...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Ngữ lục của thiền
sư Hư Vân
IX
5/ Giới
luật là nền tảng căn bản của Phật pháp [^]
Bên trên đã lược bàn về danh tướng của y bát. Nay nói
sơ lược về ý nghĩa thọ giới. Quý vị phải chú ý lắng nghe. Bí yếu của
Phật pháp nằm nơi ba pháp vô lậu học, tức giới định huệ. Trong ba pháp
này, giới luật là nền tảng căn bản. Nhờ giới luật mà sanh định. Do
định mà sanh huệ. Nếu trì giới thanh tịnh thì định huệ tự nhiên sẽ
được viên thành. Thể theo ngôn từ, Phật chế giới luật, vốn có ba hạng:
Thứ nhất là giới tại gia; giới này bao gồm năm giới và tám giới. Thứ
hai là giới xuất gia; giới này bao gồm mười giới của Sa Di và Sa Di Ni,
cùng giới Cụ Túc của tỳ kheo và tỳ kheo ny. Thứ ba là giới chung cho tu
sĩ và cư sĩ (đạo tục thông hành giới), tức là tam tụ tịnh giới Bồ
Tát.
Hôm nay, quý vị cầu thọ giới, tức là phát hạnh nguyện
quan trọng, cao cả bậc nhất. Hạnh nghĩa là hành trì, tức y theo giới luật
mà tu hành. Nguyện nghĩa là phát nguyện, tức phát bốn hoằng thệ nguyện.
Hạnh nguyện nếu tương dung đầy đủ thì sẽ thành diệu dụng. Phật chế
giới luật, không ngoài việc khiến cho chúng sanh đoạn trừ thói quen tật
xấu, ngưng ác hành thiện, bỏ trần lao, hợp với tánh giác. Kinh Hoa
Nghiêm thuyết:" Giới là nền tảng căn bản của đạo quả Bồ Đề vô
thượng. Phải nên hành trì tịnh giới đầy đủ".
Nhờ giới mà Phật pháp mới trụ thế dài lâu. Tăng già nương
vào giới mà trường tồn, phát triển.
6/ Giới
pháp, giới thể, giới hạnh, giới tướng [^]
Giới được phân thành bốn loại: Giới pháp, giới thể,
giới hạnh, giới tướng.
A/ Giới pháp: Phật chế năm giới, tám giới cho ưu bà tắc
và ưu bà di, chế sáu giới cho thức xoa ma noa, chế mười giới cho sa di và
sa di ni, và chế giới cụ túc cho tỳ kheo và tỳ kheo ny. Năm chúng Bồ Tát
xuất gia, thọ mười giới trọng, bốn mươi tám giới khinh. Hai chúng Bồ
Tát tại gia, thọ sáu giới trọng, hai mươi tám giới khinh. Một trăm tám
mươi bốn loại yết ma, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, cùng vô lượng
luật nghi, được gọi là giới pháp.
B/ Giới thể: Tức là lúc thọ giới, lãnh nạp giới pháp
nơi thân tâm, khiến phát sanh một loại giới thể. Giới thể này, tuy
phàm phu không thể nghe thấy biết đến, nhưng suốt đời hằng thường
tương tục, có công năng phòng việc xấu ngưng việc ác. Được giới thể
bậc ưu hay liệt, tùy theo sự phát tâm cao thấp trong lúc thọ giới. Người
cầu giới, đầu tiên phải biết phát tâm. Phát tâm có ba phẩm vị thượng
trung hạ.
Thứ nhất, phát tâm hạ phẩm, tức ngay lúc thọ giới,
trí huệ mờ mịt, hạ liệt, thệ nguyện không rộng, hoặc tâm tán loạn,
duyên cảnh không chu toàn. Tuy thủ trì giới tướng, nhưng không thể phát
khởi công dụng của giới thể, tức phát tâm hạ phẩm, tức chỉ được
giới thể hạ phẩm.
