- Hương Vị Pháp Bảo
- Thiền sư U Silananda
(4)
Lợi ích của Thiền Hành
Trong các khóa thiền tập của chúng ta, các
thiền sinh phải tập chú niệm trong cả bốn tư thế đi, đứng, ngồi, nằm.
Họ phải duy trì chánh niệm trong mọi thời khắc, ở mọi tư thế của họ.
Tuy nhiên, tư thế chính trong khi thực tập quán niệm là tư thế ngồi với
chân xếp chéo. Bởi vì thân thể con người không thể nào chịu đựng
được cách ngồi nầy trong nhiều giờ, nên chúng ta xen kẽ các suất ngồi
thiền với các suất đi kinh hành. Vì pháp Thiền Hành, hay đi kinh hành, là
một pháp thiền quan trọng, tôi muốn thảo luận ở đây về bản thể, tầm
quan trọng, và các lợi ích của pháp thiền nầy.
Việc thực hành thiền quán niệm có thể ví như việc đun
nước. Khi đun nước, ta đổ nước vào nồi, đặt nồi lên bếp, rồi vặn
lửa lên. Nếu ta tắt lửa dù chỉ một thời gian ngắn, nước sẽ không
bao giờ sôi, cho dù sau đó ta lại vặn lửa lên nữa. Nếu ta cứ tắt và
vặn lửa nhiều lần như thế, nước sẽ không bao giờ sôi. Cũng như thế,
nếu có những khoảng hở giữa các thời khắc chánh niệm thì ta sẽ
không thể tạo được một xung lực và sẽ không đạt được Chánh Định.
Vì vậy trong các khóa thiền, hành giả được hướng dẫn thực tập chánh
niệm liên tục khi họ tỉnh thức, từ lúc mở mắt thức giấc vào buổi
sáng cho đến khi bắt đầu ngủ vào ban đêm. Từ đó, pháp thiền hành
được dung hợp vào công phu phát triển chánh niệm liên tục của mỗi
hành giả.
Một điều đáng buồn mà Sư thường nghe người ta chỉ trích
pháp thiền kinh hành, cho rằng qua pháp thiền nầy, hành giả không thể thu
lợi ích hoặc thành quả tốt đẹp nào. Tuy nhiên, chính Đức Phật là người
đầu tiên dạy dạy pháp thiền hành. Trong kinh Đại Tứ Niệm Xứ, Đức
Phật đã dạy về pháp đi kinh hành hai lần. Trong đoạn "Các Oai
nghi", Ngài giảng rằng vị tỳ kheo phải biết "Tôi đang đi"
khi người ấy đi, phải biết "Tôi đang đứng" khi người ấy đứng,
phải biết "Tôi đang ngồi" khi người ấy ngồi, và phải biết
"Tôi đang nằm" khi người ấy nằm.
Trong đoạn "Tỉnh giác", Đức Phật dạy, "Vị
tỳ kheo phải biết áp dụng tỉnh giác khi đi tới và khi đi lui". Tỉnh
giác ở đây có nghĩa là thông hiểu chính xác những gì ta đang quán sát.
Để hiểu đúng những gì đang quán sát, hành giả phải đạt chánh định,
và muốn có chánh định, hành giả phải biết quán niệm. Vì vậy, khi Đức
Phật nói, "Nầy các tỳ kheo, hãy áp dụng tỉnh giác," thì ta phải
hiểu rằng không phải chỉ áp dụng tỉnh giác, mà còn phải áp dụng
quán niệm và chánh định.
Như thế, Đức Phật đã dạy các thiền sinh áp dụng
chánh niệm, chánh định, và tỉnh giác khi bước đi, khi "đi tới và
đi lui." Do đó, đi kinh hành là một phần quan trọng trong tiến trình
thực tập thiền định.
Đi kinh hành như thế nào?
Mặc dù kinh Đại Niệm Xứ không có ghi lại các chỉ dẫn
chi tiết của Đức Phật về pháp thiền hành, chúng ta tin rằng Ngài đã dạy
cho các vị đệ tử thực hành pháp nầy khi Ngài còn tại thế. Các hướng
dẫn đó hẳn đã được các môn đệ của Ngài học, hành và truyền lại
từ đời nầy sang đời khác. Hơn nữa, các thiền sư thời xưa hẳn phải
thiết lập các công thức giảng dạy dựa vào sự thực tập của các
ngài ấy. Ngày nay, chúng ta đã được thừa hưởng một bộ các lời chỉ
dẫn chi tiết về phương cách thực tập pháp thiền kinh hành.
