...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- ÐỨC PHẬT VÀ GIÁO
PHÁP CỦA NGÀI
- Ernest K. S. Hunt, 1962
Lesson 9
The Great
Enlightenment
Now we see that the prince had looked in many
places to find the truth, but so far had not succeeded. He had read the Holy Books of the
Brahmins and tried to find it there, but had not been successful. He had examined into the
services and sacrifices of the Hindu temples, but had been disgusted and saddened by the
terrible cruelties he had seen there. Then he had joined the five priests and followed
their example in torturing his body, but all to no purpose; the truth seemed to be as far
away as ever. There remained only one thing for him to do, and that was to look within his
own mind and see if he could not find it by deep meditation (thinking deeply and correctly
on a thing.).
So he came to a great tree and sat under its
shade on the ground resolving not to get up until he had found what he was looking for.
Meditation was very hard for him at first,
for all sorts of wandering thoughts seem to come into his mind instead. Pictures of the
joys of his father's palace, the faces of his wife and baby son, the desire for pleasures
and power, all these seemed to crowd his mind and banish away any serious thoughts he had.
However, he persevered and at last was able to drive these temptations away.
Then gradually the answer to all that he was
seeking shone clearly in his mind, ignorance was destroyed forever and he saw the truth of
the existence of suffering, that ignorance was its cause, and that this ignorance might be
destroyed by walking the Noble Eightfold Path which leads to peace and true happiness.
So did the Prince Siddhartha, beneath the
Sacred Bodhi tree, become the Supreme Buddha, teacher of all living beings. He has fought
the hard, long battle with ignorance and selfishness, and had won the fight. Before him he
saw the truth he had sought for so long, and he entered into the state of peace and
happiness called by Buddhists "Nirvana". His great RENUNCIATION had not been in
vain, for he brought the glad message of hope to all mankind, a message that will never
die because it is the Truth, and Truth is ETERNAL.
The Four Noble Truths and the Eighfold Path
are what the Buddha found, and all who would win the same peace and happiness must learn
about these truths and walk in the Path he gave. As I told you before, all he did can be
done by each one of us; we can find Nirvana and enter its happiness any time we give up
the false self and destroy the ignorance which is in our minds. This ignorance causes us
to make many mistakes, which of course bring us suffering.
QUESTIONS (3)
1. What was the name of the city to which the
Prince came at sunrise?
2. Whom did he meet?
3. What did the King offer him?
4. What answer did the Prince make to the King?
5. Where did Siddhartha go next?
6. Why did he leave the Brahmins?
7. What did he see in the Temple?
8. Why did the priests of the Hindus scarifice animals?
9. Why did Siddhartha leave the temple?
10. Tell the story of his life among the five priests.
11. Tell the story of his meditation.
12. What did he find beneath the Bodhi tree?
13. Where did the Prince look for the Truth in the end?
14. Can we also find the Truth?
15. What must we do to find it?
-ooOoo- |
Bài 9
SỰ GIÁC
NGỘ VĨ ÐẠI
Chúng ta thấy hoàng tử đã tham kiến
nhiều nơi để tìm ra Sự Thật nhưng đến nay vẫn chưa thành công. Chàng
đã đọc tụng Thánh Ðiển của Bà-la-môn giáo, cố gắng tìm ra chân lý
ở đó nhưng vẫn không thành. Chàng đã quan sát các lễ nghi dâng hiến
trong các đền thờ Ấn giáo nhưng chỉ chứng kiến cảnh tàn ác dã man đến
đau buồn ghê tởm. Sau đó chàng liên kết với năm đạo sĩ, theo gương họ
hành hạ xác thân, nhưng cũng không đạt được mục đích; sự thật hình
như vẫn còn xa vời vòi vọi. Chỉ còn một điều mà chàng phải làm là
nhìn vào nội tâm của chính mình để xem rằng mình có thể tìm ra sự thật
bằng con đường thiền quán hay không. (tức là suy nghĩ sâu sắc và đúng
đắn về một vấn đề).
Chàng đi đến một cây đại thọ, ngồi
trên đất dưới bóng cây, kiên quyết không đứng dậy cho đến khi tìm ra
Sự Thật.
Lúc đầu tu tập thiền định rất khó
đối với chàng, vì bao nhiêu ý nghĩ tạp loạn cứ xen lẫn vào tâm trí
chàng. Những hình ảnh tươi vui của cung điện phụ hoàng, những khuôn mặt
yêu thương của con thơ vợ đẹp, lòng khát khao lạc thú và quyền lực, tất
cả dường như xâm chiếm tâm tư chàng, xua đuổi bao ý nghĩ nghiêm mật của
chàng. Tuy nhiên chàng vẫn kiên trì và cuối cùng đã loại được những cám
dỗ đó đi.
Sau đó, lời giải đáp cho tất cả
những gì chàng tìm kiếm dần dần bừng sáng trong tâm trí chàng, vô minh
đã bị đoạn diệt, chàng thấy rõ sự thật hiện hữu của đau khổ, thấy
rõ vô minh là nguyên nhân của khổ đau, và vô minh có thể bị tiêu trừ bằng
cách đi theo con Ðường Tám Bước Cao Quí, con đường dẫn đến an vui và
hạnh phúc thực sự.
Như vậy, dưới cây Bồ Ðề, thái tử
Tất-đạt-đa đã thành Phật tối thượng, Bậc Ðạo Sư của tất cả chúng
sanh. Ngài đã chiến đấu lâu dài gian khổ với vô minh, vị kỷ, và cuối
cùng Ngài đã thắng. Ngài đã thấy được sự thật mà Ngài đã bao năm tìm
kiếm. Ngài đã vào trạng thái an vui hạnh phúc mà Phật tử gọi là Niết
Bàn (Nirvana). Cuộc GIÃ TỪ vĩ đại của Ngài đã không hoài công vô ích,
vì Ngài đã mang thông điệp hy vọng đến cho nhân loại, một thông điệp
sẽ không bao giờ bị tiêu vong, vì đó là Sự Thật, và Sự Thật thì VĨNH
CỬU.
Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo là
những điều mà Ðức Phật đã tìm thấy. Những ai muốn đạt đến cảnh
an vui hạnh phúc như thế đều phải học hiểu các sự thật này và phải
đi trên con đường mà Ngài đã vạch. Như tôi đã nói với các bạn trước
đây, tất cả những gì Ngài đã làm, mỗi người chúng ta đều có thể
làm; chúng ta có thể chứng đạt Niết Bàn, vào cảnh an vui hạnh phúc bất
cứ lúc nào ta từ bỏ được cái ta sai lầm và diệt hết vô minh trong
tâm trí mình. Vô minh làm cho ta phạm nhiều lỗi lầm, và lỗi lầm dĩ nhiên
là đem đến đau khổ.
CÂU HỎI (3)
1. Tên thành phố mà hoàng tử đến lúc
tảng sáng là gì?