Thứ hai, phát tâm trung phẩm, tức ngay khi thọ giới, tâm
duyên đến tất cả cảnh giới tình cùng vô tình. Song, tại những cảnh
duyên này, có phát khởi phần đoạn các việc ác, phần tu các việc thiện,
lại chỉ muốn tự giải thoát sanh tử, mà hoàn toàn không có thệ nguyện
độ khắp chúng sanh, tức phát tâm trung phẩm, tức đắc giới thể bậc
trung.
Thứ ba, phát tâm thượng phẩm, tức ngay nơi thọ giới, tâm
tâm tương tục, thấy cảnh sáng trong thanh tịnh, duyên đến tất cả cảnh
giới hữu tình lẫn vô tình. Ngay nơi cảnh duyên này, có thể quyết định
phát đại thệ nguyện, tức nguyện đoạn tất cả ác, nguyện tu tất cả
thiện, nguyện độ tất cả chúng sanh. Đó là phát tâm bậc thượng, tức
đắc giới thể bậc thượng. Vì vậy, nếu muốn đắc được giới thể
thượng phẩm, phải nên phát tâm thượng phẩm.
Do đó, trước khi thọ giới, phải khai mở tâm rộng rãi,
kế đến lập chí cao viễn, thì khi thấy các tướng liền hiểu rõ. Nếu
không chuẩn bị kỸ càng, chỉ mơ hồ về pháp tướng, thì làm sao đắc
được giới thể thượng phẩm? Hoặc giả, hoàn toàn không phát khởi tâm
cầu giới, chỉ được danh thọ giới trống rỗng, thật uổng công sức
thọ giới, cùng lãng phí một đời tu. Quý vị hãy thận trọng lưu ý.
Cảnh duyên tuy nhiều, nhưng không ngoài hai loại hữu tình
và vô tình. Cảnh duyên loài hữu tình tức là tất cả động vật có sanh
mạng như loài người, cá, chim, trùng, thú, v.v... Cảnh duyên vô tình tức
là tất cả loài không có sanh mạng như thực vật, khoáng vật, đất đai,
núi sông, mặt trăng, mặt trời, tinh sao, cỏ cây, nhà cửa, dụng cụ, thuốc
men, v.v...
Chúng sanh tạo nghiệp ác, do mê lầm cảnh duyên trước mắt,
như vừa thấy tiền tài, liền khởi tâm muốn ăn cắp; vừa thấy sắc đẹp
liền khởi niệm dâm dục. Song, nghiệp ác vốn do cảnh khởi, và nghiệp
thiện cũng từ cảnh mà sanh. Cảnh là nơi nương tựa của sự chế giới,
cũng chính là nền tảng căn bản phát khởi giới luật. Ví như giới cấm
giết hại và dâm dục, do cảnh hữu tình phát khởi mà chế giới. Những
giới này, cũng y theo cảnh mà sanh. Giới cấm ăn cắp và nói láo, do cảnh
hữu tình và vô tình phát khởi mà chế giới. Thế nên, cảnh của rừng
cây thâm thẩm đều là gốc của sự chế giới, và là nhân của sự phát
khởi giới. Nếu hưng khởi được tâm từ quảng đại, duyên cảnh hữu
tình và vô tình, rồi phát khởi ba thệ nguyện rộng lớn, tương ưng cùng
giới pháp, lãnh nạp vào thân, hộ trì suốt đời, tức đắc giới thể
thượng phẩm.
C/ Giới hạnh: Tức là sau khi đắc giới thể, trong cuộc sống
hằng ngày, hành vi động tĩnh, ung dung tự tại, ngừng các việc ác, tu
các điều thiện, thuận trì theo giới đã thọ, không vượt ngoài luật Tỳ
Ni. Nơi pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, cùng tất cả pháp môn tu
hành, đều không vượt ngoài giới hạnh, lại chẳng rời tất cả ngoại
hạnh, nên đặc biệt gọi là giới hạnh.
D/ Giới tướng: Tức là những giới do Phật chế. Nơi mỗi
giới, có những phần thọ trì mà phạm và không phạm, lại có phân biệt
nặng nhẹ và khai giá. Trì tức là thuận theo giới thể đã thọ mà lập
danh, và được phân thành hai phần, chỉ trì cùng tác trì. Phạm tức là
do vi phạm giới thể đã thọ mà lập danh, và được phân làm chỉ phạm
cùng tác phạm.
