Phật, xuất gia thọ giới. Sau khi được được Tố Xá-Đa phó chúc và
truyền tâm pháp, Ngài đi vân du khắp nơi để hoằng pháp lợi sanh.
Ngài đi giáo hóa đến miền Trung-Ấn,trên đường gặp một du khách
tên Xà-Dạ-Đa đến lễ bái Ngài, Ông hỏi:
-Nhà con cha mẹ đều kính
Tam-Bảo tu hành đúng pháp, mà sao nhiều bệnh hoạn, làm việc gì
thất bại việc ấy. Hàng xóm gần nhà con,có người hung bạo giết
hại làm ác càng ngày càng nhiều, mà thân thể khỏe mạnh, ra làm
việc đều được như ý. Như vậy, nhơn quả nghiệp báo đâu không phải
nói suông ư ? Con rất nghi lẽ nầy, mong Ngài giải nghi.
Ngài bảo:
-Phật nói nghiệp báo thông
cả ba đời, bởi do đời trước tạo nghiệp lành nên đời nầy hưởng
quả lành. Dù đời nầy có làm ác thì quả ác sẽ chịu ở đời sau. Cho
nên, có người đời nầy tuy làm lành mà đời nầy không hưởng được
quả lành, vì nghiệp ác trước mạnh hơn. Có người đời nầy tuy làm
ác mà không chịu quả ác, vì nghiệp lành trước mạnh hơn. Nếu do
đời nầy không được quả lành, rồi lại tạo ác, thì đời sau càng sa
vào đường ác. Nếu do đời nầy được quả lành, rồi lại tạo lành,
thì đời sau càng tiến trên đường lành. Lại, có người đời trước
làm lành được nửa đời, đổi sang làm ác, đến đời nầy nửa đời
trước hưởng phước, nửa đời sau mắc họa. Hiện nay cha mẹ ông và
người hàng xóm lẽ báo ứng thiện ác cũng giống như thế, bởi
nghiệp đời trước chiêu cảm nên vậy. Đâu thể căn cứ trong hiện
đời mà hiểu được ?
Dạ-Đa nghe giải liền tan hết
nghi ngờ. Ngài dạy thêm:
-Tuy ông đã tin nghiệp ba
đời, mà chưa rõ nghiệp từ hoặc sanh, hoặc nhơn thức có, thức y
nơi bất giác, bất giác y nơi tâm. Song tâm vốn thanh tịnh, không
sanh diệt, không tạo tác, không báo ứng, không hơn kém, lặng lẽ
linh thông. Ông nếu vào pháp môn nầy có thể đồng với chư Phật,
tất cả thiện, ác,hữu vi,vô vi, đều như mộng huyễn. Dạ-Đa nghe
được lời nầy liền phát huệ đời trước,bèn xin xuất gia. Ngài hỏi:
-Ông người xứ nào ? Cha mẹ
còn chăng ? Nếu thật tâm cầu đạo, nên trở về nhà xin với cha mẹ,
xin xong trở lại cũng chẳng muộn.
Dạ-Đa thưa:
-Con là người Bắc-Ấn,cách
đây hơn ba ngàn dặm, đâu thể trở lại được. Xin thỉnh Ngài đến xứ
con, cho gia đình con cúng dường và nhơn đó con được xuất gia.
Ngài bằng lòng, thầy trò và
đồ chúng đồng sang Bắc-Ấn. Đến nhà, Dạ-Đa xin phép cha mẹ được
xuất gia. Ngài làm lễ xuất gia và truyền giới cụ túc cho Dạ-Đa
tại một ngôi tháp cổ, nơi quê hương của Dạ-Đa. Một hôm, Ngài gọi
Dạ-Đa đến dặn dò:-Xưa Phật ghi rằng ngươi sẽ làm Tổ thứ hai
mươi,nay ta trao pháp nhãn tạng cho ngươi, ngươi khéo giữgìn và
truyền bá. Nghe ta nói kệ:
-
Tánh thượng bổn vô sanh,
-
Vị đối cầu nhơn thuyết,
-
Ư pháp ký vô đắc,
-
Hà hoài quyết bất quyết.
Dịch:
-
Trên tánh vốn không sanh,
-
Vì đối người cầu nói,
-
Nơi pháp đã không được,
-
Đâu cần giải chẳng giải.
Lại dặn:
-Kệ nầy là lời diệu, do Như-Lai
thấy tánh thanh tịnh nói ra, ngươi nên vâng giữ. Dạ-Đa cung kính
đảnh lễ vâng dạy. Ngài ngồi ngay trên tòa chấp tay hở ra như hoa
sen nở, phóng hào quang sáng suốt soi khắp trong chúng, rồi yên
lặng thị tịch.Toàn chúng xây tháp phụng thờ.
20. Tổ Xà-Dạ-Đa (Jayata)
Giữa thế
kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn.
Ngài người Bắc-Ấn, trước đã
sẵn lòng mến đạo, thông hiểu đạo lý. Nhơn du lịch miền Trung-Ấn
gặp Tổ Cưu-Ma-La-Đa, Ngài nhờ giải nghi, rồi phát tâm xuất gia.
Sau được truyền tâm ấn. Ngài thống lãnh đồ chúng du hóa các
nước,lần lượt đến thành La-Duyệt. Trong thành nầy hiện có số
đông chúng tăng học đạo. Nghe tin Ngài đến,họ đua nhau đến yết
kiến. Chúng đến trước nhất,người lãnh đạo là Bà-Tu-Bàn-Đầu. Ông
nầy tu hành tinh tấn suốt ngày đêm không nằm và sáu thời lễ
bái,mặc y vá, ăn một bữa,lòng đạm bạc không mong cầu. Đồ chúng
nhơn đó rất kính trọng ông. Ngài gọi đồ chúng bảo:
-Người khổ hạnh tu hành
thanh tịnh nầy (Bà-Tu-Bàn-Đầu) có thể được Phật đạo chăng?
Chúng đáp:
-Thượng nhơn nầy tu hành
tinh tấn như thế,đâu không được đạo.
Ngài bảo:
-Người nầy cùng đạo xa vậy.
Dù khổ hạnh trải qua nhiều
kiếp,chỉ giúp cho gốc vọng, đâu thể chứng đạo ?
Chúng hỏi:
-Nhơn giả chứa đựng được
pháp gì mà chê thầy tôi ?
Ngài đáp:
-Ta chẳng cầu đạo cũng chẳng
điên đảo, ta chẳng lễ Phật cũng chẳng khinh mạn, ta chẳng ngồi
mãi cũng chẳng lười biếng, ta chẳng biết đủ cũng chẳng tham cầu.
Bà-Tu-Bàn-Đầu nghe lời nầy vui vẻ nói bài kệ tán thán:
-
Khể thủ tam muội tôn,
-
Bất cầu ư Phật đạo,
-
Bất lễ diệc bất mạn,
-
Tâm bất sanh điên đảo,
-
Bất tọa bất giải đải,
-
Đãn thực vô sở hảo,
-
Tuy hoãn nhi bất trì,
-
Tuy cấp nhi bất tháo,
-
Ngã kim ngộ chí tôn,
-
Hòa nam y Phật giáo.
Dịch:
-
Đảnh lễ tam muội lớn,
-
Chẳng cầu được Phật đạo,
-
Chẳng lễ cũng chẳng khinh,
-
Tâm chẳng sanh điên đảo,
-
Chẳng ngồi chẳng lười biếng,
-
Chỉ ăn không cần ngon,
-
Tuy hoãn mà không chậm,
-
Tuy gấp mà chẳng thô,
-
Nay con gặp chí tôn,
-
Cúi đầu vâng Phật dạy.
Ngài bảo chúng:
-Người tu hạnh đầu đà nầy,
bọn ngươi không thể bì kịp.Vì ông ấy kiếp trước tu hạnh bất
khinh nên mới được như vậy.Vừa rồi,ta chê ông, bởi thấy ông đạo
tâm tha thiết,sợ e như sợi đờn thẳng quá phải đứt nên ta không
khen ông, muốn ông tiến đến chỗ vô sở đắc và dừng trụ nơi đất
An-Lạc.
Ngài lại gọi Bàn-Đầu hỏi:
-Ta nói trái ý ông,
tâm ông được chẳng động
chăng ?
Bàn-Đầu thưa:
-Đâu dám động tâm.Tôi nhớ
bảy đời về trước sanh cõi An-Lạc,vì mộ đạo nên thờ trí giả
Nguyệt-Tịnh làm thầy. Thầy Nguyệt-Tịnh dạy tôi: "Không bao lâu
nữa ngươi sẽ chứng quả Tư-Đà-Hàm, nên siêng năng tinh tiến. Phàm
tu hành như trèo lên cao, phải cố gắng tiến lần lên, không cho
sụt xuống. Nếu lỡ có sụt, muốn trèo lên lại càng khó". Lúc đó,
tôi đã tám mươi tuổi, nương gậy mới có thể đi được.Khi ấy, gặp
Bồ-Tát Đại-Quang-Minh ra đời, tôi muốn đến lễ Ngài, bèn đi đến
tịnh-xá, lễ bái xong trở về. Chợt gặp thầy Nguyệt-Tịnh quở trách
tôi: "Dốt quá, tại sao ông lại khinh cha trọng con ? Hôm
trước,ta thấy ông sắp được chứng quả, hôm nay đã mất." Khi ấy,
tôi tự cho là không có lỗi, nên không phục những lời quở ấy.Tôi
cầu xin thầy Nguyệt-Tịnh chỉ lỗi cho tôi.Thầy Nguyệt-Tịnh dạy: "Vừa
rồi,ngươi đến đảnh lễ Bồ-Tát Đại-Quang tại sao lại dựng cây gậy
vào mặt Phật vẽ trên vách, Ngươi do lỗi nầy nên sụt quả vị". Tôi
nhớ kỹ lại, thật đúng như lời thầy Nguyệt-Tịnh quở. Từ đó về sau,
phàm có nghe lời nào, chẳng dám không tin. Dù bị những lời chửi
mắng vẫn coi như gió thổi ngoài tai. Huống là, nay Tôn-giả dùng
chánh pháp chỉ dạy thì đâu dám phiền buồn. Cúi xin đấng đại từ
thương xót đem đạo mầu chỉ dạy cho con.
