- Niệm Phật Thập
Yếu
Chương I: Đệ Nhất Yếu
Niệm Phật Phải Vì Thoát Sanh Tử
Khải Đề:
Nhìn gẫm đường trần đầy khổ
nhọc
Lòng tưởng Tây Phương cõi Thiên Trúc
Đầu non trăng sáng tiếng chuông ngân
Canh khuya cầm quyển Lăng Nghiêm đọc.
Mục A. Môn Tịnh Độ,
Một Pháp Hợp Thời Cơ
Tiết 1 Bắc Phương Phật Giáo Với
Nhân Duyên Tịnh Độ
* Theo thông lệ ở thiền môn Việt
Nam, vào thời khóa đầu hôm, chư Tăng Ni các chùa đều tụng Kinh A Di Đà,
tiếp theo niệm hồng danh của Tây Phương Tam Thánh (Di Đà, Quán Âm, Thế
Chí). Và hàng Phật tử xuất gia hoặc tại gia, khi gặp người đồng đạo,
đều chắp tay chào mừng bằng "A Di Đà Phật."
* Pháp môn Niệm Phật, quả thật
đã ứng hợp với thời cơ, với bản hoài của Phật mà âm thầm đi sâu
vào tiềm thức Phật tử Việt Nam. Chẳng những tại đất nước này, mà
ở Trung Hoa, Triều Tiên, nơi nào có Phật Giáo lưu hành, là nơi đó hầu hết
hàng Phật tử đều không quên câu niệm Phật. Phật Giáo đồ ở Nhật Bản
cũng có truyền thoại như sau: "Mật Tông và Thiên Thai Tông để cho hàng
quý phái, Thiền Tông cho võ sĩ đạo, và Tịnh Độ Tông cho hạng bình
dân. Mà bình dân là hạng chiếm đa số."
Xem thế thì biết ở các xứ Bắc
Tông Phật Giáo, những người xưng niệm danh hiệu Phật A Di Đà chiếm phần
tối đa.
Nhưng tại sao lại có sự kiện như
thế?
Tiết 2 Những Huyền Ký Về Tịnh
Độ
* Trong Kinh Vô Lượng Thọ, đức Thích
Tôn có lời huyền ký: "Đời tương lai kinh đạo diệt hết, ta dùng
lòng từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này (Vô Lượng Thọ Kinh) trong
khoảng một trăm năm. Nếu chúng sanh nào gặp kinh này, tùy ý sở nguyện,
đều được đắc độ." (Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã
dĩ từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh
trị tư kinh giả, tùy ý sở nguyện, giai khả đắc độ. - Vô Lượng Thọ
Kinh.)
* Nơi Kinh Đại Tập, đức Thế Tôn
đã bảo: "Trong đời mạt pháp, ức ức người tu hành, ít có kẻ nào
đắc đạo, chỉ nương theo pháp môn Niệm Phật mà thoát luân hồi."
(Mạt pháp ức ức nhơn tu hành, hãn nhứt đắc đạo, chỉ y Niệm Phật pháp
môn, đắc liễu sanh tử. - Đại Tập Kinh).
* Ngài Thiên Như thiền sư, sau khi
đắc đạo cũng đã khuyên dạy: "Mạt pháp về sau, các kinh diệt hết,
chỉ còn lưu bốn chữ A Di Đà Phật để cứu độ chúng sanh. Nếu kẻ
nào không tin, tất sẽ bị đọa địa ngục." (Mạt pháp chi hậu, chư
kinh diệt tận, chỉ lưu A Di Đà Phật tứ tự cứu độ chúng sanh. Kỳ bất
tín giả, ưng đọa địa ngục. - Thiên Như ký ngữ). Bởi đời mạt pháp
về sau khi các kinh đều ẩn diệt, chúng sanh căn cơ đã yếu kém, ngoài
câu niệm Phật, lại không biết pháp môn nào khác để tu trì. Nếu không
tin câu niệm Phật mà tu hành, tất phải bị luân hồi. Và trong nẽo luân
hồi, việc lành khó tạo, điều ác dễ làm, nên sớm muộn gì cũng sẽ bị
đọa địa ngục.
*Ấn Quang pháp sư, một bậc cao
tăng cận đại ở Trung Hoa, cũng đã bảo: "Thời mạt pháp đời nay,
chúng sanh nghiệp nặng tâm tạp. Nếu ngoài môn Niệm Phật mà tu các pháp
khác, nơi phần gieo trí huệ phước đức căn lành thì có, nơi phần liễu
thoát luân hồi trong hiện thế thì không. Tuy có một vài vị cao đức hiện
những kỳ tích phi thường, song đó đều là những bậc Bồ Tát nương
theo bản nguyện mà làm mô phạm để dẫn dắt chúng sanh đời mạt pháp,
như trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói. Nhưng các vị ấy cũng chỉ vừa theo trình
độ chúng sanh mà thị hiện ngộ đạo chớ không phải chứng đạo. Chỉ
riêng pháp môn Tịnh Độ, tuy ít người tu chứng được Niệm Phật Tam Muội
như khi xưa, nhưng có thể nương theo nguyện lực của mình và bản nguyện
của Phật A Di Đà, mà đới nghiệp vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc.
Khi về cõi ấy rồi thì không còn luân hồi, không bị thối chuyển, lần
lần tu tập cho đến lúc chứng quả Vô Sanh."