2. Chàng đã gặp ai?
3. Quốc vương hứa tặng chàng những gì?
4. Hoàng tử trả lời với quốc vương như thế nào?
5. Tất-đạt-đa sau đó đi đâu?
6. Tại sao chàng từ bỏ các đạo sĩ Bà-la-môn?
7. Chàng thấy gì trong đền?
8. Tại sao các đạo sĩ Ấn giáo cúng tế súc vật?
9. Tại sao Tất-đạt-đa giã từ ngôi đền đó?
10. Hãy kể chuyện sinh sống của chàng với năm đạo sĩ.
11. Hãy kể chuyện thiền định của chàng.
12. Chàng đã thấy được những gì dưới cây Bồ Ðề?
13. Cuối cùng Hoàng tử tìm kiếm Sự Thật ở đâu?
14. Chúng ta cũng có thể tìm ra Sự Thật chứ?
15. Chúng ta phải làm gì để thấy sự thật đó?
-ooOoo- |
Lesson
9:
banish (v) : trục xuất, xua đuổi
battle (n) : trận đánh
destroy (v) : hủy diệt, tiêu diệt
disgusted (a) : gớm ghiếc
enlightenment (n) : sự giác ngộ
eternal (a) : vĩnh viễn
examine (v) : xem xét
existence (n) : sự tồn tại, sự hiện hữu
false (a) : giả dối
fight (v) : chiến đấu
forever (adv) : vĩnh viễn
Four Noble Truths : Tứ diệu đế
give up : từ bỏ, đầu hàng
gradually (adv) : dần dần, từ từ
ignorance (adv) : sự ngu dốt, vô minh
in vain : vô ích |
meditation (n) : thiền định
Nirvana (n) : Niết bàn
Noble Eightfold Path : Bát chánh đạo
persevere (v) : kiên trì
purpose (n) : mục đích
remain (v) : còn lại
resolve (v) : quyết tâm
sadden (v) : làm buồn phiền
selfitshness (n) : tính ích kỷ
service (n) : khóa lễ
shade (n) : bóng cây
succeed (v) : thành công
successful (a) : thành công
supreme (a) : tối cao, tối thượng
temptation (n) : sự quyến rũ
thought (n) : tư tưởng, ý nghĩ |
Lesson 10
The Wheel of
the Law - I
We saw in the last lesson that Siddhartha
Gotama, son of King Suddhodana, became the Supreme Buddha, teacher of all living beings.
So the words of the wise man, Asita, came true, for you remember that he said the baby
would leave his home and become a world teacher.
I wonder whether you know the meaning of the
word "Buddha"? Many western people, with whom I have spoken about Buddhism, told
me that they thought it meant a god of some kind. The word "Buddha" does not
mean a god; it has a much higher meaning than that. It means "one who has found the
truth" or "the Enlightened One". A person who has become a Buddha, knowing
all the truth, has a mind full of light. Do not forget what the word "Buddha"
means, then if anyone asks you about it, you will be able to answer.
When the Buddha became enlightened, he saw
four great truths. These are always spoken of as the "Four Noble Truths". The
First Noble Truth is that "life is full of suffering". This does not mean that
there is no joy or pleasure in life, far from it. But it means that life as a whole is
subject to suffering, because nothing lasts, because death comes to all life and causes
parting and tears. Suffering comes because we try to hold on to things instead of learning
to let them go willingly.
Some people think, when they read this first
Noble Truth, that Buddha's religion is a sad and gloomy one; this is because they do not
understand what this first fruth means. In all countries where Biddhism is the chief
religion the people are always bright and happy. They know that Buddha teaches them to
enjoy the pleasures of life as they come, but advises them not to try and hold on to these
things when it is time for them to pass away.
We pick a lovely rose, we enjoy its beauty
and perfume while it lives, but how foolish we would be to pin it upon our dress after it
is dead and withered. It is the same with the things of earth; - joys, pleasures, money,
power, etc. All these are for us to use as long as we need them, as long as they are
uesful to us, but we must let them go with a smile when it is their turn to pass away from
us.
The second Noble Truth is "the cause of
suffering".
Suffering comes, in the first place, from
ignorance, for a wise man would not try to hold on to things which he knows must pass
away, anymore than a wise girl would hold on to the dead rose and pin it in her hair or on
her dress. This is ignorance, that from this ignorance, springs all the misery and pain in
life.
-ooOoo- |
BÀI 10
BÁNH XE
CHÁNH PHÁP - I
Trong bài trước, chúng ta thấy Tất-đạt-đa
Gô-ta-ma, con trai của quốc vương Tịnh Phạn, đã thành Phật tối thượng,
Ðấng Ðạo Sư của tất cả chúng sanh. Như vậy là những lời tiên tri của
hiền sĩ A-tư-đà đã thành sự thật. Ngài nói, các bạn còn nhớ, cậu
bé sẽ xuất gia và thành Bậc Ðạo Sư của nhân thế.
Tôi tự hỏi không biết các bạn có
hiểu được ý nghĩa của từ "Phật" không? Nhiều người phương
Tây, những vị mà tôi từng thuyết giảng Ðạo Phật cho họ, cho rằng Phật
là một thứ thần linh nào đó. "Phật" không có nghĩa là một vị
thần linh. "Phật" có ý nghĩa cao cả hơn thế nhiều. "Phật"
là "Người đã tìm ra sự thật" hay "Ðấng Giác Ngộ". Người
nào thành Phật, thấu rõ sự thật, người ấy có đầu óc tràn đầy trí
tuệ sáng suốt. Ðừng quên ý nghĩa của từ "Phật" để nếu có
ai hỏi, bạn cũng sẽ có thể trả lời được.
Khi Ðức Phật giác ngộ, Ngài thấy
rõ bốn Sự Thật vĩ đại được gọi là "Tứ Diệu Ðế". Sự Thật
Cao Quý Thứ Nhất: "Ðời là dẫy đầy đau khổ". Ðiều này không
có nghĩa là không có hân hoan, lạc thú trong đời, trái lại là khác. Nhưng
có nghĩa cuộc đời nói chung là bị đau khổ, vì không có gì tồn tại
mãi, vì cái chết sẽ đến với tất cả cuộc đời và gây ra cảnh chia
ly tang tóc. Ðau khổ xảy đến là vì chúng ta cố bám chặt vào mọi thứ,
thay vì để chúng tha hồ ra đi.
Một số người, khi đọc Sự Thật
Cao Quí Thứ Nhất này, cho rằng Ðạo Phật là một tôn giáo buồn bã u sầu;
như vậy là họ không hiểu ý nghĩa của Sự Thật Thứ Nhứt. Ở những
nước mà Phật Giáo là tôn giáo chính thì dân chúng luôn luôn tươi sáng
và hạnh phúc. Họ ý thức rằng Ðức Phật dạy họ thụ hưởng những lạc
thú ở đời khi chúng đến, nhưng khuyên họ đừng bám chặt lấy chúng
khi tới lúc chúng phải chia ly.
Chúng ta hái một đóa hoa hồng tươi
đẹp, chúng ta thưởng thức vẻ đẹp và hương thơm của nó khi nó còn tươi,
nhưng sẽ ngốc nghếch biết bao nếu ta cài nó lên chiếc áo của ta sau khi
nó đã úa tàn. Mọi thứ trên trái đất này cũng thế: hân hoan, lạc thú,
tiền tài, quyền lực v.v... tất cả là để chúng ta sử dụng khi nào cần,
khi chúng còn hữu ích, nhưng ta phải để chúng ra đi với một nụ cười
thoải mái khi đến lượt chúng phải giã từ.