Ngài liền dạy: -Đại pháp
nhãn tạng của Như-Lai, nay ta trao cho ngươi, ngươi nên truyền
bá chớ để dứt mất. Nghe ta nói kệ:
-
Ngôn hạ hiệp vô sanh,
-
Đồng ư pháp giới tánh,
-
Nhược năng như thị giải,
-
Thông đạt sự lý cánh .
Dịch:
-
Nói ra hợp vô sanh,
-
Đồng cùng tánh pháp giới,
-
Nếu hay hiểu như thế,
-
Suốt thông sự lý tột .
Bà-Tu-Bàn-Đầu lễ bái vâng
lệnh. Ngài ngồi ngay trên tòa lặng lẽ qui tịch. Chúng hỏa táng
thu xá-lợi xây tháp thờ .
21. Tổ Bà-Tu-Bàn-Đầu (Vasubandhu)
Cuối thế
kỷ thứ tám sau Phật Niết-bàn.
Ngài họ Tỳ-Xá-Khư ở nước La-Duyệt,
cha hiệu Quang-Cái, mẹ là Nghiêm-Nhất. Nguyên gia đình ông
Quang-Cái giàu có mà không con. Hai ông bà đồng đi lễ tháp Phật
ở phía Bắc thành La-Duyệt để cầu con. Sau đó, bà mộng thấy nuốt
hai hạt châu một sáng một tối. Kế bà biết mình có thai. Một hôm,
có vị A-La-Hán hiệu Hiền-Chúng đến nhà. Ông Quang-Cái ra đảnh lễ.
Đến lượt bà ra lễ, Tôn-giả Hiền-Chúng liền tránh qua một bên ra
vẻ cung kính đáp lại. Ông Quang-Cái lấy làm lạ hỏi:
-Tôi là trượng phu đảnh lễ
Tôn-giả chẳng nhượng, tại sao vợ tôi là phụ nữ mà Tôn-giả lại
kính nhượng ?
Tôn-giả Hiền-Chúng đáp:
-Bởi ông là phàm phu nên tôi
nhận ông lễ, còn vợ ông đang mang thai Bồ-Tát là bậc pháp khí
thượng thừa nên tôi cố tránh, không phải tôi trọng nữ khinh nam.
Ông Quang-Cái tạ lỗi thưa:
-Tôn-giả là bậc thánh nhơn
hay biết việc chưa đến. Sau quả nhiên bà Nghiêm-Nhất sanh được
hai người con trai một lượt. Người con lớn đặt tên là
Bà-Tu-Bàn-Đầu tức là Ngài. Thuở bé, Ngài ý chí siêu việt, đến 15
tuổi xin xuất gia với A-La-Hán Quang-Độ. Khi thọ giới được
Bồ-Tát Tỳ-Bà-Ha truyền cho. Ngài mộ hạnh của Tổ Ca-Diếp nên tập
tu theo hạnh đầu-đà. Lúc gặp Tổ Xà-Dạ-Đa kích khởi phát sanh đại
huệ và được truyền pháp.
Ngài thống lãnh đồ chúng du
hóa khắp nơi, lần lượt đến nước Na-Đề. Vua Na-Đề tên là
Thường-Tự-Tại, sanh được hai người con trai. Người con lớn là
Ma-Ha-La đã 40 tuổi, người con thứ là Ma-Noa-La được 30 tuổi.
Khi Ngài đến nước nầy, vua thỉnh vào cung cúng dường. Vua hỏi
Ngài:
-Phong tục nước tôi chắc
không bằng phong tục thuần mỹ ở thành La-Duyệt ?
Ngài đáp:
-Ở thành La-Duyệt xưa kia có
phước đức được ba đức Phật ra đời, ở nước nầy hiện có hai vị
hiền sĩ làm phước báo.
Vua hỏi:
-Hai vị hiền là ai ?
Ngài đáp:
-Xưa Phật thọ ký rằng: "Gần
một nghìn năm sau ta Niết-bàn, có một thần lực đại sĩ ra nối
truyền chánh pháp tại nước Na-Đề tên là Ma-Noa-La", là con thứ
hai của bệ hạ. Còn bần tăng tuy đức mỏng cũng đảm đang một vị
vậy. Vua nghe hoan hỷ gọi thái-tử Ma-Noa-La đến, bạch với Ngài:
-Con tôi đây đã được Phật
thọ ký, cúi xin Tôn-giả nhận cho nó xuất gia.
Ngài bảo:
-Vị hoàng tử nầy nếu không
phải tôi làm thầy, sau nầy không ai độ được. Ngài liền triệu tập
thánh chúng vào hoàng cung làm lễ xuất gia thọ giới cho Ma-Noa-La.
Ma-Noa-La rất hoan hỷ được thọ lãnh giới pháp. Sau đó, Ngài dẫn
Ma-Noa-La sang hóa đạo nước khác. Một hôm, Ngài gọi Ma-Noa-La
lại bảo:
- Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai
nay giao phó cho ngươi, ngươi phải gìn giữ truyền bá. Nghe ta
nói kệ:
-
Bào huyễn đồng vô ngại,
-
Vân hà bất ngộ liễu,
-
Đạt pháp tại kỳ trung,
-
Phi kim diệc phi cổ.
Dịch:
-
Bọt huyễn đồng không ngại,
-
Tại sao chẳng liễu ngộ,
-
Đạt pháp ngay trong ấy,
-
Chẳng xưa cũng chẳng nay .
Truyền pháp xong, Ngài đang
ngồi trên tòa, bỗng thân vượt lên hư không, ngồi yên trên ấy.
Bốn chúng quỳ bạch:
-Chúng con muốn thờ xá-lợi,
xin Tôn-giả cho chúng con được thiêu lấy xá-lợi.
Thân Ngài liền hạ xuống ngồi
yên chổ cũ. Chúng thiêu lượm xá-lợi phụng thờ .
22. Tổ Ma-Noa-La (Manorhita)
Đầu thế
kỷ thứ chín sau Phật Niết-bàn.
Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở nước
Na-Đề, cha là Thường-Tự-Tại vua nước nầy. Ngài là con thứ ba của
vua, khi sanh ra có nhiều điềm lạ, nên vua không dám lấy việc
thế tục ràng buộc. Khi gặp Tổ Bà-Tu-Bàn-Đầu, Ngài được 30
tuổi,vua cha cho phép xuất gia theo Tổ. Sau Ngài được Tổ truyền
tâm pháp.
Ngài sang Tây-ấn giáo
hóa.Vua nước nầy họ Cù-Đàm tên Đắc-Độ hằng sùng Phật pháp tinh
tấn tu hành. Bảy năm hành đạo tại Long cung. Một hôm, bỗng hiện
một bảo tháp xanh huyền bề cao một thước tư, ngay chổ vua tu
hành. Vua đích thân lại bưng lên để thờ, nhưng bưng không
nổi,lính hộ vệ họp lực nhắc lên cũng không lay chuyển. Sau cùng
vua phải mở đại hội triệu tập tất cả lực sĩ, tăng sĩ, phạm-chí,
chú-thuật…để hỏi nguyên nhơn bảo tháp xuất hiện và dời lên thờ.
Trong cuộc hội nầy, Ngài cũng đến dự. Trước tiên những lực sĩ ra
sức nhắc tháp lên không lay động. Kế các nhà chú-thuật dùng thần
chú cũng bất lực. Sau cùng Ngài Ma-Noa-La bước ra giải thích:
-Tháp nầy do vua A-Dục tạo
ra để thờ xá-lợi của Phật. Bốn mặt đều có chạm hình tiền thân
Phật Thích-Ca khi còn làm hạnh Bồ-Tát. Ngày nay do đại-vương có
duyên phước lớn nên tháp nầy mới hiện.
Nói xong,Ngài lại nhắc bảo
tháp để trên bàn thờ. Vua và toàn chúng hết lòng kính phục.Vua
thưa:
-Xin Tôn-giả dạy cho chúng
tôi những Phập pháp gì cần học ?
Ngài bảo:
-Muốn học Phật pháp phải bỏ
ba vật và đủ bảy việc.
Vua thưa:
-Ba vật gì phải bỏ và đủ bảy
việc gì ?
Ngài đáp:
-Tham, sân, si là ba vật
phải bỏ. Đủ bảy việc là:
1)- đại từ,
2)- hoan hỷ,
3)- vô ngã,
4)-dõng mãnh,
5)- nhiêu ích,
6)- hàng ma,
7)- vô chứng.
