- Ngữ lục của thiền
sư Hư Vân
V
XXII. Phương
tiện khai thị tại núi Vân Cư, năm 1955 [^]
1/ Ngày mười
một tháng ba.
Thích Ca Như Lai thuyết pháp trong bốn
mươi chín năm, đàm kinh hơn ba trăm hội, quy nhiếp tại ba tạng, mười
hai bộ. Ba tạng tức là tạng kinh, tạng luật, tạng luận. Toàn bộ ba tạng
không ngoài ba học, giới định huệ. Tạng kinh thâu nhiếp định học. Tạng
luật thâu nhiếp giới học. Tạng luận thâu nhiếp huệ học. Nói chung,
hai chữ nhân quả bao gồm tất cả lời thuyết pháp của Phật. Tất cả
phàm thánh, thế gian, xuất thế gian, đều không vượt ngoài hai chữ nhân
quả. Nhân tức là nhân duyên. Quả tức là quả báo.
Ví như trồng lúa, lấy hạt lúa
làm nhân, rồi nhờ ánh sáng, gió mưa làm duyên. Khi hạt lúa chín mùi thì
gặt hái lúa, tức là quả. Nếu không nhân duyên, quyết chẳng thể kết
quả. Sở dĩ thành thánh hiền, vì các Ngài minh nhân thức quả. Minh tức
là liễu giải được nghĩa. Thức tức là hiểu rõ được nghĩa. Phàm phu
sợ quả. Bồ Tát sợ nhân. Phàm phu chỉ sợ quả ác, mà nào biết đến
quả ác phát khởi từ nhân xấu. Bình thường, tự ý làm những việc hàm
hồ ngu xuẩn; mưu đồ hưởng sung sướng trong nhất thời, mà quên rằng
sung sướng vốn là nhân khổ.
Bồ Tát chẳng như thế. Bình thường,
nhất cử nhất động, hộ trì thân tâm cẩn trọng, và luôn lấy việc giữ
giới làm đầu, nên chẳng gieo nhân xấu, thì làm sao quả ác đến? Bị quả
ác trói buộc, do vì đã trồng nhân xấu bao đời xa xưa. Trước kia đã từng
trồng nhân nào, thì ngày nay khó mà trốn chạy quả báo đó. Khi cảm thọ
quả báo, phải an nhiên lãnh thọ, chẳng nên lui sụt sợ hãi. Đấy mới gọi
là minh nhân thức quả.
Ví như pháp sư An Thế Cao thuở
xưa, nhờ bao kiếp tu trì, nên được thọ sanh làm thái tử nước An Tức.
Khi ấy, Thái Tử xả bỏ năm dục, xuất gia tu đạo, đắc được túc mạng
thông, biết đời trước đã từng thiếu nợ mạng người. Chủ nhân lúc
ấy đang ở tại nước Tàu. Do đó, Ngài đi thuyền qua Tàu. Đến Lạc
Dương, Ngài đi qua một cánh đồng hoang vắng. Bỗng nhiên, từ đâu chạy
đến, một thiếu niên tay cầm thanh kiếm, xa thấy Ngài, nổi giận đùng
đùng, hung khí đằng đằng. Khi chạy tới, chưa kịp nói lời gì, liền
vung kiếm chém Ngài. Sau khi chết, thần thức của Ngài vẫn trở lại đầu
thai làm Thái Tử nước An Tức. Lúc trưởng thành, cũng phát tâm xuất gia,
vẫn đạt được túc mạng thông, và biết đời này lại phải đền thêm
một mạng người nữa. Chủ nhân vẫn ở tại Lạc Dương. Vì vậy, Ngài
đi qua Tàu một lần nữa, rồi đến thẳng nhà người vừa giết mình
trong đời tiền kiếp. Đến nơi, Ngài xin tá túc qua đêm. Được tiếp đãi
cơm nước xong, Ngài hỏi chủ nhân:
- Ông có nhận ra tôi không?
Chủ nhân đáp:
- Không.
- Tôi là vị tăng mà ông đã giết
tại một cánh đồng vắng, vào ngày ấy, tháng ấy, năm ấy.
Chủ nhân kinh hoàng sợ sệt, vì việc
này không có người thứ ba nào biết đến. Ông nghĩ rằng vị tăng này chắc
là hồn ma thuở xưa, nay trở lại đòi mạng. Do đó, ông ta vụt muốn bỏ
chạy. Ngài bảo:
- Chớ sợ! Tôi chẳng phải là quỶ
ma đến đòi mạng đâu! Ngày mai, tôi cũng sẽ bị người khác giết chết,
để đền sanh mạng trong đời tiền kiếp. Vì thế tôi mới đến đây. Nhờ
ông làm nhân chứng, chuyển lời di chúc của tôi lại cho quan quân địa
phương, bảo rằng tự tôi đến đây để đền mạng, chớ trị tội kẻ
giết lầm tôi.
Nói xong, Ngài liền đi ngủ. Hôm
sau, Ngài đi ra đường phố, gặp một người nông phu, đang gánh củi. Lúc
Ngài đi gần tới ông ta, đột nhiên gánh củi ở phía trước rớt xuống
đất, nên cây đòn gánh vụt đánh bật trở lại đằng sau, đập trúng
vào đầu Ngài, khiến Ngài chết ngay lập tức. Người nông dân bị dẫn
đến quan trường xét xử. Chất vấn xong, quan tuyên bố là ông nông dân
phạm tội cố sát. Ông chủ nhân giết Ngài đời trước, thấy lời Ngài
dặn dò đêm hôm qua thật rất tương hợp với sự tình, nên trần thuật
và trình di chúc của Ngài lên quan xét xử. Quan nghe xong, tin tưởng nhân quả
chẳng sai chạy, nên tha tội ngộ sát cho ông nông dân. Khi bị đòn gánh đánh
chết, thần hồn Ngài vẫn bay trở lại, đầu thai làm Thái Tử nước An Tức.
Lớn lên, cũng xuất gia tu hành, tức là pháp sư An Thế Cao.
Tuy là thánh hiền, nhưng chẳng lầm
nhân quả. Đã từng trồng nhân xấu thì phải cảm thọ quả ác. Nếu hiểu
rõ nghĩa này, thì những cảnh thuận nghịch, vui buồn, khổ nhọc, sung sướng,
cùng mọi cảnh giới hằng ngày, đều do nhân xưa tạo ra. Ngay nơi những cảnh
giới này, chớ sanh tâm vọng tưởng thương ghét oán trách, thì tự nhiên
sẽ xả bỏ được tất cả, khiến chuyên tâm vào đạo. Những thói quen tật
xấu, vô minh, cống cao ngã mạn, đều không thể làm chướng ngại, thì tự
nhiên dễ dàng nhập đạo.
2/ Ngày mười hai tháng ba [^]
Người xưa xem sanh tử là việc lớn,
nên không quản khổ nhọc, bôn ba trèo non lội suối, vượt núi băng sông,
để tầm sư học đạo. Chúng ta từ đời vô thủy đến nay, bị bao vọng
tưởng che lấp, trần lao trói buộc, quên mất bản lai diện mục của
mình. Ví như tấm kiếng, vốn tự chiếu soi khắp cả trời đất, nhưng vì
bị bụi bặm trần cấu bám vào, khiến nó không thể chiếu sáng. Chúng ta
chỉ việc dùng công phu lau chùi, thì tự tánh chiếu soi xưa kia, tự nhiên
hiển hiện. Tâm tánh của chúng ta cũng như thế. Trên đồng với chư Phật
không hai không khác, không thiếu không thừa. Song, tại sao chư Phật đã
thành Phật rồi, mà chúng ta vẫn còn làm phàm phu, nằm trong biển khổ
sanh tử? Chỉ vì tâm tánh của chúng ta, bị bao tập khí vô minh phiền não
che lấp, nên tâm tánh này tuy cùng Phật không khác, nhưng không thể dùng
được.
Ngày nay, chúng ta đã xuất gia, đồng
là con Phật, thì phải cố gắng minh tâm kiến tánh, xoay về cội nguồn,
chẳng ngại khổ nhọc, vận dụng công phu. Người xưa chịu muôn ngàn khổ
nhọc, tham tầm thiện tri thức, chỉ vì muốn hiểu rõ chính mình. Hiện tại
là đời mạt pháp, thời thánh giáo đã qua, Phật pháp ngày càng suy vi, người
nhiều biếng nhác, nên chẳng có thể cắt đứt dòng sanh tử. Ngày nay đã
biết tự tâm tương đồng với chư Phật, phải nên phát tâm tu hành dài
lâu, tâm kiên cố, tâm dũng mãnh, tâm hổ thẹn. Từ sáng đến tối, trong
mười hai thời, như mài như giũa, như cạo như chùi, nỗ lực tinh tấn, dụng
công tu đạo, chớ để thời gian trôi qua vô ích.
3/ Ngày mười ba tháng ba [^]
Cổ nhân nói:
- Luận việc thành đạo rất dễ,
nhưng muốn trừ vọng tưởng lại rất khó.
Đạo là lý. Lý là tâm. Tâm, Phật,
chúng sanh, tuy là ba, nhưng nào có sai khác! Người người vốn có đầy đủ;
ai ai cũng sẽ viên thành quả vị Phật. Tâm tánh đó, tại Thánh không tăng,
tại phàm chẳng giảm. Nếu ai hiểu được tâm này thì đại địa không
còn một tấc đất. Mọi pháp thế gian cùng xuất thế gian, phàm phu thánh
hiền, đều vốn không thật, sao lại có sanh tử? Vì thế, bảo:
- Luận bàn thành Phật rất dễ.
Tâm thể này tuy sáng soi vi diệu,
nhưng bị bao loại vọng tưởng che lấp, ánh sáng không cách chi hiển hiện,
nên muốn trừ vọng tưởng thật không dễ dàng.
Vọng tưởng có hai loại: Thô kệch
và vi tế. Lại nữa, tâm có vọng tưởng hữu lậu và vô lậu. Vọng tưởng
hữu lậu khiến chúng ta cảm thọ quả báo khổ nhọc hay sung sướng ở cõi
trời và người. Vọng tưởng vô lậu khiến chúng ta có khả năng thành Phật
làm Tổ, thoát khỏi sanh tử, xuất ra ba cõi. Vọng tưởng thô kệch khiến
lãnh thọ quả báo xấu, đọa vào ba đường khổ địa ngục, ngạ quỶ, súc
sanh. Vọng tưởng vi tế khiến tạo bao việc lành thiện như niệm Phật,
tham thiền, tụng kinh, trì chú, lễ bái, hộ trì giới luật, v.v... Vọng tưởng
thô tương ưng cùng nghiệp xấu, tức khởi mười điều ác. Ý khởi tham
lam, sân hận, si mê. Miệng nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi đôi chiều,
nói lời ác độc. Thân tạo nghiệp giết hại, ăn cắp, tà dâm. Đây là mười
việc ác do thân miệng ý tạo ra. Trong đó, phân biệt tùy theo cấp bậc nặng
nhẹ. Tạo nghiệp thượng phẩm của mười điều ác thì đọa địa ngục.
Trung phẩm thì đọa ngạ quỶ. Hạ phẩm thì làm súc sanh. Tổng quát, cho dầu
vọng tưởng thô hay vi tế, tất cả đều phát khởi từ một tâm niệm. Mười
pháp giới cũng từ tâm niệm này phát sanh, nên bảo rằng tất cả đều
do tâm tạo.