Sự Thật Cao Quí Thứ Hai là:
"Nguyên Nhân Của Khổ".
Khổ, vị trí thứ nhứt, bắt nguồn
từ vô minh. Người trí không cố bám chặt những thứ mà họ biết là phải
chia ly. Cũng thế, một cô gái khôn ngoan không khư khư giữ lấy một đóa
hồng tàn úa để rồi cài nó lên tóc hay lên áo của mình. Ðó là hành động
ngu muội, và ngu muội thì sinh ra biết bao đau khổ trong đời.
-ooOoo- |
Lesson
10:
as (a) whole : nói chung
as long as : bao lâu mà, miễn là
be subject to : phải chịu, lệ
thuộc vào
Buddhism (n) : đạo Phật
cause (v, (n) : gây ra, nguyên nhân
far from it : trái lại là khác
gloomy (a) : u sầu, ảm đạm |
hold on to
(v) : nắm chặt, bám chặt
pass away (v) : qua đời, qua đi
perfume (n) : nước hoa, hương thơm
pin (v) : ghim, kẹp, cài
spring (v) : nảy sanh, phát sanh
the Enlightened One : Ðấng Giác Ngộ
wheel of the Law : bánh xe Chánh pháp
withered (a) : úa tàn |
Lesson 11
The Wheel of
the Law - II
The third Noble Truth is that there is
"a way to destroy suffering". If you have a bad headache you do not go to the
doctor and ask him to cut off your head, you ask instead that he find out for you the
cause of your headache. He will examine your eyes, your stomach and other parts of your
body in order to see which one of them is producing the pain in your head. Having found
the cause he will try to cure it.
If we wish the suffering of life to cease we
must do like the wise doctor and cure its cause. We learn from Buddha that the cause is
ignorance, so we must destroy ignorance if we would have suffering cease.
The last Noble Truth is the way by which
suffering ceases. It is the Noble Eightfold Path he found for us to follow. How easy to
say we must destroy ignorance, but how can we do it? By walking in the Path the Buddha
found for us. Each step on this Path will help us to destroy a little of the ignorance
until, when we have reached the end of the path, we will become like our Master, the
Buddha, fully enlightened. All ignorance will have been driven out of our minds. In the
place of ignorance the bright light of Knowledge will shine.
These Four Noble Truths are not really very
hard to understand.
First Noble Truth - All life is full of
suffering.
Because we try to hold on to things which
must pass away.
Second Noble Truth - The cause of suffering.
Ignorance is the first cause of suffering.
Third Noble Truth - The ceasing of suffering.
In order to make suffering cease we must destroy its cause which is ignorance.
Fourth Noble Truth -The path which leads to
the end of suffering.
The Noble Eightfold Path has eight steps or
divisions,
1. Right Undertanding
2. Right Purpose
3. Right Speech
4. Right Conduct
5. Right Livelihood
6. Right Endeavor
7. Right Thought
8. Right Meditation
These are all going to be explained to you in
a later lesson, most of them you can easily understand, but some may seem a bit difficult
until you are older.
When you go on a trip in an automobile you
will notice that many signs are posted along the roads in order to help you to avoid
accidents. All dangerous curves are marked with warnings, and the guide lines to make us
keep to the right we find around most of the corners. Whenever we come to a school or a
small town we are told to "go slowly", and at dangerous railway crossings we
must "stop, look, and listen".
Buddha has done the same for us upon the
great Roadway of life. He has placed signs all along the way in order to help us to avoid
the dangerous mistakes which lead to suffering and sorrow. How grateful we should be to
our dear Master for finding the Truth and working so hard to teach it to us. The best way
to show our love for him is to walk in the path he found and to read carefully and follow
all the signposts he has put upon the way.
QUESTIONS (4)
1. What does the word Buddha mean?
2. Was the Buddha a god?
3. What did the wise man Asita foretell about the Buddha when he was a baby?
4. Did his words come true?
5. What are the Four Noble Truths?
6. What is the meaning of the first? The second? The third? The fourth?
7. See how many of the steps in the Noble Eightfold path you can remember.
8. What must the motorist watch for as he goes on a trip?
9. What must the Buddhist watch for on the Road of Life?
10. How can we show our love and gratitude to the Buddha?
-ooOoo- |
Bài 11:
BÁNH XE
CHÁNH PHÁP - II
Sự Thật Cao Quí Thứ Ba là "Con
Ðường Diệt Khổ". Nếu bạn bị đau đầu dữ dội, bạn không đi nhờ
bác sĩ cắt đầu bạn, mà phải nhờ ông ta tìm ra nguyên nhân đau đầu của
bạn. Ông ta sẽ khám mắt, khám dạ dày, và các bộ phận khác của cơ thể
bạn để xem bộ phận nào làm bạn đau đầu. Tìm ra nguyên nhân, ông ta sẽ
chữa trị cho bạn.
Nếu muốn nỗi khổ đau của cuộc đời
được diệt trừ, chúng ta phải chữa trị nguyên nhân của nó như vị bác
sĩ sáng suốt kia. Phật dạy nguyên nhân là vô minh, vậy phải diệt trừ
vô minh nếu chúng ta muốn khổ đau chấm dứt.
Sự Thật Cao Quí Cuối Cùng là con
đường dẫn đến diệt khổ. Ðó là Con Ðường Tám Bước Cao Quí mà
Ngài đã khai mở cho chúng ta. Thật là dễ dàng để nói chúng ta phải diệt
trừ vô minh, nhưng phải làm thế nào đây? Chỉ bằng cách đi trên con Ðường
mà Ðức Phật đã khai thị cho chúng ta. Mỗi bước đi trên con Ðường này
sẽ giúp ta diệt trừ một chút vô minh cho đến khi đi hết đoạn đường
là ta thành Phật, Bậc Giác Ngộ Hoàn Toàn, như Ðức Bổn Sư vậy. Tất cả
vô minh sẽ bị loại khỏi tâm trí ta và, thay vào đó, ánh sáng trí tuệ sẽ
bừng sáng rực rỡ.
Bốn Sự Thật Cao Quí này không hẳn
là rất khó hiểu.
Sự Thật Cao Quí Thứ Nhứt - Ðời
là dẫy đầy đau khổ. Bởi vì chúng ta cố bám víu những thứ phải suy
vong.
Sự Thật Cao Quí Thứ Hai - Nguyên
nhân của khổ. Vô minh là nguyên nhân đầu tiên của khổ.
Sự Thật Cao Quí Thứ Ba - Sự diệt
khổ. Ðể khổ diệt, chúng ta phải diệt trừ nguyên nhân, đó là vô minh.