Vua Đắc-Độ nghe xong cảm ngộ,
rất tiếc mình được hiểu quá muộn. Tự than:
- Bậc chí thành khó gặp, sự
vui trong đời có gì lâu dài !
Vua cho đòi thái tử đến giao
hết việc nước, xin theo Ngài xuất gia học đạo. Ngài triệu tập
các vị thánh chúng đến hoàng cung làm lễ xuất gia và truyền giới
cho vua. Xuất gia tu không bao lâu, vua Đắc-Độ chứng được quả
thánh. Ngài dạy Đắc-Độ ở lại trong nước giáo hóa, còn Ngài sang
nước Nguyệt-Chi tìm người kế truyền.
Ngài Ma-Noa-La và tăng chúng
đến nước Nguyệt-Chi. Vua nước nầy là Bảo-Ấn và Tỳ-kheo
Hạc-Lặc-Na đồng đón tiếp, thỉnh về nội cung. Hạc-Lặc-Na đem việc
Long-Tử hỏi trước:
-Thưa Tôn-giả ! Tôi có một
đứa đệ tử tên Long-Tử tuổi tuy còn nhỏ mà thông minh tuyệt vời.
Tôi thường nhập định tìm nguyên nhơn đời trước mà không thấy
manh mối, hôm nay gặp đây xin Tôn-giả chỉ dạy cho ?
Ngài hỏi:
-Ông nhập định quán thấy
được mấy kiếp ?
Hạc-Lặc-Na thưa:
-Tôi chỉ thấy được ba đời.
Ngài bảo:
-Đệ tử của ông trong kiếp
thứ năm đã sanh trong nhà Bà-la-môn giàu có tại nước Diệu-Hỷ.
Khi ấy, trong nước có ngôi chùa mới khánh thành cái đại hồng
chung.Con ông Bà-la-môn nầy dùng gỗ chiên đàn tiện cái chày dộng
chuông cúng chùa. Nhờ chày nầy giúp cho người được nghe chuông
thức tỉnh. Bởi quả báo ấy, nên nay nó sanh ra được thông minh.
Hạc-Lặc-Na lại hỏi:
-Riêng tôi không biết duyên
gì mà cảm được bầy hạc thường theo, xin Tôn-giả chỉ dạy?
Ngài bảo:
-Xưa ông trong kiếp thứ tư
làm vị Tỳ-kheo đạo đức được đầy đủ,có đến 500 đệ tử mỗi khi Long
cung thỉnh ông cúng dường, ông xét trong hàng đệ tử không có
người đủ phước đức thọ Long cung cúng nên ông chỉ đi một mình.
Nhóm đệ tử bất mãn nói:
-Thầy thường thuyết pháp nói:
"đối sự ăn uống bình đẳng, đối với pháp cũng bình đẳng, mà nay
thầy đi thọ trai một mình !".
Sau Long cung thỉnh, ông đều
cho chúng đi theo. Bởi họ chưa đủ đức mà nặng về sự ăn uống, nên
sau khi tịch diệt, chúng ấy lần lượt chết sanh trong loài có
cánh. Đã trải qua năm kiếp, nay họ lại làm thân hạc. Do nhơn
duyên thầy trò kiếp trước nên nay chúng cảm mến ông. Hạc-Lặc-Na
cảm động, lại hỏi:
-Nay phải tu pháp gì để giúp
chúng trở lại làm người ?
Ngài bảo:
-Ta có pháp bảo vô thượng,
là kho tàng Như-Lai, Thế-Tôn xưa trao cho Tổ Ca-Diếp lần lượt
đến ta, nay ta trao cho ông, ông nên truyền bá chớ nên để dứt
mất.
Nghe ta nói kệ:
-
Tâm tùy vạn cảnh chuyển,
-
Chuyển xứ thật năng u,
-
Tùy lưu nhận đắc tánh,
-
Vô hỷ diệc vô ưu .
Dịch:
-
Tâm theo muôn cảnh chuyển,
-
Chổ chuyển thật kín sâu,
-
Theo dòng nhận được tánh,
-
Không mừng cũng không lo
Hạc-Lặc-Na vui vẻ kính vâng
phụng hành. Ngài truyền pháp xong, ngay chỗ ngồi lặng lẽ thị
tịch. Chúng hỏa táng và lượm xá-lợi xây tháp thờ .
23. Tổ Hạc-Lặc-Na (Haklena)
Giữa thế
kỷ thứ chín sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Bà-la-môn sanh tại
nước Nguyệt-Chi, cha hiệu Thiên-Thắng, mẹ là Kim-Quang. Ông
Thiên-Thắng đã lớn tuổi mà không con.Một hôm, ông đến trước Kim-Tràng
thờ bảy đức Phật dâng hương lễ bái cầu con. Một hôm, bà
Kim-Quang nằm mộng thấy một vị thần đứng trên ngọn núi Tu-Di tay
cầm vòng ngọc nói với bà: "Ta lại đây". Khi thức giấc, bà biết
có thai. Khi Ngài được bảy tuổi đi chơi trong xóm, thấy một ngôi
miếu thờ thần, dân gian hằng ngày giết các súc vật đến dâng cúng.
Ngài đi thẳng vào miếu quở:
-Khéo bày đặt sự họa phước
mà lừa gạt dân chúng, hằng năm làm hao phí của nhơn dân, tổn hại
sinh mạng loài vật quá nhiều !
Ngài quở xong, ngôi miếu bị
sụp đổ. Dân chúng trong làng gọi Ngài là ông thánh con.
Hai mươi tuổi, Ngài xuất gia
tu theo Phật giáo. Ngài ở ẩn trong đám rừng xanh ngót chín năm,
chỉ làm bạn với bầy hạc và chuyên tụng kinh Đại-Bát-Nhã. Năm ba
mươi tuổi, Ngài gặp Tổ Ma-Noa-La và được truyền tâm ấn. Ngài dẫn
chúng du hóa miền Trung-Ấn. Ông vua sứ nầy tên Vô-Úy-Hải rất
sùng mộ Phật giáo. Vua thỉnh Ngài vào cung thuyết pháp cho vua
nghe.Vua nghe Ngài thuyết pháp rất hoan hỷ. Ngài có đệ tử ưu tú
nhất là Long-Tử. Long-Tử rất thông minh, mà mạng yểu. Long-Tử
mất, cha mẹ và anh là Sư-Tử đến làm lễ hõa táng, song dời quan
tài không được. Sư-Tử lấy làm lạ hỏi Ngài:
-Toàn chúng tận lực dỡ lên,
tại sao không nổi ?
Ngài đáp:
-Lỗi tại nơi ngươi vậy.
Sư-Tử hỏi:
-Tôi có lỗi gì ? Xin Tôn-giả
nói cho tôi biết.
Ngài bảo:
-Ngươi xưa theo Bà-la-môn,
em ngươi đi xuất gia, hai bên xa cách.
Em ngươi hai năm ngày đêm
nhớ thương, muốn làm phước giúp cho ngươi, bảo thầy ngươi đấp
một tượng Phật, đã lâu mà chưa hoàn bị. Ngươi vì ghét nên đem
tượng Phật ném xuống đất. Bây giờ, ngươi đi về thỉnh tượng Phật
để trên bàn lại, thì quan tài sẽ dời được. Sư-Tử làm y như Ngài
dạy, quả nhiên quan tài dời đi dễ dàng. Kế đến thầy của Sư-Tử
tịch. Ông cảm thấy buồn bã, nghiệm lại lời Ngài nói, bèn đến xin
xuất gia theo Phật làm đệ tử Ngài.
Sư-Tử hỏi Ngài:
-Bạch thầy ! Con muốn dụng
tâm cầu đạo, phải dụng tâm nào ?
Ngài đáp:
-Không có chổ dụng tâm.
Đã không dụng tâm làm sao
làm Phật sự ?
–Ngươi nếu có dụng thì chẳng
phải công đức. Nếu ngươi không làm tức là Phật sự. Cho nên kinh
nói: "Ta ra làm công đức, mà không có cái ta làm".
Sư-Tử nghe nói liền phát
sanh trí huệ Phật.
Ngài chỉ hướng Đông-Bắc hỏi
Sư-Tử:
-Ngươi thấy gì chăng ?
Sư-Tử thưa:
-Con thấy.
–Ngươi thấy cái gì ?
–Con thấy hơi trắng xông lên
giống như cái mống bao khắp trời đất, lại có hơi đen năm lằn xẹt
như cây thang lên trời Đạo-Lợi.
-Ngươi thấy hơi ấy, có biết
ứng điềm gì chăng ?
–Con không biết ứng điềm gì,
xin thầy dạy cho.
-Cuối năm chục năm sau khi
ta diệt độ, tai nạn sẽ phát khởi ở Bắc-Ấn ngươi nên biết đó.
Sư-Tử thưa:
-Con muốn du phương, thỉnh
thầy chỉ dạy.
Ngài bảo:
-Nay ta đã già, giờ Niết-bàn
sắp đến, đại pháp nhãn tạng của Như-Lai giao lại cho ngươi,
ngươi đến nước khác. Song nước ấy có tai nạn mà liên hệ đến thân
ngươi. Ngươi phải dè dặt, truyền trao sớm chớ để đoạn mất. Nghe
ta nói kệ:
-
Nhận đắc tâm tánh thời,
-
Khả thuyết bất tư nghì,
-
Liễu liễu vô khả đắc,
-
Đắc thời bất thuyết tri .