Cội gốc bổn địa phong quang của
chúng ta, vốn không mang một sợi tơ trói buộc, và chẳng bị phiền trược
trần lao làm ô nhiễm, chỉ bất đắc dĩ mới gọi là vọng tưởng thô.
Khi chúng diệt thì còn vọng tưởng vi tế. Lúc đó, mạng căn vẫn chưa
đoạn. Hiện tại, muốn trừ vọng tưởng, phải nương theo một câu thoại
đầu hay chú tâm vào một tiếng niệm Phật, để đập ngói cửa thành
quân địch; đem vọng tưởng vi tế để hàng phục vọng tưởng thô, tức
là lấy độc trị độc. Hàng phục vọng tưởng thô rồi, chỉ còn lại vọng
tưởng vi tế. Lúc ấy mới tương ưng cùng đạo. Tiếp tục mài giũa, công
phu lâu ngày được thuần thục, thì vọng tưởng vi tế cũng không còn.
Biết vọng tưởng không tốt, nên
phải đoạn trừ chúng. Song, biết mà lại cố phạm, vẫn khởi bao vọng tưởng,
chạy đuổi lưu chuyển theo tập khí. Gặp nghịch cảnh vẫn khởi vô minh,
làm biếng giải đãi, cầu danh lợi, nghĩ ngợi việc dâm dục v.v... Tuy biết
chúng chẳng tốt lành, mà không thể xả bỏ được. Vì sao? Do từ đời vô
thủy đến nay, huân tập khí nhiễm ô thâm sâu, nên trở thành thói quen tập
quán. Như chó thích ăn phẩn, tuy cho thức ăn ngon, nhưng khi nghe mùi phẩn,
nó vẫn chạy đến. Đây là tập quán trở thành tánh khí. Có một câu
chuyện, miêu tả cách diệt trừ vọng tưởng của người xưa.
Thiền sư Pháp Đường, núi Đại
Mai, đến tham vấn Mã Tổ, hỏi:
- Thế nào là Phật?
Mã Tổ bảo:
- Tâm tức là Phật.
Thiền sư bèn đại ngộ, rồi lên
núi Đại Mai, kết am ẩn tu. Mã Tổ nghe tin, bảo tăng đến đó hỏi
nguyên do. Thiền sư đáp:
- Mã Tổ dạy tôi rằng tâm tức
là Phật, nên mới trụ nơi đây tu hành.
Tăng bảo:
- Gần đây Mã Tổ dạy Phật pháp
có khác đôi chút.
- Khác như thế nào?
- Phi tâm, phi Phật.
- Lão già làm mê hoặc người chẳng
có ngày nào thôi. Mặc tình lão phi tâm phi Phật, tôi chỉ biết tâm tức
là Phật.
Tăng trở về thuật lại. Mã Tổ bảo:
- Trái mai đã chín.
Những hành động của chư Tổ Sư,
đều đánh thẳng vào tâm người, khiến họ đoạn trừ vọng tưởng. Chúng
ta là người xuất gia, hành cước tham học, chưa đoạn sanh tử, phải sanh
tâm hổ thẹn sâu xa, cùng phát tâm đại dũng mãnh, chớ để tập khí xoay
chuyển.
"Giả sử có vòng lửa sắt,
cháy rực trên đầu, quyết không vì khổ này mà thối thất tâm Bồ Đề".
Bồ Đề tức là giác. Giác tức
là đạo. Đạo tức là diệu tâm. Tâm này xưa nay vốn viên mãn tròn đầy,
chẳng hề khiếm khuyết. Nay muốn tìm về tự tánh, phải tự phát tâm, hướng
vào tự tánh mà tầm cầu. Ngược lại, ngay cả Phật Thích Ca xuất thế,
e rằng cũng không giúp được gì!
Trong mười hai thời, chớ phân biệt
động tịnh, đi đứng nằm ngồi. Nếu sống lại với thể tướng như
như của chân tâm mà không khởi vọng tưởng, thì lo gì chẳng đoạn sanh
tử? Nếu không như thế thì luôn luôn bận bịu, từ sáng đến tối, từ
sanh đến tử, chỉ lãng phí thời gian. Một đời tu hành khổ cực, mà
không được lợi ích gì. Ngày ba mươi tháng chạp đến, khát nước mới
đào giếng, thì ra tay sao kịp; dẫu có hối hận nhưng đã quá muộn! Đây
là những lời tha thiết của tôi. Hy vọng mọi người hãy tự dụng tâm
lãnh hội.
4/ Ngày mười bốn tháng ba [^]
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu chuyển
được vật, tức đồng Như Lai".
Chư Thánh Hiền luôn chuyển được
vật, chứ không bị vật chuyển, nên tùy tâm tự tại, nơi nơi đều sống
với tâm chân như. Phàm phu chúng ta vì vọng tưởng chướng ngăn, nên bị
muôn vật xoay chuyển. Ví như gió đông thổi đến những đầu ngọn cỏ
thì chúng ngã về hướng tây, hay gió tây thổi đến thì chúng ngã về hướng
đông; nghĩa là tự chúng không có thể làm chủ được. Có người cả ngày
lo lắng bận rộn, tán tâm phóng dật, ý chẳng trụ nơi đạo; tuy dụng công
phu, mà lúc có lúc không, đứt đoạn không liên tục, lại thường trụ
nơi vui buồn thương ghét, bụng nhét đầy phiền não thị phi. Mắt thấy sắc
tướng, tai nghe âm thanh, mũi ngửi mùi thơm, lưỡi nếm vị ngon, thân cảm
giác xúc chạm, ý phân biệt các pháp. Sáu căn đối với sáu trần, không
có giác chiếu. Tùy theo màu sắc, xanh đỏ trắng vàng, già trẻ, nam nữ,
mà tâm niệm xoay chuyển cuồng loạn. Lúc hợp ý thì sanh tâm tham đắm,
ái nhiễm mến trước. Khi nghịch ý thì khởi phiền não, giận hờn, oán
trách. Luôn luôn khởi vọng tưởng. Nơi vọng tưởng vi tế còn có thể dụng
công tu đạo, làm việc lành thiện. Nơi vọng tưởng thô lại khởi bao loại
vọng niệm bất chánh tà vạy; bụng chứa đầy cấu uế,
tệ hại cả bảy tám phần, không
thể diễn tả hết.
Thiền sư Bạch Vân Đoan bảo:
- "Nếu năng chuyển vật tức Như Lai
- Xuân ấm áp, hoa núi nở rộ
- Tự có đôi tay, cùng tương thủ
- Chưa từng dễ dàng, vũ tam đài".
Kinh Kim Cang nói: "Phải nên
hàng phục tâm như thế".
Nhà Nho cũng có câu:
- Tâm không ở đây. Gần mà không
thấy. Có tiếng mà chẳng nghe. Ăn mà chẳng biết mùi vị.
Nhà Nho còn biết việc chẳng để
vật chuyển. Phật tử chúng ta sao lại không nhớ đến nổi khổ sanh tử,
như lửa cháy trên đầu? Nếu xả được thân tâm, tinh tấn cầu đạo, tự
rèn luyện kiểm nghiệm, mài dũa trong động, từ từ dụng tâm không để
vật chuyển, thì công phu mới có phần vững vàng.
Dụng công không nhất định phải
ở trong yên tĩnh. Nơi động mà không bị động, mới là công phu chân thật.
Năm đầu nhà Minh, ở Đàm Châu tỉnh
Hồ Nam, có ông Hoàng Thiếc Tượng, dùng nghề rèn làm sinh sống, nên người
đương thời gọi là Hoàng Đả Thiếc. Lúc ấy, Chu Nguyên Chương đang khởi
binh lật đổ nhà Nguyên, nên rất cần nhiều binh khí. Hoàng Đả Thiếc phụng
mạng triều đình, ngày đêm gấp rút rèn binh khí không ngừng nghỉ. Ngày
nọ, một vị tăng đi ngang qua nhà, được ông ta cúng dường thức ăn. Ăn
xong, vị tăng bảo:
- Nay thọ nhận thức ăn bố thí,
không có gì đền đáp, nhưng sẽ tặng thí chủ một câu kệ.
Họ Hoàng liền thỉnh tăng thuyết
pháp. Tăng hỏi:
- Sao thí chủ không chịu tu hành?
Họ Hoàng thưa:
- Tu tuy là việc tốt, nhưng cả ngày
bị bận rộn, làm sao hành được?
- Có pháp môn niệm Phật, tuy bận
rộn, nhưng vẫn tu hành được. Khi đập một thanh sắt, thí chủ nên niệm
Phật một câu. Thổi một hơi, cũng nên niệm Phật. Cứ niệm 'Nam mô A Di
Đà Phật' trường kỳ như thế, thì lúc lâm chung, chắc chắn sẽ được
vãng sanh cõi Tây Phương Cực Lạc.
Hoàng Đả Thiếc y theo lời dạy của
vị tăng đó, vừa đập một thanh sắt, vừa niệm Phật. Cả ngày vỗ đập
thui rèn sắc thiếc, và cả ngày niệm Phật, không cảm thấy mệt nhọc, lại
còn cảm giác khinh an tự tại. Công phu ngày ngày thâm sâu, nên từ từ ngộ
nhập, không niệm mà vẫn niệm. Khi sắp lâm chung, biết rõ giờ giấc, rồi
từ tạ thân bằng quyến thuộc, tự bảo sẽ vãng sanh qua cõi Tây Phương.
Thời điểm đến, sắp đặt giao phó công việc trong nhà, rồi tắm rửa,
thay đổi y phục. Xong xuôi, ông tới ngồi bên lò rèn, đập vài thanh sắt,
rồi thuyết bài kệ:
- "Đả đả đương đương!
- Luyện lâu thành thép
- Thái bình kề cận
- Tôi vãng Tây Phương".
Thuyết xong, ông liền qua đời.
Đương thời, mùi hương lạ bay khắp nhà, nhạc trời vang trong không trung,
xa gần đều nghe thấy, khiến ai ai cũng được cảm hóa.
Hôm nay, chúng ta bận rộn ngày đêm,
không giờ giấc nghỉ ngơi. Nếu hành trì như ông Hoàng Đả Thiếc, trong
động mà vẫn nỗ lực tu hành, thì lo gì không cắt đứt sanh tử!
Xưa kia, lúc ở núi Kê Túc, tỉnh
Vân Nam, tôi có một đệ tử xuất gia, tên là Cụ Hành. Nay kể chuyện của
Thầy đó cho quý vị nghe.