Sự Thật Cao Quí Thứ Tư - Con đường
dẫn đến diệt khổ. Bát Chánh Ðạo, con đường cao quí có tám bước hay
tám đoạn:
1. Chánh kiến.
2. Chánh tư duy.
3. Chánh ngữ.
4. Chánh nghiệp.
5. Chánh mạng.
6. Chánh tinh tấn.
7. Chánh niệm.
8. Chánh định.
Tám bước này sẽ được giải thích
ở một bài sau, các bạn có thể hiểu hầu hết chúng một cách dễ dàng,
nhưng có một số dường như hơi khó đối với các bạn trẻ.
Khi du lịch bằng xe hơi, các bạn sẽ
thấy nhiều bảng hiệu gắn ở dọc đường để giúp các bạn tránh tai nạn.
Tất cả những khúc đường quanh co nguy hiểm đều có dấu báo hiệu, và
những vạch hướng dẫn chúng ta lái xe sát vào bên phải được thấy ở
hầu hết các góc đường. Khi đến một ngôi trường hay một thị trấn
nhỏ, chúng ta đều được thông báo "chạy chậm lại", và tại những
chỗ ngang qua đường sắt nguy hiểm, chúng ta phải "dừng lại, quan
sát và lắng nghe".
Ðức Phật đã hướng dẫn chúng ta
như thế trên đoạn Ðường Ðời quan trọng. Ngài đã đặt các bảng hiệu
khắp dọc đường để giúp ta tránh những lỗi lầm nguy hiểm có thể dẫn
đến khổ đau. Chúng ta phải cảm ơn biết bao Ðức Bổn Sư tôn kính, Người
đã tìm ra Sự Thật và dày công vất vả giáo hóa chúng ta. Cách thể hiện
tốt nhất lòng tôn kính của mình đối với Ngài là đi trên con đường mà
Ngài đã tìm thấy, cẩn thận đọc kỹ và nương theo những cột chỉ dẫn
mà Ngài đã đặt trên đường.
CÂU HỎI (4)
1. Từ Phật có nghĩa là gì?
2. Phật có phải là một vị thần linh không?
3. Hiền sĩ A-tư-đà đã tiên đoán gì về Phật khi Ngài mới là một em
bé?
4. Những lời tiên đoán của ngài có thành sự thật không?
5. Bốn Sự Thật Cao Quí là gì?
6. Ý nghĩa của Sự Thật Cao Quí Thứ Nhất là gì? Sự Thật Cao Quí
Thứ Hai? Sự Thật Cao Quí Thứ Ba? Sự Thật Cao Quí Thứ Tư?
7. Các bạn hãy nhớ xem có bao nhiêu bước trên con Ðường Tám Ðoạn
Cao Quí.
8. Tài xế ô tô phải để ý những gì khi đi du lịch?
9. Phật tử phải lưu ý những gì trên đoạn Ðường Ðời?
10. Chúng ta có thể bày tỏ lòng tôn kính và biết ơn của chúng ta đối
với Ðức Phật như thế nào?
-ooOoo- |
Lesson
11:
automobile (n) : xe ô tô
avoid (v) : tránh
cure (v) : chữa trị, điều trị
curve (n) : đường cong
division (n) : phần, đoạn
explain (v) : giảng giải
go on (a) trip : đi du lịch
grateful (a) : biết ơn
guide (n) : sự hướng dẫn
headache (n) : đau đầu
in order to : để
mark (v) : đánh dấu
mistake (n) : lỗi lầm
notice (v) : nhận thấy, chú ý
our dear Master : đức Bổn Sư của chúng ta |
post (v) : dán
right conduct (action) : chánh nghiệp
right endeavour (effort) : chánh tinh tấn
right livelihood : chánh mạng
right meditation (concentration) : chánh định
right mindfulness : chánh niệm
right purpose (thought) : chánh tư duy
right speech : chánh ngữ
right understanding : chánh kiến
shine (v) : chiếu sáng, tỏa sáng
sign (n) : dấu hiệu, bảng hiệu
signpost (n) : biển chỉ đường
stomach (n) : dạ dày, bao tử
warning (n) : lời báo trước, lời khuyến cáo |
Lesson 12
The First
Sermon
You remember how angry the five priests were
when the Buddha left them. They thought that he was too lazy to continue the goof work and
believed that he had returned to the pleasures of his palace. As we know, this was no so,
for he had merely given up silly torture which did no good to him, and had to look
elsewhere for the truth.
As soon as he became enlightened he thought
with love and pity of those five poor men, torturing themselves all to no purpose, and he
resolved to go to them immediately and tell them of his discovery. On his way he met two
merchants, who, when they saw the Buddha's shining face, knew that he was a great Teacher
and bowed before him, offering food. These became his first followers.
Then he came to the place where he had left
the five priests, which was called the Deer Park. The priests saw him coming but they said
to each other, "Here comes Gotama, the monk, who was weak and left the good path; we
will not speak or take any notice of him".
But when the Buddha approached they looked
with wonder upon the brightness of his face, and in spite of what they had said they bowed
low before him. He sat with them for many days and showed them the Noble Eightfold Path
which he had discovered, and the five priests were filled with joy to hear such good
tidings and gladly became his followers.
Then the Buddha formed what is called the
"Sangha", which really means "Brotherhood", and he told these first
followers of his to spread the truth he had taught them in all the quarters of the earth,
that all living beings might hear the glad news and be happy. When a person becomes a
Buddhist he takes his refuge in the Buddha, the Law and the Brotherhood (Buddha, Dharma,
Sangha as it is called in the language of India.).
-ooOoo- |
Bài 12
BÀI THUYẾT
PHÁP ÐẦU TIÊN
Các bạn còn nhớ năm đạo sĩ bực tức
như thế nào khi Ðức Phật từ biệt họ. Họ nghĩ là Ngài quá lười biếng
không thể tiếp tục sự nghiệp thánh thiện và tin rằng ngài đã quay về
với lạc thú ở hoàng cung. Như chúng ta biết, điều này không phải vậy.
Ngài chỉ từ bỏ lối ép xác ngu xuẩn, không mang lại lợi ích gì cho
ngài, và phải tìm sự thật ở một nơi khác.
Ngay sau khi giác ngộ, với lòng xót thương
lân mẫn, Ngài liền nghĩ đến năm huynh đệ tội nghiệp kia, tự hành hạ
mình một cách vô lối. Ngài quyết tâm đến gặp họ ngay và nói cho họ
biết về sự khám phá của mình. Trên đường, Ngài gặp hai thương gia, và
khi nhìn thấy khuôn mặt sáng ngời của Phật, họ biết Ngài là một Ðạo
sư vĩ đại. Họ quì gối đảnh lễ và dâng thức ăn cho Ngài. Hai người
này trở thành môn đồ đầu tiên của Ngài.
Sau đó Ngài đến vườn Lộc-uyển,
nơi mà Ngài đã từ biệt năm đạo sĩ khổ hạnh. Thấy Phật đi tới, các
đạo sĩ nói với nhau: "Gô-ta-ma, vị sa môn đến kìa! người đã nhu
nhược từ bỏ con đường thánh thiện; chúng ta đừng thèm nói chuyện hay
để ý đến ông ta".