Dịch :
-
Khi nhận được tâm tánh,
-
Mới nói chẳng nghĩ bàn,
-
Rõ ràng không chỗ được,
-
Khi được không nói biết .
Truyền pháp xong, Ngài phi
thân lên hư không làm mười tám pháp thần biến, rồi trở lại chỗ
ngồi lặng lẽ thị tịch
24. Tổ Sư-Tử (Aryasimha)
Cuối thế
kỷ thứ chín sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Bà-la-môn người
Trung-Ấn. Thuở nhỏ Ngài rất thông minh, tài hùng biện xuất chúng.
Ngài có người em tên Long-Tử cũng thông minh như thế. Trước Ngài
thọ giáo với thầy Bà-la-môn, em Ngài lại xuất gia tu theo Phật
giáo.
Khi Long-Tử tịch, Ngài có cơ
hội gặp Tổ Hạc-Lặc-Na và hồi đầu thọ giáo với Tổ. Khi Tổ sắp
tịch truyền tâm pháp lại cho Ngài.Ngài sang nước Kế-Tân hoằng
hóa. Trong nước nầy trước có vị Sa-môn tên Bà-Lợi-Ca, chuyên tập
thiền quán Tiểu-thừa. Môn đồ của Bà-Lợi-Ca, sau lại chia làm năm
phái:
1) -Thiền-định,
2) –Tri-kiến,
3) -Chấp-tướng,
4) -Xã-tướng,
5)-Tịnh-khẩu.
Họ tranh nhau dành phần hơn.
Ngài đến các phái ấy, dùng biện tài vô ngại chiết phục được bốn
phái. Duy phái Thiền-định người cầm đầu là Đạt-Ma-Đạt, hay tin
nầy tức giận tìm đến cật vấn Ngài.
Vừa gặp Ngài, Đạt-Ma-Đạt nói:
-Muốn gặp nhau vấn nạn mới
đến đây.
Ngài hỏi:
-Nhơn giả tập định sao lại
đến đây ?
Nếu có đến đây thì đâu phải
thường tập định ?
Ma-Đạt nói:
-Tôi đến chỗ nầy mà tâm cũng
không loạn, định tùy người tập đâu phải tại chỗ nơi.
Ngài hỏi:
-Nhơn giả lại đây thì cái
tập kia cũng đến. Đã không phải chỗ nơi thì đâu tại người tập?
Ma-Đạt nói:
-Vì định tập người, chẳng
phải người tập định. Tuy tôi có đi lại mà cái định ấy vẫn thường
tập.
Ngài hỏi:
-Người chẳng tập định, vì
định tập người. Vậy chính khi người đi lại, thì cái định ấy tập
ai ?
Ma-Đạt nói:
-Như hạt minh châu sạch,
trong ngoài không bị che, nếu định được thông đạt cũng lại như
thế.
Ngài bảo:
-Nếu định thông đạt giống
như hạt minh châu. Nay thấy nhơn giả không thể sánh được với hạt
minh châu.
Ma-Đạt nói:
-Hạt châu kia sáng suốt
trong ngoài đều định. Tâm tôi không loạn ví như hạt châu ấy.
Ngài bảo:
-Châu kia không có trong
ngoài, nhơn giả làm sao hay định ? Vật nhơ chẳng giao động, định
nầy chẳng phải sạch.
Đạt-Ma-Đạt biết nghĩa mình
bị bẽ gãy, càng kính phục, đảnh lễ bạch Ngài:
-Con học đạo còn sơ suyển,
nếu không được lời chỉ dạy của Tôn-giả làm sao biết được chỗ tột.
Cúi xin Tôn-giả thương xót nhận con làm học trò.
Ngài dạy thêm:
-Thiền-định của chư Phật
không có sở đắc. Giác đạo của chư Phật không có sở chứng. Không
đắc không chứng là chơn giải thoát. Đền nhơn trả quả là nghiệp
báo của thế gian, ở trong pháp nầy (chơn giải thoát) ắt chẳng
như thế. Ngươi nếu tập định nên tập như vậy.
Đạt-Ma-Đạt vui vẻ vâng lời
dạy. Một hôm, có ông trưởng giả dẫn đứa con đến yết kiến
Ngài.Trưởng giả thưa:
-Thằng con tôi đây tên
là Tư-Đa, từ khi sanh ra cho đến giờ (20 tuổi) mà bàn tay trái
vẫn nắm chặc lại chưa từng mở ra. Xin Tôn-giả từ bi nói rõ nhơn
đời trước của nó cho con hiểu.
Ngài nhìn thẳng vào mặt
Tư-Đa, rồi đưa tay bảo:
-Trả hạt châu lại cho ta !
Tư-Đa liền sè tay dâng hạt
châu cho Ngài, Ông trưởng-giả và đồ chúng thấy thế đều ngạc
nhiên. Ngài giải thích:
-Thuở quá khứ Ta làm vị
Tỳ-kheo thường được Long-Vương thỉnh xuống Long-cung tụng kinh,
khi ấy, Tư-Đa nầy cũng theo ta xuất gia, tên Bà-Xá. Một hôm,
Long-Vương thỉnh ta đi tụng kinh, Bà-Xá theo làm thị giả. Tụng
kinh xong, Long-Vương cúng hạt châu đáp lễ. Ta nhận trao cho thị
giả giữ trong tay. Ta tịch, sanh nơi đây, vì nhơn duyên thầy trò
chưa hết, nên lại gặp nhau tại hội nầy. Ông trưởng giả nghe được
tiền duyên của con mình, hoan hỷ cho Tư-Đa theo Ngài xuất gia.
Ngài xét duyên xưa và nay
nên hợp hai tên lại đặt là Bà-Xá-Tư-Đa. Nhận Bà-Xá-Tư-Đa rồi,
Ngài triệu tập thánh chúng làm lễ truyền giới. Sau đó, Ngài gọi
Bà-Xá-Tư-Đa lại bảo:
-Nơi nước nầy sắp có
tai nạn đến cho ta, nhưng tuổi ta đã già yếu đâu mong lánh thoát
làm gì. Ta đã được truyền đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay ta
trao lại cho ngươi, ngươi nên phụng trì, ngươi mau đi khỏi nước
nầy, lấy sự giáo hóa làm nhiệm vụ. Nếu có người nghi ngờ nên
trình cái y tăng-già-lê của ta đây làm tin.Nghe ta nói kệ:
-
Chánh thuyết tri kiến thời,
-
Tri kiến câu thị tâm,
-
Đương tâm tức tri kiến,
-
Tri kiến tức vu kim.
Dịch:
-
Chính khi nói tri kiến,
-
Tri kiến đều là tâm,
-
Chính tâm tức tri kiến,
-
Tri kiến tức là hiện nay.
Bà-Xá-Tư-Đa nhận lãnh tuân
hành, ngay hôm ấy đi nơi khác. Lúc ấy, trong nước Kế-Tân có hai
người ngoại đạo giỏi pháp huyễn thuật mưu đồ ám sát nhà vua.
Nhưng còn ngại bại lộ cơ mưu, nên chúng đổi hình Tỳ-kheo đi làm
việc gian ác ấy. Quả nhiên bị quân quan bắt được.Vua Di-La-Quật
hay việc nầy nổi cơn phận nộ, ra lệnh triệt hạ chùa chiền, bắt
nhốt tăng chúng.Vua trách:
-Lâu nay ta sùng kính Phật
giáo quý trọng Tỳ-kheo mà nay họ lại manh tâm sát hại ta, vậy
còn đạo đức chỗ nào ?
Bởi sự tức giận ấy, nhà vua
đích thân cầm gươm báu đến chỗ Ngài Sư-Tử hỏi:
-Thầy được không tướng chưa
?
Ngài đáp:
-Đã được.
- Đã được, thì còn sợ sống
chết chăng ?
-Đã lìa sống chết thì đâu có
sợ.
-Chẳng sợ có thể cho ta cái
đầu chăng ?
- Thân chẳng phải cái của ta,
huống nữa là đầu.
Vua liền chặt đầu Ngài rơi
xuống đất. Nơi cổ phun lên giọt sữa trắng cao chừng một trượng.
Cánh tay mặt của vua Di-La-Quật cũng đứt lìa. Bảy ngày sau vua
băng
(Duyên nghiệp đời trước của
Ngài và nhà vua có ghi rõ ràng trong:Thánh-Trụ Tập và Bửu-Lâm
Truyện).Thái-tử Quang -Thủ lên ngôi, lo mai táng phụ hoàng và
thỉnh chúng tăng cúng dường sám hối. Tăng chúng lo xây tháp thờ
Ngài .
25. Tổ Bà-Xá-Tư-Đa (Basiasita)
Đầu thế
kỷ thứ mười sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Bà-la-môn người
nước Kế-Tân, cha hiệu Tịch-Hạnh, mẹ là Thường-An-Lạc. Một hôm,
bà Thường-An-Lạc
nằm mộng thấy lượm được cây
kiếm thần, sau đó có thai Ngài. Khi sanh ra, Ngài nắm chặt bàn
tay trái mãi,cho đến gặp Tổ Sư-Tử mới sè ra. Ngài được cha mẹ
cho phép xuất gia theo hầu Tổ Sư-Tử. Tổ Sư-Tử vì nợ trước phải
trả nên truyền tâm ấn xong, bảo Ngài phải sang Nam-Ấn.