Bây giờ, ta hãy nói chi tiết về cách thực tập đi kinh hành.
Nếu bạn hoàn toàn là người mới bắt đầu, vị thiền sư sẽ dạy cho bạn
sự chánh niệm về một điều duy nhất khi đi kinh hành: phải chánh niệm
về động tác bước chân bằng cách ghi nhận thầm lặng trong tâm là
"bước, bước, bước," hoặc là "trái, phải, trái, phải."
Trong lúc thực tập nầy, có thể là bạn sẽ bước chậm hơn thường ngày.
Sau vài giờ thực tập, hoặc sau một hay hai ngày thiền tập,
bạn sẽ được chỉ dẫn đặt chú niệm vào hai động tác: (i) bước, và
(ii) đặt chân xuống, cùng lúc ấy ghi nhận trong tâm là "bước đi, đặt
xuống", hoặc "bước, đạp". Bạn phải gắng chú tâm vào hai
giai đoạn của một bước: "bước đi, đặt xuống; bước đi, đặt
xuống". Sau đó, bạn sẽ được dạy đặt chú niệm vào ba giai đoạn:
(i) dở chân lên; (ii) đưa chân đến trước; và (iii) đặt chân xuống. Sau
đó nữa, bạn sẽ được dạy chú niệm vào bốn giai đoạn: (i) dở chân
lên; (ii) đưa chân đến trước; (iii) đặt chân xuống; và (iv) chạm hoặc
ấn bàn chân xuống đất (hay đạp xuống). Lúc đó, bạn sẽ được chỉ
dẫn là phải ghi nhận trong tâm về bốn giai đoạn của động tác chân:
"dở lên, bước tới, đặt xuống, ấn xuống đất."
Ban đầu, thiền sinh sẽ cảm thấy khó bước chậm lại.
Tuy nhiên, sau khi họ được hướng dẫn để tâm theo dõi vào mọi cử động
của chân, và khi họ thực sự chú tâm theo dõi chặt chẽ, thì tự nhiên họ
sẽ bước chậm lại. Họ không cần phải cố gắng bước chậm, nhưng khi
họ chú tâm thật kỹ, các cử động chậm rãi sẽ tự động đến với họ.
Khi ta lái xe trên đường cao tốc, ta có thể phóng với tốc độ 100 km/giờ.
Với tốc độ như thế, ta không thể nào quán sát được tất cả các dấu
hiệu bên đường. Nếu ta muốn đọc được các dấu hiệu đó thì ta phải
lái xe chậm lại. Không cần phải có ai ra lệnh, "Chạy xe chậm lại!",
người tài xế sẽ tự động lái chậm lại nếu người ấy muốn đọc các
dấu hiệu bên đường. Cũng như thế, khi thiền sinh theo dõi bám sát các cử
động dở chân lên, đưa chân ra trước, đặt xuống, và ấn chân xuống
đất, họ sẽ tự động bước chậm lại. Khi bước chậm lại, họ mới
có thể có chánh niệm và hoàn toàn nhận thức được các động tác nầy.
Mặc dù thiền sinh theo dõi bám sát và bước chậm lại, có
thể họ cũng vẫn chưa thấy rõ tất cả các động tác và các giai đoạn
của bước đi. Các giai đoạn nầy có thể chưa được minh định trong tâm,
và họ tưởng như là chúng kết tạo thành một động tác liên tục. Khi sự
định tâm gia tăng mạnh hơn, thiền sinh sẽ dần dần thấy rõ hơn về các
giai đoạn khác nhau của một bước đi; và sẽ phân biệt được bốn giai
đoạn của động tác đó. Thiền sinh sẽ nhận biết rõ ràng rằng cử động
dở chân không trộn lẫn với cử động đưa chân ra phía trước, và họ
sẽ biết rõ là cử động đưa chân ra trước không có lẫn lộn với cử
động đặt chân xuống hoặc cử động ấn bàn chân xuống đất. Họ sẽ
nhận biết rõ ràng và phân biệt được các cử động nầy. Những gì họ
quán niệm và tỉnh thức theo dõi sẽ trở nên rõ ràng trong tâm thức của
họ.