* Những lời huyền ký như trên cho
chúng ta thấy pháp môn Niệm Phật rất hợp với nhân duyên thời tiết,
và trình độ căn cơ chúng sanh đời nay. Vì thế đức Như Lai mới dùng
nguyện lực bi mẫn lưu trụ Kinh Vô Lượng Thọ để khuyến hóa về môn
Niệm Phật. Lại, chư Bồ Tát, Tổ Sư cũng khởi lòng hoằng nguyện thương
xót, tùy theo thời cơ, chỉ dạy pháp môn Tịnh Độ để cứu vớt chúng
sanh.
Do những sức nguyện ấy, mà môn Tịnh
Độ được phổ cập trong phần đông quần chúng.
Tiết 3 Sự Chuyển Hướng Từ
Thiền Sang Tịnh
* Từ xưa, môn Thiền Trực Chỉ rất
thạnh hành ở Trung Hoa, Triều Tiên và Nhật Bản. Nước Việt Nam ta dân
tánh giàu về trực giác, lại được ảnh hưởng bởi Phật Giáo Trung Quốc,
nên khi xưa Thiền Tông hầu như ở ngôi vị độc tôn. Nhất là vào đời
Lý, Trần, tăng ni có cả nửa thiên hạ và hầu hết đều tu Thiền. Thời
ấy Phật Giáo ở Việt Nam cực thạnh, nhiều cảnh già lam tăng chúng vân
tập rất đông. Bởi thế nên mới có lời truyền ngữ: "Tăng phòng
tam thiên ốc, sái tảo thất thập phu." Câu này nói lên sự hưng thạnh
của Phật Giáo bấy giờ qua ý nghĩa "Phòng chư tăng nhiều tới ba ngàn
gian, mỗi buổi sáng phải dùng đến bảy mươi người mới quét dọn kịp."
Nhưng cơ duyên cũng theo thời mà
chuyển biến. — Trung Hoa từ đời Tống về sau, chư tôn túc như các
ngài: Nhất Nguyên, Thiên Như, Ngẫu Ích, Triệt Ngộ, Liên Trì..., sau khi
tham ngộ Thiền Tông, quán xét thời cơ, vì lòng thương xót lợi sanh, hết
sức hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Sự lần lần chuyển hướng từ Thiền
sang Tịnh khởi sanh từ lúc đó. Khi ấy có rất nhiều vị thiền đức khác
tuy bên ngoài truyền bá tông Thiền, nhưng bên trong lại mật tu Tịnh Độ,
để bảo đảm không thối đọa. Đây có thể gọi là thời kỳ Thiền Tịnh
song hành. Cho nên trong một ngôi chùa trước kia chỉ có Thiền Đường, bây
giờ lại thêm Niệm Phật Đường để cung ứng cho chư tăng tu tập. Bắt
đầu từ đời Nguyên, Minh, Thanh về sau, thế lực của Thiền Tông lần
suy kém, bởi ít người tu chứng. Trái lại, môn Niệm Phật lại lần chiếm
ưu thế, tăng tục nhiều kẻ tu Tịnh Độ được vãng sanh. Bây giờ tuy
Thiền Tông vẫn lưu hành, nhưng trên thật tế chính là thời kỳ Tịnh Độ
đã nắm quyền hướng dẫn. Bởi ảnh hưởng đó mà ở Việt Nam, môn Niệm
Phật hầu như phổ cập. Sau này do ảnh hưởng của sự chấn hưng Phật
Giáo trong nước và sự hoằng hóa của chư Tăng Ni du học từ Nhật Bản và
các xứ Nam Tông Phật Giáo trở về, Thiền Tông Việt Nam có lẽ sẽ tái
phục. Nhưng sự thật phần đông hành giả duy hợp tu về giáo như Chỉ Quán
Thiền, hoặc Tứ Thiền Bát Định, chớ khó nổi tham cứu thoại đầu thật
hành môn Thiền Trực Chỉ của bên tông như thuở xưa.
* Có kẻ bảo: Căn tánh của ta vị
tất chẳng bằng cổ nhơn, chỉ tại ta tự khinh nên không cố gắng. - Sự
tự lực cố gắng tuy lúc nào cũng đáng khuyến khích, nhưng lời này thật
ra không đúng. Nếu căn tánh phần đông chẳng kém, tại sao Phật nói có
ba thời kỳ: Chánh Pháp, Tượng Pháp và Mạt Pháp? Và tại sao trong các
kinh khác cũng nói đến năm thời kiên cố, từ Chánh Pháp Kiên Cố cho đến
Đấu Tranh Kiên Cố? Vả lại, tam tạng kinh điển thời nay tăng thêm nhiều
và đầy đủ hơn xưa, tại sao người tu chứng tuyệt ít? Có phải do thời
nay căn cơ của quần chúng phần đông đều yếu kém chăng?
Ấn Quang đại sư bảo: "Như mùa
hạ mặc áo vải, mùa đông mặc áo bông; sự tu hành cũng thế, không thể
trái thời tiết cơ duyên được. Dù đức Đạt Ma tổ sư tái hiện ngay
lúc này, nếu muốn hợp thời cơ để cứu độ chúng sanh mau được giải
thoát, cũng không có pháp nào hơn môn Niệm Phật." Thế nên nếu thuyết
pháp không hợp cơ, tất chúng sanh bị chìm trong biển khổ. (Thuyết pháp bất
đậu cơ, chúng sanh một khổ hải). Kinh khuyên các bậc đồng nhơn, tuy tu
môn khác, cũng nên lấy Tịnh Độ làm chỗ chỉ quy. Còn như nếu thấy mai
trắng chẳng kém cúc vàng, bút giả cũng xin hết lòng tùy hỷ!
Mục B. Môn Tịnh Độ
Với Vấn Đề Sanh Tử
Tiết 4 Niệm Phật Thế Nào Mới
Hợp Với Bản Ý Của Phật?