Nhưng khi Ðức Phật đến gần, họ rất
đỗi ngạc nhiên với ánh hào quang rực sáng trên khuôn mặt Ngài. Họ tự
động quì gối đảnh lễ Ngài. Ngài ở lại với họ nhiều ngày, trình
bày cho họ thấy con Ðường Tám Bước Cao Quí mà Ngài đã khám phá, và năm
đạo sĩ, với cõi lòng lâng lâng sung sướng, lắng nghe thiện pháp và hân
hoan được làm môn đệ của Ngài.
Sau đó Ðức Phật thành lập cái gọi
là "Tăng Già" (Sangha), thật nghĩa là "Giáo Hội", và phái
năm đệ tử đầu tiên của mình truyền bá Sự Thật mà Ngài đã thuyết
giảng cho họ ra bốn phương trời, ngõ hầu tất cả chúng sanh có thể
nghe theo thiện pháp và được hạnh phúc. Khi người nào muốn trở thành
Phật tử, người ấy phải qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng (ngôn ngữ Ấn
Ðộ gọi là Buddha, Dharma, Sangha.).
-ooOoo- |
Lesson
12:
approach (v) : đến gần
bow (v) : cúi đầu
brotherhood (n) : tình huynh đệ, giáo hội
deer park : vườn nai, lộc uyển
discover (v) : khám phá
discovery (n) : sự khám phá
form (v) : thành lập |
merchant
(n) : thương gia
pity (n) : lòng xót thương
refuge (n) : sự nương tựa
sangha (n) : tăng già
sermon (n) : bài thuyết pháp
spread (v) : truyền bá, trải rộng
take refuge in : nương tựa vào, qui y |
Lesson 13
Returning to
Kapilavatthu
During the time that the Buddha stayed in the
Deer Park his followers grew to be about sixty in number, and these he sent out among the
people in different parts of the country to teach and give the glad news that he had found
the cure of suffering. These followers of the Buddha were called Bhikshus, meaning monks
or teachers, they wore yellow robes and carried begging bowls in their hands.
The Buddha did not forget his promise to King
Bimbisara, so he went to Rajagriha and spent a long time with him. Bimbisara gave his
beautiful garden to Buddha so that the Enlightened one and his followers might sometimes
live there and teach the people.
Now in India at that time there were no
trains, automobiles or airplanes, but nevertheless news travelled very fast. It was not
long before King Suddhodana, the Buddha's father, heard news of his son, how he had become
a great teacher and was going around the country winning new followers every day.
One would have thought that his father would
have felt proud of him, but this was not the case. In India, in those days, kings, were
very proud of their royal blood, and he thought it a dreadful thing for a prince to go
around barefooted begging his way.
Suddhodana sent for his son, and the Buddha
went at once to Kapilavatthu to his father. At first the king began to speak angrily to
the Buddha, but when the Buddha told him
the glad news, which had won the hearts of so many, the king was ashamed and begged to be
allowed to become his follower as well. So the Lord Buddha had the happiness of receiving
his aged father into the Sangha.
The king told the Buddha how his poor wife,
Yoshodhara, had grieved for him, how she had cut off her beautiful hair and worn dark and
ugly garments in mourning for him. The Buddha was greatly touched and went to her
apartments to see her, and when she caught sight of her husband she fell weeping at his
feet. Buddha picked her gently up, and wiped away her tears, then told her of his hard
search and of the truth he had at last found. Yoshodhara also became a follower and did
much to lead many women into the Sangha.
You remember that a baby boy was born to the
Prince before he left the palace. The baby was now a boy of seven, and had never seen his
father. Yoshodhara took the little boy, whose name was Rahula, to one of the palace
windows over-looking the gardens, and pointed out his father to the boy. Then she bade him
run down to him and ask him for his inheritance.
Rahula did as his mother told him, and went
to the Buddha, who was teaching in the garden, and said to him "Father, give me, I
pray thee, my inheritance!"
The Buddha put his arms around his little son
and said to him : "Silver and gold have I none, but the gift of truth I will
give to thee". And he taught the message of the Law to Rahula and Rahula also became
one of his followers.
This story shows us that we need not wait
until we are men and women to become followers of the Buddha, but that each of us, no
matter what our age may be, can learn the teaching and walk in the Noble Eightfold Path.
Far better than gold or jewels was the treasure which the Buddha gave to his little son
Rahula, and this is also our inheritance, the treasure which has been handed down from the
past. No money can buy it, and we should guard it with the greatest pride and refuse to
let anyone take it from us.
It is the teaching of Buddha which has made
the East great, and this same teaching will make the West great also. It will cure people
of their selfishness and greed for money; it will teach them brotherhood and love for one
another; it will teach kindness towards weaker living things and it will build up a new
civilization which will not value a man for what he has, for his money and position, but
for his goodness and character.
QUESTIONS (5)
1. What did the five priests think when
Gotama left them?
2. Were they right?
3. What made the Buddha return to Deer Park?
4. What did the five priests say when they saw him coming?
5. What did they do?
6. What is the Brotherhood sometimes called?
7. How many became followers of the Buddha at Deer Park?
8. Why did Buddha go to Rajagriha?
9. What did the king give to the Buddha?
10. When the Buddha taught his father, what happened?
11. Tell the story of Rahula.
12. What is our inheritance?
13. What will Buddha's teaching do for the West?
-ooOoo- |
Bài 13
VỀ THÀNH
CA-TỲ-LA-VỆ
Suốt thời gian Phật trú tại vườn
Lộc-uyển, đồ chúng của Ngài phát triển gần đến con số sáu mươi. Ngài
phái họ đi đến nhiều nơi khác nhau trong nước để thuyết giảng và
trao truyền thiện pháp mà Ngài đã khai phá để chữa trị đau khổ. Các
môn đệ này được gọi là Tỳ kheo nghĩa là sư sãi hay đạo sư, họ quấn
y vàng và ôm bình bát khất thực trong tay.
Không quên lời hứa với vua Tần-bà-sa-la,
Ðức Phật đến thành Vương xá và ở lại với quốc vương được một
thời gian dài. Tần-bà-sa-la dâng hiến khu vườn rất đẹp của mình cho Phật
để Ðấng Ðại Giác và môn đệ của Ngài có thể thỉnh thoảng an trú
và giáo hóa dân chúng.
Ấn Ðộ bấy giờ không có xe lửa,
xe hơi hay máy bay; tuy nhiên, tin tức được truyền đi rất nhanh. Chẳng mấy
chốc quốc vương Tịnh Phạn, phụ hoàng của Phật, được tin con mình nay
đã thành Bậc Ðại Sư, hiện đang vân du trong nước và thu nhận nhiều
môn đệ mới hằng ngày.
Người ta có thể nghĩ rằng phụ hoàng
của Ngài rất có thể đã hãnh diện về Ngài, nhưng không phải như thế.
Ở Ấn Ðộ, vào thời đó, các vì vua chúa rất hãnh diện về huyết thống
hoàng tộc của mình, và nhà vua rất lấy làm khủng khiếp khi nghe hoàng tử
đầu trần chân đất, đó đây khất thực dọc đường.