Ra khỏi nước Kế-Tân, Ngài
đến Trung-Ấn. Vua nước nầy hiệu Ca-Thắng ra đón tiếp Ngài.Trong
nước nầy trước có chúng ngoại đạo giỏi pháp thuật, ỷ tài khinh
chê Phật pháp, người cầm đầu tên Vô-Ngã. Vua thấy thế bất bình,
muốn thỉnh Ngài chiết phục chúng.Vua mở hội nghị luận, chính vua
làm chủ tọa. Vô-Ngã đến hội đề xướng mặc luận, không dùng lời
nói. Ngài chống:
-Nếu chẳng dùng lời làm sao
phân biệt hơn thua ?
Ngoại đạo nói:
-Chẳng tranh hơn thua chỉ
lấy nghĩa ấy.
Ngài hỏi:
-Cái gì là nghĩa ?
Ngoại đạo đáp:
-Không tâm là nghĩa.
Ngài hỏi:
-Ngươi đã không tâm thì đâu
thành nghĩa ?
–Tôi nói không tâm
chính là danh chẳng phải nghĩa.
Ngài nói:
-Ngươi nói không tâm chính
là danh chẳng phải nghĩa, ta nói phi tâm chính là nghĩa chẳng
phải danh.
–Chính là nghĩa chẳng phải
danh thì ai hay biện được nghĩa ?
Ngài bảo:
-Ngươi nói chính là danh
không phải nghĩa, thì danh nầy là danh gì ?
–Vì biện cái phi nghĩa nên
không danh mà đặt danh.
Ngài bảo:
-Danh đã phi danh thì nghĩa
cũng phi nghĩa, người biện là ai và biện vật gì ?
Bàn qua luận lại như thế đến
hơn năm chục lần, ngoại đạo mới bặt lời nép phục. Bỗng trong
vương cung có mùi hương lạ bay đến, Ngài chợt nói:
- Đây là tin đưa đến, thầy
ta đã tịch.
Ngài liền xây mặt về hướng
Bắc chấp tay đảnh lễ. Lễ xong, Ngài nói với vua: -Khi tôi mới đi,
thầy dạy qua Nam-Ấn, nay ở lại đây đã lâu là trái ý thầy, xin
tạm biệt Đại-Vương sang nơi ấy.Vua và quần thần đồng tiển Ngài
sang Nam-Ấn.
Vua nước Nam-Ấn hiệu là
Thiên-Đức nghe tin Ngài sang cũng sửa sang xe giá ra đón tiếp,
thỉnh Ngài về hoàng cung
Nhơn vua có hai Thái-tử, vị
lớn là Đức-Thắng thì thân thể mạnh khỏe mà tánh tình hung bạo,
còn em thì hiền lành mà bệnh hoạn liên miên, sẵn dịp vua hỏi
Ngài.Vua hỏi:
-Con tôi kính thờ Phật pháp,
ưa làm việc lành, mà sao lại mắc bệnh kinh niên, vậy lẽ báo ứng
lành dữ như thế nào ?
Ngài đáp:
-Bệnh của Thái-tử là do công
đức phát sanh. Song lý sâu xa nầy Đại-Vương phải khéo nghe.Phật
dạy người có nghiệp nặng nơi thân, ví như bệnh nội thương quá
nặng, uống thuốc không có công hiệu, sắp chết bệnh càng hoành
hành. Nếu là bệnh nhẹ, gặp thuốc liền bớt, bớt rồi từ từ mạnh.
Người nghiệp nặng cũng vậy, tuy có công đức mà không làm gì được,
đến lúc gần chết nghiệp lại càng hiện. Nếu nghiệp nhẹ, làm các
việc công đức, nghiệp trước liền hiện, trả xong sau sẽ thanh
tịnh. Hiện nay Thái-tử làm việc thiện mà bị bệnh lâu, hẳn là do
làm các công đức nên phát ra nghiệp nhẹ nầy.Hiện nay tuy có khổ
nhỏ,về sau sẽ an ổn. Kinh đã nói: "Nếu phải chịu nghiệp báo
trong ba đường ác, nguyện đời nầy trả xong, để khỏi vào đường ác".
Vua còn nghi gì ư ?
Vua Thiên-Đức tín nhận, càng
phát tâm làm phước. Sau đó, Ngài từ giả nhà vua đi hoằng hóa nơi
khác. Mười sáu năm sau, vua Thiên-Đức băng, Thái-tử Đức-Thắng
lên nối ngôi.Vua Đức-Thắng tin theo ngoại đạo, chú thuật, nghe
lời xúi dục của chúng, muốn làm khó Ngài.Thái-tử con vua
Đức-Thắng tên Bất-Như-Mật-Đa biết được ác ý đó, liền đến can vua.
Thái-tử thưa:
-Tôn-giả Bà-Xá-Tư-Đa xưa kia
được ông nội kính trọng, nhiều người muốn hại còn không thể được,
đạo đức của Ngài rất cao, xin phụ hoàng đừng làm khó Ngài. Vua
Đức-Thắng nổi giận cho Thái-tử theo phe Tôn-giả Bà-Xá-Tư-Đa liền
bắt hạ ngục. Sau vua cho thỉnh Ngài vào chánh điện.Vua cật nạn:
-Nước tôi không có pháp tà,
thầy tu học về Tông phái nào ?
Ngài đáp:
-Tôi tu học theo tâm tông
của Phật.
Vua hỏi:
-Phật diệt độ đã một ngàn
năm, thầy làm sao được tâm tông của Phật ?
Ngài đáp:
-Từ Phật truyền cho Tổ Ca-Diếp
đã trải qua 24 đời đến thầy tôi là Tổ Sư-Tử, tôi được người
truyền lại.
Vua hỏi:
-Tôn-giả Sư-Tử đã bị giết,
đâu thể đem pháp truyền cho thầy ?
Nếu thầy thật được truyền
thì lấy gì làm tin ?
Ngài đáp:
-Thầy tôi truyền bát và trao
y Tăng-già-lê để làm tin, hiện nay vẫn còn.
Ngài liền lấy y đưa cho vua
xem. Vua vẫn không tin bảo đem lửa đốt. Khi lửa cháy, y hiện năm
sắc hào quang. Lửa tắt, y vẫn còn nguyên như cũ. Vua mới tin
nhận, xin sám hối tạ tội. Đồng thời, vua truyền lệnh tha Thái-tử.
Sau khi được thả, Thái-tử
Bất-Như-Mật-Đa quyết chí xuất gia, xin phép vua cha được như
nguyện. Vua thấy không thể ngăn được chí Thái-tử, nên đành phải
cho. Thái-tử đến yết kiến Ngài xin cho làm đệ tử xuất gia. Ngài
hỏi:
-Nhà vua bằng lòng
chăng ?
Thái-tử thưa:
-Phụ vương bằng lòng.
Ngài hỏi:
-Ông muốn xuất gia để làm
việc gì ?
Thái-tử thưa:
-Con muốn xuất gia để làm
việc Phật. Ngài thấy Thái-tử tha thiết cầu đạo, liền nhận cho
xuất gia. Sau sáu năm, Ngài triệu thỉnh các vị thánh chúng vào
vương cung truyền giới cho Bất-Như-Mật-Đa.Giờ truyền giới đó có
nhiều điềm lành ứng hiện, toàn hội đều hoan hỷ. Một hôm, Ngài
gọi Bất-Như-Mật-Đa đến dặn dò:
-Ta đã già lắm, chẳng bao
lâu sẽ rời cõi nầy, xưa đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay ta
trao lại cho ngươi. Hãy nghe ta nói kệ:
-
Thánh nhơn thuyết tri kiến,
-
Đương cảnh vô thị phi,
-
Ngã kim ngộ kỳ tánh,
-
Vô đạo diệc vô lý .
Dịch:
-
Thánh nhơn nói tri kiến,
-
Ngay cảnh không phải quấy,
-
Nay ta ngộ tánh ấy,
-
Không đạo cũng không lý .
Bất-Như-Mật-Đa thọ pháp xong,
thưa:
-Còn y Tăng-già-lê thầy
không truyền cho con, là sao vậy ?
Ngài bảo:
-Xưa ta được truyền y vì
thầy ta bị nạn truyền pháp không rõ ràng. Nay ngươi được truyền,
mọi người đều biết, cần y làm gì ?
-Chỉ cần hóa đạo.
Nói xong, Ngài thị hiện thần
biến rồi vào Niết-bàn. Đồ chúng lượm xá-lợi xây tháp thờ.
26. Tổ Bất-Như-Mật-Đa (Punyamitra)
Giữa thế
kỷ thứ mười sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn,
con vua Đức-Thắng, Lúc bé, Ngài đã sùng mộ Phật giáo, tánh tình
thuần lương, thông minh xuất chúng. Vì can thiệp với vua cha về
việc hại Tổ Bà-Xá-Tư-Đa, Ngài bị hạ ngục. Sau khi được thả, Ngài
lấy cớ bệnh, từ ngôi Thái-tử,xin xuất gia với Tổ Bà-Xá-Tư-Đa.
Sau đó,Ngài được Tổ truyền tâm ấn, đi giáo hóa các nơi.
Ngài sang Đông-Ấn hoằng hóa.
Vua nước nầy hiệu Kiên-Cố đang tin trọng các thầy Phạm-Chi. Hay
tin Ngài vào nước nầy,chúng Phạm-Chi họp nhau bàn mưu hãm hại.