Nhận thức được tứ đại
Khi thiền sinh tiếp tục hành trì pháp kinh hành, họ sẽ
quán sát được nhiều sự kiện hơn. Khi họ dở chân lên, họ thực nghiệm
tánh thể nhẹ nhàng của bước chân. Khi đưa chân ra trước, họ thực
nghiệm được sự chuyển động từ nơi nầy sang nơi khác. Khi đặt chân
xuống, họ thực nghiệm được tánh thể nặng nề của bàn chân, bởi vì
bàn chân sẽ trở nên nặng nề hơn khi nó từ từ đưa hạ xuống đất.
Khi bàn chân chạm đất, họ cảm nhận được sự chạm xúc của gót chân
với mặt đất. Do đó, cùng lúc với quán sát sự dở chân, đưa ra trước,
đặt xuống, và ấn xuống đất, thiền sinh cũng sẽ cảm nhận được tánh
thể nhẹ nhàng của bàn chân đưa lên, chuyển động của chân, tánh thể
nặng nề khi hạ chân xuống, và sự chạm xúc của bàn chân, sự cứng mềm
của bàn chân trên nền đất.
Khi thiền sinh cảm nhận được các tiến trình nầy, là họ
đang cảm nhận được bốn yếu tố cơ bản (tứ đại, dhatu). Bốn yếu tố
cơ bản đó là: đất, nước, lửa, gio鮠Bằng cách thật sự theo dõi bốn giai đoạn của bước
đi kinh hành, bản chất của bốn yếu tố nầy được cảm nhận, không phải
chỉ là các khái niệm, mà là các tiến trình thật sự, như là các thực
tại tối hậu (chân đế).
Bây giờ, chúng ta hãy đi vào chi tiết hơn về về đặc tính
của các yếu tố nầy khi đi kinh hành. Trong động tác thứ nhất, khi dở
bước chân lên, thiền sinh cảm nhận được sự nhẹ nhàng; và khi họ cảm
nhận được sự nhẹ nhàng, họ hầu như cảm nhận được yếu tố lửa.
Một đặc tính của yếu tố lửa là làm cho sự vật nhẹ nhàng hơn, vì
khi nhẹ nhàng hơn thì chúng sẽ bay lên. Trong khi cảm nhận được sự nhẹ
nhàng của động tác đưa lên, thiền sinh cảm nhận được bản chất của
yếu tố lửa. Tuy nhiên, ngoài sự nhẹ nhàng cũng còn có sự chuyển động
khi dở chân lên. Chuyển động là một đặc tính của yếu tố gió. Tuy
nhiên, sự nhẹ nhàng của yếu tố lửa thì bao trùm hơn. Cho nên ta có thể
nói rằng trong giai đoạn dở chân lên, yếu tố lửa là chánh và yếu tố
gió là phụ. Hai yếu tố nầy được thiền sinh cảm nhận khi họ chú tâm
theo dõi động tác dở chân lên.
Giai đoạn kế tiếp là đưa chân ra trước. Khi di chuyển bàn
chân ra trước, yếu tố bao trùm là yếu tố gió, bởi vì chuyển động là
một trong các đặc tính chủ yếu của yếu tố gió. Vì vậy, khi thiền
sinh chú tâm vào sự chuyển động đưa chân ra trước trong khi đi kinh hành,
họ hầu như sẽ cảm nhận được bản chất của yếu tố gió.
Giai đoạn tiếp theo là sự chuyển động đặt chân xuống.
Khi thiền sinh đặt chân xuống, có một sự nặng nề nơi bàn chân. Tính nặng
nề là một đặc tính của yếu tố nước, như thể đang nhỏ giọt và sền
sệt. Khi một chất lỏng có tính nặng nề, nó trở nên sền sệt, dính nhờn.
Như thế, khi thiền sinh cảm nhận tính nặng nề của bàn chân, họ hầu
như cảm nhận được thể tính của yếu tố nước.
Khi ấn bàn chân xuống đất, thiền sinh cảm nhận được
tính chất cứng hoặc mềm của bàn chân trên mặt đất. Điều nầy đưa
đến thể tính của yếu tố đất. Bằng cách chú tâm vào sự đè ấn của
bàn chân xuống đất, thiền sinh hầu như cảm nhận được thể tính của
yếu tố đất.