Tịnh Phạn cho triệu con mình, Ðức
Phật liền đến thành Ca-tỳ-la-vệ và diện kiến phụ hoàng. Lúc đầu quốc
vương tỏ vẻ bực tức nói với Phật, nhưng khi Phật báo tin mừng cho
ngài, những thiện pháp đã thu phục biết bao trái tim của con người, thì
quốc vương lấy làm hổ thẹn và cũng xin được phép làm môn đệ Ngài.
Ðức Phật hoan hỷ nhận phụ hoàng của mình vào đoàn thể Tăng già.
Quốc vương kể cho Phật nghe người
vợ đáng thương, Da-du-đà-la (Yoshodhara) của Ngài đã đau khổ vì Ngài biết
bao, bà cũng cắt tiện mái tóc kiều diễm của mình và mặc đồ đen sậm
xấu xí để thương tiếc Ngài. Vô cùng xúc động, Ðức Phật đi ngay đến
khuê phòng của bà để thăm bà, và khi nhìn thấy mặt chồng, bà liền
gieo mình xuống đất, sụt sùi nức nở dưới chân Ngài. Ðức Phật nhẹ
nhàng đỡ bà đứng lên, lau nước mắt cho bà, rồi kể lại cuộc tìm kiếm
gian nan và Sự Thật mà cuối cùng Ngài đã tìm thấy. Da-du-đà-la cũng trở
thành môn đệ của Ngài và tích cực hướng dẫn nhiều phụ nữ vào Giáo
hội.
Các bạn còn nhớ cậu hài nhi của
hoàng tử ra đời trước khi chàng giã từ hoàng cung. Cậu bé giờ đây đã
được bảy tuổi và chưa bao giờ nhìn thấy mặt cha. Da-du-đà-la đưa cậu
bé mang tên La-hầu-la (Rahula) đến một cửa sổ hoàng cung nhìn qua vườn
ngự uyển và chỉ cho cậu thấy cha cậu. Sau đó bà bảo cậu chạy xuống
gặp Ngài và xin lại di sản của mình.
Theo lời mẹ, La-hầu-la đến gặp Phật,
Ngài đang thuyết giảng trong vườn, và nói: "Thưa cha, xin cha trao lại
di sản của con".
Ðức Phật đưa tay ôm choàng đứa
con bé nhỏ của Ngài và nói: "Bạc vàng thì ta không có, nhưng món quà
sự thật thì ta sẽ tặng cho con". Ngài thuyết pháp cho La-hầu-la, và
La-hầu-la cũng trở thành một trong những môn đệ của Ngài.
Câu chuyện này cho thấy chúng ta
không cần phải đợi đến khi nào mình là các ông các bà rồi mới thành
đệ tử Phật, mà mỗi người trong chúng ta, không luận tuổi tác, cũng có
thể học tập giáo pháp và đi theo Con Ðường Tám Bước Cao Quí. Kho tàng
mà Phật trao cho cậu bé La-hầu la còn quí hơn là vàng bạc châu báu, và
đây cũng là di sản của chúng ta, cái kho tàng đã được trao truyền từ
quá khứ. Không tiền bạc nào có thể mua được nó, chúng ta phải vô
cùng hãnh diện bảo vệ nó, không để cho bất cứ ai cướp đoạt nó.
Chính giáo pháp của Phật đã làm cho
Ðông Phương vĩ đại, và giáo pháp đó cũng sẽ làm cho Tây Phương vĩ đại.
Nó sẽ chữa trị con người hết bịnh vị kỷ, tham tiền; nó sẽ giáo dục
họ tình huynh đệ và yêu thương lẫn nhau; nó sẽ giảng dạy lòng nhân
ái đối với chúng sanh yếu kém và nó sẽ xây dựng một nền văn minh mới,
không đánh giá con người bằng tiền bạc, địa vị, mà bằng lòng nhân hậu,
khí phách.
CÂU HỎI (5)
1. Năm đạo sĩ đã nghĩ gì khi
Gô-ta-ma từ bỏ họ?
2. Họ có đúng không?
3. Ðiều gì khiến Phật trở lại vườn Lộc Uyển?
4. Năm đạo sĩ nói gì khi họ thấy Phật đến?
5. Họ làm gì?
6. Giáo hội đôi khi được gọi là gì?
7. Có bao nhiêu người trở thành môn đệ của Phật tại vườn Lộc Uyển?
8. Tại sao Phật đến thành Vương xá?
9. Quốc vương hiến gì cho Phật?
10. Khi Phật thuyết giảng cho phụ hoàng điều gì đã xảy ra?
11. Hãy kể chuyện La-hầu-la.
12. Di sản của chúng ta là gì?
13. Giáo pháp của Phật sẽ làm gì cho Tây Phương?
-ooOoo- |
Lesson
13:
apartment (n) : căn hộ
ashamed (a) : xấu hổ, hổ thẹn
at once (adv) : tức khắc
bhikshu (n) : tỳ kheo
bid (v) : bảo, ra lệnh
Buddha (n) : Phật
catch sight of : nhìn thấy
character (n) : cá tính, chí khí
civilization (n) : nền văn minh
dreadful (a) : dễ sợ, kinh khiếp
garment (n) : áo, quần
goodness (n) : lòng nhân hậu
grieve (v) : gây đau lòng
inheritance (n) : di sản
mourn (v) : thương tiếc |
nevertheless (adv) : tuy nhiên
no matter what : dù thế nào chăng
nữa
point (v) : chỉ, trỏ
position (n) : vị trí, địa vị
pray (v) : cầu nguyện
proud (a) : hãnh diện
Rahula : La-hầu-la
refuse (v) : từ chối
send for someone (v) : cho gọi ai đến
touched (a) : xúc động, bối rối
treasure (n) : kho quí
value (v) : đánh giá
weep (v) : khóc
wipe (v) : lau, chùi |
Lesson 14
Rahula and
Devadatta
We read in the last lesson how the Buddha
received Rahula, his little son, into the Brotherhood, and gave him his inheritance of
Truth.
Now Rahula was not always good; like many
children whom I know, he had lots of faults, and had to work hard to cure them. One of his
greatest faults was untruthfulness. He often used to say things which were not true.
This fault of Rahula's troubled the Buddha,
so one day he took Rahula for a walk and when they came to a spring, Buddha gave Rauhula a
basin and told him to fill it and wash his feet. Rahula was delighted to be allowed to do
something for his father, for he loved him very much. After he had washed his father's
feet, the Buddha told him to look at the water and asked him if he thought that the water
was fit to drink.
"No" answered the child, "it
is dirty".
"People who tell falsehoods are like
that, they make their minds dirty" said the Buddha.
After Rahula had thrown away the water Buddha
asked him if the basin was clean.
"The basin is dirty because it held
dirty water", answered Rahula.
"People who tell falsehoods are like the
basin, they are not fit to do noble actions. A dirty vessel is not useful for anything,
neither are people who do not speak truthfully, for they can not lead noble lives",
his father told him.