Thầy Cụ Hành, lúc chưa xuất gia,
thường hút thuốc uống rượu, tham đắm sắc đẹp. Gia đình tám người,
thường đến chùa Chúc Thánh làm công quả. Sau này, cả nhà đều xuất
gia. Xuất gia xong, Thầy bỏ hết mọi tập khí xấu. Tuy không biết một chữ,
Thầy vẫn cố gắng dụng công. Những bài kinh kệ, công phu sáng chiều, như
phẩm Phổ Môn v.v... trong vòng vài năm, Thầy đều học thuộc lòng. Cả
ngày, Thầy trồng rau quả không nghỉ ngơi. Tối đến, lễ Phật tụng
kinh, không tham ngủ nghỉ. Trong tăng chúng, được người mến thích hay bị
ghen ghét, Thầy cũng chẳng màng đến. Thầy thường giúp tăng chúng may vá
y áo. Lúc xỏ một mũi kim, Thầy niệm một câu 'Nam mô Quán Thế Âm Bồ
Tát'. Sau này, Thầy đi lễ bái bốn núi danh tiếng (núi Ngũ Đài, Nga Mi, Phổ
Đà, Cửu Hoa) trong tám năm, rồi trở lại Vân Nam. Khi ấy, tôi đang đảm
nhiệm trọng trách trùng tu chùa Vân Môn. Trở về, Thầy cũng tu khổ hạnh.
Những việc nặng nề khó nhọc, lớn nhỏ trong chùa, Thầy đều đảm
đang gánh vác. Đại chúng đều mến thích Thầy. Lúc sắp lâm chung, Thầy
mang tất cả y phục, đồ vật đi bán, rồi dùng số tiền đó, mua thức
ăn cúng dường tăng chúng. Sau đó, cáo từ đại chúng, sắp đặt mọi việc
gọn gàng. Vào tháng tư, Thầy mang dầu, rơm rạ ra sau sân chùa Thắng
Nhân, tức hạ viện chùa Vân Thê, để tự thiêu mà hóa. Khi có người phát
giác, thì Thầy đã vãng sanh. Song, y ca sa trên thân, tuy đã thành tro, nhưng
vẫn giống như bình thường, mà không rơi xuống. Thân Thầy ngồi trong đống
lửa, tay vẫn cầm cây khánh và cái mõ. Người đến xem, ai nấy đều cảm
động rơi lệ. Ngày ngày Thầy bận rộn, nhưng chẳng quên tu hành, nên tự
do tự tại, qua lại trong sanh tử. Trong động và tĩnh đều dụng công tu
hành, nên công phu mới dễ dàng đắc lực.
5/ Ngày hai mươi mốt tháng ba [^]
Người xưa tu hành có đạo đức
cao thượng tôn quý, khiến thiên long quỶ thần cảm động, tự nhiên đến
ủng hộ. Vì thế, đạo đức là tôn quý nhất ở thế gian, nên có câu:
"Đạo cao long hổ phục. Đức trọng quỶ thần khâm".
QuỶ thần cùng con người, mỗi loài
đều có pháp giới tôn quý ty tiện khác nhau. Tại sao chư thiên, quỶ thần
lại tôn trọng, cung kính pháp giới loài người? Diệu tánh linh minh vốn
chẳng phân biệt mình người, đều đồng quy về nhất thể. Chỉ vì vô
minh bất giác, mê muội nguồn chân, mới phân mười pháp giới, tức sáu
phàm bốn thánh. Nếu muốn xả mê về ngộ, phải xoay về cội nguồn.
Song, trình độ giác ngộ của mỗi pháp giới không đồng. Trong pháp giới
của con người, có kẻ giác và bất giác, cũng có kẻ chánh tri kiến và
tà tri kiến. Pháp giới chư thiên và quỶ thần cũng như thế. Tuy nằm
trong sáu loài phàm phu, nhưng pháp giới con người lại vượt trội năm pháp
giới khác. Chư thiên cõi trời Lục Dục vẫn còn đam mê tham ái nữ sắc,
quên mất việc tu hành. Trời Tứ Thiền Thiên thì lại tham đắm thiền vị,
quên mất con đường minh ngộ chân tâm. Trời Tứ Không Thiên thì lại lạc
vào
thiên chấp biến không, quên mất
chánh tri kiến. A Tu La còn nhiều sân hận. Chúng sanh trong đường địa ngục,
ngạ quỶ, súc sanh thọ bao khổ nhọc, khiến chẳng có chánh niệm, thì
làm sao tu hành? Cõi người khổ nhọc vui sướng không đồng, nhưng so với
các cõi khác thì dễ dàng giác ngộ hơn, nên có thể minh tâm kiến tánh,
siêu phàm nhập thánh. Chư thiên quỶ thần tuy có thần thông phước báo
nhiều ít không đồng, nhưng đều tôn trọng người có đạo đức và
cùng ngưỡng mộ chánh pháp.
Thiền sư Nguyên Khê, kết am tại
Nhạc Bàng Ô, đã từng truyền giới cho thần núi. Trong bộ Cảnh Đức
Truyền Đăng Lục, viết: "Ngày nọ, có một dị nhân, đầu đội mão
rộng, thân mặc cân đai, dẫn rất nhiều người, thư thả đi vào am, bảo
rằng muốn yết kiến Đại Sư. Thấy hình mạo kỳ lạ phi thường, Đại
Sư hỏi:
- Lành thay! Nhân giả vì cớ gì mà
đến đây?
Thần đáp:
- Đại Sư nhận ra con không?
- Ta chỉ dùng mắt bình đẳng mà
quán chư Phật cùng tất cả chúng sanh, sao lại có phân biệt!
- Con vốn là thần trụ núi này,
và cầm nắm sanh tử con người trong vùng. Đại Sư có nhận biết không?
- Ta vốn vô sanh, ông làm sao giết
được? Thân Ta đồng với hư không, cùng đồng với thân ông. Ông có thể
phá hoại hư không cùng thân của mình không? Chẳng thể được! Thân Ta bất
sanh bất diệt. Ông chưa có thể làm được như thế, sao cầm nắm sanh tử
của ta?
Thần cung kính cúi đầu thưa:
- Con là vị thần rất mực thông
minh chánh trực, há lại không biết Đại Sư có trí huệ quảng đại sao?
Nay mong cầu Đại Sư hãy truyền chánh giới, con xin lãnh thọ.
- Ông khất cầu giới, tức đã đắc
giới. Tại sao? Ngoài tâm không có giới, sao cần cầu giới?
- Nghe lý này, con thật mê muội, chỉ
cầu Đại Sư truyền giới để con trở thành đệ tử của Ngài.
Đại Sư lên tòa, ngồi ngay thẳng,
tay cầm bình hương trầm, bảo:
- Hôm nay truyền năm giới cấm, nếu
ông phụng trì được, thì đáp rằng con giữ được. Ngược lại, hãy đáp
rằng không giữ được.
Thần thưa:
- Con kính cẩn thọ giáo.
- Ông có thể giữ giới cấm dâm dục
được không?
- Con vẫn còn có vợ.
- Chẳng phải thế! Ta bảo là
không nên tà dâm.
- Con giữ được.
- Ông có thể giữ giới cấm ăn cắp
được không?
- Con đâu có thiếu gì, sao lại đi
ăn cắp?
- Không phải vậy! Hưởng thụ mà
không tham lam quá độ. Không được cúng, chớ nên gieo họa cho người hiền.
- Con giữ được.
- Ông có thể giữ giới cấm giết
hại được không?
- Con đang nhậm chức phán sát, sao
không thể giết hại được?
- Không phải thế! Chẳng nên lạm
dụng quyền thế, giết hại người hiền.
- Con giữ được.
- Ông có thể giữ giới cấm nói
láo được không?
- Tâm con chất trực, sao lại đi nói
láo?
- Không phải thế! Không nói láo tức
lời nói trước sau đều hợp với tâm của trời đất.
- Con giữ được.
- Ông có thể giữ giới cấm uống
rượu được không?
- Con giữ được.
- Trên đây là những giới cấm do
Phật chế. Có tâm phụng trì mà vô tâm chấp vật. Có tâm vì vật, mà vô
tâm nghĩ tưởng thân. Nếu được như thế, thì lúc trời đất vừa thành
lập, chẳng tinh khiết. Lúc trời đất tan hoại thì chẳng già. Biến hóa
ngày đêm mà không động. Cứu cánh tịch mặc mà chẳng ngừng nghỉ. Ngộ
được như thế, tuy có vợ mà chẳng phải thê thiếp. Tuy hưởng thụ, mà
chẳng chấp thủ. Tuy có oai quyền mà chẳng lạm dụng uy thế. Tuy làm mà
chẳng tạo. Tuy say rượu mà chẳng hôn mê. Nếu vô tâm nơi muôn vật, tuy
nhiều dục mà chẳng dâm; tham lam quá độ mà không phạm tội ăn cắp; lạm
quyền giết lầm người mà không phạm tội sát. Trước sau ngược với trời
đất mà không vọng dối. Hôn vọng điên đảo mà chẳng say. Đó gọi là
vô tâm. Vô tâm thì vô giới. Vô giới tức là vô tâm, vô Phật, vô chúng
sanh, vô nhân, vô ngã, vậy thì ai là người trì giới?
- Thần thông của con thật không thể
sánh bằng Phật.
- Trong mười phần thần thông, ông
không thể làm được năm phần, còn Phật thì không thể làm ba phần.
Nghe thế Thần bèn quỳ xuống thưa:
- Cầu xin Đại Sư kể rõ cho con
nghe.
Đại Sư hỏi:
- Ông có thể khiến mặt trời mọc
ở hướng tây, lặn ở hướng đông không?
- Không thể.
- Ông có thể lấy đất năm đảnh
núi mà kết thành bốn biển không?
- Không thể.
- Phật có thể chuyển tất cả tướng
không thành muôn pháp trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật có thể
biết sự việc của chúng sanh cùng tận ức kiếp, mà không thể giáo hóa
những kẻ vô duyên. Phật có thể độ vô lượng loài hữu tình mà không
thể diệt tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba việc mà Phật không thể
làm được. Định nghiệp cũng không lâu. Kẻ vô duyên cũng có kỳ. Pháp
giới chúng sanh vốn không tăng không giảm. Không ai có thể làm chủ tất
cả pháp. Có pháp mà vô chủ, nên gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, cũng
gọi là vô tâm. Nay giải thích về Phật, Ta cũng chẳng có thần thông, chỉ
dùng vô tâm mà thông đạt hết muôn pháp.
- Con thật rất ngu muội, chưa từng
được nghe nghĩa không. Đại Sư truyền giới, con vâng giữ phụng hành.
Ngày nay, con nguyện muốn báo đáp ân đức từ bi của Đại Sư, nên sẽ
hiển hiện chút ít thần thông.
- Ta quán thân vô vật, quán pháp
vô thường, sao cần cầu chi nữa?
- Nếu Đại Sư cho phép, con sẽ triển
chuyển chút ít thần thông, để khiến người đã phát tâm, vừa phát
tâm, chưa phát tâm, chẳng có tín tâm, đã có tín tâm, biết được có Phật,
có thần có năng lực thần thông, không có năng lực thần thông, có tự
nhiên, không có tự nhiên.
- Không được! Không được!
- Phật cũng xử dụng thần thông
để truyền pháp, sao Đại Sư chẳng làm theo? Xin Đại Sư rũ lòng dạy bảo.
Đại Sư bất đắc dĩ bảo:
- Chùa Đông Nham có chướng ngại là
cỏ dại rậm rạp mà chẳng có cây cối to lớn; đằng sau lưng chùa lại
không có chỗ tựa. Ngọn núi phía bắc có rất nhiều cây cối. Ông có thể
di chuyển cây cối bên hướng bắc qua đỉnh núi phía đông không?
Thần thưa:
- Xin vâng mạng! Giữa khuya, con sẽ
thổi chúng đi, mong Đại Sư chớ sợ!