Như trên đã nói, ở các xứ thuộc
Bắc Phương Phật Giáo, người niệm danh hiệu Phật A Di Đà chiếm phần tối
đa. Riêng tại Việt Nam, trong hàng tăng, tín chẳng những có nhiều người
tu theo pháp môn Niệm Phật, mà một vài giáo phái tuy không phải đạo Phật,
nhưng họ cũng niệm hồng danh đức giáo chủ ở Tây Phương. Song xét ra, số
người niệm Phật tuy nhiều mà kẻ không rõ mục đích của sự trì niệm
cũng chẳng ít. Vì vậy sự niệm Phật của họ không hợp với bản ý của
đức Thế Tôn. Thử kiểm điểm lại, ta sẽ thấy:
* Có những vị đi chùa thấy người
niệm Phật cũng bắt chước niệm theo, hoàn toàn không chủ định. Hành động
này tuy cũng gieo căn lành phước đức về sau, nhưng không hợp với bản
ý của Phật.
* Có những vị niệm Phật nguyện
cho tiêu tai khỏi nạn, cầu gia đình khỏe mạnh bình yên, việc sinh hoạt
càng ngày thêm thạnh vượng. Nguyện cầu như thế cũng tốt, nhưng không hợp
với bản ý của Phật.
* Có những vị đời sống gặp nhiều
cảnh không vừa ý, sanh nổi u buồn phẩn chí, niệm Phật cầu cho mình hiện
tại và kiếp sau không còn gặp cảnh ấy nữa, sẽ được xinh đẹp vinh
hoa, mọi việc đều thuận lợi như ý. Cầu như thế cố nhiên vẫn tốt,
nhưng không hợp với bản ý của Phật.
* Có những vị cảm thấy cuộc sống
trần gian không điều chi hứng thú, dù cho sang giàu quyền thế cũng còn
nhiều lo lắng khổ tâm. Họ hy vọng dùng công đức niệm Phật để kiếp
sau được sanh lên cõi trời, sống lâu nhàn vui tự tại. Cầu như thế
cũng là điều tốt, nhưng không hợp với bản ý của Phật.
* Lại có những vị, nghĩ mình tội
chướng đã nhiều, trong một kiếp này dễ gì giải thoát, nên niệm Phật
cầu cho kiếp sau chuyển nữ thành nam, xuất gia tu hành, làm bậc cao tăng
ngộ đạo. Cầu như thế có thể gọi là xuất cách, nhưng còn thiếu trí
huệ và đức tin, cũng không hợp với bản ý của Phật.
* Vậy niệm Phật thế nào mới hợp
với bản ý của Phật?
- Đức Thế Tôn thấy rõ pháp hữu
vi đều vô thường, tất cả chúng sanh vẫn sẵn đủ đức tướng trí huệ
của Như Lai, nhưng do bởi mê bản tâm nên tạo ra nghiệp hoặc, mãi chịu
sống chết luân hồi. Dù cho được sanh lên cõi trời, khi hưởng hết phước
rồi, cũng bị sa đọa. Vì thế, bản ý của đức Thế Tôn muốn cho chúng
sanh do nơi pháp môn Niệm Phật, sớm thoát khỏi khổ sanh tử luân hồi.
Chư Phật trong nhiều a tăng kỳ kiếp
đã từng huân tu phước huệ, nếu kẻ nào xưng niệm hồng danh của Như
Lai, sẽ được vô lượng vô biên công đức. Lại, đức A Di Đà Thế Tôn
đã lập thệ: Nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu của Ngài cầu về Cực Lạc,
kẻ ấy khi mạng chung sẽ được tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương, chứng lên
ngôi bất thối chuyển. Đem công đức vô lượng của sự niệm Phật, mong
cầu những phước lợi nhỏ nhen ở cõi người, cõi trời mà không cầu
vãng sanh giải thoát có khác chi trẻ thơ đem hạt châu ma ni vô giá đổi lấy
viên kẹo để ăn? Như thế thật là phí uổng không xứng đáng chút nào!
Lại nguyện lực của Phật rất lớn, người nào nghiệp chướng dù nặng
mà chí tâm niệm Phật ngay một đời nầy cũng được tiếp dẫn vãng
sanh. Cầu đời sau làm cao tăng ngộ đạo, là thiếu trí huệ và đức tin,
làm sao bảo đảm bằng hiện đời sanh về Tây Phương, thành bậc Bồ Tát
ở ngôi bất thối chuyển? Cho nên bản ý của đức Thế Tôn là muốn cho
chúng sanh niệm Phật để thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, và sự giải
thoát ấy lại có thể thật hiện ngay trong một kiếp.
Nhưng tại sao chúng ta cần phải
thoát vòng sống chết luân hồi?
- Đó là vì ở trong nẻo luân hồi
chúng ta xác thật đã chịu nhiều nỗi thống khổ lớn lao. Nếu người học
Phật mà không để tâm như thật quán sát nỗi thống khổ ấy, thì dù học
Phật cũng không được kết quả tốt, bởi không có tâm lo sợ cầu thoát
ly. Kinh nói: "Nếu tâm lo sợ khó sanh, tất lòng thành khó phát." Đức
Thế Tôn khi xưa thuyết pháp Tứ Diệu Đế cho năm người nhóm ông Kiều
Trần Như, trước tiên đã nói về Khổ Đế, vẫn không ngoài ý này. Vậy
chúng ta thử y theo thuyết Khổ Đế của đức Phật đã chỉ dạy, mà
quán sát nỗi thống khổ của kiếp người. Như thế ta sẽ có được một
quan niệm rõ hơn: "Tại sao mình lại cần phải mau thoát vòng luân hồi
sanh tử?"
