- Hương Vị Pháp Bảo
- Thiền sư U Silananda
(6)
Hạnh Thu Thúc
Hôm nay Sư sẽ giảng về
hạnh thu thúc. Thật sự không mấy ai thích hành hạnh thu túc. Dù vậy, thường
ta vẫn tự kiềm chế, giữ gìn trong rất nhiều trường hợp vì đó là một
điều kiện rất cần thiết giữ cho xã hội có trật tự và nề nếp. Ví
dụ, người dân xứ nào phải theo luật lệ của xứ đó. Luật lệ là
gì? Chẳng qua là những qui ước hoặc điều lệ phải tuân theo. Phần đông
ai cũng không thích luật lệ nhưng vẫn tuân hành vì nếu không bản thân bị
thiệt hại hoặc gặp rắc rối với luật pháp.
Ví dụ không lấy của cải người
khác bằng sức mạnh hoặc bằng trộm cướp là một hình thức thu thúc.
Nhiều khi ta phải tự chế không làm hại người khác vì chính ta cũng không
muốn ai xâm phạm của cải và đồ vật của mình. Sự kiềm chế được
thấy rõ ràng nhất khi chúng ta lái xe không quá tốc độ mà chính quyền
đã đặt ra. Nếu lái nhanh hơn sẽ bị phạt hay dù rất vội vàng đến một
nơi nào đó nhưng thấy đèn đỏ ta cũng phải ngừng xe lại, nếu không, sẽ
bị phạt hoặc gây tai nạn. Sự kềm chế này có được là vì chúng ta thấy
rõ sự nguy hiểm trước mắt.
Cũng vậy, khi ngồi trên xe, ta phải
buộc dây an toàn. Mặc dầu dây an toàn hạn chế các cử động nhưng đề
phòng cho người trong xe khỏi bị thương khi gặp tai nạn. Trong công việc
cũng vậy, mặc dầu trong tâm ta muốn đi trễ về sớm nhưng biết sợ những
hậu quả không hay nên phải cố gắng đúng giờ. Ví dụ khác khi dùng thực
phẩm, chúng ta cũng phải tự chế rất nhiều. Một người có bệnh tiểu
đường hoặc cao máu v.v... phải tránh những món tuy thích khẩu nhưng có hại
cho tình trạng sức khỏe vì biết rằng nhờ kiêng cữ, bệnh sẽ bớt. Như
vậy trong đời sống hằng ngày chúng ta luôn luôn có những sự tự khắc
phục nầy.
Khi chúng ta hành thiền thì sự tự
chế nầy lại trở nên quan trọng hơn nữa. Đức Phật dạy năm loại thu
thúc trích từ trong kinh đoạn nầy một ít và đoạn kia một ít. Theo Phạn
ngữ, thu thúc là "samvara" còn có nghĩa khác là "bảo ve"䬍
tức là bảo vệ mình đối với những người khác.
1. Thu thúc qua sự giữ gìn giới luật:
Patimoka ở đây là những giới luật dành cho các tỳ kheo (227 giới) cũng
như các tỳ kheo ni (371 giới). Chữ "patimoka samvara" gồm có hai phần:
"patimoka" và "samvara". Thông thường Phạn ngữ hay có chữ
đôi như vậy thì một chữ có nghĩa chính và chữ kia có nghĩa phụ. Có
lúc hai chữ đồng nghĩa như nhau. Trong chữ "patimoka samvara" hai chữ
có nghĩa như nhau, đó là sự thu thúc, tự kiềm chế. Về ý thì chúng ta
nên hiểu "patimoka samvara" ở đây là sự thu thúc qua sự gìn giữ
những điều luật trong "patimoka".
Nói về sự thu thúc qua giới bổn của chư tăng
thì đức Phật có dạy như sau: "- ở đây người tỳ kheo an trú trong
những điều luật của giới bổn. Người nầy có tư cách đúng đắn, chỉ
lui tới những nơi thích hợp. Người nầy thấy trong những cái lỗi nhỏ
nhất có sự nguy hiểm lớn lao. Và như vậy vị tỳ kheo tự rèn luyện tu
tập của mình bằng cách giữ gìn điều luật trong giới bổn".
Sự tự chế qua điều luật của chư tăng trên
đây là dành riêng cho các sư. Đối với cư sĩ thì giới là
"Sila", là thu thúc qua năm hay tám giới mà chúng ta đã thọ nhận.
Vậy khi một người cư sĩ xin giữ 8 giới hoặc 5 giới là phát tâm hành
trì sự tự chế qua giới đức. Giới lúc nào cũng có nghĩa là thu thúc,
tránh giữ, kềm chế. Khi nói tránh giữ không sát sanh, câu nầy có ý nghĩa
tiêu cực. Đổi thành nghĩa tích cực: "Tôi muốn giữ hạnh Từ
Bi", câu không còn là giới nữa. Như chúng ta biết tâm Từ hay tâm Bi
không phải là giới, mà là sự rèn luyện tâm (bhavana). Đây là một điều
rất quan trọng. Nhiều người muốn tránh câu: "Tôi muốn tránh giữ
không trộm cắp, muốn lấy vật người ta không cho" thành câu
"Tôi nguyện sẽ có tâm rộng lượng và cúng dường bố thí". Như
vậy thì nó không còn là một giới nữa. Vì vậy nên sư nghĩ khi chúng ta
xin giới ra sao thì chúng ta nên giữ đúng như vậy.
2. Thu thúc qua chánh niệm: Phạn ngữ
"Satisamvar", gồm hai chữ nhưng chỉ chung một nghĩa, đó là chánh
niệm. Khi ta có chánh niệm trong tâm thì ta được bảo vệ vì lúc
đó không có tâm sở bất thiện nào có thể xen vào tâm ta được. Sự hành
thiền bằng chánh niệm nầy cũng được gọi là thu thúc, gồm có sự thu
thúc của sáu giác quan: 5 giác quan cộng với tâm là 6 (theo Phật pháp thì
tâm là một giác quan). Sự thu thúc qua chánh niệm được ghi lại trong kinh
điển như sau: Khi thấy một vật thì ta không nắm lấy cái tướng chung
hay là những tướng riêng (chi tiết) của vật thấy, và ta không để cho tâm
lơ là, thất niệm, nếu không thì các tâm bất thiện như tham ái, phiền
não sẽ len vào. Giữ nhãn căn một cách cẩn thận bằng chánh niệm là thu
thúc qua sự thấy. Khi mắt thấy một vật, người ấy không lấy cái tướng
chung của vật. Ví dụ như không có kết luận đấy là một người đàn
ông hay là đàn bà. Và không nắm cái tướng riêng (chi tiết) của vật
mình thấy, tức là không để ý bàn tay hoặc con mắt người ấy đẹp xấu
ra sao.
Một thiền sinh không giữ gìn tâm, khi thấy một
vật mà bắt vào chi tiết là làm cho các tâm sở bất thiện sanh khởi, và
khi tham ái sân hận sanh khởi thì chắc chắn hậu quả khổ đau của chúng
sẽ đi theo.
Mục đích của hành thiền là không cho tham ái
sân hận sanh khởi khi chúng ta đối diện vào một đối tượng nào. Vậy
thì các sư cũng như các thiền sinh thường được khuyên dạy khi thấy một
vật, ta không nắm cái tướng của vật đó. Phương pháp nầy cũng giống
như phương pháp mà đức Phật dạy cho hai người Phật tử trong hai bài
kinh khác nhau: hễ thấy cái gì thì biết cái thấy mà thôi, hễ nghe
cái gì thì biết cái nghe mà thôi. Nếu một người có thể ngừng
ở sự thấy cái sự nghe thì tâm bất thiện sẽ không có cơ hội để lẻn
vào tâm mình. Làm thế nào để không nắm cái tướng, cái chi tiết, làm
thế nào để chúng ta ngừng ngay sự thấy mà không đi tới?. Câu trả lời
là qua sự hành Thiền Minh sát. Chỉ có giữ chánh niệm thì chúng ta mới
có thể tránh được không nắm cái tướng của đối tượng hoặc là
không để ý đến chi tiết của đối tượng. Thường Sư dạy khi hành thiền
ta chỉ ghi nhận đối tượng và không thêm bớt gì, hoặc là chúng ta chỉ
có sự chú ý đơn thuần đến đối tượng mà thôi. Khi ta thấy sự ngừng
ngay sự thấy, nghe âm thanh ngừng ngay sự nghe bằng cách ghi nhận "thấy,
thấy" hay "nghe, nghe". Đó là lúc ta đang hành trì sự thu thúc
bằng chánh niệm. Chánh niệm chính là sự tự chế lục căn.
Vậy câu trên cũng được áp dụng với những
đối tượng khác. Khi có một mùi hương chúng ta dừng ngay ở sự ngửi.
Khi có một vị chúng ta dừng ngay ở sự nếm. Khi có sự đụng chạm chúng
ta chỉ dừng ở nơi xúc chạm đó mà thôi. Khi suy nghĩ vừsa sanh khởi
trong tâm, chúng ta chỉ dừng nơi sự suy nghĩ. Chúng ta không đi thêm, không
đi tới để bắt giữ cái tướng hoặc là các chi tiết của chúng. Như vậy
chúng ta mới tránh không cho tâm bất thiện sanh khởi.
3. Thu thúc qua trí tuệ: Trí tuệ đây là sự
hiểu biết. Sự hiểu biết chính nó là sự thu thúc. Trí tuệ ở đây được
Chú giải giảng nghĩa thêm, là sự hiểu biết có tận diệt được ô nhiễm.
Người hành thiền minh sát phát triển tâm định có thể quan sát thấu suốt
vào bản chất của sự vật. Khi thiền tập viên mãn người nầy chứng
nghiệm được Niết bàn. Ngay giây phút người nầy Giác ngộ thì tất cả
những ô nhiễm trong tâm cũng được tận diệt. Sự hiểu biết sanh khởi
qua tâm thánh đạo nầy gọi là trí tuệ. Vậy hạnh thu thúc qua trí tuệ nầy
là một hình thức cao thượng hơn tất cả các hạnh thu thúc. Trong Thanh Tịnh
Đạo có ghi thêm là khi thọ dụng tứ vật dụng với sự suy nghiệm chín
chắn cũng được xem là một thu thúc qua trí tuệ. Các sư thường được
dạy khi mặc một cái y hay là dùng một thực phẩm thì phải suy nghiệm về
cái y hoặc về thức ăn mới tránh được sự tham ái hoặc là sân hận
ghét bỏ đối với tứ vật dụng.
Trong cuốn Suttanipata (Kinh Tập) có một câu kệ
nói đến sự thu thúc qua trí tuệ như sau: "Nầy Agita, dòng đời
đang tuôn chảy được chận đứng bởi chánh niệm. Như Lai dạy rằng, sự
kềm chế được dòng nước lũ nầy, là do trí tuệ". Dòng đời,
ý muốn nói sự ô nhiễm. Chánh niệm chận đứng sự ô nhiễm. Ngăn chận
dòng nước lũ bằng trí tuệ ở đây là sự tận diệt ô nhiễm thành
công được là do người đó có sự hiểu biết đúng đắn. Qua câu kệ
trên đức Phật diễn tả sự thu thúc bằng trí tuệ. Khi hành thiền minh
sát chúng ta có chánh niệm lên trên đối tượng đang sanh khởi ngay trong
giây phút hiện tại. Qua hành trì ta phát triển tâm định và khi tâm định
được phát triển một cách tốt đẹp vững vàng thì lúc đó ta có thể
thấy đối tượng một cách rõ ràng. Thấy được là chúng sanh và diệt,
chúng là vô thường và chúng là khổ đau vì bị áp chế bởi định luật
sanh diệt nầy. Thấy được bản chất sanh diệt ở đấy, đó là trí tuệ,
là sự hiểu biết. Chính nhờ hiểu biết nầy mà người thiền sinh có thể
từ bỏ được khái niệm về sự thường còn hoặc về sự hạnh phúc. Sự
từ bỏ này mới chỉ là tạm thời trong khi hành thiền thôi chứ chưa là
sự từ bỏ hoàn toàn. Do đó mà trong khi chúng ta hành thiền minh sát thì
chúng ta cũng đang hành trì sự thu thúc với trí tuệ.
4. Thu thúc thứ tư là hạnh nhẫn nhục
(khantisanvara): Khanti có nghĩa là để một cái gì đó ở trên mình, hoặc
là chịu đựng mang cái vật đo,頮gụ ý chịu
sự nhẫn nhục bằng cách tự kềm chế. Các Sư vẫn được rèn luyện và
cố gắng hành trì hạnh kiên nhẫn nầy. Trong kinh điển có ghi lại cách
hành trì kiên nhẫn như sau. Một tỳ kheo suy niệm một cách đúng đắn sẽ
chịu đựng cái nóng cũng như cái lạnh, cái đói và khát, nắng gió, muỗi
mòng, rắn rít... Vị nầy sẽ chịu đựng lời nói không hay không tốt, những
câu xua đuổi, chịu đựng những cảm giác đau đớn sắc bén, cái đau làm
người ta khổ tâm, cái đau có thể nguy hiểm tánh mạng. Tất cả mọi người
đều phải nên vun bồi hạnh kiên nhẫn nầy vì nó rất quan trọng. Nếu
không có tâm kham nhẫn thì chúng ta không thể nào hành thiền một cách tốt
đẹp. Khí hậu có lúc nóng lúc lạnh, chúng ta phải cố gắng chịu đựng
đừng để cho tâm bị bực bội. Hoặc là khi hành thiền có thể bị đói
hay khát chúng ta phải cố gắng, kham nhẫn với nó. Đối với muỗi mòng cũng
vậy, nhất ở những miền quê. Có một dịp nọ Sư có khóa thiền ở
Grace Vallet, ở đấy có nhiều muỗi. Các thiền sinh bỏ mùng và khi nào
mùng thì muỗi bay vào cắn trong khi mình ngồi trong mùng. Lúc đó chỉ có
cách thì mình hãy kiên nhẫn để chịu đựng mà thôi. Cũng vậy, ta phải
tập nhẫn nhục đối với những lời nói cộc cằn, thô tháo... Khi hành
thiền thấy có sự đau trong thân thì tâm muốn đứng dậy để bớt đau,
nhưng ta phải kiên trì tiếp tục ngồi và cứ niệm lên trên cái đau đó.
Khi niệm như vậy là chúng ta đang tự thu thúc qua hạnh kiên nhẫn.
Kiên nhẫn là một hạnh rất quan trọng mà thiền
sinh phải trau giồi. Ở Miến Điện có câu "Kiên nhẫn đưa đến Niết
Bàn". Có kiên nhẫn mới chịu đựng nhiều điều kiện không thuận lợi.
Nhờ vậy chúng ta tránh được tâm bất thiện, nhất là tâm sân hận. Khi
tránh được sự sân hận thì tâm chúng ta được giải thoát, từ đó, nó
tạo nên những phước báu, những điều thiện lành. Sự việc chúng ta chịu
đựng sự trống lạnh, muỗi mòng, v.v..., đó là một hạnh lành giúp
chúng ta tránh sân hận, tránh ô nhiễm trong tâm, nhất là đối với cảm
giác đau đớn, không dễ chịu, sanh khởi trong thân tâm chúng ta khi hành
thiền.
Sư muốn quý vị lưu ý danh từ Phạn ngữ
"khantisamvara" (kềm chế qua sự kiên nhẫn) nầy. Đây không phải
hai danh từ riêng biệt, khanti và samvara nghĩa là kềm chế và kiên nhẫn
mà phải hiểu rằng sự kềm chế được thể hiện bằng đức kiên nhẫn.
Hòa thuợng Mahasi hay dùng chữ nầy để khuyến khích thiền sinh vun bồi hạnh
nhẫn nhục.
5. Thu thúc qua sự tinh tấn (Viriya Samvara):
Tự chế trong sức tinh cần là khi chúng ta dùng tinh tấn để giữ không
cho những tâm bất thiện sanh khởi và loại bỏ những tâm bất thiện nào
đã sanh khởi. Phật dạy về loại thu thúc này như sau: "- ở đây vị
tỳ kheo suy niệm một cách đúng đắn không để cho một ý nghĩa tham ái
sanh khởi. Khi nếu nó đã sanh khởi vị tỳ kheo nầy sẽ từ bỏ nó, sẽ
dời nó ra khỏi tâm mình, sẽ tận diệt nó. Vị tỳ kheo nầy không để
cho ý nghĩ sân hận sanh khởi. Nếu đã có, vị nầy cũng sẽ loại bỏ nó.
Và cũng vậy với ý nghĩ ác độc, vị nầy sẽ cố gắng bỏ nó đi, dời
nó ra khỏi tâm mình và tận diệt chúng". Nói rằng loại bỏ đi ý khi
ý nghĩ nầy vừa sanh khởi có nghĩa là khi những ý nghĩ vừa sanh khởi thì
vị nầy biết là có sự sanh khởi như vậy và cố gắng từ bỏ chúng. Vị
nầy cần có sự cố gắng giữ chánh niệm trên sự bất thiện đó để
ghi nhận sự bất thiện đó, nên ở đây tinh tấn rất cần thiết cho
chánh niệm.
Trong một bài kinh khác, đức Phật có dạy về
sự thu thúc qua sự cố gắng tinh tấn như sau: "- Nếu một người, một
vị tỳ kheo khi đang đi, đang đứng, đang ngồi, đang nằm khi còn đang thức
mà có một ý nghĩ tham ái hay sân hận sanh khởi nhưng vị nầy chứa giữ
nó, không từ bỏ nó, không làm cho nó chấm dứt thì vị nầy không có
tâm xấu hổ điều bất thiện, không có sự cố gắng tinh tấn. Vị nầy
làm biếng dể duôi thiếu tinh tấn. Và nếu một vị tỳ kheo khi đang đi,
đang đứng, đang ngồi, đang nằm, đang thức mà có một ý nghĩ tham ái
sân hận sanh khởi, vị nầy không chấp chứa ý nghĩ nó, cố gắng từ bỏ
nó, vất nó ra khỏi tâm mình. Vị tỳ kheo đó biết an trú trong hạnh sự
biết xấu hổ điều bất thiện, là một người có sự cố gắng tinh tấn,
một người có tâm quyết chí."
Chúng ta hãy xem lại sau một ngày hành thiền như
ngày hôm nay, thì chúng ta đã hành trì được những loại thu thúc nào? Trước
hết là chúng ta có sự thu thúc qua giới, qua chánh niệm, và qua trí tuệ,
qua sự hiểu biết. Ví dụ khi ta thấy được sự sanh diệt của đối tượng
đang quan sát, và chúng ta hiểu bản chất vô thường của đối tượng thì
chúng ta có thể nói là chúng ta có sự kềm chế qua trí tuệ. Khi chúng ta
cảm thấy đau trong thân nhưng chúng ta cố gắng vẫn tiếp tục ngồi thiền
không đứng dậy. Đó là sự thu thúc qua kiên nhẫn. Chúng ta có thu thúc
qua tinh tấn, vì nếu không thì chúng ta đã không hành thiền rồi. Vậy khi
chúng ta hành thiền minh sát là chúng ta hành trì đủ năm sự thu thúc. Và
chính năm sự kềm chế nầy sẽ đưa chúng ta đến mức tận diệt mọi ô
nhiễm trong tâm.
Sư mong rằng chúng ta sẽ luôn cố gắng hành
trì năm sự thu thúc kể trên cho đến mức viên mãn. Lúc đó mọi khổ
đau sẽ được chấm dứt ngay trong kiếp sống nầy.
SADHU! SADHU! SADHU!
NLTV 25-10-1998
Lời giới thiệu | Chương: | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | Kệ thiền