Nói xong, Thần liền đảnh lễ tạ
từ lui ra. Tăng chúng trong chùa, vừa đưa Thần ra cửa, thì thấy có rất
nhiều người, đứng hai hàng dài, đi theo hầu. Tướng Thần oai vệ uy nghi
như vua chúa, xung quanh thân sương khói xông lên mù mịt, mây ngũ sắc quấn
chằng chịt, trên đầu có tràng phan ngọc bội. Thần bay lên hư không rồi
biến mất. Tối đến, quả nhiên mây kéo đến ùn ùn, mưa to gió lớn, sấm
sét nổi lên, mái nóc đều lung lay rung động, khiến chim chóc cầm thú la
hoảng. Đại Sư bảo đại chúng:
- Chớ sợ! Chớ sợ! Thần làm theo
ý ta.
Sáng hôm sau, trời trong mưa tạnh;
tất cả cây cối bên phía bắc đều được dời hết qua đỉnh núi phía
đông, mọc tủa xum xuê khắp nơi. Đại Sư thấy thế, bảo đệ tử:
- Sau khi Ta mất, chớ kể chuyện này
cho người ngoài nghe. Nếu họ biết được, sẽ cho Ta là yêu quái.
Quý vị hãy xem, thần tuy có thần
thông, nhưng không bằng người có đạo đức. Thế nên bảo rằng "đức
trọng quỶ thần khâm". Người không có đạo đức, bị quỶ thần quản
chế, thọ bao hiểm họa. Người có đạo đức, lại muốn minh tâm kiến
tánh, thì tự nhiên sẽ cảm động quỶ thần. Chư thiền sư đại đức
xưa nay, tu hành kinh thiên động địa, khiến hươu nai dâng hoa, khỉ vượn
cúng trái. Thiên ma ngoại đạo, chư tiên quỶ thần, đều đến quy y, như
Chân tổ sư quy y Quán Âm, Tài Thần quy y Phổ Hiền, Động Tân tiên sư quy
y Hoàng Long, Vương Linh Quang quy y Địa Tạng, vua Văn Xương quy y Phật Thích
Ca, v.v... Do đó, hoàng đế Nhân Tông triều Tống viết bài kệ phú tán
thán chư tăng đại đức: "Những bậc tôn quý nhất trên thế gian,
không ai bằng những vị xả tục xuất gia. Nếu được làm tăng sĩ, thì mới
thọ sự cúng dường của trời người. Làm đệ tử của đấng Thế Tôn,
tức là quyến thuộc của tiên thánh, vào nơi cửa vàng, đến cung điện bảo
tạng. Hươu trắng dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Xuân nghe chim hót líu lo,
vang tiếng diệu nhạc cơ trời. Hạ nghe ve kêu trên cây cao, liền biết
mùa nóng đã đến. Thu ngắm trời xanh, gió trong trăng sao chiếu sáng. Đông
xem tuyết phủ đảnh núi sông ngòi. Ngồi thiền trên bồ đoàn, thân ấm
áp. Dẫu sóng ba đào nổi dậy, vẫn cỡi tích trượng thăng hư không. Mười
đại quân ma khi nghe danh, vẫn phải hàng phục, quy y chánh đạo. Vang tiếng
gõ bản, bèn lên vân đường lễ cúng. Nghe tiếng chuông, bèn lên chánh điện
tụng kinh. Mọi việc đều như ý, muôn loại hiện thành. Lúc sống làm thầy
trời người. Lúc chết quyết định quy y thánh quả. Kệ viết:
- 'Không Vương đệ tử Phật
- Quyến thuộc chư Như Lai
- Thân mặc y trăm mảnh
- Miệng ăn ngàn bát cơm
- Tối ngủ giường vô úy
- Sáng thấy Phật A Di Đà'.
Nếu Trẫm được như vậy, thì rất
là mãn nguyện".
Trên đây là lời văn tán tụng chư
tăng đại đức của hoàng đế Nhân Tông. Chúng ta tự hãy xem xét mình có
tương ưng điểm nào với bài văn phú tán thán này không? Nếu hạnh mình
đều tương hợp với lời văn trên, thì mới có thể thọ sự tôn kính của
quỶ thần. Nếu "sóng ba đào khởi", như khi vô minh dấy lên, mà
không thể "mở tích trượng, phóng lên hư không", khiến làm náo
loạn cả trời đất, thì thật xấu hổ cùng cực. Ngược lại, nếu
"mười đại ma quân" làm phiền hà, khiến chẳng được như ý,
và bao việc chẳng thành tựu, mà có thể hàng phục chúng, thì trời rồng
tám bộ quỶ thần đều tôn trọng cung kính.
6/ Ngày hai mươi bốn tháng ba [^]
Hôm nay, có các vị pháp hữu phát
tâm yêu cầu tôi thuyết ngữ lục. Tôi thấy việc này vô ích, vì kinh điển
nhà Phật, cùng bao lời dạy bảo của chư Tổ Sư, thật nhiều vô số. Tất
cả lời giáo huấn đó, quý vị không chịu xem đọc, mà chỉ muốn tôi
nói những việc bên đông bên tây, lưu truyền ra ngoài có ích gì?
Từ xưa đến nay, Phật giáo truyền
vào nước Tàu, lưu lại rất nhiều kinh luật luận, chú giải điển
chương, ngữ lục. Buổi đầu, được kết thành Đại Tạng. Đầu tiên,
vua Tống Thái Tổ, niên hiệu Khai Bảo thứ tư (971), sai Truơng Tùng Tín đến
Tây Xuyên, thuê thợ khắc Kinh Tạng. Đến đời vua Tống Thái Tông, niên
hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ tám (983), trải qua mười ba năm, mới khắc
thành 'Thục Bản Đại Tạng Kinh', được gọi là bản Đại Tạng Kinh đời
Bắc Tống. Đây là một công trình rất tinh vi kỸ lưỡng. Song, sau này dần
dần bị tán lạc mất. Cuối đời Tống, có tạo khắc bản Đại Tạng
Kinh bốn lần. Bản Đại Tạng Kinh cuối cùng, khởi công in khắc vào đời
vua Lý Tông, niên hiệu Thiệu Định, năm thứ tư (1231), tại viện Diên
Thánh ở Tích Sa, cho đến đời vua Nguyên Quý Phương mới hoàn thành, được
gọi là bản Đại Tạng Tích Sa. Người xem bản Đại Tạng Kinh này rất
ít. Hai chùa tại Xiểm Tây ở Tây An là Khai Nguyên và Ngọa Long, còn giữ
được bộ Đại Tạng Kinh này, được gọi là Đại Tạng Kinh Hoàn Bích.
Triều Minh, đời vua Chu Khánh Lan, Đại Tạng Kinh được in ấn lại. Dân
Quốc năm thứ hai mươi mốt (1932), hội ấn hành Tống Đại Tạng Kinh ra
đời tại Thượng Hải. Hội sắp đặt, soạn thảo theo thứ tự, rồi tích
cực ấn hành. Đầu tiên, hội phái người đến Xiểm Tây, kiểm tra lại
số kinh sách, tính được hết là sáu ngàn ba trăm mười quyển, còn thiếu
hơn một trăm quyển. Thế nên, hội dùng bộ Tống Tư Khê, do nhà xuất bản
Tùng Ba tại Bắc Kinh ấn hành, để bổ khuyết vào Đại Tạng Kinh, nhưng
vẫn chưa đủ. Hội lại ủy thác tôi đem những bộ kinh tại chùa Dõng
Tuyền như Đại Tạng Kinh Tích Sa, kinh Đại Bát Nhã, kinh Bảo Tích, để
thêm vào cho đủ. Lạ lùng thay, ngọc báu Đại Tạng Kinh đã bị chôn vùi
mấy trăm năm, nay được lưu truyền trong toàn quốc. Song, có một khuyết
điểm là việc kiểm duyệt lại bộ Đại Tạng Kinh rất bất tiện. Đời
Minh, thiền sư Tử Bá phát tâm in khắc rất nhiều kinh điển. Sau khi bản
Đại Tạng Kinh Gia Hưng được lưu thông, việc kiểm duyệt rất tiện lợi.
Gần đây, ở Hàng Châu có hai vị cư sĩ, Tiễn Khoan Huệ và Tần Khoan Phước,
thấy có tăng nhân bán kinh sách cho dân chúng để làm giấy dùng hằng
ngày, nên họ tận lực phát tâm mua lại những quyển kinh sách đó, rồi gởi
về núi Vân Cư. Hiện tại, núi Vân Cư có các bộ Đại Tạng Kinh như bộ
Đại Tạng Tích Sa, Đại Tạng Tần Già, cùng những bộ kinh khác, rất đầy
đủ và dễ dàng trong việc kiểm duyệt.
Thông một pháp thì muôn pháp đều
thông, chứ chẳng câu nệ nơi việc đọc nhiều kinh điển. Có thể xem
toàn bộ Đại Tạng Kinh trong ba năm để gieo nhân lành thành Phật. Song, đọc
xem Đại Tạng Kinh như cỡi ngựa ngắm hoa. Nếu muốn đạt lợi ích chân
thật, phải đọc tụng thuộc làu thành thục. Theo ngu kiến của tôi, người
sơ phát tâm tu thiền, nên chuyên chú học thuộc kinh Lăng Nghiêm, tức chỉ
cần học thuộc lòng mà không cần xem chú giải. Khi học thuộc bộ kinh
này rồi, thì dùng văn kinh phần trước giải thích phần sau, hay văn kinh
phần sau giải thích phần trước. Bộ kinh này thuyết kỸ càng tinh tế, từ
phàm phu đến quả vị Phật, từ vô tình đến hữu tình, cùng núi sông đất
đá, bốn phàm sáu thánh, tu chứng mê ngộ, giới luật sự lý nhân quả. Bởi
thế, lợi ích học thuộc kinh Lăng Nghiêm là sẽ thấu suốt được những
vấn đề đó.
Người thường tham cứu tu học phải
có ba việc: Một là đôi mắt phải tinh tế. Hai là đôi tai phải tinh tường.
Ba là bao tử phải rắn chắc. Đôi mắt tinh tế, tức là phải có cặp mắt
Kim Cương chân chánh. Thấy tất cả sự việc, phải phân biệt đúng sai, tốt
xấu, tà chánh, phàm thánh. Đôi tai tinh tường, tức là đôi tai thuận
gió. Nghe người khác nói lời gì, liền biết rõ chúng thuộc về lý lẽ
nào. Bao tử rắn chắc, tức là phải giống như bao tử của Bồ Tát Di Lặc.
Nghe thấy những việc tốt xấu, đều thọ nhận hết. Gặp duyên thì ứng
cơ giáo hóa quần sanh. Mang những việc thấy nghe để nghiên cứu so sánh.
Nếu là việc thiện thì làm theo, còn nếu là việc xấu thì sửa đổi. Làm
mọi việc đều phải căn cứ vào tiêu chuẩn đó. Vì vậy, chúng ta phải
có bao tử rắn chắc để dung chứa muôn việc, nhưng chớ nên thổi da
trâu để dùng, cùng giả bộ biết này biết nọ, hay nói càn nói bậy.
Ngài Quy Sơn bảo:
- Nói ra lời nào phải liên hệ với
kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa.