Chỉ trì, tức là phương tiện chánh niệm, hộ trì giới
thể đã thọ, ngăn ngừa cấm chỉ thân tâm, không tạo việc ác, nên gọi
là chỉ. Chỉ mà không vi phạm, thuận theo giới đã thọ, khiến giới thể
sáng trong tinh khiết, nên gọi là trì. Trì do chỉ mà thành, tức đối với
các việc phi pháp ác nghiệp, không nên làm mà chẳng hề làm, đó là chỉ
trì.
Tác trì, nghĩa là chuyên cần thúc liễm ba nghiệp thân miệng
ý, tu tập giới hạnh, tức có việc thiện phát khởi thì phải hộ trì,
nên gọi là tác. Tác đúng như pháp; thuận theo giới thể đã thọ, nên gọi
là trì. Trì do tác mà thành, tức đối với những việc đúng như chánh
pháp cùng nghiệp thiện, nên làm thì phải cố làm, đó là tác trì.
Chỉ phạm, tức do tâm ngu si giải đãi, ngã mạn, khiến
hành ngược với giới thể đã thọ. Nơi các nghiệp thiện thù thắng, chẳng
muốn tu học, nên gọi là chỉ. Chỉ mà có vi phạm, tức phản lại lời
nguyện thọ giới, nghĩa là phạm. Phạm do chỉ mà thành, tức ngay nơi nghiệp
thiện thù thắng phải nên làm mà không chịu làm, đó là chỉ phạm.
Tác phạm, tức là trong tâm đầy dẫy những chất độc
tham sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Tâm kích thích thân miệng, tạo cảnh vi
phạm luân lý, đó gọi là tác. Tác mà có vi phạm, tức ô nhiễm giới thể
đã thọ, nên gọi là phạm. Phạm do tác mà thành, tức nơi nghiệp ác phi
pháp không nên làm mà lại cố làm, đó là tác phạm.
Đối với những giới khinh trọng, khai giá trong tạng luật,
quý vị phải nghiên cứu tu học kỸ càng. Hiện tại, không thể giảng
thuyết tường tận. Những danh tự như thế, được gọi là giới tướng.
Bên trên, tuy phân làm bốn loại, nhưng thật ra chỉ là một.
Chuyển phàm thành thánh, gọi là giới pháp. Tổng nhiếp nguồn tâm, gọi
là giới thể. Tu tạo ba nghiệp, gọi là giới hạnh. Quán sát thấy khác
mà phân biệt, gọi là giới tướng. Do pháp mà thành thể. Nhân thể mà khởi
hạnh. Có hạnh tất y cứ vào tướng. Giới tướng tức là tướng của giới
pháp, cũng là tướng của giới thể, và là tướng của giới hạnh. Pháp
chẳng khác pháp, tức tướng là pháp. Thể chẳng khác thể, tức tổng tướng
là thể. Hạnh chẳng khác hạnh, tức ngay nơi tướng mà thành hạnh.
Thế nên, người tu hành phải nghiên cứu tường tận giới
tướng. Gọi là giới tướng, tức những tướng trì phạm mà trong luật
đã nói rõ ràng. Những tướng trì phạm tuy nhiều, nhưng không ngoài tâm cảnh.
Nghiệp ác do cảnh mà phát khởi, và không ngoài tâm mà thành. Giới thiện
cũng không vượt ngoài cảnh mà phát, và không ngoài tâm mà sanh. Vì vậy,
Nam Sơn luật sư Đạo Tuyên bảo:
- Trước khi chưa thọ giới, tội ác đầy khắp pháp giới.
Nay muốn thọ giới, liền vượt qua cảnh ác, khởi thiện tâm. Đó là
nhân phát khởi giới, khiến giới thể biến khắp pháp giới.