Tiết 5 Tám Mối Khổ Lớn
Trong Khổ Đế của đức Thế Tôn
thuyết minh, có tám điều. Nỗi khổ của kiếp người vẫn vô cùng, mà
tám điều này giữ phần cương lãnh.
* Điều thứ nhất là Sanh Khổ, tức
chỉ cho nỗi khổ trong cái sanh. Loài người khi ở trong thai đã có tình thức.
Do có tình thức nên có sự cử động cảm xúc. Khi mẹ ăn thức lạnh vào,
cảm thấy như ở trong giá băng; lúc ăn thức nóng vào, cảm thấy như bị
nung đốt. Thai nhi sống trong chỗ chật hẹp tối tăm nhơ nhớp, vừa lọt
lòng đã kêu khóc oa oa. Rồi từ đó khi lạnh, nóng, đói, khát, muỗi kiến
cắn đốt, chỉ biết kêu khóc mà thôi. Huệ nhãn của Phật thấy rõ những
chi tiết ấy, nên Ngài xác nhận là khổ. Nếu như Sanh không khổ thì khi lọt
lòng trẻ đã chẳng kêu khóc oa oa. Vì thế, cổ đức đã than:
Vừa khỏi bào thai lại nhập thai.
Thánh nhơn trông thấy động bi ai!
Huyễn thân xét rõ toàn nhơ nhớp.
Thoát phá mau về tánh bản lai.
* Điều thứ hai là Lão Khổ, tức
sự khổ trong lúc tuổi già. Con người khi già rồi, các căn đều suy yếu,
mắt mờ, tai lãng, lưng mỏi, chân run, ăn thấy kém ngon, ngủ không thẳng
giấc, trí nhớ chẳng còn minh mẫn, làn da khô nhăn, răng lần lần đau nhức
chuyển rụng. Dù cho bực thanh niên tuấn nhã, hay trang thiếu nữ tiên dung,
khi đến tuổi này âu cũng:
Bao vẻ hào hoa đâu thấy nữa.
Một thân khô kiệt nghĩ buồn tênh!
Lắm kẻ tuổi già lờ lẫn, khi ăn
mặc, lúc đại tiểu đều nhớp nhơ, con cháu dù thân, cũng sanh nhàm chán.
Kiếp người dường như kiếp hoa, luật vô thường chuyển biến khi đã
đem đến cho hương sắc, nó cũng đem đến cho vẻ phai tàn. Xét ra cái già
thật không chi vui, thân người thật không chi đáng luyến! Vì thế đức
Phật mới bảo: già là khổ!
* Điều thứ ba là Bịnh Khổ, tức
sự khổ trong cơn đau yếu. Có thân là có bịnh, từ những thứ bịnh nhẹ
thuộc ngoại cảm, đến các chứng bịnh nặng của nội thương. Có người
vướng phải những bịnh nan y như: lao, cùi, ung thư, bại xuội. Trong cảnh
ấy, tự thân đã đau đớn, lại tốn kém hoặc không có tiền thuốc
thang, chính mình bị khổ lụy, lại gây thêm khổ lụy cho người quyến
thuộc. Đó là trên khổ mà gia thêm khổ! Nỗi khổ về bịnh là sự hiển
nhiên, chúng ta rất dễ nhận thức.
* Điều thứ tư là Tử Khổ, tức
sự khổ trong lúc chết. Mọi người đều muốn sanh thuận, tử an, nhưng
việc ấy rất khó được, mà khi chết phần nhiều sắc thân lại bị bịnh
khổ hành hạ đau đớn.
Thân đã như thế, tâm thì hãi
hùng lo sợ, tham tiếc ruộng vườn của cải, buồn rầu phải lìa bỏ
thân nhơn, muôn mối dập dồn, quả thật là khổ. Đề cập đến chữ Chết
mấy ai đã muốn nghe, nói chi là ưa thích.
* Điều thứ năm là Ái Biệt Ly Khổ,
tức sự khổ khi xa lìa người thân yêu. Điều này trong hoàn cảnh chiến
tranh, ta càng thấy rõ. Biết bao gia đình chịu cảnh kẻ Bắc, người Nam.
Biết bao thanh niên phải dấn thân nơi trận mạc, người ở nhớ thương,
kẻ đi sầu thảm. Đó chỉ là cái khổ sanh ly. Lại biết bao kẻ tuổi
hãy còn xuân, tử thần cướp đi người yêu quí, phải chịu cảnh góa bụa
bơ vơ. Rồi lại những kẻ cha mẹ, anh em, con cái bị đạn bom tử nạn. Còn
biết bao trẻ em quyến thuộc đều chết, thiếu tình thân mật, sống vất
vưởng nơi làng cô nhi! đây là nỗi khổ về tử biệt. Cho nên trong thời
buổi này, biển nhớ sông thương đã sâu dài, mà núi hận trời sầu cũng
cao rộng! Cảnh sanh ly tử biệt với người thân yêu, quả thật là khổ!
* Điều thứ sáu là Oán Tắng Hội
Khổ, tức sự khổ về oan gia hội ngộ. Bị những kẻ đối nghịch thù
oán ở gần bên gièm pha nói xấu, phá phách mưu hại, làm cho ta phải bực
tức khó nhẫn, lo sợ không yên, là một điều khổ. Lại còn nhiều gia đình,
cha mẹ anh em hoặc vợ chồng không đồng ý kiến, thường có sự tranh
cãi giận ghét buồn phiền lẫn nhau. Đó khác nào sự gặp gỡ trong oan
gia, đâu có chi là hạnh phúc!
* Điều thứ bảy là Cầu Bất Đắc
Khổ, tức sự khổ về mong cầu không toại ý. Trong đời sống, con người
có rất nhiều ước vọng mong cầu. Đại khái như nghèo muốn cho giàu, xấu
muốn cho đẹp, không con muốn cho có con, có con muốn cho nó nên người thông
minh hiếu thuận. Ngàn muôn ước vọng như thế, cầu mong mà không toại
ý, đó là nỗi khổ.
* Điều thứ tám là Ngũ Ấm Thạnh
Khổ, tức sự khổ về năm ấm hừng thạnh. Năm ấm là: sắc, thọ, tưởng,
hành, thức. Sắc ấm thuộc về thân, bốn ấm kia thuộc về tâm. Nói một
cách đơn giản: Đây tức là sự khổ về thân, tâm. Điều thứ tám này
bao quát bảy món khổ trước: thân thì sanh, già, bịnh, chết, đói, khát,
nóng, lạnh, vất vả nhọc nhằn; tâm thì buồn, giận, lo, thương, trăm điều
phiền lụy. Khi xưa thái tử Sĩ Đạt Ta dạo chơi bốn cửa thành thấy cảnh
già bịnh chết, Ngài là bậc trí lự sâu xa, cảm thương đến nổi khổ của
kiếp người, nên bỏ hoàng cung tìm phương giải thoát. Trái lại, những kẻ
trí tánh dung thường, xét nghĩ cạn cợt, không biết suy tư về cái khổ,
nên hằng lấy khổ làm vui. Có kẻ, nếu nói Sanh là khổ; họ bảo: khi
sanh ra tôi không biết chi, nên chẳng thấy khổ! Nếu nói Già là khổ; họ
bảo: hiện tại tôi chưa già! Nếu nói Bịnh là khổ; họ bảo: từ trước
tới giờ tôi thường khoẻ mạnh, rất ít đau yếu, nếu có bịnh cũng chỉ
xoàng thôi, không thấy chi là khổ! Nếu nói Chết là khổ; họ bảo: cái
chết chưa đến, biết đâu đó như là một giấc ngủ yên? Nếu nói Thương
chia lìa là khổ; họ bảo: gia quyến tôi vẫn đoàn tụ vui vẻ, không có sự
biệt ly! Nếu nói Oán gặp gỡ là khổ; họ bảo: tôi đâu có làm gì để
ai oán ghét mưu hại? Nếu nói Cầu không được là khổ; họ bảo: cuộc sống
của tôi đầy đủ như ý, không còn mong cầu chi khác. - Thế thì kẻ ấy
không có khổ ư? - Họ có khổ, tức là là sự khổ về năm ấm, hay thân
tâm đều sung thạnh. - Thân tâm cường kiện sung thạnh sao lại khổ? - Chúng
ta thử xem trên xã hội này, những án như: bắn giết, cướp bóc, hiếp
dâm, đánh chém nhau. Các án tích ấy, một phần do hạng người nhàn rỗi,
thân tâm quá sung mãn đầy đủ, họ bị những kích thích về tâm lý, sinh
lý, ngồi đứng không yên, vô sự sanh sự, gây nên những việc hung tàn.
Như hiện nay từ Âu Mỹ đến Việt Nam, rất nhiều kẻ sống theo trào lưu
cuồng loạn, say đắm theo rượu mạnh, nhảy nhót, hút cần sa hoặc chích
ma túy, dâm dật, buôn lậu, ưa vũ thoát y hoặc nhạc kích động, ăn chơi
đủ cách, cho đến thích nguy hiểm, bạo hành. Thân và Tâm của họ không
yên, như ngọn lửa phừng cháy gây nên nhiều lỗi lầm tội ác, để rồi
phải chịu khổ. Đó chính là cái khổ "Năm ấm hừng thạnh."
Tám điều trên đây gọi là Bát khổ.
Tám món khổ này chỉ là đại cương, nội dung của nó còn bao gồm nhiều
mối khổ khác. Chúng ta thử quán sát mình và người, phải chăng đã chịu
ít nhiều trong Bát khổ? Người học Phật nếu biết suy tư đến tám mối
khổ lớn của nhơn sanh, có thể gọi là đã đến gần với đạo vậy.
Mục C. Biết Khổ
Phải Ý Thức Đến Sự Giải Thoát
Tiết 6 Quán Về Sự Khổ Luân Hồi
* Chúng sanh hết kiếp này sang kiếp
khác sống chết luân hồi, xuống lên trong sáu cõi. Đó là: cõi trời, cõi
người, cõi A Tu La, cõi bàng sanh, cõi ngạ quỉ, và cõi địa ngục. Bát khổ
tuy các loài khác cũng có ít nhiều, nhưng nó là trọng tâm của nỗi khổ
ở cõi người. Cõi trời tuy vui vẻ hơn nhơn gian, nhưng cũng còn tướng
ngũ suy và những điều bất như ý. Cõi A Tu La bị sự khổ về gây gổ
tranh đua. Cõi bàng sanh như loài trâu, bò, lừa, ngựa bị sự khổ chở
kéo nặng nề. Loài dê, lợn, vịt, gà, thì bị sự khổ về banh da xẻ thịt.
Các loài khác chịu sự khổ về ngu tối; nhơ nhớp ăn nuốt lẫn nhau. —
cõi ngạ quỉ chúng sanh thân thể hôi hám xấu xa, bụng lớn như cái trống,
cuống họng nhỏ như cây kim, miệng phực ra lửa chịu đói khát trong ngàn
muôn kiếp. Còn cõi địa ngục thì vạt dầu, cột lửa, hầm băng giá, non
gươm đao, sự thống khổ không thể tả xiết. Bốn cõi rốt sau này, trong
kinh gọi là Tứ Ác Thú. Từ cõi A Tu La, theo chiều xuống, nỗi khổ ở mỗi
cõi cứ tuần tự gấp bội hơn lên. Trong sáu cõi, chúng sanh sống chết
xoay vần hết nơi này đến nơi kia, như bánh xe chuyển lăn không đầu mối.
Đại khái sanh lên cõi trời cõi người thì khó và ít, đọa xuống Tứ
Ác Thú rất dễ và nhiều. Người xưa đã than:
Lục đạo xoay vần không mối hở.
Vô thường xô đến vạn duyên buông!
Khi còn tại thế, một hôm đức Phật
dùng móng tay vít lên chút đất, rồi hỏi A Nan: "Đất ở móng tay ta
sánh với đất ở miền đại địa, cái nào nhiều hơn?" Ngài A Nan đáp:
"Bạch Thế Tôn! Đất của miền đại địa nhiều hơn đất của móng
tay vô lượng phần không thể thí dụ!" Phật bảo: "Cũng thế, A
Nan! Chúng sanh sanh lên cõi trời người, như đất ở móng tay, đọa xuống
ác thú, như đất của miền đại địa!" Thí dụ trên là những tiếng
chuông mai để cho người tu xét suy tỉnh ngộ.
Nhiều kẻ không tin thiên đường
địa ngục, nhưng các cõi ấy xác thật là có, trong kinh đức Phật đã chỉ
bày rành rẽ, chỉ vì mắt phàm không thấy biết mà thôi. Gần đây nhật
báo có đăng nhiều chuyện thuộc phần siêu linh, chẳng hạn như việc ông
hai Huệ bị bắt xuống âm ty. Lại cô ba Cháo Gà ở chợ Vòng Nhỏ tại Định
Tường cũng tường trình việc hình phạt ở âm phủ trong quyển Địa Ngục
Ký. Đây có lẽ là chư Thiện Thần vì thấy người trần thế chìm trong
biển tham sân si, nên dùng quyền cơ đưa người xuống địa ngục, để
khi trở về nhơn gian thuật lại cho quần chúng biết đường tội phước,
mà dứt dữ làm lành.
* Tóm lại, ba cõi đều vô thường,
các pháp hữu vi không có chi là vui. (Tam giới giai vô thường. Chư hữu vô
hữu lạc - Kinh Pháp Hoa). Người niệm Phật phải cầu sanh về Tây Phương
để thoát vòng sống chết luân hồi; lần lần tu chứng đến cảnh thường,
lạc, ngã, tịnh của Niết Bàn, chớ không nên cầu sự phước lạc hư giả
ở thế gian. Niệm Phật như thế mới hợp với mục đích giải thoát, với
tâm từ bi cứu khổ ban vui của đức Thế Tôn. Và muốn được như vậy hành
giả phải thường quán sát suy tư về Bát khổ của kiếp người cho đến
nỗi khổ vô tận vô biên trong sáu cõi. Nếu chẳng quán như thế, thì tâm
cầu giải thoát khó sanh, ý nguyện về Tây Phương không thiết, làm sao
ngày kia bước lên bờ giác, dùng con thuyền bát nhã độ khắp bến mê?
Khi xưa đức Phật đã than: "Trong đời mạt pháp, các đệ tử ta chỉ
đeo đuổi theo bên ngoài, ít ai quan niệm đến vấn đề sanh tử!" Không
tha thiết đến sự liễu thoát sanh tử là vì thiếu tri giác, do bởi không
thiết thật quán xét nỗi khổ trong kiếp luân hồi. Những người này chẳng
những phụ ơn Phật, mà cũng phụ cả chính mình, thật đáng tiếc thương
đau xót!
Tiết 7 Muốn Sớm Thoát Khổ,
Nên Tu Tịnh Độ
Nhiều vị học Phật, vì ưa chuộng
huyền lý cao siêu, cho môn Niệm Phật là của ông già bà cả, hạng căn
cơ thấp kém. Nhưng họ đâu biết Tịnh Độ là cửa mầu thâm diệu đi sâu
vào Phật tánh, là con thuyền chí bảo để mau thoát khỏi luân hồi. Cho
nên có những bậc thượng căn vì chưa nhận thức Tịnh Độ, mà mãi bị
trầm trệ trong nẻo mê tân. Và có kẻ căn tánh chỉ tầm thường, nhưng
do tu Tịnh Độ mà sớm bước lên đường giải thoát. Xin thuật ra đây đôi
chuyện để chư học giả so sánh.
Đời Đường bên Trung Hoa, nơi chùa
Hương Sơn đất Lạc Dương có sư Thích Giám Không. Sư nguyên tục tánh thọ
Tề, người ở Ngô Quận.
Thuở còn nhỏ ông nghèo khổ, tuy học
hành siêng năng nhưng ít ghi nhớ. Lớn lên, ưa làm thi văn song chỉ tầm
thường. Ông hay đi lại vùng Ngô, Sở yết kiến hàng hầu bá, nhưng không
được sự giúp đỡ bao nhiêu. Khi có tiền đầy xâu thì sanh đau yếu, tiền
hết bịnh mới lành.
Đầu niên hiệu Nguyên Hòa, ông dạo
chơi xứ Tiền Đường, gặp năm mất mùa, nghĩ đến chùa Thiên Trúc để
cầu thực. Nhưng vừa đi tới phía tây Cô Sơn Tự, ông đói quá không thể
tiến bước nổi, liền lại ngồi bên bờ suối tuyết, rơi lệ ngâm vài
câu bi phẫn. Thoạt có vị Phạn tăng theo dòng suối đến ngồi nhìn ông mĩm
cười hỏi: "Pháp sư đã nếm đủ hương vị lữ du chưa?" Ông đáp:
"Hương vị lữ du có thể gọi đã nếm đủ, nhưng bỉ nhơn tục danh
là Quân Phòng, đã từng làm pháp sư đâu?" Phạn tăng nói: "Ông
không nhớ lúc giảng kinh Pháp Hoa ở chùa Đông Đức hay sao?" - Đáp:
"Tôi từ khi sanh thân đến nay đã bốn mươi lăm tuổi, hằng bàng
hoàng nơi vùng Ngô, Sở, chưa từng để bước đến kinh đô, đâu lại có
chuyện giảng kinh ở miền Lạc Trung như thế?" Phạn tăng bảo:
"Chắc ông bị lửa đói thiêu đốt, nên quên cả việc xưa rồi!"
Nói xong, liền lần trong đãy lấy ra một quả táo lớn ướt bằng nắm
tay, trao cho và bảo: "Quả táo này sản xuất ở nước của ta, bậc
thượng trí ăn vào biết rõ việc quá khứ vị lai; người hạ căn cũng có
thể nhớ được chuyện kiếp trước." Ông tiếp lấy quả táo ăn
xong, vóc nước suối uống, thoạt mờ mệt muốn ngủ, liền tựa đầu, gối
vào đá mà nằm. Giây phút tỉnh dậy, nhớ tiền thân làm pháp sư giảng
kinh, cùng những bạn đồng tu, rõ rệt như việc ngày hôm qua, nhân rơi lệ
hỏi rằng: "Chấn Hòa Thượng bây giờ ở đâu?" Phạn tăng đáp:
"Công chuyên tinh chưa tới mức, nên chuyển sanh làm vị tăng ở đất
Tây Thục, nay cũng đã dứt được vọng duyên." Lại hỏi: "Thần
thượng nhơn và Ngộ pháp sư hiện thời ra sao?" - Đáp: "Thần thượng
nhơn túc duyên trả chưa xong. Còn Ngộ pháp sư bởi đứng trước tượng
đá chùa Hương Sơn phát nguyện giỡn: 'Nếu kiếp này tu không chứng đạo,
thân sau nguyện là bậc quý thần,' nên hiện đã sanh làm đại tướng.
Trong năm người bạn vân thủy khi xưa, duy ta được giải thoát, ba vị kia
thì như thế, riêng ngươi còn đói khổ nơi đây!" Ông thương khóc
nói: "Tôi kiếp trước hơn bốn mươi năm, ngày chỉ ăn một bữa, thân
duy đắp một y, việc phù tục quyết dứt căn nguyên, cớ sao còn kém phước
để đến nỗi hôm nay phải ra người đói khổ?" Phạn tăng đáp:
"Khi xưa ông ngồi trên pháp tòa hay nói nhiều việc dị đoan, khiến
cho thính chúng sanh lòng nghi hoặc, lại giới hạnh còn có chỗ kém khuyết,
nên phải bị báo ứng như hôm nay." Nói đoạn, lấy trong bát ra một
chiếc gương hai bề đều trong suốt, bảo rằng: "Việc đã qua ta
không làm sao hơn được, nhưng ông muốn biết số phận sang hèn thọ yểu
về tương lai, cho đến việc đạo pháp hưng suy, nên nhìn vào sẽ
rõ." Ông tiếp lấy gương xem hồi lâu rồi giao lại tạ rằng: "Sự
báo ứng, lẽ vinh khô, nhờ ơn đức của Ngài, nay đã biết được."
Phạn tăng cầm gương cất vào bát, nắm tay ông cùng đi, độ mười bước
liền biến mất.
Đêm ấy ông vào chùa Linh Ẩn xin
xuất gia, hiệu là Giám Không, sau khi thọ giới Cụ Túc liền đi du phương
tu hành, sự khổ tiết, cao hạnh ai cũng khen ngợi. Về sau Giám Không thiền
sư gặp ông Liễu Sính ở chùa Thiên Trúc, tự trần thuật tiền nhân và bảo:
"Tôi sống được bảy mươi bảy, tăng lạp ba mươi hai, nay chỉ còn
chín năm nữa là thọ số mãn. Sau khi tôi tịch, Phật pháp còn được như
ngày hôm nay chăng?" Sính nghe nói lạ, gạn hỏi. Sư không đáp, chỉ đòi
bút viết mấy hàng nơi vách bắc lầu Tàng Kinh như sau: "Hưng hạt cát,
suy cát sông Hằng. Thỏ đã bị lưới, chó vồ săn. Trâu cọp giao tranh sừng
với răng. Ánh hoa đàm vẫn sáng nghìn năm." Đây là lời tiên tri của
sư. Câu trước nói về đạo pháp sẽ suy. Câu thứ hai chỉ cho sự phá đạo
rất tàn khốc. Câu thứ ba ghi rõ thời gian hủy pháp ở vào năm Ất Sửu
tiếp qua Bính Dần. Câu sau cùng nói: Tuy nhiên Phật pháp vẫn còn, ánh đạo
không bị hủy diệt. Lời sấm trên ứng vào việc phá Phật pháp của Đường
Võ Tôn. Ông vua này đã ra lịnh hủy hoại bốn mươi bảy ngàn ngôi chùa,
ép buộc hơn hai mươi vạn bảy ngàn tăng ni hoàn tục. (Trích Cao Tăng truyện,
thiên Cãm Thông, tập 3).
* Đời Nguyên bên Trung Hoa, vào năm
Canh Ngọ niên hiệu Chí Thuận ở vùng Triết Tây bị thất mùa liên tiếp.
Trong thành Hàng Châu, dân chúng đói chết nằm ngổn ngang đầy đường. Mỗi
buổi sáng, quan phòng chánh mướn người khiên tử thi chở đem bỏ xuống
hang núi, sau tháp Thái Hòa. Trong số tử thi có thây một bà lão hơn mười
hôm không hôi thúi, ngày nào cũng tự trồi lên nằm trên các thây chết
khác. Chúng lấy làm lạ, vòng giây kéo đem lên, soát trong người thấy có
túi vải đựng ba bức đồ niệm công cứ A Di Đà Phật. Việc này truyền
đến quan Hữu Tư, Ngài cho mua quan quách tẩn liệm và đem ra thiêu hóa. Khi
củi đốt lên, trong khói lửa hiện ra tượng Phật, Bồ Tát, ánh sáng rực
rỡ. Do nhân duyên đó, rất nhiều người phát tâm niệm Phật. (Trích Sơn
Am Tạp Lục).
Xem sự tích trên, ta thấy như ngài
Giám Không kiếp trước từng làm giảng chủ; phù tục đã dứt căn nguyên,
tu trì cũng nhiều tinh khổ, nhưng vì chưa chứng quả lại còn chút tì vết,
nên phải chuyển thân làm kẻ sĩ đói khát khốn cùng. Kiếp xưa năm bạn
đồng tu, chỉ một mình Phạn tăng được giải thoát.
Ngoài ngài Giám Không lại còn sự
tích cao tăng Viên Quán, do chưa sạch nghiệp, nên không thoát khỏi bào thai
của nàng Vương Thị. Truyện Tỳ Khưu Pháp Vân từng làm đại pháp sư, nhân
vì tham lợi dưỡng, sẻn Phật pháp, nên bị đọa làm thân trâu. Truyện
ngài Hải „n cũng thuộc hàng danh tăng, vì thọ người cúng dường, phải
chuyển sanh làm con gái cho nhà thí chủ. Truyện ngài Mạt Sơn lai lịch phi
phàm, nhưng bởi túc nghiệp từ vô lượng kiếp phát hiện, nên luân hồi
làm kẻ ngu khờ, ghét người tu niệm. Truyện ngài Đoạn Nghĩa Nhai tham thiền
đã được khai ngộ, kiếp sau chuyển sanh làm tăng, được người lễ bái
cúng dường, tham hưởng phước mà quên đường giải thoát. Truyện đệ tử
của ngài Tuyệt Học Thành Công, thiền định đã tỏ suốt nguồn tâm, bởi
chưa đắc đạo nên thân sau làm ông sư thông minh, động tâm xa hoa kiêu mạn,
rồi từ đó không nghiệp ác gì chẳng làm. Truyện một ni cô tụng kinh
Pháp Hoa ba mươi năm, vì tâm còn chưa dứt niệm sắc thinh, nên kiếp sau đọa
làm thân ca kỹ, tiếng thanh sắc đẹp nơi miệng thường bay ra mùi thơm
hoa sen. Truyện vị cao tăng non Nhạn Đăng, bởi chưa chứng đạo, kiếp sau
là Tần Cối, do tiền căn đã có công tu niệm nên thông minh đỗ cao làm
quan đến ngôi cực phẩm, song vì mê quyền quí, tạo điều gian ác để
nhiều kiếp đọa tam đồ.
Xem truyện tích xưa, còn biết bao
trường hợp như thế nữa! Qua các gương trên, ta thấy nếu tự lực tu
hành, khi chưa được nghiệp sạch tình không, lúc tái sanh tất phải mê muội,
mười người đã rớt hết tám chín. Còn như bà lão niệm Phật, tuy dốt
đạo lý, chẳng hiểu chút chi về tông về giáo, nhưng nhờ thành tâm niệm
Di Đà mà sau khi chết diễn ra nhiều điều kỳ lạ, đã chứng minh bà lão
vãng sanh về Cực Lạc không còn nghi ngờ. Cho nên tham thiền, tụng kinh
cùng tu các môn khác là những điều quí báu nên làm, và đáng khuyến
khích. Nhưng giữa thời mạt pháp này, cần phải tu thêm môn Niệm Phật, rồi
đem tất cả công đức ấy hồi hướng về Tây Phương, mới bảo đảm khỏi
luân hồi mê đọa. Nếu không lấy Tịnh Độ làm nơi quy hướng, thì công
đức tu các môn khác chỉ gây căn lành phước báo, và nhân duyên đắc độ
về sau mà thôi. Như thế, e cho khi chuyển sanh hôn mê tạo nghiệp phải bị
trầm trệ lâu trong cảnh khổ luân hồi. Mấy ai thông minh như Ngộ Đạt
quốc sư, mười kiếp làm cao tăng tu thiền định, kiếp sau rốt mới mười
bốn tuổi đã giảng suốt Kinh Niết Bàn. Nhưng vì một niệm đam mê trước
tòa trầm hương nên bị túc báo ghẻ mặt người, sau trở lại niệm Phật
mới được vãng sanh giải thoát. Những vị ỷ mình cao minh, ngoài miệng
nói suốt lý huyền, chỉ trọng tự lực khinh thường niệm Phật, cũng nên
xem gương trên mà để tâm suy nghĩ.
Mục lục | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10