Thầy bọn Phạm-Chi xin theo vua lên chỗ cao, ông chỉ xa hỏi vua:
-Bệ hạ thấy gì không ?
Phương-Tây có yêu khí, ắt ma vào nước.
Vua đáp:
-Không thấy,song có gì đáng
ngại ?
Phạm-Chi thưa:
-Ma nầy đến thì quốc gia suy
vong. Xin dâng kế với bệ hạ, chi bằng mình tiêu diệt trước đi.
Vua đáp:
-Chưa thấy họ có tội gì ?
Đâu thể nhẫn tâm hại được.
Phạm-Chi lại tiến cử một đồ
chúng giỏi chú thuật để theo vua trị ma. Ngài dự biết trước việc
xảy đến nên dặn đồ chúng:
-Ta đến thành nầy ắt
có nạn nhỏ, các ngươi chớ sợ.
Đến thành, Ngài xin vào yết
kiến nhà vua. Vừa gặp, vua liền hỏi:
-Thầy đến đây làm gì ?
Ngài đáp:
-Tôi đến đây vì độ chúng
sanh.
Vua hỏi:
-Sẽ lấy pháp gì ? Độ những
loài chúng sanh nào ?
Ngài đáp:
-Tùy mỗi loài kia dùng pháp
độ họ.
Vua hỏi:
-Nếu có người pháp thuật
giỏi, thầy dám chống chăng ?
Ngài đáp:
-Phật pháp rất chơn chánh,
dù thiên ma cũng hàng phục được, huống là yêu thuật mà chẳng dám
chống sao ?
Ngoại đạo nghe nói nổi nóng,
liền dùng pháp thuật hóa quả núi lớn, hiện trên không ngay đầu
Ngài, như chực sắp đè. Ngài lấy tay chỉ, quả núi bay lại trên
đầu bọn Phạm Chi chúng hoảng sợ cầu Ngài cứu mạng. Ngài lấy tay
chỉ, quả núi tan mất. Vua và chúng Phạm-Chi đều kính phục xin
Ngài từ bi tha lỗi.
Nhơn đó, Ngài đem yếu lý
Phật pháp giảng giải cho vua nghe. Vua hiểu rõ, thêm lòng quí
kính, thỉnh Ngài lưu lại trong hoàng cung.Ngài cũng cho nhà vua
biết rằng trong nước nhà vua có một vị thánh nhơn sẽ nối tiếp
Ngài truyền đạo
Nguyên trong nước nầy có một
đồng tử con dòng Bà-la-môn. Cha mẹ mất sớm, đồng tử ấy phải ăn
xin để sống qua ngày. Đồng tử nầy tánh tình phóng khoáng lạ
thường, không ai biết tên họ gì. Có khi đồng tử tự xưng là
Anh-Lạc, nên dân chúng gọi là đồng-tử Anh-Lạc. Gặp lúc đồng tử
đi nhanh, có người hỏi:
-Sao anh đi nhanh vậy ?
Đồng tử đáp:
-Sao các người đi chậm quá.
Có người hỏi:
-Anh họ gì ?
Đồng tử đáp:
-Tôi với các người đồng
họ.Một hôm,vua Kiên-Cố cùng
Ngài Bất-Như-Mật-Đa ngồi
chung xe đi sang thành Đông. Anh-Lạc ra đón, đứng trước xe làm
lễ. Ngài nói với nhà vua:
-Người nầy là thánh nhơn ở
trong nước đại vương vậy. Ngài lại hỏi Anh-Lạc:
-Ngươi nhớ việc xưa chăng ?
Anh-Lạc thưa:
-Tôi nhớ xưa đồng trong pháp
hội, Tôn-giả giảng Bát-Nhã-Ba-La-Mật-Đa, tôi giảng Tu-Đa-La thậm
thâm. Duyên xưa lại gặp, nên mới đón nhau đây.
Ngài nói với vua:
-Đồng tử nầy là hóa thân của
Bồ-Tát Đại-Thế-Chí ra đời để nối dòng pháp cho tôi. Sau tôi sẽ
có hai vị đại-sĩ ra đời, vị trước giáo hóa ở Nam-Ấn, vị sau có
duyên với nước Trung-Hoa, nhưng ở bên ấy chín năm rồi trở về bổn
quốc.
Ngài bảo Anh-Lạc:
-Do xưa ta giảng Bát-Nhã,
ông thuyết Tu-Đa-La, nay lại gặp đây, nên lấy Bát-Nhã-Đa-La đặt
tên ngươi.
Bát-Nhã-Đa-La lễ tạ, theo
thầy xuất gia. Ngài ở Đông-Ấn ngót sáu chục năm hoằng truyền
chánh pháp. Thấy cơ duyên sắp mãn, Ngài gọi Bát-Nhã-Đa-La đến
dặn dò:
-Xưa Như-Lai trao đại pháp
nhãn tạng lần lượt truyền đến ta, nay ta đem truyền lại cho
ngươi, ngươi nên lưu truyền chớ để dứt mất.
-Nghe ta nói kệ:
-
Chơn tánh tâm địa tàng,
-
Vô đầu diệc vô đuôi,
-
Ứng duyên nhi hóa vật,
-
Phương tiện hô vi trí .
Dịch :
-
Kho tâm địa chơn tánh,
-
Không đầu cũng không đuôi,
-
Hợp duyên tùy hóa vật,
-
Phương tiện gọi là trí .
Ngài từ giả vua Kiên-Cố rằng:
-Đại-vương gánh vác việc
nước, ủng hộ Tam-Bảo đều được an ổn. Vì tôi hóa duyên đã hết,
không vì quyến luyến ân đức đại vương mà ở lâu, nay tôi sắp đi,
đại vương khéo bảo hộ Phật pháp.
Ngài nói xong, trở lại chổ
ngồi, thị hiện các thứ thần biến, rồi thị tịch. Vua và môn đồ
xây tháp thờ xá-lợi cúng dường.
27. Tổ Bát-Nhã-Đa-La (Prajnatara)
Cuối thế
kỷ thứ mười sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Bà-la-môn ở
Đông-Ấn. Cha mẹ mất sớm, Ngài đi theo xóm ăn xin qua ngày. Nếu
có ai mượn làm việc gì, Ngài sẵn sàng làm tận lực mà không cần
tiền. Hành động và ngôn ngữ của Ngài lạ thường, người đời không
lường được. Khi gặp Tổ Bất-Như-Mật-Đa nhắc lại duyên xưa, Ngài
xin xuất gia, theo hầu Tổ và được truyền tâm pháp.
Sau nầy, Ngài thống lãnh đồ
chúng sang Nam-Ấn hoằng hóa. Vua nước nầy hiệu Hương-Chí hết
lòng sùng kính Phật pháp. Vua sanh ba người con trai đều kính
tin Phật pháp. Người con lớn tên Nguyệt-Tịnh-Đa-La thích tu pháp
niệm Phật tam muội. Người thứ hai tên Công-Đức-Đa-La thích tu bố
thí làm phước. Người thứ ba tên Bồ-Đề-La thích thông lý Phật,
lấy việc xuất thế làm trên. Vua thỉnh Ngài về cung cúng dường,
bảo ba vị Thái-tử ra đảnh lễ Ngài. Ngài biết ba vị Thái-tử đều
ham tu, muốn nghiệm thử trí mỗi người thế nào. Sẵn nhà vua cúng
dường hạt châu quý vô giá, Ngài lấy ra hỏi:
-Ở đời còn có vật gì quý báu
bằng hạt châu nầy chăng ?
Nguyệt-Tịnh thưa:
-Hạt châu nầy quý tột, ở đời
không có gì hơn nó, chẳng phải trong nhà vua thì làm gì có hạt
châu nầy.
Công-Đức-Đa-La cũng đồng ý
như vậy, Bồ-Đề-Đa-La thưa:
-Châu nầy là của báu thế
gian chưa đủ làm tột, trong các thứ báu chỉ có pháp bảo là tột.
Đây là ánh sáng của thế gian, trong các thứ ánh sáng chỉ có ánh
sáng trí tuệ là tột. Đây là trong sạch của thế gian, trong các
thứ trong sạch, chỉ tâm trong sạch là trên hết. Nhưng ánh sáng
của hạt châu nầy không thể tự chiếu, cần nhờ ánh sáng trí tuệ
mới biện biệt được nó. Đã biện rõ mới biết là châu, đã biết là
châu mới hiểu cái quý báu của nó. Nếu hiểu cái quý báu của nó,
thì nó báu mà không biết báu. Nếu biện rõ nó là châu, thì nó
châu mà chẳng tự biết châu. Châu mà chẳng tự biết châu, cần nhờ
trí châu mới biện được thế châu. Báu mà chẳng tự biết báu, cần
nhờ trí bảo mới rõ pháp bảo. Song mà, thầy tôi có đạo thì báu
kia liền hiện. Chúng sanh có đạo thì tâm báu cũng thế.
Ngài khen ngợi tài biện luận
của Bồ-Đề-Đa-La. Lại hỏi thêm:
-Trong các vật, vật gì không
tướng ?
–Trong các vật, chẳng khởi
là không tướng.
–Trong các vật, vật gì là
tối cao ?
–Trong các vật, nhơn ngã là
tối cao.
–Trong các vật, vật gì
là tối đại ?