Thế nên, người đắc giới thể, tức vượt qua muôn
duyên ác từ bao đời vô thủy, khiến đầy đủ giới thiện, chuyển hóa
báo nghiệp khổ hữu lậu, trở thành pháp thân thanh tịnh. Quý vị phát
tâm thọ giới, phải nên dụng tâm lành thiện.
7/ Những
điểm giống nhau và khác nhau giữa giới luật Đại Thừa và Tiểu Thừa [^]
Giới vốn phân chia làm hai phần, giới đại thừa và tiểu
thừa. Giới Bồ Tát gồm có mười giới trọng và bốn mươi tám giới
khinh. Đây là giới Đại Thừa. Mười giới của sa di và sa di ny, cùng giới
cụ túc của tỳ kheo và tỳ kheo ny, là giới Tiểu Thừa. Tuy là giới Tiểu
Thừa, nhưng nếu người thọ giới phát tâm thượng phẩm thì đắc được
giới thể thượng phẩm. Giới thể thượng phẩm này tương đồng với giới
thể Bồ Tát, tức tam tụ tịnh giới của đại thừa. Nghiêm trì giới, cấm
ngăn việc ác khởi lên, tức nhiếp luật nghi giới. Dùng trí huệ quán
sát, tức nhiếp thiện pháp giới. Chẳng ngoài việc hộ trì giới, tức
là nhiếp chúng sanh giới. Vì thế, ngay nơi đây, giới Tiểu Thừa tương
đồng với giới Đại Thừa. Thế nên bảo rằng trong tu mật hạnh Bồ
Tát, ngoài hiện tướng Thanh Văn.
Song, giới Thanh Văn vốn chế phục thân không phạm. Giới
Bồ Tát chế phục tâm không khởi phạm. Vì vậy, việc kết giới và phạm
giới giữa Tiểu Thừa và Đại Thừa không đồng. Trong bộ luật Thập Tụng,
kết giới phạm giới không ước định nơi tâm, chỉ khi thân miệng động
thì mới thành phạm; đây chính là giới Tiểu Thừa. Trong bộ luật Tứ Phần,
kết giới và phạm giới ước định tại tâm. Nếu dùng niệm sau liên tục
truy đuổi niệm trước, tức trở thành phạm giới; đây là thông giới Đại
Thừa. Giới Bồ Tát kết phạm tối trọng, ước định tại tâm. Vọng
tâm khởi lên, tức đã phạm giới. Đây chính là giới Đại Thừa. Tóm lại,
chiếu theo giới luật Tứ Phần của Đại Thừa thì vừa khởi niệm là đã
phạm. Chiếu theo luật Thập Tụng thì khi khởi động thân miệng, mới
tính là phạm giới. Giới Đại Thừa và Tiểu Thừa, phân biệt rõ ràng như
thế, phải nên nhận biết.
8/ Tam quy
y, ngũ giới [^]
Không luận giới Tiểu Thừa hay Đại Thừa, tam quy y và ngũ
giới là nền tảng căn bản. Đối với người tại gia hay xuất gia, tam
quy y và ngũ giới là hai việc quan trọng tối cực. (Người tại gia chỉ
giữ giới không tà dâm. Người xuất gia giữ giới hoàn toàn không dâm dục.)
Tam quy y, tức là quy y Phật, quy y pháp, quy y tăng.
Thứ nhất là quy y Phật. Chữ Phật, tiếng Phạn gọi cho
đủ là Phật Đà; Tàu dịch là bậc Giác Giả. Gọi bậc Giác Giả vì
Ngài đã giác ngộ hết tất cả sự việc, tức những việc quan hệ với
nhân quả tương sanh tương diệt, mà không hạn cuộc vào các loại sự tướng
nhân quả, cùng phát hiện sự trật tự tất nhiên của lý nhân quả. Thật
thế, Ngài phát hiện những thứ tự của mười hai nhân duyên, như vô minh
duyên hành, cho đến sanh duyên già bịnh chết. Từ đó, Ngài chứng ngộ
được chân tướng sự và lý của vũ trụ. Vì thương xót chúng sanh chưa
hiểu rõ chân tướng này, và đang bị trầm luân trong biển khổ sanh tử,
nên Ngài dùng vô số phương tiện, dạy dỗ giáo hóa. Người thuận theo lý
này thì tất nhiên sẽ cải thiện cuộc sống, nhiếp thu tư tưởng hành vi
quay về nẻo chánh, khiến xa rời mọi khổ não, đạt đến sự an lạc.