Như vậy, chỉ trong một bước đi, thiền sinh nhận thức
được nhiều tiến trình. Họ cảm nhận được bốn yếu tố đất, nước,
lửa, gió và thể tính của chúng. Chỉ có những thiền sinh nào chịu khó
thực tập như thế mới có hy vọng nhận thấy được các điều nầy.
Danh-Sắc và tuệ giác đầu tiên
Khi thiền sinh tiếp tục hành trì pháp thiền kinh hành,
họ sẽ nhận thức được rằng cùng với mỗi cử động, sẽ có một
tâm ghi nhận, một sự tỉnh giác về cử động đó. Có một chuyển động
dở bước chân lên và cũng có một cái tâm để nhận thức sự dở bước
đó. Trong thời khắc kế tiếp, có một chuyển động đưa chân ra trước
và cũng có một cái tâm nhận thức sự chuyển động. Hơn nữa, thiền
sinh sẽ thấy rằng cả sự chuyển động và sự nhận thức cùng sinh khởi
và hủy diệt trong thời khắc đó. Qua giai đoạn kế tiếp, có một chuyển
động đưa chân xuống và cũng có một tâm nhận thức sự chuyển động;
và cả hai cùng sinh khởi và hoại diệt ngay khi đặt chân xuống đất. Một
tiến trình tương tự xẩy ra khi ấn chân xuống đất: có sự đè ấn và
sự nhận thức về đè ấn. Bằng cách nầy, thiền sinh hiểu rằng song
song với sự chuyển động của chân là có các thời khắc của sự nhận
thức.
Sự nhận thức trong các lúc như thế gọi là Danh (nama) hay
Tâm, và sự chuyển động của chân gọi là Sắc (rupa) hay Vật chất. Như
thế, thiền sinh sẽ cảm nhận được tâm và vật chất khởi sinh và hoại
diệt trong mỗi thời khắc. Thời khắc nầy có sự dở bước chân và sự
nhận thức về dở chân lên, và thời khắc kế là có sự chuyển động
đưa chân ra trước và sự nhận thức về chuyển động đó, và cứ tiếp
tục như thế. Điều nầy được cảm nhận như là một cặp, danh và sắc,
khởi sinh và hoại diệt trong từng thời khắc. Như thế, nếu thiền sinh
theo dõi chặt chẽ, họ sẽ tiến đến sự cảm nhận về sự hiện diện
của cặp danh-sắc, tâm và vật chất, trong mỗi lúc quán sát.
Một điều khác nữa mà thiền sinh sẽ khám phá ra là vai
trò của ý định, chi phối từng động tác. Họ sẽ trực nhận được rằng
họ dở chân lên là vì họ muốn như thế, họ đưa chân ra trước là vì
họ muốn như thế, họ đặt chân xuống là vì họ muốn như thế, họ ấn
bàn chân xuống đất là vì họ muốn như thế. Có nghĩa là họ sẽ trực
nhận rằng có một ý định xẩy ra trước mỗi động tác. Sau khi có ý định
dở chân, là dở chân xẩy ra. Từ đó họ thông hiểu được tíng
"duyên sinh" của mọi sự kiện -- các động tác nầy không thể tự
xẩy ra nếu không có những điều kiện. Các động tác nầy không tạo ra
bởi thần linh hay một quyền lực nào, và các động tác nầy không bao giờ
xẩy ra nếu không có nguyên nhân. Có một nguyên nhân hay một điều kiện
cho mỗi động tác, và điều kiện đó chính là ý định tiên khởi xẩy
ra trước mỗi động tác. Đây là điều mà thiền sinh sẽ khám phá được
khi họ chuyên chú quán sát.
Khi thiền sinh thông hiểu được tính duyên sinh của mọi
động tác, và các động tác nầy không do thần linh hay quyền lực nào tạo
ra, họ sẽ thông hiểu được rằng các động tác đó là do ý định. Họ
thông hiểu được rằng ý định là điều kiện để động tác được xẩy
ra.