Vì vậy, phải xem kinh điển để
biết cách tu hành đúng đắn, hầu mong đạt được lợi ích. Lời hồ
ngôn loạn ngữ của tôi rất tầm thường, chẳng có câu nào đáng giá.
Lúc trẻ, tuy rất thích xem kinh điển, nhưng chỉ dùng những lời trống rỗng
để đàm luận. Thật rất xấu hổ.
Truyện Tây Du Ký hay truyện Mục
Liên được lưu truyền trong thế gian. Chúng vốn là những truyện thanh tục
không phân, thị phi điên đảo, chân thành giả, giả thành chân. Truyện Mục
Liên viết rằng tôn giả Mục Kiền Liên biến thành Bồ Tát Địa Tạng
ở trong kinh Địa Tạng. Đây là lời rất hàm hồ. Trong đời Đường, pháp
sư Huyền Trang có viết quyển Tây Du Ký. Nội dung của quyển này vốn là
những lời chân thật. Song, truyện Tây Du Ký được lưu truyền trên thế
gian hoàn toàn là những lời ma quỶ. Hòa thượng Bạch Vân ở chùa Bạch
Vân giảng kinh Đạo Đức, khiến rất nhiều đạo sĩ xuất gia làm tăng
sĩ. Do đó, các đạo sĩ tại Trường Xuân Quán không vừa lòng, nên nói dối
là theo lịnh quan quân, sửa Trường Xuân Quán thành chùa Trường Xuân, và
chùa Bạch Vân thành Bạch Vân Quán. Các đạo sĩ tự viết ra quyển tiểu
thuyết Tây Du Ký để phỉ báng Phật giáo. Xem xét kỸ càng quyển tiểu
thuyết Tây Du Ký này thì sẽ thấy chân tướng của họ. Sự lợi hại nhất
là họ chẳng hề ghi lại việc pháp sư Huyền Trang mang kinh vượt qua các
bãi sa mạc mà trở về bổn quốc. Họ viết là pháp sư Huyền Trang chỉ
lưu lại sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật". Những kinh điển do pháp
sư Huyền Trang phiên dịch, họ hoàn toàn bỏ qua không nhắc đến. Thế nhân
rất tin tưởng vào quyển truyện Tây Du Ký giả dối đó, khiến quyển
Tây Du Ký chân thật lại bị chôn vùi. Để đối đầu lại quyển tiểu
thuyết Tây Du Ký giả dối, các Phật tử viết ra bộ truyện Phong Thần để
phỉ báng các đạo sĩ. Quyển truyện này nói rằng các đạo sĩ dầu tu tiên
bao số kiếp, nhưng vẫn còn tâm sân hận chém giết lẫn nhau. Xem hai quyển
truyện này, nếu không biết rằng chư Phật tử cùng các đạo sĩ phỉ báng
lẫn nhau, thì sẽ lầm nhận giả thành chân. Vì vậy, khi xem sách vở thế
tục, phải phân biệt rõ những điều thị phi, đúng sai, tà chánh. Truyện
Bạch Xà ghi rằng chùa Kim Sơn bị nạn lụt lội; việc này được ghi chép
trong sách vở của nhà nho, còn kinh sách của Phật giáo nào có viết đến.
Thế nên, chẳng phải là sự thật. Hiện nay, tại chùa Kim Sơn còn động
Pháp Hải, mà tiểu thuyết lại ghi rằng đó là tháp Lôi Phong và đỉnh
Phi Lai. Thật là những điều hàm hồ vô căn cứ. Lại nữa, một truyền
thuyết cho rằng thiền sư Cao Phong có một nửa đồ đệ: Đoạn Nhai là một,
và Trung Phong là phân nửa. Trong các điển chương của Phật giáo nào có
ghi những điều này!
Nếu muốn có lợi ích thật thụ,
hãy xem những quyển kinh sách của cổ nhân như Thích Thị Cổ Lược, Thiền
Lâm Bảo Huấn, Hoằng Minh Tập, Bổ Giáo Biên, kinh Lăng Nghiêm.
7/ Ngày hai mươi sáu tháng ba [^]
Giáo điển nhà Phật, nếu bàn về
việc hành trì, thì không ngoài bốn chữ: Tín, giải, hạnh, chứng. Kinh
nói: "Tín là mẹ của tất cả công đức".
Tín tức là tín tâm. Trong kinh Hoa
Nghiêm, thứ lớp đạt được quả vị Bồ Đề, do từ
sơ tín đến thập tín.
Tín việc gì? Tín diệu pháp của
Như Lai; nơi mỗi câu cú ngôn ngữ đều chỉ thẳng vào chân tâm, thấy
tánh thành Phật. Những lời này, chân thật đích xác, không thể sửa đổi.
Người tu hành phải khởi dụng công từ tâm, chớ hướng ngoại tìm cầu.
Tin tâm mình là Phật. Tin ngôn ngữ thánh giáo, không thể vọng động cải
biến.
Giải tức là trong mọi hành động
cử chỉ, chân đế và tục đế đều viên dung. Tự mình biết uyển chuyển
thuyết pháp tu đạo. Vận lực tận suốt nguồn tâm, khiến ánh sáng trí
huệ chiếu soi khắp nơi. Đó gọi là kiến giải. Song, nếu hiểu mà chẳng
hành trì, thì không thể thành công. Thế nên, miệng phải đọc tụng, tâm
phải tư duy. Tâm và miệng phải tương ưng, không thể trái ngược. Miệng
không thể bảo lấy gấm thêu hoa, mà bao tử lại chứa đầy tham, sân, si,
ngã mạn. Những lời đàm luận trống không, quyết chẳng có lợi ích.
Tâm tư duy những gì? Nếu nói ra lời nào, phải y cứ theo thánh giáo lượng.
Cử chỉ động niệm, chẳng nên vượt ngoài thành trì thánh giáo lượng.
Nói được và làm được, thì ngôn ngữ và hành động mới không khiếm
khuyết. Thuyết pháp đến độ hoa trời rơi khắp đất, mà không chân thật
hành trì; không làm được thì chớ nói; chớ nên như nam ăn cắp, nữ hát
suông. Hạnh có nội hạnh và ngoại hạnh. Cả trong và ngoài đều phải
tương ưng. Nội hạnh cắt đứt hai chấp trước: Ngã và pháp. Ngoại hạnh
tức là hành muôn hạnh lành thiện vi tế.
Chứng tức là thật chứng lý chân
thường.
Có tín có giải, mà không có hạnh
thì không thể chứng đắc; đó gọi là phát cuồng. Người thuyết pháp
trên thế gian rất nhiều như lông trâu, nhưng khi tu hành lại chẳng biết
gì là thiền sư hay pháp sư. Họ chú giải được vài bộ kinh như Kim Cang,
Tâm Kinh, Bát Thức Quy Củ, hoặc Lăng Nghiêm, rồi tự vênh mũi khoe khoang,
nhưng lúc hành trì lại không khác với người thế tục; kể món ăn mà
không chịu ăn.
Nơi các động tác hành vi phải
phân rõ nội hành và ngoại hành.
Trong nội hành, định và huệ phải
viên dung. Nơi ngoại hành, tại bốn oai nghi, phải thường nghiêm thủ giới
pháp, chẳng để phạm chút nào. Nếu được như thế thì tự mình mới
có phần ích lợi. Lại nữa, chính tự thân mình làm được thì mới có
thể giáo hóa người. Muốn nhân tâm cảm kích, phải chân thật hành trì,
không cần đàm luận nói năng nhiều. Văn Di Sơn bảo: "Nếu thấy tướng
Ta, cho đến nghe tên Ta, mọi chúng sanh đều phát tâm Bồ Đề, mãi mãi xuất
ra khỏi vòng luân hồi sanh tử".
Hành vi của mình nếu chân chánh
thì mới có thể giáo hóa người. Chớ để người thấy hành vi bất
chánh của mình mà sanh thối tâm, khiến chiêu tội báo đọa lạc.
Thiền sư Pháp Dung ẩn tu trong hang
đá Bắc Nham, cạnh chùa U Thê, tại núi Ngưu Đầu. Ngài tu hành rất mực
tinh tấn, được trăm loài chim dâng hoa quả cúng dường. Vào đời Đường
Trinh Quán, Tứ Tổ đến núi đó để xem khí tượng, thấy biết có bậc dị
nhân, nên cố tự tìm đến. Vào chùa, Tứ Tổ hỏi:
- Trong chùa có bậc đạo nhân
không?
Tăng chúng đáp:
- Người xuất gia nơi đây, ai chẳng
phải là đạo nhân!
- Ai dám tự xưng là đạo nhân?
Tăng chúng không lời đối đáp. Một
vị tăng khác bước ra thưa:
- Cách nơi này khoảng mười dặm có
một ông tăng, thấy người đến, rất làm biếng, chẳng thèm đứng dậy
hay chắp tay xá. Đây có phải là bậc đạo nhân chăng?
Nghe vậy, Tổ liền vào núi, thấy
thiền sư ngồi thiền an nhiên, chẳng màng quay đầu lại nhìn. Tổ bảo:
- Ông ngồi đây làm gì?
Thiền Sư thưa:
- Ngồi quán tâm.
- Người quán là ai, và tâm là vật
gì?
Thiền sư không lời đối đáp,
nên liền đứng dậy đảnh lễ, thưa:
- Đại Đức quang lâm, an trụ nơi
nào?
Tổ bảo:
- Bần đạo không có chỗ dừng
chân nơi đông nơi tây nhất định.
- Ngài có biết thiền sư Đạo Tín
không?
- Sao hỏi đến vị đó?
- Ngưỡng mộ oai đức đã lâu,
mong mỏi có dịp để yết kiến lễ bái.
- Thiền sư Đạo Tín chính là bần
đạo!
- Vì sao Ngài lại đến đây?
- Đến đây để thăm ông. Có chỗ
nào nghỉ ngơi không?
Thiền Sư chỉ tay ra đằng sau hang
động, đáp:
- Ở đây còn một am tranh nhỏ.
Thiền Sư liền dẫn Tổ đến am
tranh đó. Khi thấy hổ sói, Tổ ra dáng sợ hãi, đưa hai tay lên. Thiền Sư
thấy vậy hỏi:
- Ngài vẫn còn cái đó à?
Tổ hỏi lại:
- Cái đó là gì?
Thiền sư im lặng không đối đáp.
Lát sau, Tổ vẽ chữ Phật trên tòa ngồi của thiền sư. Thấy chữ Phật,
thiền sư giật mình lo sợ. Tổ hỏi:
- Ông vẫn còn cái đó à?
Thiền sư chưa hiểu, chỉ dập đầu
lễ bái, thỉnh Tổ thuyết yếu chỉ. Tổ bảo:
- Trăm ngàn pháp môn, đồng quy về
một tấc vuông. Hà sa diệu đức đều nhiếp về nguồn tâm. Tất cả môn
giới định huệ, thần thông biến hóa, đều tự có đầy đủ, chẳng rời
tâm ông. Mọi nghiệp chướng phiền não, vốn là không tịch. Mọi nhân quả
vốn như mộng huyễn. Không có ba cõi để xuất ra, không có Bồ Đề để
cầu; nhân cùng phi nhân, tánh tướng bình đẳng; đại đạo thênh thang,
tuyệt đường suy nghĩ. Những pháp như thế, nay ông đã được, chẳng hề
thiếu sót, sao khác với Phật? Ngoài pháp này, chẳng còn pháp nào khác.
Tâm ông chỉ việc tự tại, chẳng cần quán hành, chẳng cần lắng đọng
tâm tư, chẳng khởi tham sân si, chẳng ưu sầu lo nghĩ; mông mênh bát ngát
vô ngại, tùy ý tung hoành, không làm việc thiện, chẳng tạo việc ác; đi
đứng nằm ngồi, mắt thấy gặp duyên, đều là diệu dụng của Như Lai;
an lạc chẳng ưu sầu, gọi đó là Phật.
Thiền Sư hỏi:
- Tâm đã đầy đủ, vậy gì là Phật,
gì là tâm?
Tổ đáp:
- Chẳng phải tâm, chớ hỏi Phật.
Hỏi Phật chẳng có thể không tâm.
- Nếu chẳng cần quán hạnh, thì
lúc gặp cảnh khởi tâm, làm sao đối trị?
- Cảnh vốn không tốt xấu. Tốt xấu
đều do tâm khởi. Tâm nếu không chạy theo danh lợi, thì vọng tình do đâu
mà khởi! Lúc vọng tình chẳng khởi, chân tâm mặc tình giác biết khắp nơi.
Tâm tùy thời tự tại, chẳng cần đối trị, tức gọi là pháp thân thường
trụ, không biến đổi khác lạ. Ta thọ pháp môn đốn giáo của đại sư
Tăng Xán, nay phó chúc cho ông. Ông hãy lắng nghe cho kỸ mà thọ trì lời
Ta. Ông chỉ nên trụ tại núi này. Mai sau sẽ có năm vị đạt nhơn đến
đây nối tiếp ông hoằng hóa.
Thiền sư Pháp Dung Ngưu Đầu, lúc
chưa yết kiến Tứ Tổ, trăm loài chim dâng hoa cúng quả. Sau khi Thiền Sư
gặp Tổ, chim không còn đến cúng dường nữa. Lý này thế nào? Cảnh giới
Phật pháp không thể nghĩ bàn. Trời người rải hoa cúng dường mà không
dấu vết. QuỶ thần tìm tông tích mà nào thấy cửa ngõ. Nếu sanh tử chưa
đoạn thì không thể được như thế. Ngồi trên cây khô đá cuội mà ngủ
thì không hợp với Phật pháp, thật uổng phí công phu.
Chúng ta khác với người xưa, luôn
mong mỏi trời người cúng dường. Song, họ nào ngó ngàng đến, vì chúng
ta chẳng hành trì chân thật. Người chân thật dụng công hành trì, nơi đầu
đường xó chợ, trà đình tửu quán, đều là đạo tràng. Tình nếu không
phụ vật, thì vật chẳng chướng ngại người, như gương chiếu soi muôn
vật, không nghinh đón cũng không cự tuyệt. Nếu được như thế thì tương
ưng cùng đạo. Chớ chấp tâm mê cảnh, tìm pháp ngoài tâm.
Tôi rất xấu hổ, vì chưa chứng
đắc được gì; sao lại lắm lời, có lợi ích gì! Quý vị chú giải, và
tôi chú giải kinh luận Phật Tổ. Chú giải đến nỗi không cần chú giải
nữa. Ngày ngày đăng báo giảng kinh thuyết pháp, nhưng khi nhìn mình, người
ngoài liền hồ nghi sợ hãi, thối tâm đọa lạc. Do đó, muốn thuyết
pháp lợi người, thì thân tâm phải tự hành trì trước. Thân phải hành
trì như thế nào? Bàn đến việc này, tôi thật rất xấu hổ.
8/ Ngày ba mươi tháng ba [^]
Hôm nay, tôi không thể thượng đường
giảng kinh thuyết pháp; xin quý vị lượng thứ cho. Chẳng phải tôi làm biếng,
mà vì thân thể không khỏe, sự hành trì cũng chưa đạt đến cứu cánh,
chỉ đem lời của người xưa để cùng đại chúng hỗ tương sách tấn.
Hôm nay, tôi không giảng, vì có hai nguyên do:
Thứ nhất, vì bịnh hoạn. Quý vị
ai ai cũng biết thể lực tôi không được khỏe cho lắm. Đại chúng tụ hội
nơi đây để nghe giảng thuyết. Nếu không gắng sức đến đây, sợ mọi
người lo lắng. Vì vậy, tôi phải tới nhưng thật mệt nhọc, nên không
thể giảng thuyết.
Thứ hai, thuyết pháp một thước mà
chưa thể hành trì một tấc. Chúng ta có duyên với nhau, cùng hội tụ nơi
giảng đường. Mạng người vô thường, sáng còn tối mất, như lửa đá
ánh sáng sấm chớp, sao giữ được lâu! Lời nói trống không, đối với
sự liễu sanh thoát tử, có lợi ích gì? Nếu có nói lời gì thì đều là
lời của chư thánh hiền thuở xưa. Tôi tự biết tánh khí của mình rất
xấu, giảng giải chưa được hoàn toàn. Dẫu có giảng giải hoàn toàn đi
nữa, mà chẳng chịu thực hành, thì không lợi ích gì. Mở lời nào, miệng
phải đọc tụng, tâm phải tư duy. Nghe giảng kinh thuyết pháp, phải tưởng
như khát được uống nước cam lồ. Nếu được như vậy, người thuyết
và kẻ nghe đều có phần ích lợi. Nghiệp chướng của tôi nặng nề,
không thể hành được như thế. Bậc cổ đức hơn hẳn người sau. Làm
sao tôi sánh bằng được các ngài! Những lời giảng giải đều vô ý nghĩa,
không đúng như pháp. Vì vậy, không thể giảng giải.
Hiện nay là đời mạt pháp, ai có
thể hành được như chư cổ đức, nơi nhất cử nhất động, la mắng đánh
đập, phơi gan rạch mật, đều chuyển được tánh phàm thành tánh thánh?
Tôi xuất gia năm mười chín tuổi;
mãi đến hôm nay, đã ngoài trăm tuổi, cả đời trôi qua vô ích. Lúc trẻ,
chưa biết việc sống chết, nên phiêu bạt đông tây; học đạo vội vàng
hấp tấp, chưa từng đặt chân nơi chốn chân thật. Lúc sanh tử đến,
cũng khổ sở như ai. Ngài Quy Sơn nói:
- Tự hận không dự bị tu hành, tuổi
về chiều càng nhiều tội lỗi. Khi chết, hành ấm tan rã, bồn chồn sợ
hãi, như chim bay xuyên thủng xác thân. Tâm thức tùy theo nghiệp lực, như
người thiếu nợ, chủ nào mạnh thì dẫn đi trước. Tâm rối đa đoan,
nơi nào nặng thì rơi vào trước.
Lúc trẻ, không chịu dũng mãnh tu
hành, và không xả bỏ thân tâm, chỉ xoay cuồng nơi danh lợi phiền não thị
phi. Nghe kinh, ngồi thiền, leo núi lội sông, lễ xá lợi, đều tự dối gạt
mình. Khi ấy, chẳng biết tốt xấu, nên cả ngày chạy ruỗi trăm dặm; đói
khát thì xin thức ăn nơi người, quên đi chính mình. Thế nên, lãng phí thời
gian quý báu; ngày nay vừa hối hận "xưa chẳng dự bị tu hành",
thì già bịnh đến, chết cũng không được, sống cũng không yên, xả chấp
chưa nổi. Sống cũng khổ, mà chết cũng nhọc. Đó là "tuổi về chiều,
tội càng nhiều". Tu hành chưa từng bước đến nơi chân thật. Lúc sắp
chết, tùy theo nghiệp mà lưu chuyển, như gà con phá vỏ trứng đi ra, tức
là "chim bay xuyên thân, tâm thức tùy nghiệp báo dẫn dắt". Nếu
làm chủ được thì có khả năng chuyển muôn vật. Hiểu rõ bốn đại là
không thì tâm thức không bị nghiệp dẫn. Ngược lại, như người thiếu
nợ, bị bức bách đòi tiền. Bấy giờ hoang mang trên đường lộ, chưa biết
sẽ đi về đâu, lại bị bao thống khổ, mà hối hận thì đã quá trể. Mở
mắt ra, thấy đầu trâu mặt ngựa. Chẳng phải núi đao, thì cũng là rừng
kiếm. Khi ấy, quý vị còn muốn nói lời gì?
Chư đồng tham học! Khi trẻ, thân
thể vẫn còn tráng kiện, phải mau nỗ lực tinh cần, lo lắng xếp đặt lộ
trình, dụng công tu đạo. Như tôi nay đã già yếu, muốn tu hành mà chẳng
được. Miệng giảng ba hoa, nói cả một đời, chẳng có ý nghĩa mùi vị
nào hết. Lúc xưa, nơi chùa Thất Tháp ở đông tây nam bắc, tứ sơn ngũ
nhạc, Chung Sơn, Kim Sơn, Tiêu Sơn, Vân Nam, Tây Tạng, Miến Điện, Xiêm La,
Ấn Độ, chạy nhốn nháo khắp nơi, không hề biết mệt. Lúc trẻ, thích
tranh làm chúa tể, cùng làm những việc vô ích. Ngày nay nghĩ lại, thấy mọi
việc làm xưa kia đều là sai quấy.
Quý đạo hữu đồng tham học! Tham
thiền phải tham khán câu thoại đầu cho đến chết. Người xưa bảo:
- Tu hành chân thật, giải nghiệp
đời hiện tại cùng quá khứ.
Chân thật tu hành, tức là tham
khán thoại đầu cho đến chết; quyết giữ câu "ai đang niệm Phật"
làm cội gốc. Chớ đùa giỡn nơi xảo thuật vi diệu, vì chúng không thể
chống lại quỶ vô thường. Tâm kiên cố, không biến đổi, tức là tâm
chân thật. Trước lúc niệm khởi, tức là thoại đầu. Niệm vừa sanh, tức
thoại đuôi. Sanh chẳng biết từ đâu đến. Chết cũng không biết sẽ đi
về đâu. Luôn bị sanh tử lưu chuyển. Nếu biết rõ mình là ai trước khi
cha mẹ sanh ra, thì một tấc lụa cũng chẳng mang, vạn lý tình không, chẳng
quảy một mảnh mây hồng. Lúc đó, công phu mới có phần đắc dụng.
Người biết dụng tâm tu tập thì
không còn phân biệt Thiền tông hay Tịnh Độ tông là hai. Tham thiền là
tham quán thoại đầu. Niệm Phật cũng là quán thoại đầu. Việc quan trọng
là phải thiết tha với sanh tử, chân thật tu hành, tức nắm chặt câu thoại
đầu, chết cũng không buông bỏ. Đời nay chưa xong, thì đời sau sẽ tu tiếp.
"Đời đời nếu không thối thất, quả vị Phật tất sẽ có kỳ".
Ngài Triệu châu bảo:
- Tham thiền nơi lý không, ngồi
mãi ba mươi năm, nếu không ngộ đạo, hãy chặt đầu lão tăng.
Tổ Cao Phong nhập thất cho đến chết.