Đó gọi là bậc Giác Giả. Phật Đà giác ngộ chân lý
gì? Đạo giác ngộ vô thượng, không thể dùng lời nói mà hình dung được,
chỉ đơn cử nghĩa lý để thuyết minh.
Các pháp đều do duyên khởi; tánh của chúng đều là
không. Các pháp tức là tất cả sự vật. Duyên, tức là bao gồm cả nhân
thân thuộc và duyên hỗ trợ. Duyên khởi tức khi các pháp sanh khởi, đều
do nhiều nhân duyên giả hợp tạo thành. Ví như lúa là hạt giống, rồi
do ruộng đất, mưa gió, ánh sáng, vật liệu, nhân công, cùng các loại
duyên khác hợp lại, khiến sanh ra thóc. Tánh, được gọi là thể, tức thể
tánh của các pháp, mà mỗi mỗi đều vốn tự như thế, vĩnh hằng bất
biến, không do các loại duyên hợp thành. Tánh Không, vốn chỉ là lời
nói, chớ ngộ lầm với việc không có chi hết. Bất cứ sự vật nào sanh
khởi, phải do các duyên hòa hợp tạo nên. Chúng vốn không được gọi là
thể tánh cố định vĩnh hằng bất biến. Thể tánh không cố định vĩnh
hằng bất biến, mà nhà Phật gọi là tánh Không. Do đó, tổ thứ mười bốn
ở Ấn Độ, tức Bồ Tát Long Thọ, bảo:
- Nhân duyên sanh ra các pháp, tức vốn vô tự tánh. Pháp do
nhân duyên sanh, Ta bảo chúng là "Không", cũng gọi là giả danh, cũng
là nghĩa trung đạo. Chưa từng có một pháp, không từ nhân duyên sanh. Thế
nên, tất cả pháp vốn là không.
Phật thuyết tánh Không, chẳng phải bảo rằng tất cả sự
vật đều không có, mà thể tánh của chúng vốn không vĩnh hằng bất biến.
Vì vậy, Phật Đà không phải là đấng chúa tể tạo ra muôn vật, mà
Ngài là bậc triết nhân phát hiện ra chân lý sanh diệt liên tục của tất
cả sự vật. Tuy chẳng phải là thần, nhưng vì lòng từ bi bao la, thương
xót chúng sanh khổ nạn, nên Ngài dùng thần thông vô ngã để cứu hộ. Ngài
là bậc vĩ nhân mang phước lạc đến cho chúng sanh. Suốt đời, chưa từng
nghỉ ngơi, Ngài luôn giáo hóa và dẫn dắt kẻ ngu, phá trừ mê tín, khiến
họ thoát khỏi bùn lầy ô nhiễm, quay về nơi thanh tịnh, tức xả si mê
quy nơi bờ giác.
Thứ hai là quy y pháp. Pháp tức là lời lược thuyết của
Phật, chỉ rõ chân tướng của sự vật cùng các hành vi chân chánh. Sự
biểu hiện của hành vi cá nhân, quan hệ với đạo đức của nhân loại.
Hành vi phân rõ tà chánh, thiện ác. Song, việc phê phán thiện ác, quan điểm
và lập trường của mỗi người đều không đồng. Nếu muốn biết tiêu
chuẩn xác thật, phải dùng đạo lý tự nhiên về sự tướng của nhân quả
mà xem xét, và cũng phải y theo cách nhìn khách quan về sự phát triển hiện
thực của quy luật tự nhiên, để phán đoán đúng sai.