Devadatta, the Buddha's cousin, had a very
jealous nature, and hated to see great teacher so much loved; so he went around trying to
do all in his power to break up the noble Brotherhood which Buddha had formed. He even
founded an order of his own, and paid wicked men to kill the Master. But these men, when
they saw the Buddha's gentle face and heard his words of love, were ashamed of their evil
purpose and fell at Buddha's feet asking his forgiveness. Devadatta's hate could not harm
him, and Buddha teaches that hatred is overcome by love.
-ooOoo- |
Bài 14
LA-HẦU-LA
VÀ ÐỀ-BÀ-ÐẠT-ÐA
Trong bài vừa qua, chúng ta đã thấy
Phật tiếp nhận La-hầu-la, đứa con thơ của Ngài, vào Giáo Hội, và trao
cho cậu cái di sản Sự Thật như thế nào.
La-hầu-la không phải lúc nào cũng
ngoan ngoãn; như nhiều trẻ em khác, cậu ấy cũng có nhiều lỗi lầm, và cũng
phải ra công ra sức mới chữa trị được chúng. Một trong những lỗi lầm
nghiêm trọng nhất của cậu là tính không thành thực. Cậu ấy thường nói
những điều không đúng sự thật.
Lỗi lầm này của La-hầu-la làm Phật
không vui, vì thế, một hôm, Phật dẫn La-hầu-la đi dạo, khi đi đến một
dòng suối, Phật đưa cho La-hầu-la một cái chậu và bảo cậu múc nước
rửa chân cho Ngài. La-hầu-la vui mừng được phép hầu hạ cha mình, bởi
vì cậu rất thương yêu Ngài. Sau khi rửa chân phụ thân xong, Phật bảo cậu
nhìn chậu nước và hỏi cậu xem nước ấy còn uống được không.
"Thưa không" cậu bé đáp,
"nước dơ rồi".
"Những ai nói lời hư vọng cũng
thế. Chúng làm cho tâm trí họ dơ bẩn", Phật nói.
Sau khi La-hầu-la đem đổ chậu nước,
Phật hỏi cậu xem chậu ấy có sạch không.
"Chậu ấy dơ rồi, vì nó đã đựng
nước bẩn", La-hầu-la đáp.
"Những ai nói lời hư vọng cũng
như cái chậu đó, chúng không phù hợp cho những hành động cao thượng. Một
cái chậu dơ thì không ích lợi gì, những ai không nói lời chân thật cũng
thế, họ không thể nào có được cuộc sống cao thượng", Phụ thân
của cậu nói với cậu.
Ðề-bà-đạt-đa, người em con chú của
Phật, bản tính rất ganh tị, ghen ghét thấy Ngài Ðại Sư được nhiều
người tôn kính, bèn ngược xuôi đây đó, ra sức phá vỡ Giáo Hội cao
quí mà Phật đã thành lập. Thầy ấy còn dựng lên một Giáo Ðoàn riêng
và thuê bọn côn đồ giết Phật. Nhưng những người này, khi nhìn thấy
khuôn mặt hiền hòa và nghe âm thanh từ ái của Ngài, rất lấy làm hổ thẹn
về mục đích xấu ác của mình, họ sụp lạy dưới chân Phật và xin
Ngài tha thứ. Lòng hận thù của Ðề-bà-đạt-đa không thể hãm hại
Ngài, và Phật dạy chỉ có tình thương mới khắc phục được lòng hận
thù.
-ooOoo- |
Lesson
14:
allow (v) : cho phép
basin (n) : cái chậu
delighted (a) : vui thích
Devadatta : Ðề-bà-đạt-đa
evil (a) : xấu ác, độc địa
falsehood (n) : điều hư hỏng, điều dối trá
fault (n) : lỗi lầm
forgiveness (n) : sự tha thứ, tính khoan dung
harm (v) : gây tai hại |
hate
(n) : lòng căm thù
hatred (n) : lòng hận thù
jealous (a) : ganh tị, ghen ghét
order (n) : giáo hội, đoàn thể
overcome (v) : khắc phục, điều phục
take someone for (a) walk : dẫn ai dạo mát
trouble (v) : gây phiền phức
untruthfulness (n) : tính không thành thực
vessel (n) : bình, chậu, lọ
wicked (a) : ác độc |
Lesson 15
Ambapali
Many rich men became followers of the Buddha
and he taught them how to use their money and power for the good of others. He never
taught that it is wrong to have money or power or position, but he said it is wrong to use
these gifts selfishly. Money and other things are useful to have, but we must learn not to
cling to them and must gladly share what we have with our fellow beings. We are all
brothers, and to be rich does not make a person greater than his brother.
In a place called Vaisalii lived a rich woman
by the name of Ambapali, who led a very evil life. She cared nothing for others but spent
all her time in pleasure and feasting. She heard about the Buddha and was angry to think
that so many were following him. So she dressed up in her best robes of gold and silk and
went in a carriage drawn by peacocks to meet the Buddha, in order to insult him.
As the Lord was walking along the roadside,
she drove up to him and stared rudely into his face. The Buddha looked at her with a
gentle, loving look, and before his clear eyes Ambapali's eyes dropped and her face became
crimson with shame.
"Daughter, what do you desire?"
asked the Buddha. Ambapali wept, and for some time could not answer. Then speaking softly
she said, "Would my Lord deign to eat at my house and teach me also the great truth
which he has found?"
The Buddha gladly promised to come to her
home, for none were too evil or too low for him to help. Many people said that the Buddha
had no business to go to the house of such a wicked woman, but he always did what he
thought to be right and paid no attention to what people thought about him.
He went to eat at Ambapali's house and she
became his disciple. She gave up her evil life and walked with gladness the Noble
Eightfold Path.
-ooOoo- |
Bài 15
NÀNG
AM-BA-PA-LI
Nhiều người giàu sang đã thành môn
đệ của Phật, Ngài giáo hóa họ biết cách sử dụng tiền bạc và quyền
hành để mang lại lợi ích cho người khác. Ngài không bao giờ giảng có
tiền bạc, quyền lực và địa vị là sai lầm, mà Ngài nói sử dụng những
tặng phẩm đó một cách ích kỷ là sai lầm. Tiền bạc và các thứ khác
thì rất hữu dụng, nên có, nhưng chúng ta phải biết không nên bám víu
chúng, mà phải hoan hỷ san sẻ những gì ta có với mọi người. Tất cả
chúng ta đều là huynh đệ, và sự giàu sang không làm cho con người vĩ đại
hơn anh em của mình.
Tại xứ Tỳ-xá-ly (Vaisali) có một phụ
nữ giàu sang tên là Am-ba-pa-li (Ambapali), nàng sống một cuộc sống rất xấu
ác. Nàng chẳng quan tâm gì đến người khác, mà chỉ biết dành hết thời
giờ vào các cuộc hoan lạc, tiệc tùng. Nàng nghe nói về Phật và rất
làm tức giận nghĩ rằng có quá nhiều người đang theo Ngài. Vì thế nàng
mặc xiêm y bằng vàng lụa sang trọng nhất, ngồi xe công kéo, đến gặp
Phật để nhục mạ Ngài.