–Trong các vật, pháp tánh là
tối đại.
Ngài thầm vui biết là đại
pháp khí sẽ nối dõi cho Ngài sau nầy. Một hôm, vua Hương-Chí hỏi
Ngài:
-Tôi thấy các thầy đều tụng
kinh, tại sao Tôn-giả không tụng kinh ?
Ngài đáp:
-Tôi hơi thở ra chẳng tiếp
các duyên, hít vào chẳng ở trong ấm giới, thường tụng thứ kinh
nầy trăm ngàn muôn ức quyển.
Vua Hương-Chí băng, hai
hoàng tử lớn và hoàng thân đều kêu khóc, duy Bồ-Đề-Đa-La ngồi
nhập định chỗ hoàn linh cữu suốt bảy ngày. An táng nhà vua xong,
Bồ-Đề-Đa-La xin phép mẹ và hai anh theo Ngài Bát-Nhã-Đa-La xuất
gia. Ngài thấy cơ duyên đã thuần thục nên nhận cho, rồi thỉnh
thánh tăng làm lễ xuất gia thọ giới cho Bồ-Đề-Đa-La.
Hôm nọ, Ngài gọi Bồ-Đề-Đa-La
đến dặn dò:
-Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai
lần lượt truyền trao, nay ta trao cho ngươi, ngươi khéo truyền
bá chớ cho đoạn dứt. Nghe ta nói kệ:
-
Tâm địa sanh chư chủng,
-
Nhơn sự phục sanh lý,
-
Quả mãn bồ-đề viên,
-
Hoa khai thế-giới khởi.
Dịch:
-
Đất tâm sanh các giống,
-
Nhơn sự lại sanh lý,
-
Quả đầy bồ-đề tròn,
-
Hoa nở thế-giới sanh.
Truyền pháp xong, Ngài hiện
các thứ thần biến, rồi thị tịch.
Tổ thứ nhất Trung-Hoa
28. Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma)
Đầu thế
kỷ thứ mười một sau Phật Niết-bàn
Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn,
cha là Hương-Chí vua nước nầy. Vua Hương-Chí sanh được ba người
con trai, Ngài là Vương-tử thứ ba. Thưở nhỏ, Ngài đã có chí siêu
việt và đặc tài hùng biện. Nhơn vua Hương-Chí thỉnh Tổ
Bát-Nhã-Đa-La vào cung cúng dường, Ngài mới có duyên gặp Tổ. Qua
cuộc nghiệm vấn về hạt châu, Tổ đã biết Ngài là người siêu quần
bạt tục sẽ kế thừa Tổ vị. Sau khi vua cha băng, Ngài quyết chí
xuất gia cầu xin Tổ Bát-Nhã độ làm đệ tử, Tổ hoan hỷ làm lễ thế
phát và truyền giới cụ túc.Tổ bảo Ngài:
-Hoàng-tử đối các pháp đã
được thông suốt, nay nên đổi hiệu là Bồ-Đề-Đạt-Ma.
Từ đây, Ngài luôn hầu
hạ bên thầy. Một hôm, Tổ gọi Ngài đến truyền pháp và dặn dò:
-Ngươi tạm giáo hóa ở
nước nầy, sau sang Trung-Hoa mới thật là nhơn duyên lớn. Song,
đợi ta diệt độ khoảng sáu mươi năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm,
sau e có việc không tốt.
Những điều kiết hung về sự
giáo hóa ở Trung-Hoa sau nầy, Ngài đều cầu xin Tổ chỉ dạy. Tổ
dùng những lời sấm ký tiên đoán sự kiết hung vận số Phật pháp ở
Trung-Hoa, nói có hơn mười bài kệ.
Tổ tịch rồi, Ngài vẫn ở tại
nước nhà giáo hóa. Người huynh đệ đồng sư với Ngài là
Phật-Đại-Tiên cùng chung sức giáo hóa. Thời nhơn gọi hai Ngài là
"Mở hai cửa cam lồ". Song, sau môn đồ của Phật-Đại-Tiên lại chia
làm sáu tông:
1.-Hữu tướng,
2.-Vô tướng,
3.- Định huệ,
4.-Giới hạnh,
5.-Vô đắc,
6.-Tịch tịnh,
Đua nhau truyền bá. Ngài
thấy sự chia ly ấy, ngại cho chánh pháp suy vi. Vì thế, Ngài
dùng phương tiện cảm hóa họ hồi đầu quay về chánh pháp.
Vua Nguyệt-Tịnh băng, con
vua là Thái-tử Dị-Kiến nối ngôi. Dị-Kiến lên ngôi không bao lâu
lại tin theo tà thuyết bài bác Phật giáo. Ngài sai đệ tử là
Ba-La-Đề đến cung vua để nhiếp hóa. Sau khi cải tà quy chánh,
vua Dị-Kiến hỏi ra mới biết Ba-La-Đề là đệ tử của chú mình. Nhà
vua cho người thỉnh Ngài về cung giáo hóa. Về cung giáo hóa một
thời gian, Ngài thấy cơ duyên sang Trung-Hoa đã đến, bèn đem lời
huyền ký của Tổ Bát-Nhã-Đa-La thuật lại cho vua biết. Vua không
còn lời gì dám ngăn cản, đành sắm một chiếc thuyền buôn, cho
thủy thủ đưa Ngài sang Trung-Hoa. Vua và quần thần tiển đưa Ngài
ra tới cửa biển.
Ngài ở trên thuyền gần ngót
ba năm, thuyền mới cặp bến Quảng-Châu, nhằm đời nhà Lương niên
hiệu Phổ-Thông năm
đầu (520 sau T.C.),ngày 21
tháng 9 năm Canh-Tý. Thích-sử tỉnh nầy ra đón tiếp Ngài, đồng
thời dâng sớ về triều tâu vua Lương-Võ-Đế. Vua được sớ, liền sai
sứ lãnh chiếu chỉ đến thỉnh Ngài về Kim-Lăng (Kinh đô nhà Lương).
Vua Võ-Đế hỏi:
-Trẩm từ lên ngôi đến nay
thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng ni, không biết bao nhiêu,
vậy có công đức gì chăng ?
Ngài đáp:
-Đều không có công đức.
-Tại sao không có công đức ?
-Bởi vì những việc ấy là
nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người cõi trời, như bóng
theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
-Thế nào là công đức chơn
thật ?
–Trí thanh tịnh tròn mầu,thể
tự không lặng,công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.
-Thế nào là thánh đế nghĩa
thứ nhất ?
-Rỗng rang không thánh.
-Đối diện với trẩm là ai ?
–Không biết.
Vua Lương-Võ-Đế không lãnh
ngộ được, lui về nghỉ. Ngài biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại
đây ít hôm.
Đến ngày 19, Ngài bỏ vua
Lương, lén sang sông qua Giang-Bắc. Ngài nhập cảnh nước Ngụy đi
đến Lạc-Dương nhằm đời Hậu-Ngụy, vua Hiếu-Minh-Đế niên hiệu
Chánh-Quang năm đầu (520 sau T.C.) ngày 23 tháng 11.
Ngài dừng trụ tại chùa
Thiếu-Lâm ở Trung-Sơn, trọn ngày ngồi xây mặt vào vách im lặng.
Tăng chúng đều không hiểu được. Người đời gọi Ngài là "Thầy
Bà-la-môn ngồi nhìn vách" (Bích quán Bà-la-môn). Có vị Tăng tên
Thần-Quang học thông các sách, giỏi lý diệu huyền, nghe danh
Ngài tìm đến yết kiến. Thần-Quang đã đủ lễ nghi mà Ngài vẫn ngồi
lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Quang nghĩ: "Người xưa
cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn
phần của các Ngài". Hôm ấy, nhằm tiết mùa đông (mùng 9 tháng
chạp), ban đêm tuyết rơi lả tả, Thần-Quang vẫn đứng yên ngoài
tuyết chấp tay hướng về Ngài. Đến sáng tuyết ngập lên khỏi đầu
gối, mà gương mặt Thần-Quang vẫn thản nhiên. Ngài thấy thế
thương tình, xây ra hỏi:
-Ngươi đứng suốt đêm trong
tuyết, ý muốn cầu việc gì ?
Thần-Quang thưa:
-Cúi mong Hòa-thượng từ bi
mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.
-Diệu đạo vô thượng của chư
Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó làm, hay
nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay ! Huống là, dùng
chút công lao nhỏ nầy mà cầu được pháp chân thừa ?
Thần-Quang nghe dạy bèn lén
lấy đao chặt cánh tay trái để trước Ngài để tỏ lòng thiết tha
cầu đạo. Ngài biết đây là pháp khí bèn dạy:
-Chư Phật lúc ban đầu cầu
đạo, vì pháp quên thân, nay ngươi chặt cánh tay để trước ta, tâm
cầu đạo như vậy cũng khá.
–Pháp ấn của chư Phật con có
thể được nghe chăng ?
–Pháp ấn của chư Phật không
phải từ người khác mà được.
–Tâm con chưa an, xin thầy
dạy pháp an tâm.
–Ngươi đem tâm ra đây, ta an
cho.
–Con tìm tâm không thể được.
–Ta đã an tâm cho ngươi rồi.
Thần-Quang nhơn đây được khế
ngộ. Ngài liền đổi tên Thần-Quang là Huệ-Khả.
Từ đây kẻ Tăng người tục đua
nhau đến yết kiến Ngài, tiếng tăm vang dậy. Vua Hiếu-Minh-Đế
nước Ngụy sai sứ ba phen thỉnh Ngài, Ngài đều từ chối. Nhà vua
càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật đến cúng dường: một cây tích
trượng, hai y kim tuyến, bình bát, v.v…Ngài từ khước nhiều lần,
nhưng nhà vua cố quyết cúng dường, rốt cuộc Ngài phải nhận.
Mở cửa phương tiện, Ngài có
dùng bốn hạnh để giáo hóa môn đồ:
1.-Báo oán hạnh,
2.-Tùy duyên hạnh,
3.-Vô sở cầu hạnh,
4.-Xứng pháp hạnh
(Xem cửa thứ ba quyển < Sáu
cửa vào động Thiếu-Thất > của Trúc-Thiên dịch.)
Ở Trung-Hoa gần chín năm,
Ngài thấy cơ duyên đã đến, liền gọi đồ chúng hỏi:
-Giờ ta trở về sắp đến. Các
ngươi mỗi người nên nói chỗ sở đắc của mình. Đạo-Phó ra thưa:
-Theo chỗ thấy của con,
chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo.
Ngài bảo:
-Ngươi được phần da của ta.
Bà ni Tổng-Trì ra thưa:
-Nay chỗ hiểu của con, như
Tổ A-Nan thấy nước Phật A-Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy
lại.
Ngài bảo:
-Ngươi được phần thịt của ta.
Đạo-Dục ra thưa:
-Bốn đại vốn không, năm ấm
chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được.
Ngài bảo:
-Ngươi được phần xương của
ta.
Đến Huệ-Khả bước ra đảnh lễ
Ngài, rồi lui lại đứng yên lặng. Ngài bảo:
-Ngươi được phần tủy của ta.
Ngài gọi Huệ-Khả đến dặn dò:
-Xưa Như-Lai đem đại pháp
nhãn tạng trao cho Tổ Ca-Diếp, lần lượt truyền đến ta. Nay ta
đem trao lại cho ngươi, ngươi phải truyền trao không để dứt mất.
Cùng trao cho ngươi y Tăng-già-lê và bát báu, để làm pháp tín.
Mỗi thứ tiêu biểu cho mỗi việc, ngươi nên biết.
Huệ-Khả thưa:
-Xin thầy từ bi chỉ dạy mọi
việc.
Ngài dạy:
-Trong truyền tâm-ấn để khế
hợp chổ tâm chứng, ngoài trao cà-sa để định tông chỉ. Đời sau có
nhiều người cạnh tranh nghi ngờ, họ nói "Ta là người Ấn, ngươi
là người Hoa, căn cứ vào đâu mà được pháp, lấy cái gì để minh
chứng ?". Ngươi gìn giữ pháp y nầy, nếu gặp tai nạn, ngươi đem
ra làm biểu tín, thì sự giáo hóa không bị trở ngại. Hai trăm năm
sau khi ta diệt độ, y bát nầy dừng lại không truyền, vì lúc đó,
Phật pháp rất thạnh hành, Chính khi ấy, người biết đạo thật
nhiều, người hành đạo quá ít, người nói lý thì nhiều, người ngộ
lý thì ít. Tuy nhiên, người thầm thông lặng chứng có hơn ngàn
vạn. Ngươi gắng xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe ta
nói kệ:
-
Ngô bổn lai tư độ,
-
Truyền pháp cứu mê tình,
-
Nhất hoa khai ngũ diệp,
-
Kết quả tự nhiên thành.
Dịch :
-
Ta sang đến cõi nầy,
-
Truyền pháp cứu mê tình,
-
Một hoa nở năm cánh,
-
Nụ trái tự nhiên thành.
Ngài lại bảo:
-Ta có bộ kinh Lăng-già bốn
quyển, là Phật nói tột pháp yếu, cũng giúp cho chúng sanh mở,
bày, ngộ, nhập kho tri kiến Phật, nay ta trao luôn cho ngươi. Ta
từ Nam-Ân sang đây đã năm phen bị thuốc độc mà không chết, vì
thấy xứ nầy tuy có khí đại-thừa mà chưa ứng hợp, nên ta lặng lẽ
ngồi lâu chờ đợi. Nay đã truyền xong, đã có thủy ắt phải có
chung vậy.
Xong rồi, Ngài cùng đồ chúng
đi đến Võ-môn ở chùa Thiên-Thánh dừng lại ba hôm. Quan thái thú
thành nầy tên Dương-Huyễn-Chi là người sùng mộ Phật pháp. Nghe
tin Ngài đến, liền tới đảnh lễ. Ông hỏi:
-Thầy ở Ấn-Độ được kế thừa
làm Tổ, vậy thế nào là Tổ, xin thầy dạy cho ?
Ngài đáp:
-Rõ được tâm tông của Phật,
không lầm một mảy, hạnh và giải hợp nhau, gọi đó là Tổ.
-Chỉ một nghĩa nầy hay còn
nghĩa nào khác ?
-Cần rõ tâm người, biết rành
xưa nay, chẳng chán có không, cũng chẳng cố chấp, chẳng hiền
chẳng ngu, không mê không ngộ. Nếu hay hiểu như thế, cũng gọi là
Tổ.
Huyễn-Chi lại thưa:
-Đệ tử vì bị nghiệp thế tục,
ít gặp được tri thức, trí nhỏ bị che lấp không thể thấy đạo. Cúi
xin thầy chỉ dạy, con phải noi theo đạo quả nào ? Dùng tâm gì
được gần với Phật, Tổ ?
Ngài vì ông nói kệ:
-
Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm,
-
Diệc bất quán thiện nhi cần
thố,
-
Diệc bất xả trí nhi cận ngu,
-
Diệc bất phao mê nhi tựu ngộ,
-
Đạt đại đạo hề quá lượng,
-
Thông Phật tâm hề xuất độ,
-
Bất dữ phàm thánh đồng triền,
-
Siêu nhiên danh chi viết Tổ.
Dịch:
-
Cũng đừng thấy dữ mà sanh
chê,
-
Cũng đừng thấy lành mà ái mộ,
-
Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu,
-
Cũng đừng ném mê mà về ngộ,
-
Đạt đạo lớn chừ quá lượng,
-
Thông Phật tâm chừ vô kể,
-
Chẳng cùng phàm thánh đồng
vai,
-
Vượt lên, gọi đó là Tổ.
Huyễn-Chi nghe dạy hoan hỷ
đảnh lễ, lại thưa:
-Xin thầy chớ vội tạ thế, để
làm phước lợi cho quần sanh.
Ngài bảo:
-Đời mạt pháp, kẻ tệ ác quá
nhiều, dù ta còn ở lâu e chẳng lợi ích, mà thêm tai nạn, làm
tăng trưởng tội ác cho người.
-Từ thầy đến đây ai thường
hại thầy, xin thầy chỉ họ, con sẽ sắp xếp.
–Nói ra ắt có tổn hại, ta
nên đi vậy. Đâu cam hại người để mình được vui.
Huyễn-Chi nài nỉ thưa: -
Con không hại người, chỉ
muốn biết đó thôi.
Ngài bất đắc dĩ nói bài kệ:
-
Giang tra phân ngọc lãng,
-
Quản cự khai kim tỏa,
-
Ngũ khẩu tương cộng hành,
-
Cửu thập vô bỉ ngã.
Dịch:
-
Thuyền con rẽ sóng ngọc,
-
Đuốc soi mở khóa vàng,
-
Năm miệng đồng cùng đi,
-
Chín, mười không ta người.
Huyễn-Chi nghe rồi ghi nhớ,
đảnh lễ Ngài lui ra. Ở đây đúng ba hôm, Ngài ngồi an nhiên thị
tịch. Hôm ấy là ngày mùng 9 tháng 10 năm Bính-Thìn, nhằm niên
hiệu Đại-Thông năm thứ hai nhà Lương (529 T.C). Đến ngày 18
tháng chạp năm nầy, làm lễ đưa nhục thân của Ngài nhập tháp tại
chùa Định-Lâm, núi Hùng-Nhĩ.
Sau, vua Hậu Ngụy sai
Tống-Vân đi sứ Ấn-Độ về, gặp Ngài tại núi Thông-Lãnh, thấy Ngài
tay xách một chiếc dép, một mình đi nhanh như bay. Tống-Vân hỏi:
-Thầy đi đâu ?
Ngài đáp:
-Về Ấn-Độ.
Ngài lại nói thêm:
-Chủ ông đã chán đời rồi.
Tống-Vân ngẩn ngơ, từ giả
Ngài về triều. Đến triều thì vua Minh-Đế đã băng. Hiếu-Trang-Đế
lên ngôi. Ông đem việc ấy tâu lại, vua ra lệnh mở cửa tháp dở
quan tài ra, quả nhiên là quan tài không, chỉ còn một chiếc dép.
Vua sắc đưa chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu-Lâm, Đến đời Đường
niên hiệu Khai-Nguyên năm thứ 15 (728 sau T.C) môn đồ lại dời
chiếc dép về thờ ở Chùa Hoa-Nghiêm. Vua phong Ngài hiệu
Viên-Giác Thiền-Sư, tháp hiệu Không-Quán.
Tập Thiếu-Thất-Lục-Môn nói
là tác phẩm của Ngài .
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/33vitoan-hoa2.htm