Xưa kia, xã hội Ấn Độ phân thành bốn chủng tộc: Bà La
Môn (tức Phạm Chí), Sát Đế Lợi (tức vua chúa), Phệ Xá (tức thương nhân),
Thủ Đà La (tức người hạ liệt). Những giai cấp tánh tộc này phân biệt
rất nghiêm ngặt. Đại chúng bần khổ bị áp bức thống thiết mà không
dám kêu ca. Cuộc sống khổ cực còn hơn loài vật. Song, đại chúng bần
khổ kia lại nhận lầm rằng đó là do mệnh trời sắp đặt, tức đã
được chủ định, không thể cải biến. Sau khi thành đạo nơi núi Tuyết
Sơn, Phật Thích Ca Mâu Ni tự ta thán ba lần:
- Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ trí huệ
đức tướng của Như Lai, và có khả năng hiểu rõ các pháp đều do duyên
khởi, tánh vốn không. Tất cả chúng sanh, loài hữu tình và vô tình, đều
có thể thành Phật.
Ngài kết luận rằng bốn chủng tộc trên đều xác thật
bình đẳng, như các dòng sông đồng chảy về biển cả, mà không có tên
con sông này, con sông nọ. Do đó, Ngài cực lực nhấn mạnh và chủ trương
sự bình đẳng, đả phá phân chia giai cấp. Đây là dùng chân tướng của
sự lý mà làm lệ chứng tiêu chuẩn đạo đức.
Thứ ba là quy y tăng. Chữ Tăng, tiếng Phạn gọi là Tăng
Già; Tàu dịch là Chúng Hòa Hợp. Nhiều người cùng nhau sống chung một chỗ,
hòa thuận, chí đồng đạo hợp, cùng tu hạnh tự lợi lợi tha.
Năm giới tức là giới không giết hại, ăn cắp, tà dâm,
nói láo, và uống rượu.
9/ Mười
giới, cụ túc giới, tam tụ tịnh giới [^]
Bên trên đã lược thuyết tam quy y ngũ giới. Nay bàn về mười
giới của sa di, sa di ny, giới cụ túc của tỳ kheo, tỳ kheo ny, cùng Bồ
Tát tam tụ tịnh giới. Mười giới và giới cụ túc đều nhắm vào việc
tự lợi; nghĩa là cầu tự giải thoát cho chính mình, nên chỉ là hương
thơm biểu thị. Giới Bồ Tát đa phần nhắm vào việc lợi người, tức tự
rèn luyện thân tâm, để chuẩn bị xả thân cứu thế; tất nhiên là hương
thơm cúng dường chư Phật. Người xuất gia, tức sa di và sa di ny, đều
được dự vào giới phẩm Cụ Túc; bên trong phải tu từ bi hòa nhã; bên
ngoài phải đắp y khác người thế tục; cử chỉ hành động đều luôn
theo oai nghi phép tắc; chuyên cần học tập luật nghi về giới sa di và sa
di ni; cẩn trọng, chớ phóng dật. Tỳ kheo phải thường hành hai trăm năm
mươi giới. Tỳ kheo ny phải hành ba trăm bốn mươi tám giới. Phòng cấm
ba độc, điều phục bảy chi, đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh.
Ba độc tức là tham, sân, si. Bảy chi tức là bảy chi phần của thân miệng.
Thân có ba chi, khiến phạm giới giết hại, ăn cắp, dâm dục. Miệng có bốn
chi, khiến phạm giới nói láo, nói lời thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói
lời ác độc. Nơi bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, đều đầy đủ hai
trăm năm mươi giới, cộng thành một ngàn. Thời quá khứ, hiện tại, vị
lai đều đầy đủ, nên cộng thành ba ngàn oai nghi. Nơi bảy chi của thân
miệng, đều đầy đủ ba ngàn oai nghi, cộng thành hai mươi mốt ngàn. Nơi
tham sân si cùng các đẳng phần, (khi tham khởi lên thì sân và si cũng theo
nó mà khởi, nên gọi là đẳng phần) tức là trong bốn loại phiền não,
nếu đều thanh tịnh không hủy phạm, tức là tám mươi bốn ngàn tế hạnh.
Tám mươi bốn ngàn cũng chