- Hương Vị Pháp Bảo
- Thiền sư U Silananda
(3)
Đức Phật và Pháp Môn Thiền Quán
Mới đây có người đến nói với Sư là họ
đọc được trong một quyển sách câu "Thiền Minh Sát đã được Đức
Phật khám phá trở lại từ những pháp môn đã từng được hành trì từ
thời cổ xưa tại Ấn Độ". Hôm nay Sư muốn giảng giải về câu này
để quí vị hiểu tật rõ ý nghĩa thực sự của nó.
Mới thoáng nghe qua ta có thể tưởng rằng Thiền Minh Sát
là một pháp môn đã từng được hành trì trước thời Đức Phật. Thật
ra không những Đức Phật đã chỉ khám phá ra pháp môn này mà Ngài còn
khai thị cho chúng sanh toàn bộ giáo lý do tự Ngài chứng ngộ không thầy
chỉ dạy cũng như tất cả những gì chư Phật trong quá khứ đã từng chứng
ngộ và giáo hóa cho chúng sanh. Vậy ta phải hiểu câu trên theo tinh thần
như thế. Vì thiền Minh Sát là một pháp tu đã bị ngăn che, khuất lấp
trong một thời gian rất lâu từ đời các cổ Phật, cho đến khi có vị
Phật hiện tại là Phật Cồ Đàm xuất hiện trên thế gian, khai sáng trở
lại toàn bộ giáo pháp của chư Cổ Phật, trong đó có pháp môn thiền
quán này.
Theo Phật giáo, chúng ta tin rằng trong quá khứ đã từng
có nhiều vị Phật và cũng sẽ có nhiều vị Phật xuất hiện trong tương
lai. Do đó là đệ tử của Đức Phật Cồ Đàm, chúng ta gọi Ngài là vị
Phật hiện tại mặc dầu thực sự bây giờ Ngài không có mặt nữa. Trước
Đức Phật Cồ Đàm có ba vị Phật quá khứ trong chu kỳ thế giới này. Vị
cuối trong ba vị Cổ Phật này là Đức Phật Ca Diếp (Kassapa) cũng đã dạy
chúng sanh về Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên, Tứ Niệm Xứ... trong
đó có pháp hành Thiền Minh Sát. Sau khi Đức Phật Ca Diếp cùng các đệ tử
của Ngài đã nhập diệt, giáo pháp của Ngài đã bị mai một với thời
gian trong khoảng cách dài hàng triệu năm trước khi Đức Phật Cồ Đàm ra
đời. Chú giải có ghi rằng toàn bộ giáo lý của Đức Phật Cồ Đàm đồng
nhất với giáo lý của Đức Phật Ca Diếp.
Dó đó chúng ta phải hiểu rằng Thiền Minh Sát đã từng
được các vị Phật quá khứ giảng dạy chứ không phải là một phương
pháp thiền nào thuộc về một giáo pháp hay một tôn giáo nào khác. Đức
Phật Ca Diếp xuất hiện tại Ấn Độ và trong thời Ngài chắc chắn đã
có nhiều người hành theo Thiền Minh Sát và phần đông các Chú giải gia
là người Ấn Độ. Vì thế khi nói đến nơi chốn các vị Phật đã ra đời
thì hầu như Ấn Độ là trung tâm đó. Do đó ta cũng hiểu được rằng
Thiền Minh Sát đã từng được hành trì tại xứ cổ Ấn Độ nhưng đó
không có nghĩa là Thiền Minh Sát đã từng là một pháp môn trong các tôn
giáo cổ xưa khác tại Ấn Độ như đạo là Bà la môn (hay Ấn Độ giáo
ngày nay).
Chỉ qua pháp Thiền Minh Sát, hành giả mới có thể đạt
được kết quả tốt đẹp là tự mình khám phá ra ba đặc tính của mỗi
hiện tượng do điều kiện tạo thành, tức là tự thân chứng được Vô
Thường, Khổ và Vô Ngã. Theo Chú giải gia Phật Minh (Buddhaghosa) thì chỉ
Vô Ngã là do một vị Phật thực chứng và dạy lại cho chúng sinh mà
thôi. Còn hai đặc tính Vô Thường và Bất Toại Nguyện (Khổ) thì không cần
phải là vị Giác ngộ mới thấu suốt được. Vì vậy, thấy và dạy được
Vô Ngã xem như một khả năng đặc biệt của vị Phật, còn hai đặc tính
kia thì các bậc hiền nhân (như Bồ Tát) cũng có thể thấu suốt để giáo
hóa chúng sinh được. Nhưng một quyển Phụ Chú giải khác có ghi rằng
không ai ngoài các vị Phật có thể khám phá và chỉ dạy được hai đặc
tính này và chỉ những ai trong lãnh vực Phật pháp mới có thể có kinh
nghiệm thực sự được hai đặc tính này. Và chính sự thấy được hai
thực tướng Vô Thường và Bất Toại Nguyện mới có thể đưa dẫn đến
sự thấy thực tướng Vô Ngã của các Pháp. Và Vô Ngã là một đặc điểm
của Phật giáo mà không tôn giáo nào khác có.
Vậy ta phải hiểu ba đặc tính là gì? Khi ta làm bể một
cái ly, ta nói nó vô thường. Khi ta lỡ đạp cái gai, ta thấy đau thấy khổ.
Những loại vô thường và khổ đau này thật chẳng mấy khó để thấy
được. Nhưng cái Vô Thường và Khổ mà thiền sinh thấy được qua Thiền
Minh Sát hoàn toàn khác. Sư mong quí vị đây đã hiểu rõ và nhớ rõ điều
này!
Đặc tướng Vô Thường thấy được qua Thiền Minh Sát
này không phải là cái thay đổi bình thường bên ngoài mà là tính cách
thay đổi từng chập một, từng khoảnh khắc một trong một đối tượng.
Đặc tính Khổ kinh nghiệm được trong Thiền Minh Sát cũng không phải là
cảm giác đau khổ về thân hay về tâm, nhưng là cái khổ, cái bất toại
nguyện trong đối tượng ngay cả khi ta đang tiếp nhận những cảm thọ lạc
hay hạnh phúc. Thiền sinh sẽ tự nhận thấy được là tất cả những gì
bị áp chế bởi sanh và diệt thì cái đó là khổ hay bất toại nguyện.
Và muốn thấy được đặc tướng Vô Thường và Bất Toại Nguyện của mỗi
hiện tượng do điều kiện tạo thành, ta phải hành Thiền Minh Sát. Chỉ với
môn thiền quán này ta mới có thể kinh nghiệm được thực tướng của đối
tượng và không ai ngoài chư Phật có thể chỉ dạy được điều này.
Giáo lý về ba đặc tướng của mọi hiện tượng là nét đặc thù của
Phật giáo, nên ta có thể kết luận là sự thấy được ba đặc tính này
chỉ có trong giáo pháp của chư Phật thôi. Vậy pháp Thiền Minh Sát không
hề được vay mượn từ một giáo pháp nào khác. Nếu phải nói là vay mượn
thì chỉ có vay mượn từ giáo pháp của chư Cổ Phật mà thôi.
Đức Phật cũng đã hơn một lần dạy rằng "Cho dù
có một vị Phật ra đời hay không thì ba đặc tính kia cũng tiềm ẩn
trong mọi hiện tượng do điều kiện tạo thành". Tất cả pháp hữu
vi đều vô thường và bất toại nguyện, vạn pháp đều vô ngã. Vậy, ba
đặc tính do không phải Đức Phật chế đặt ra mà đã có sẵn trong mọi
hiện tượng. Mỗi khi một hiện tượng sanh khởi do điều kiện sanh khởi
thì tự nó đã mang ba đặc tính này rồi. Do đó Đức Phật xác định rằng
một vị Phật khi đã Giác ngộ được điều này sẽ tuyên giảng cho mọi
người biết là tất cả pháp hữu vi đều vô thường, tất cả mọi mọi
hiện tượng do điều kiện tạo thành đều bất toại nguyện và vạn
pháp đều vô ngã.
Cũng thế ấy, lý Duyên Khởi cũng tiềm ẩn sẵn trong mỗi
pháp môn vì chúng sanh chưa đủ khả năng để phát hiện ra chúng cho đến
lúc có một vị Phật ra đời mới khám phá và phơi bày cho chúng sanh được
rõ.
Cũng vậy đối với luật Nghiệp Báo. Có người cho rằng
luật nghiệp báo này là do Đức Phật mượn từ Ấn Độ giáo nhưng Sư
nghĩ điểm này không đúng lắm vì luật nghiệp báo trong Phật giáo rất
khác với luật nghiệp báo trong Ấn Độ giáo. Luật nghiệp báo là một
quy luật thiên nhiên, không cần đến một người sáng tạo, ban hành hay
làm trọng tài cho luật này.
Tất cả những quy luật tự nhiên này chỉ chờ được hiển
bày do trí tuệ của những bậc phi thường như chư Phật. Đức Phật Cồ
Đàm đã khám phá ra chân lý mà không cần sự giúp đỡ bên ngoài nào
khác ngoại trừ trí tuệ toàn giác của Ngài. Trên đường Ngài đi đến
vườn Lộc Uyển để ban bài pháp Chuyển Pháp Luân đầu tiên, một vị
ẩn sĩ đã gặp và hỏi Ngài là đệ tử của ai? Ngài theo giáo pháp nào?
Đức Phật trả lời rằng: "Như Lai không có thầy, Như Lai không có ai
ngang hàng, Như Lai là một người hiểu biết tất cả". Qua câu trả lời
trên, Ngài khẳng định Ngài có trí tuệ toàn giác, không thầy chỉ dạy
Ngài tự chứng ngộ các chân lý trên, đã thành đạt chánh quả cao tột
nhất bởi nỗ lực phi thường của chính mình.
Do đó nói rằng Phật pháp đã được vay mượn từ giáo
lý khác là có sự xem thường Đức Phật vì Ngài không cần dựa vào hay hướng
về một giáo pháp nào khác để học và dạy về những điều trên. Đức
Phật đã xác nhận rằng "Như Lai là người đã khai mở Con Đường mà
chưa từng ai khai mở, Như Lai là người chỉ bày Con Đường mà chưa từng
ai chỉ bày ra, Như Lai là người tuyên khai Con Đường chưa ai tuyên khai, Như
Lai là người hiểu biết Con Đường mà chưa được ai hiểu biết, Như Lai
là người đã tinh luyện Con Đường mà chưa từng ai đã tinh luyện và tất
cả đệ tử của Như Lai sau này sẽ sống an trú trên con đường ma Như
Lai đã khai ngộ". Qua lời xác quyết ta thấy rõ đạo Phật đã không
mang một món nợ nào đối với bất cứ một vị thầy nào. Khi Đức Phật
xác nhận Ngài là người tiên khởi của Con Đường tức là Ngài đã đầu
tiên khai mở lại Con Đường đã bị che lấp từ khi vị Phật quá khứ nhập
diệt.
Ngoài ra có một điểm cần lưu ý khi nói về pháp môn
Vipassana. Chữ Vipassana là chữ Nam phạn (Pali) trong lúc bên Bắc phạn
(Sanscrit) là Vipashiana hay Vidãshana. Pali và Sanscrit là hai ngôn ngữ rất gần
nhau. Nhiều khi chỉ cần đưa một vài danh từ Pali sang Sanscrit với chút
ít thay đổi mà không cần phải dịch ra. Sư đã tra lại trong các cuốn tự
điển lớn của Sanscrit. Một trong những cuốn này (Sanscrit – English
Dictionary) không những kê chữ, nghĩa mà còn cho biết xuất xứ từ từng từ
ngữ. Hai chữ Vipashiana và Vidashiana được ghi là có từ kinh điển của Phật
giáo.
Sau đó Sư có nghiên cứu một cuốn tự điển khác cũng thuộc Bắc phạn.
Như quí vị đã biết, kinh điển Phật giáo Bắc tông dùng Sanscrit và kinh
điển Nguyên thủy dùng chữ Pali. Có một loại Sanscrit tiêu chuẩn (thuần
túy) và loại Sanscrit lai (đã pha trộn với Pali dùng để ghi chép kinh điển).
Do đó trong cuốn tự điển Bắc phạn lại cũng ghi rằng hai chữ Vipashiana
và Vidãshana này xuất xứ từ kinh điển Phật giáo.
Dựa vào hai cuốn tự điển trên, Sư thấy rõ là hai danh từ này đều
từ kinh điển Phật giáo mà ra. Vậy nếu ai cho rằng Thiền Minh Sát là từ
kinh điển của các tôn giáo có trước Phật giáo như kinh Vệ Đà hay Áo
Nghĩa Thư thì đó là điều thiếu căn cứ.
Chúng ta đều đã biết là Thiền Minh Sát đưa đến sự thực
chứng ba đặc tướng, hoặc hành Thiền Minh Sát là thấy được ba đặc
tướng Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Trong khi đạo Phật nói về đặc tính
Vô Ngã, thì đối với đạo Bà la môn hay Ấn Độ giáo, cái Ngã, cái Đại
hồn lại là chân lý cốt tủy của họ. Vậy Thiền Minh Sát là một phương
tiện dùng để xuyên thấu thực tướng Vô Ngã, không thể nào phù hợp với
các giáo lý của đạo Bà la môn. Do đó ta cũng kết luận được là Thiền
Minh Sát không thể nào tìm thấy trong các kinh điển xưa của Bà la môn
giáo như kinh Vedha hay Upanishad.
Vậy Thiền Minh Sát là gì? Đó là sự tu tập chánh niệm
để thấy được thực tướng của các hiện tướng do điều kiện tạo
thành. Đến đây, Sư muốn giảng lại đoạn kinh Tứ Niệm Xứ mà quý vị
vẫn hằng tụng đọc mỗi sáng trước khi hành thiền. Sư đã giảng đoạn
kinh này khá nhiều lần rồi. Phần đông quý vị đây đều đọc tụng, nhớ
và hiểu đoạn kinh này. Sư mong quí vị hãy giữ tâm kiên nhẫn trong khi Sư
sắp nói lại cho những ai chưa được nghe hoặc nghe rồi mà đã quên.
Mỗi sáng Sư thường giúp quý vị đọc đoạn kinh này là
phần giới thiệu kinh Đại Niệm Xứ để nhắc lại cách hành trì Tứ Niệm
Xứ: "Ở đây vị tỳ kheo sống quán thân trên thân... thọ trên thọ,
tâm trên tâm, pháp trên pháp... một cách tinh cần tỉnh giác chánh niệm để
loại bỏ tham ưu ở đời". Đây là một câu kinh ngắn gọn nhưng
bao hàm được tất cả phương cách để tu tập chánh niệm.
Đức Phật nêu lên những yếu tố cần thiết cùng kết quả
tức thì mà phương pháp này mang lại cho hành giả. Bốn lãnh vực quán niệm
là: thân, thọ, tâm, pháp; và tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm là ba điều
kiện phải có khi hành thiền.
- Yếu tố thứ nhất, tinh cần có nghĩa là sức cố
gắng vì nếu không cố gắng thì không thể có chánh niệm. Cố gắng đây
là về tâm chứ không phải về thân. Tinh tấn đưa lại chánh niệm liên tục
và mạnh mẽ. Sự cố gắng này phải vừa đủ và quân bình, không quá ít
cũng không quá nhiều để giữ tâm ở trên đối tượng.
-Yếu tố thứ hai là tỉnh giác nghĩa là thấy đối
tượng một cách rõ ràng và đúng đắn bằng con mắt của tâm.
- Yếu tố thứ ba là khi hành Thiền Minh Sát ta phải tinh tấn
nỗ lực để thấy rõ ràng và đúng đắn đối tượng bằng cách áp dụng
chánh niệm.
Do đó, tuy ở đây chánh niệm được nêu sau tỉnh giác nhưng
có thể đây là một lối nói theo cách thời bấy giờ. Đứng về mặt trình
tự thì phải có tinh cần, chánh niệm rồi mới có tỉnh giác được vì nếu
chưa có chánh niệm thì không thể có tỉnh giác được. Chánh niệm là để
giữ tâm trụ yên trên đối tượng. Chánh niệm khi được giữ liên tục
trên đề mục thì sẽ càng lúc càng mạnh và sâu hơn. Lúc đó, tâm sẽ lắng
xuống yên lặng và trong sạch, những chướng ngại của tâm sẽ được giảm
bớt và gạt ra ngoài, tâm sẽ trở nên thanh tịnh và sáng suốt.
Chỉ khi nào tâm an trú trên đề mục trong khoảng một thời
gian khá lâu thì hành giả mới thấy được đối tượng này một cách
chính xác và thấu suốt từ lúc khởi sanh cho đến khi hoại diệt. Các bậc
trưởng lão vẫn dạy rằng mặc dầu Đức Phật không nêu ra tâm định
ở đây, nhưng ta phải hiểu là Đức Phật dạy là có chánh niệm tức là
có tâm định.
Tóm lại khi hành Thiền Tứ Niệm Xứ, ta phải có sự cố
gắng về tâm, thứ hai là phải duy trì chánh niệm trên đối tượng cho tâm
được an trú vững chắc, để rồi qua yếu tố thứ ba là sự thấy biết
các đặc tính của đối tượng. Trước hết là những đặc tính riêng biệt
rồi sau đó là những đặc tính chung. Thấy được đối tượng như là thấy
Thân thì không có sự hiểu biết, thấy Tâm là cái hướng về đối tượng
của Tâm. Đồng thời cũng do thấy được đối tượng Thân Tâm, cứ sanh
lên rồi diệt đi hành giả sẽ tự nghiệm là đối tượng mình đang quan
sát là vô thường. Khi thấy đối tượng vô thường thì tức khắc là thấy
nó khổ. Vì khổ là gì? Là sự áp chế bởi sanh rồi diệt. Và khi thấy
rõ được đặc tướng vô thường và khổ của đối tượng, hành giả tự
khám phá ra là không có một tác nhân nào điều khiển kiểm soát được các
hiện tượng trên đang tự diễn biến theo tiến trình của chúng. Đây
chính là đặc tính Vô ngã của đối tượng. Và qua quan sát ba đặc tính
này, hành giả chỉ thấy đối tượng thuần túy chỉ là những hiện tượng
chứ không phải thấy chúng qua một người, một chúng sanh, đàn ông, đàn
bà... Đây là điểm mà Đức Phật gọi là tỉnh giác.
Vậy thì tỉnh giác là một yếu tố chỉ có sau khi tâm
hành giả đã được an trụ, trong sáng, tức là tâm định. Tâm định này
chỉ sanh khởi khi có chánh niệm bằng sức cố gắng liên tục của thiền
sinh. Tóm lại Thiền Minh Sát cần hội đủ bốn điều kiện: cố gắng, chánh
niệm, tâm định và sự hiểu biết đúng đắn.
Vậy kết quả tức khắc của Thiền minh Sát là gì? Khi bốn yếu tố
trên (tinh tấn, chánh niệm, định và tỉnh giác) làm việc một cách hài
hòa, khăng khít, thì Đức Phật dạy rằng kết quả tự nhiên là hành giả
sẽ "loại bỏ mọi tham ưu ở đời". Tham là ham muốn, bám víu,
dính mắc... Ưu là sân hận, ghét bỏ, sầu muộn... Cứ mỗi giây phút mà
trong tâm ta có mặt bốn yếu tố này làm việc một cách quân bình, tốt
đẹp thì giây phút đó, ta có thể ngăn chận không cho các ô nhiễm sanh khởi
trong tâm. Chữ "loại bỏ" trong câu kinh không có nghĩa là các ô
nhiễm này đã nằm sẵn trong tâm rồi, và hành giả cố gắng tẩy trừ
nó. "Loại bỏ" đây có nghĩa là ngăn ngừa, không tạo điều kiện
cho chúng có cơ hội sanh khởi. Kết quả này không phải chỉ đạt được
về sau, mà ngay từng giờ phút đang hành thiền, đang hội đủ trong tâm bốn
yếu tố trên.
"Tham ưu ở đời "ở đây không phải chỉ cho những
vui buồn thế tục, hay những hệ lụy trong cuộc sống của con người.
"Ở đời" đây có nghĩa là đối tượng đang quan sát. Thí dụ,
khi lấy đối tượng là hơi thở, quan sát và xuyên thấu được đặc tính
của hơi thở, thấy nó đến rồi đi, sanh rồi diệt, thấy nó thuần túy
là một hiện tượng chứ không qua một cá nhân nào, lúc đó thiền sinh
có thể ngăn chận được không cho cái tham, cái ưu sanh khởi đối với đối
tượng là hơi thở này. Vậy ta phải hiểu là "loại bỏ ô nhiễm"
ở đây chỉ xảy ra đồng thời với các tâm Tinh tấn, Niệm, Định, và Tỉnh
Giác đang hiện khởi.
Cho nên câu nầy nếu dịch qua Anh ngữ là "đã từ bỏ
tham ưu... ("having re-moved" thay vì "moving") thì không đúng bởi
vì nếu tham ưu đã được loại bỏ thì chúng ta chẳng cần phải hành thiền
làm chi nữa, bởi vì mục đích của thiền quán là thanh lọc tâm loại bỏ
tham ưu ở đời...
Khi thiền sinh có thể giữ không cho "tham ưu" sanh
khởi tức là người này đã thấy đối tượng đúng như nó là vậy,
không thêm vào mà cũng không bớt cái gì nơi đối tượng. Thí dụ, nếu
ta thêm vào nó một ý niệm "tốt" hay "xấu" hoặc ta bớt
đi một đặc tính của đối tượng này thì "tham ưu" sẽ đi liền
tức khắc vào đối tượng. Chú giải có ghi rằng "cách nhìn đối tượng
đúng như nó là" nầy là khả năng, là sự viên mãn của thiền sinh,
và chỉ người thiền sinh lúc không hành thiền, trở lại cuộc sống hàng
ngày cũng hay thêm bớt nhiều điều vào đối tượng. Tóm lại khi ta ngăn
ngừa được tham ưu khởi sanh, ta mới có khả năng thấu đạt được thực
tướng sự vật.
Vậy tất cả những gì cần phải làm trong hành thiền
quán là điều hòa sao cho bốn yếu tố Tinh cần, Chánh niệm, Định và Tỉnh
giác hoạt động quân bình và nhịp nhàng với nhau trong từng chập, từng
giâu một. Đó là ta đã tạo điều kiện để cho tâm không bị những chướng
ngại ngăn che các đối tượng. Làm được những điều này là thiền sinh
đã có một sức mạnh để hoàn thành những mình cần phải làm. Chú giải
có ghi rằng ba chữ "Tinh cần, Chánh niệm, Tỉnh giác" nêu lên những
nhân tố của việc hành thiền và câu "loại bỏ tham ưu ở đời"
nêu lên những yếu tố của việc loại trừ, buông bỏ. Sáng mai khi quí vị
đọc từng đoạn kinh này, Sư muốn quí vị hãy đọc nó với sự hiểu biết
thật thấu đáo ý nghĩa nó như trên.
Tất cả những gì ta làm, ta phải làm với trí tuệ, sự
hiểu biết đúng đắng, không phải chỉ làm theo thông lệ theo hình thức.
Mong cho quí vị có được khả năng loại trừ mọi tham ưu
ở đời bằng cách áp dụng tròn đủ bốn yếu tố tiên quyết nêu trên
để thành đạt được mục đích cuối cùng là chấm dứt mọi khổ đau.
SADHU! SADHU! SADHU!
NLTV 27-09-1998
Lời
giới thiệu | Chương: | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | Kệ thiền