Ngài Tuyết Phong chín lần lên núi Động Sơn. Triệu Châu lúc tám mươi tuổi
mà vẫn đi tham phương hành cước. Lúc đến Vân Cư gặp Ưng Tổ, tuy tuổi
gấp đôi, nhưng Triệu Châu vẫn cung kính Ưng Tổ như bậc tiền bối, chẳng
chấp ngã tướng, chẳng hổ thẹn tham vấn đạo. Sau đó, Ngài giữ chặt
câu thoại đầu cả vài thập niên, rồi mới ngộ đạo. Đại sư Liên
Trì đồng hành với hơn hai mươi người, cùng đến tham vấn lễ bái thiền
sư Biến Dung ở kinh sư. Thiền sư Biến Dung dạy:
- Pháp môn thiết yếu quý báu nhất
là không tham danh lợi, không phan duyên. Duy chỉ một lòng tu đạo.
Khi ấy, có một vị tăng trẻ cười
nói:
- Tưởng rằng sẽ nghe được những
điều lạ tai. Ai ngờ chỉ có những lời tầm thường này.
Đại sư Liên Trì bèn bảo:
- Lời khả kính của vị thiền sư
này là tại nơi đây.
Hãy cẩn thận lời lẽ. Chớ dùng
đôi câu vấn đáp của chư tiên đức để che giấu mặt mũi mình. Nói
được thì phải hành được. Tự thân hành trì thì mới giáo hóa người
được. Nếu được như thế, thì sẽ làm con thuyền cứu mạng cho chúng
sanh. Nếu ngôn hạnh tương phản trái ngược, chỉ lo nói năng suông, thì
như cho thuốc chẳng đúng bịnh, nên thuốc này trở thành thuốc độc. Quý
vị chẳng có vàng thì không thể mua bạc được. Có vàng tức là có cặp
mắt chân chánh. Có cặp mắt chân chánh tức có thể nhận ra châu báu.
Quý vị hãy lưu tâm tỉnh táo quan sát, xem coi mình có vàng hay không!
9/ Mồng ba tháng tư [^]
Phần đầu của kinh Kim Cang, ngài
Tu Bồ Đề bạch hỏi đức Thế Tôn:
- Người thiện nam thiện nữ muốn
phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, phải trụ tâm nơi nào, phải
hàng phục tâm như thế nào?
Phật đáp:
- Phải nên trụ tâm như thế. Phải
nên hàng phục tâm như thế.
Hàng phục tâm tức là ngăn ngừa
khởi ý vọng động, khiến nó không chạy rong. Tâm Bồ Đề ai ai cũng có
đủ, không hề khiếm khuyết. Đại Tạng Kinh luôn chỉ dạy chúng ta về
tâm này. Đức Thế Tôn quán sao buổi sớm, đột nhiên đại ngộ thành đẳng
chánh giác. Khi đó Ngài liền bảo:
- Lạ thay! Tất cả chúng sanh, đều
có đầy đủ đức tướng trí huệ của Như Lai. Do vì vọng tưởng chấp
trước, nên không thể chứng đắc.
Rõ ràng, ai ai cũng vốn là Phật,
và đều có đầy đủ đức tướng Như Lai. Song, hôm nay vẫn làm chúng
sanh, chỉ vì còn quá nhiều vọng tưởng chấp trước. Vì vậy, trong kinh
Kim Cang, Phật bảo chúng ta phải "hàng phục tâm như thế".
Phật thuyết pháp, chỉ muốn chúng
ta nhận ra tâm này. Kinh Lăng Nghiêm nói:
- Các ông nên biết, tất cả chúng
sanh từ xưa đến nay, sanh tử tương tục, chỉ vì không biết chân tâm thường
trụ, tánh tịnh thể sáng, lại dùng vọng tưởng, tưởng đó không thật,
mới bị luân chuyển.
Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang, chỉ
thẳng chân tâm, thấy tánh thành Phật. Ai hiểu rõ, liền thành người vô
sự. Lúc tham vấn Lục Tổ, thiền sư Pháp Hải bạch hỏi:
- Bạch Ngài ! Xin Ngài giải thích
rõ lý tâm tức là Phật.
Lục Tổ bảo:
- Niệm trước chẳng sanh, tức là
tâm. Niệm sau chẳng diệt, tức là Phật. Thành tựu tất cả tướng, tức
là tâm. Rời tất cả tướng tức là Phật.
Thiền sư Trí Thông xem kinh Lăng
Nghiêm hơn một ngàn lần mà chưa hiểu nghĩa ba thân bốn trí, nên đến lễ
Lục Tổ, cầu giải đáp. Tổ bảo:
- Ba thân gồm có pháp thân thanh tịnh,
tức là tụ tánh của ông. Báo thân viên mãn, tức là trí huệ của ông.
Hóa thân ngàn ức, tức là hạnh của ông. Nếu rời bổn tánh mà bàn
riêng ba thân, tức gọi là có thân nhưng vô trí. Nếu ngộ ba thân chẳng
có tự tánh, tức gọi là bốn trí Bồ Đề.
Mã Tổ thường bảo rằng tâm tức
là Phật, cũng như nghĩa ở trên.
Ba đời chư Phật và lịch đại Tổ
Sư, đều nói đến tâm này. Chúng ta tu hành, cũng tu từ tâm này. Chúng
sanh tạo nghiệp, cũng do từ tâm này mà ra. Tâm này nếu chưa sáng, phải
tu phải tạo. Tạo Phật hay chúng sanh, tất cả đều do tâm chủ động.
Mười pháp giới tức là sáu phàm bốn thánh, đều không ngoài tâm này. Bốn
thánh tức là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. Sáu phàm tức là trời,
người, địa ngục, ngạ quỶ, súc sanh, A Tu La. Trong mười pháp giới,
ngoài pháp giới của Phật ra, chín pháp giới kia đều được gọi là
chúng sanh. Bốn pháp giới của chư thánh không còn bị khổ luân hồi. Sáu
loài phàm phu vẫn còn bị lưu chuyển trong sanh tử. Vô luận là Phật hay
chúng sanh, tất cả đều do tâm tạo. Nếu có ai nhận ra tâm này, thì đại
địa chẳng còn một tấc đất, thì nói chi đến mười pháp giới! Mười
pháp giới đều từ một niệm sanh khởi. Một thừa chuyên chở hết cả,
muôn đức trang nghiêm, tức là pháp giới của Phật. Tu hành hoàn toàn lục
độ, tổng nhiếp muôn hạnh, tức là pháp giới của Bồ Tát. Quán xem
nhân duyên, chứng lý chân không, tức là pháp giới Duyên Giác. Dụng công
tu đạo, thành tựu Tứ Đế, quy về tiểu Niết Bàn, tức là pháp giới
Thanh Văn. Tu mọi giới lành, tạo nhân hữu lậu, tức pháp giới chư Thiên.
Ái nhiễm không ngừng, thiện duyên hỗn tạp, tức là pháp giới loài người.
Tâm thường tham chấp hơn thua, thích tranh thắng bại, tức là pháp giới A
Tu La. Ái kiến làm gốc, nghiệp xấu tham lam keo kiệt, tức là pháp giới
súc sanh. Tham dục không ngừng, bàng sanh ý tưởng ngu si, tức là pháp giới
ngạ quỶ. Ngũ nghịch, mười nghiệp ác, hủy báng Phật pháp, phá trai phạm
giới, tức là pháp giới địa ngục. Song, mười pháp giới không ngoài một
tâm niệm. Tu tất cả pháp, tức là tu tâm, tu thiền, niệm Phật, tụng
kinh, lễ bái. Từ sáng đến tối ở trên chánh điện, hành tất cả tế hạnh,
đều là tu tâm. Tâm này nếu không xả chấp, sẽ khiến khởi vô minh, giải
đãi làm biếng, tất bị đọa lạc. Trừ diệt tập khí, và việc ác
không làm, mà luôn hành việc thiện, tức là thăng hướng thiện. Tự tánh
vốn là Phật, chớ nên vọng cầu, chỉ việc quét sạch tập khí tham sân
si, liền tự thấy bổn tánh thanh tịnh, tùy duyên tự tại.
Ví như lúa mạch, sau khi giã thành
bột, liền thiên biến vạn hóa, có thể làm tương, mì sợi, bánh bột lọc,
bánh giò cháo quẩy. Nhiều loại nhiều cách, đều do mình tạo. Nếu biết
đó là lúa mạch, thì không bị bánh bao, bánh giò cháo quẩy xoay chuyển.
Bánh bột và bánh bò, tuy hai danh từ khác nhau, nhưng cùng đồng một dạng.
Chớ lên miền bắc nhận không ra bánh bột, hay chạy xuống miền nam nhận
không ra bánh bò. Bàn đến bàn lui, không ngoài việc quét trừ tập khí, tức
là hàng phục được tâm này. Đi đứng nằm ngồi, động tịnh, bận rộn
nghỉ ngơi, chớ khởi niệm dấy tâm; đó là hàng phục được tâm. Nhận
biết tâm này như lúa mạch, khiến tạo ra bao loại bánh khác nhau, thì chẳng
xa cách đạo.
10/ Mồng năm tháng tư [^]
Kinh Lăng Nghiêm nói: "Lý tuy đốn
ngộ, mà ngộ này cũng mất. Sự tuy chẳng đốn trừ, mà nhân do thứ lớp
diệt tận". Lý tức lý tánh, là bổn tâm của mọi người. Lý tánh
này xưa nay vốn bình đẳng. Lục Tức của tông Thiên Thai, tức là hạnh
vị của Bồ Tát Viên Giác.
Thứ nhất, Tức Lý là bàn về tất
cả chúng sanh đều có Phật tánh. Phật có ra đời hay không, chân tánh và
thể tướng này vẫn mãi mãi thường trụ. Phàm phu nơi lý tánh đồng Phật
không khác, nên gọi là Tức Lý.
Thứ hai, Tức Danh Tự nghĩa là khi
nghe thuyết đạo Bồ Đề chân thật, thì ngay nơi văn tự thông đạt liễu
giải, biết tất cả pháp đều là Phật pháp, và tất cả chúng sanh sẽ
thành Phật.
Thứ ba, Tức Quán Hạnh nghĩa là
quán tâm rõ ràng, lý sự tương ưng. Hành như thế nào thì nói như thế đó.
Nói như thế nào thì hành như thế đó.
Thứ tư, Tức Tương Tự nghĩa là
trước tiên nhập vào địa vị thập tín của biệt giáo, phát khởi quán
hạnh vô lậu chân thật.
Thứ năm, Tức Phần Chứng nghĩa là
trước tiên đoạn một phần vô minh, thấy Phật tánh, mở tạng châu báu,
hiển lộ chân như, gọi là phát tâm trụ. Từ chín trụ sau cho đến địa
vị đẳng giác, phá từng phần vô minh, thấy từng phần pháp tánh.
Thứ sáu, Tức Không Cứu Cánh nghĩa
là phá bốn mươi hai phẩm của nguyên phẩm
vô minh, phát khởi trí giác viên
mãn cứu cánh, tức diệu giác.