Từ đó, sự liên hệ giữa cái tạo điều kiện và cái bị
điều kiện, giữa nguyên nhân và hậu quả, được hiểu rõ. Trên cơ sở
của sự hiểu biết nầy, thiền sinh sẽ gỡ bỏ các nghi ngờ về Danh và
Sắc qua sự nhận thức rằng danh và sắc không thể khởi sinh nếu không
có điều kiện. Với sự thông hiểu rõ ràng về tính duyên sinh của vạn
vật, và với sự vượt thoát các nghi ngờ về danh và sắc, người thiền
sinh được xem như là đã đạt đến giai đoạn của một vị "cận Tu
Đà Hoàn" (tiểu Tu Đà Hoàn, cula-sotapanna, lesser Sotapana) .
Tu Đà Hoàn là người "nhập dòng" (dự lưu), người
đã đạt được quả vị đầu tiên của sự Giác ngộ. Vị "cận Tu
Đà Hoàn" không phải là một người "dự lưu" thực thụ,
nhưng được xem như là sẽ được tái sinh trong các cõi tương đối an nhàn
sung sướng, như là cõi người và cõi tiên. Người "cận Tu Đà
Hoàn" không thể tái sinh trong bốn cõi đau đớn như là địa ngục, thú,
cõi a-tu-la, ngạ quỉ.
Mức độ "cận Tu Đà Hoàn" nầy có thể đạt được
bằng cách hành trì pháp thiền kinh hành, luôn luôn chú tâm vào các động
tác của bước đi. Đây là lợi ích lớn nhất của pháp thiền kinh hành.
Tầng Giác ngộ nầy cũng không phải dễ đạt được, nhưng một khi thiền
sinh đã đạt đến đó, họ biết chắc rằng họ sẽ được tái sinh trong
một cõi sung sướng, trừ phi họ lại tạo nghiệp ác mà sa đọa.
Tam pháp ấn
Khi thiền sinh thông hiểu danh và sắc được sinh khởi
và hủy diệt trong mỗi thời khắc, họ sẽ thông hiểu được sự vô thường
của các tiến trình bước đi, và họ cũng thông hiểu được sự vô thường
của nhận thức về bước đi đó. Sự hiện hữu của hoại diệt tiếp
theo sinh khởi là dấu hiệu hoặc đặc tính của một sự vật gì đó mà
ta biết rằng nó không thường tồn. Nếu ta muốn xác định một vật gì
đó là thường tồn hay vô thường, ta phải cố gắng xem xét -- qua năng lực
của thiền định -- rằng vật đó có phải là đối tượng của một tiến
trình sinh khởi rồi hoại diệt hay không. Nếu khả năng thiền định của
ta có đủ năng lực giúp ta thấy được sự sinh diệt của hiện tượng,
thì lúc đó ta mới có thể quyết định hiện tượng được quán sát đó
là vô thường. Bằng cách đó, thiền sinh quán sát được sự hiện hữu của
chuyển động dở chân và sự nhận thức của chuyển động đó, rồi
chúng lại biến mất đi, nhường chỗ cho chuyển động đưa chân ra trước
và nhận thức về chuyển động đưa chân ra trước. Các động tác nầy
sinh rồi diệt, sinh rồi diệt, và thiền sinh tự mình thông hiểu được
tiến trình nầy -- họ không cần phải chấp nhận hay tin tưởng điều nầy
qua một quyền lực ngoại vi nào, mà cũng không cần phải dựa vào báo
cáo của một người nào khác.
Khi thiền sinh thông hiểu danh và sắc khởi sinh rồi hoại
diệt, họ thông hiểu danh và sắc là vô thường. Khi họ thấy chúng là
vô thường thì tiếp theo là họ sẽ thấy chúng là những gì bất toại ý
bởi vì chúng luôn luôn bị trạng thái sinh diệt áp bức và đè nén. Sau
khi thông hiểu tính vô thường và bất toại ý của vạn vật, thiền sinh
thấy rằng họ không thể làm chủ được chúng; có nghĩa là họ trực nhận
rằng không có một bản ngã hay linh hồn nào bên trong để ra lệnh cho chúng
được thường tồn. Sự vật chỉ sinh khởi rồi hoại diệt theo luật thiên
nhiên. Nhờ thấu hiểu như thế, thiền sinh thấu hiểu được đặc tính
thứ ba của các hiện tượng hữu vi -- tùy thuộc điều kiện, đặc tính
của vô ngã, một đặc tính của mọi vật vốn không có bản ngã. Một ý
nghĩa khác của vô ngã là không có chủ nhân -- nghĩa là không có một thực
thể nào, một linh hồn nào, một quyền lực nào có thể làm chủ được
bản thể của vạn vật. Như thế, đến lúc đó, thiền sinh đã thông hiểu
được ba đặc tính của mọi hiện tượng hữu vi -- Tam Pháp Ấn: vô thường
(anicca), khổ (dukkha), và vô ngã (anatta).