Khi Ðức Phật đang đi dọc theo lề
đường, nàng rượt xe lên ngang Phật, rồi trố mắt xấc xược nhìn vào
mặt Ngài. Phật nhìn nàng bằng ánh mắt dịu hiền, thương mến, và trước
ánh mắt trong sáng của Ngài, đôi mắt của nàng Am-ba-pa-li sụp xuống, mặt
nàng xấu hổ, tím bầm.
"Cô nương, cô muốn gì?" Phật
hỏi. Am-ba-pa-li sụt sùi khóc một hồi không thể trả lời. Sau đó nàng
khẽ nói: "Xin thỉnh Ngài đến thọ trai tại nhà con và giảng cho con
biết Sự Thật cao quí mà Ngài đã tìm ra".
Phật hoan hỷ hứa đến nhà nàng, vì
không ai độc ác hay thấp hèn đến nỗi Ngài không giúp được. Nhiều
người nói Phật không có việc gì làm nên mới đến nhà một con mụ ác
ôn như thế, nhưng Ngài luôn luôn làm những gì mà Ngài cho là đúng, và
không để ý đến những gì người ta suy nghĩ về Ngài.
Ngài đến thọ trai tại nhà
Am-ba-pa-li và nàng trở thành đệ tử của Ngài. Nàng dứt khoát từ bỏ cuộc
sống xấu xa và hân hoan đi theo con Ðường Tám Bước Cao Quí.
-ooOoo- |
Lesson
15:
carriage (n) : xe (ngựa)
deign (v) : chiếu cố, rủ lòng
disciple (n) : đệ tử
feasting (n) : tiệc tùng |
insult (v)
: hạ nhục, lăng nhục
pay attention to : để ý đến
peacock (n) : con công
stare (v) : nhìn chòng chọc
Vaisalii : Tì-xá-li |
Lesson 16
Pari-Nirvana
After many long years of teaching the Buddha
grew old and tired and knew that he would soon pass away from his followers. Just before
his death, he gathered them together and made them promise to do all they could to spread
the teaching among all people, and bade them live together in love without anger or
jealousy.
Ananda was the follower whom the Buddha loved
best of all. When he saw that Ananda was weeping because he could not bear to think of his
leaving them, the Buddha was very kind and tender and told him that he should not weep,
for all who live must one day die, and this law can not be changed. Then he showed Ananda
that death is nothing to be afraid of, as it is only a change in which the worn out body
is laid aside for a new and better one.
In the arms of Ananda the Buddha passed away
into the peace of Nirvana, but the teaching which he gave remained to help all mankind, in
all ages.
It is over 2.500 years since the Buddha lived
in India, but his words are as great today and as full of comfort for men as they were
then. The people of the west are beginning to know and love the Buddha and to walk in the
Eightfold Path which he gave. Those who have been born Buddhists have a great
responsibility, for they must point the way to their brothers and sisters in the west who
are looking for the light of truth. They must be careful to practise these great teachings
in their lives, for practising them is the best way to draw people to Buddhism.
We shall in the next lesson learn something
more about these great truths he taught, for now that we know something of the life of the
Buddha, we shall be more interested in what he has to tell us.
QUESTIONS (6)
1. What lesson did the Buddha teach Rahula?
2. Who was Devadatta?
3. What did he do to the Buddha?
4. How is hatred overcome?
5. Did the Buddha tell the rich people that they must give up their riches?
6. What did he tell the rich people to do?
7. Tell the story of Ambapali.
8. Who was Ananda?
9. What did Buddha teach abouth death?
10. Is the religion of the Buddha suitable for today?
11. What should Buddhists always try to do?
-ooOoo-
|
Bài 16
CỨU CÁNH
NIẾT BÀN
Sau nhiều năm giáo hóa, Phật đã già
yếu, mệt mỏi, và biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ giã biệt đồ chúng
của Ngài. Ngay trước khi nhập diệt, Ngài tập họp tăng đoàn, khuyên họ
vận dụng tinh thần và khả năng để truyền bá chánh pháp giữa nhân loại,
yêu thương chung sống với nhau, tránh xa sân hận và ganh tị.
A-nan (Ananda) là đệ tử mà Phật yêu
thương nhất. Khi thấy A-nan cầm lòng không đậu khóc lóc trước cảnh
chia ly, Phật từ tốn khuyên thầy đừng khóc nữa. Phật dạy tất cả những
gì có sanh, một ngày nào đó, ắt phải có tử. Ðịnh luật này không thể
thay đổi được. Sau đó Ngài chỉ cho A-nan thấy chết không có gì đáng sợ,
đó chỉ là sự thay đổi cái hình hài tàn tạ để được một thân tướng
mới mẻ và đẹp đẽ hơn.
Phật đã vào cảnh an tịnh Niết Bàn
trong vòng tay của A-nan, nhưng giáo pháp do Ngài trao truyền vẫn còn giúp đỡ
nhân loại qua mọi thời đại.
Ðã trên 2.500 năm kể từ khi Phật sống
ở Ấn Ðộ, nhưng những lời dạy của Ngài ngày nay vẫn còn vĩ đại và
tràn đầy an lạc cho con người như thời Ngài còn tại thế. Người tây
phương đang bắt đầu biết tôn kính Phật và đi theo con Ðường Tám Bước
Cao Quí mà Ngài đã vạch ra. Những ai vốn là Phật tử đều có một
trách nhiệm lớn, đó là họ phải chỉ đường cho anh chị em ở phương tây,
những người đang tìm ánh sáng chân lý. Họ phải cẩn thận thực hành những
lời dạy cao quí này trong cuộc sống của họ, vì thực hành chúng là
cách tốt nhất để đưa người đến với Ðạo Phật.
Trong bài sau chúng ta sẽ học thêm
chút ít về những Sự Thật Cao Quí mà Ngài đã thuyết giảng. Giờ thì
chúng ta đã biết được đôi nét về cuộc đời của Ðức Phật, chúng
ta sẽ thích thú hơn khi học đến giáo pháp của Ngài.
CÂU HỎI (6)
1. Phật đã dạy La-hầu-la bài học
gì?
2. Ðề-bà-đạt-đa là ai?
3. Thầy ấy đã làm gì với Phật?
4. Lòng hận thù được khắc phục bằng cách nào?
5. Phật có bảo giới giàu sang phải từ bỏ của cải của họ không?
6. Ngài bảo giới giàu sang làm gì?
7. Hãy kể chuyện nàng Am-ba-pa-li.
8. A-nan là ai?
9. Phật dạy thế nào về sự chết?
10. Phật giáo có thích hợp cho ngày nay không?
11. Phật tử phải luôn luôn cố gắng làm gì?
-ooOoo- |
Lesson
16:
afraid (a) : hoảng sợ, sợ hãi
Ananda : A-nan
comfort (n) : sự an ủi, sự khuyên giải
gather (v) : tập họp
interested (a) : có quan tâm |
lay
aside (v) : để sang một bên
mankind (n) : nhân loại
pass away from : giã biệt, từ giã
responsibility (n) : trách nhiệm
worn-out (a) : rách nát, tàn tạ |
Mục
lục | 1 | 2
| 3 | 4 | 5 | 6
|
|