Lý tuy bảo rằng chúng sanh có Phật
tánh, và có khả năng thành Phật, nhưng chẳng phải chỉ tu một chút là
thành. Chư cổ đức thánh hiền trải qua bao thập niên, lao nhọc cực khổ
tu hành. Nơi lý tuy đã đốn ngộ, nhưng vẫn còn phải từ từ dẹp trừ tập
khí. Bổn tánh thanh tịnh bị tập khí nhiễm ô, nên chưa thành Phật. Dẹp
hết tập khí thì mới thành Phật. Bàn về lý, chúng ta có khác gì với Phật
đâu? Mỗi ngày, hãy tự suy nghĩ rõ, Phật là con người, chúng ta cũng là
con người. Sao Ngài trở thành bậc tôn quý, được người người cung kính
ngưỡng vọng? Do nghiệp thức mê mờ, nên chúng ta không thể tự làm chủ
được. Không tự tin chính mình, thì làm sao người khác tin mình được? Bàn
về lý thì chúng ta cùng Phật không khác, nhưng nói đến sự thì lại có
khác. Những hành vi tạo tác hằng ngày của chúng ta, tất cả đều vì tự
kỶ. Chư Phật chẳng giống như thế; mọi cử chỉ hành động của các
ngài đều vì lợi tha.
Kinh Kim Quang Minh nói: "Trong giảng
đường hội chúng, có tháp bảy báu, từ dưới đất vọt lên. Khi ấy, đức
Thế Tôn liền từ chỗ ngồi, đứng dậy lễ bái tháp kia. Thọ thần Bồ
Đề, bạch Phật:
- Do nhân duyên gì mà đức Thế Tôn
lễ bái tháp kia?
Phật bảo:
- Này Thiện Thiên Nữ! Lúc tu hành
đạo Bồ Tát, xá lợi thân Ta, được an trí trong tháp đó. Do nhờ thân
này, nay Ta sớm thành A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề.
Đức Thế Tôn muốn đại chúng đoạn
trừ nghi hoặc, nên thuyết nhân duyên xá lợi đời trước. Phật lại bảo:
- Này A Nan! Đời quá khứ, một vị
vua tên là Ma Ha La Đà, ông có ba hoàng tử. Ngày nọ, vị hoàng tử thứ ba
nhân dịp vào rừng, thấy một con hổ cái cùng bảy hổ con, bị đói
khát, thân thể ốm gầy, hơi thở thoi thóp. Vị hoàng tử tự suy nghĩ:
"Thời điểm xả bỏ thân mạng đã đến!"
Khi ấy, hoàng tử dũng mãnh phát
nguyện, từ trên núi cao, nhảy xuống trước mặt hổ cái. Hổ cái thấy
máu thịt trước mặt, liền bò đến ăn uống, chỉ còn dư lại xương cốt.
Lúc ấy, đại vương Ma Ha La Đà cùng hoàng hậu biết được việc này,
nên rơi lệ sướt mướt, và đồng mở chuỗi anh lạc, rồi cùng với đại
chúng đến khu rừng tre, thâu lấy xá lợi, dựng tháp bảy báu, ngay tại nơi
đây. Đó là nhân duyên về xá lợi trong đời tiền kiếp của Ta".
Đây là chỗ khác biệt về hành vi
giữa Phật và chúng ta. Ngài xả bỏ thân mạng cho hổ; do chẳng chấp ngã
tướng, nên trừ được ngã tướng, thì làm sao không thể thành Phật được?
Tôi rất xấu hổ, chạy ruỗi trong
bao thập niên, chưa từng thiết tha, giải quyết nỗi khổ sanh tử, nên xả
chấp không được. Chẳng cần nói xa, chỉ bàn về vọng tâm trong mười
hai thời, gặp duyên thấy cảnh, xem coi có nhìn thấu hay không! Lúc trẻ,
thường xách bị ra ngoài, cho đến hôm nay, mới biết là sai trái. Lúc nghe
giảng kinh thuyết pháp, nếu lời hay tiếng diệu thì sanh tâm vui thích,
nguyện muốn theo học. Nếu người giảng kinh tuổi tác nhỏ, hoặc giảng
không đúng như pháp, thì khởi tâm khinh khi, cống cao ngã mạn. Đây là
thói quen xấu xa, tập khí nặng nề. Nơi thiền đường, ngồi tọa hương,
tâm tán loạn, khiến lãng phí thời gian.
Quý hòa thượng lên tòa thuyết
pháp. Quý vị ban thủ tiểu tham cầm phất trần giảng pháp. Nếu giảng
hay thì ngày ngày đều mong họ giảng. Nếu giảng không hay thì không thích
nghe. Tự tâm mình sanh chướng ngại. Thật ra, người khác giảng hay hoặc
dở, tôi cũng chẳng học được hay hành được gì, và đâu có can hệ
chi. Suốt ngày, chỉ lo bàn tán khuyết điểm của họ. Tập khí này thật
khó trừ. Trên khách đường, nhàn rỗi làm biếng, bàn tán sẽ đến nơi này
trú qua đông, đến nơi kia trú qua hạ, cùng tới chỗ này chỗ nọ ăn cơm
uống trà. Lại nữa, thường bàn việc tăng tục, như hòa thượng hay duy
na chỗ này và chỗ kia, như thế này hay như thế nọ. Bàn tán những lời
vô ích, rồi giảng giải những lời tu hành, thật rất giả dối.
Lại nữa, hai cửa ải danh và lợi
cũng rất khó vượt qua. Chùa Thiên Ba tại Thường Châu, mỗi năm có phát
tiền thưởng hai lần. Bình thường, mỗi lần trong chùa có pháp hội, mỗi
thầy tại các hội đường, được lãnh mười hai xu, nhưng thầy trụ trì
cất giữ hai xu, chỉ phát mười xu. Lạy Đại Bi Sám Pháp xong, mỗi thầy
được phát sáu mươi xu, nhưng thầy trụ trì giữ lại mười xu, chỉ phát
năm mươi xu. Đầu tháng giêng và đầu tháng bảy, mỗi thầy trong chùa
được phát tiền thưởng đồng nhau, nhưng có người lại chê nhiều chê
ít. Thật thế, cửa ải lợi lạc rất khó vượt qua.
Rằm tháng tám, vốn là ngày nhận
lãnh chức vụ. Người khác phải mời mình trước nhất. Nếu không được
mời hoặc chỉ được mời nhận chức nhỏ, thì xả bỏ không nổi. Đấy
là không thể vượt qua cửa ải danh vọng. Vừa bàn về việc tu hành, vừa
phải có chút danh lợi. Như thế, tu hành cái chi? Những việc này, phải
nên quét sạch, dẹp bỏ từ từ. Lúc đối mặt với chúng, xả không nổi
cũng phải xả.
Động đậy một chút là đã phạm
quy củ của chư tổ rồi. Nghe qua lời dạy của thiện tri thức, chớ quên
tỉnh giác chiếu soi. Phàm làm việc gì, phải nên hướng tâm vào đạo. Đạo
tức là lý. Lý cũng là tâm. Tâm là gì? Tâm tức là Phật. Phật nghĩa là
không tăng không giảm, chẳng phải xanh chẳng phải vàng, và chẳng phải
dài hay ngắn.
Kinh Kim Cang nói: "Nếu thấy
các tướng mà chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai".
Bước trên đường này, tức đi cùng
thuyền với Phật. Dùng lý để đối trị sự. Nếu sự tình nào phóng xả
không được thì phải dùng lý mà chiếu soi thì sẽ thành công.
Nếu hiểu rõ câu "tất cả tướng
đều là hư vọng", thì thị phi phiền não từ đâu đến? Nếu muốn
tu hành, những gì không vượt qua nổi, phải cố vượt qua. Phải giữ pháp
tánh như như. Quý vị nên phấn chấn tinh thần.
11/ Mồng chín tháng tư [^]
Tổ Đạt Ma bảo:
- Hiểu tâm tông Phật, hạnh giải
tương ưng, gọi đó là Tổ.
Hạnh giải tương ưng, tức là nói
được thì làm được. Người xưa lắm khi nói được mà hành chẳng được,
hoặc hành được mà nói chẳng suông. Thuyết nơi huệ giải của lý Bát
Nhã. Hành tại thật tướng của lý thể. Cả hai đều viên dung vô ngại.
Đó gọi là thuyết và hành đều trọn vẹn. Tiểu Thừa thiên chấp pháp
thân Không-kiến. Tuy hành được, nhưng chưa phá tận hết phiền não hoặc
nghiệp, nên chưa khai mở lý lẽ được. Vì vậy chưa đắc đến năm phẩm
vị sau.
Giảng kinh đến nỗi chư Thiên rải
hoa trời khắp đất, nhưng không thể hành được, nên chẳng thể đoạn
hoặc, chứng thật tướng. Ngày nay, chúng ta nói thì nhiều, mà hành lại rất
ít, nên thật rất khó chứng đạo. Lời nói vốn là văn tự Bát Nhã. Bàn
luận từ địa vị phàm phu đến quả vị Phật, như thế nào đoạn hoặc
chứng thật tướng? Làm sao siêu phàm nhập thánh? Khai mở toàn phần như
thế nào? Lúc sắp chết, thân tâm rã rời, vì hằng ngày không chân thật
hành trì, chỉ nói được mà làm chẳng được. Quy Sơn Cảnh Sách nói:
"Bậc hiền sĩ trung lưu, phải luôn lưu tâm đến giáo pháp".
Chúng ta hành không được mà nói cũng
chẳng xong. Cổ nhân nhất cử nhất động, trong ngoài đều như như, niệm
niệm chẳng sai biệt, nên tâm khẩu tương ưng. Thói quen tật xấu của
chúng ta rất nhiều; tuy muốn hàng phục nhưng không nổi, còn nói chi đến
việc đoạn trừ, nên bị bao cảnh giới xoay chuyển. Tâm tư hoang mang, không
đạt được lợi ích thiết thực. Muốn nói mà nói chẳng ra lời. Lúc khỏe
mạnh, đàm luận giảng giải bao kinh luận, ngữ lục, điển chương. Lúc
già yếu, tánh khí suy nhược, giảng đầu quên đuôi, giảng đuôi quên đầu;
giảng giải mãi vẫn không xuôi. Đấy là hạnh giải chẳng tương ưng; nói
lời trống rỗng, nên khổ đau suốt đời; mở miệng chẳng được, chưa
biết sẽ đi về đâu. Chính tôi đã từng như thế. Một khi mộng mơ, chẳng
biết vọng tưởng gì, chẳng có thể tự chủ chính mình. Lúc sanh tử đến,
không thể dụng công nổi. Ngày ngày bị gió của ngoại cảnh thổi; chẳng
lúc nào xả chấp hay tự chủ được. Giảng giải điều gì cũng thật vô
dụng. Hôm nay, tôi sống thêm được vài ngày, thuyết vài lời cho quý vị
nghe. Thật ra, chỉ là Bồ Tát bùn khuyên lơn Bồ Tát đất. Nếu quý vị
hiểu rõ được những lời khuyến tấn này thì mới có ích lợi đôi
chút. Việc cần thiết là chẳng nên để cảnh chuyển. Như mục đồng cầm
roi, nếu trâu không nghe thì phải đánh cho vài roi. Nếu thường hàng phục
tâm như thế, và công phu lâu ngày càng được thâm sâu, thì mới có tin tức
lành.
| Mục
lục và giới thiệu | I
| II | III | IV
| V | VI
| VII | VIII
| IX |