Thiền sinh có thể thông hiểu được ba đặc tính nầy qua
cách theo dõi bám sát các động tác bước đi và các nhận thức của động
tác. Khi chuyên tâm chú niệm vào các chuyển động nầy, họ sẽ thấy vạn
vật khởi sinh và hoại diệt, và từ đó, họ sẽ tự mình nhận thức
được tính vô thường, khổ, và vô ngã của tất cả mọi hiện tượng hữu
vi.
Tâm Xả Ly
Bây giờ chúng ta hãy khảo sát chi tiết về các động
tác của đi kinh hành. Giả sử ta quay phim, thu hình các bước chân dở
lên. Giả sử thêm rằng khi dở chân lên thì mất một giây đồng hồ, và
giả sử rằng máy quay phim có thể chụp được 36 ảnh trong mỗi giây. Sau
khi quay phim, ta nhìn lại từng tấm ảnh trong cuộn phim. Ta sẽ thấy rằng
mặc dù dở bước chân lên có vẻ chỉ là một động tác, nhưng thực ra
là 36 sự chuyển động. Mỗi tấm ảnh cho ta thấy các cử động khác
nhau, mặc dù sự khác biệt nầy rất nhỏ mà ta thường không để ý đến.
Nếu máy quay phim đó có thể chụp được một ngàn tấm ảnh trong một
giây thì sao? Lúc đó, ta lại sẽ thấy có một ngàn động tác trong một
chuyển động dở bước chân, cho dù các động tác nầy hầu như khó mà
phân biệt được. Nếu máy quay phim có thể chụp một triệu tấm ảnh
trong một giây -- điều nầy chưa xẩy ra, nhưng một ngày nào đó sẽ có
như thế -- thì lúc đó, ta sẽ thấy có một triệu động tác trong một hiện
tượng mà ta cho rằng chỉ có một chuyển động duy nhất.
Nỗ lực trong pháp thiền kinh hành là để thấy các chuyển
động của ta như là máy quay phim, từng tấm ảnh một. Ta cũng muốn quán
sát sự nhận thức và ý định trước mỗi chuyển động. Như thế, ta mới
khâm phục quyền lực trí tuệ minh sát của Đức Phật, qua đó Ngài đã
thấy được tất cả mọi chuyển động. Khi chúng ta dùng chữ "thấy"
hay "quán sát" trong tình huống của chúng ta thì chỉ có nghĩa là
ta có thể thấy một phần qua lối trực tiếp và một phần qua lối suy diễn;
ta không thể nào thấy trực tiếp cả triệu chuyển động như Đức Phật
đã thấy.
Trước khi thiền sinh thực tập pháp đi kinh hành, họ tưởng
rằng một bước đi chỉ là một động tác. Sau khi thiền quán về động
tác đó, họ thấy có ít nhất là bốn động tác. Nếu họ quán sát sâu
xa hơn, họ sẽ hiểu rằng mỗi một động tác nầy lại bao gồm cả triệu
động tác nhỏ khác. Như thế họ thấy Danh và Sắc, tâm và vật chất, khởi
sinh rồi hoại diệt, như là vô thường. Bằng cảm nhận thông thường, chúng
ta không thể thấy tính vô thường của vạn vật vì tính vô thường đó
bị che phủ bởi một ảo tưởng của sự liên tục. Ta tưởng rằng ta chỉ
thấy có một động tác liên tục, nhưng nếu ta nhìn kỷ hơn, ta sẽ thấy
rằng cái ảo tưởng về liên tục đó có thể bị phá vỡ. ảo tưởng đó
bị phá vỡ bằng cách quán sát trực tiếp các hiện tượng vật lý, từng
phần, từng chút, khi chúng khởi sinh và hoại diệt. Giá trị của thiền
quán là ở khả năng của ta để gỡ bỏ màn liên tục và khám phá thực
chất của vô thường. Thiền sinh có thể khám phá trực tiếp bản chất của
vô thường nầy qua nỗ lực của chính họ.
Sau khi trực nhận rằng mọi vật được cấu tạo bởi các
phần nhỏ, rằng chúng xẩy ra rời rạc, và sau khi quán sát từng mảnh vụn
một, thiền sinh sẽ trực nhận được rằng không có gì trên đời để họ
tham thủ, để họ thèm muốn. Nếu ta thấy vật gì mà ta đã tưởng là đẹp
nhưng lại có nhiều lỗ trống, đang bị băng hoại và hủy diệt thì ta
không còn chú ý đến nó nữa. Thí dụ như khi ta xem một bức tranh sơn dầu
thật đẹp. Ta nghĩ rằng nước sơn và tấm vải dường như là một thực
thể rắn chắc, đồng nhất. Nhưng nếu ta đưa bức tranh qua một kính hiển
vi cực mạnh, ta sẽ thấy bức tranh có nhiều lỗ hỗng và khoảng trống.
Sau khi thấy bức tranh được cấu tạo bởi các khoảng trống, ta không
còn chú ý đến nó và không còn tham luyến nó nữa. Các nhà vật lý học
hiện đại biết rất rõ ý tưởng nầy. Họ đã quan sát, với các dụng cụ
cực mạnh, để thấy rằng vật chất chỉ là sự giao động của các hạt
tử và năng lượng thay đổi luôn -- không có một bản thể nào trong đó
cả. Bằng cách trực nhận sự vô thường bất tận đó, thiền sinh thông
hiểu rằng không có gì đáng để thèm muốn, không có gì đáng để chấp
thủ trong thế giới hiện tượng nầy.
Kết luận
Giờ đây chúng ta đã hiểu được các lý do của pháp
thiền kinh hành. Ta hành trì thiền quán vì ta muốn gỡ bỏ mọi chấp thủ
và luyến ái vào sự vật. Qua sự thông hiểu ba đặc tính của hiện hữu
-- vô thường, khổ, và vô ngã của vạn vật -- ta gỡ bỏ được sự luyến
ái. Ta bỏ luyến ái vì ta không muốn phiền não. Khi nào còn chấp thủ và
luyến ái, thì luôn luôn còn sự hoạn khổ. Nếu ta không muốn hoạn khổ
thì ta phải loại trừ chấp thủ và luyến ái. Ta phải thông hiểu rằng mọi
vật đều chỉ là danh và sắc khởi sinh rồi hoại diệt, và chúng đều
không có tự thể. Khi ta thực chứng được điều nầy, ta sẽ có thể từ
bỏ được lòng chấp thủ vào mọi vật. Nếu ta không thực chứng được
như thế -- cho dù chúng ta đọc nhiều sách, đi nghe nhiều buổi thuyết giảng
hoặc bàn luận về sự từ bỏ tham thủ -- ta sẽ không thể nào thoát khỏi
được lòng chấp thủ. Điều cần thiết là chính ta phải có một kinh
nghiệm trực tiếp để thật sự thấy rằng vạn vật hữu vi đều mang dấu
hiệu của vô thường, khổ và vô ngã.
Vì thế, ta phải chú tâm quán niệm khi ta đi, cũng như khi
ta ngồi hoặc khi nằm xuống. Tôi không có chủ tâm cho rằng chỉ có thiền
kinh hành là đưa đến thực chứng tối hậu và khả năng hoàn toàn từ bỏ
lòng tham thủ. Tuy nhiên, pháp đi kinh hành là một pháp thiền có giá trị
như là pháp tọa thiền và các pháp thiền minh sát (vipassana) khác. Đi kinh
hành khuyến khích phát triển tâm ý. Pháp nầy có nhiều sức mạnh như là
pháp quán niệm hơi thở hoặc pháp quán niệm sự phồng xẹp của bụng.
Đây là một dụng cụ hữu hiệu để giúp ta loại bỏ các tâm bất thiện.
Đi kinh hành giúp ta được minh triết để thấy thực chất của vạn vật,
và ta phải nỗ lực hành trì pháp nầy cũng như ta hành trì pháp tọa thiền
và các pháp thiền khác.
Qua sự hành trì pháp thiền minh sát trong mọi tư thế, kể
cả trong lúc bước đi, Sư cầu mong bạn và tất cả các thiền sinh đạt
được sự thanh tịnh viên mãn ngay trong kiếp sống nầy.
SADHU! SADHU! SADHU!
NLTV, 1995
Lời
giới thiệu | Chương: | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | Kệ thiền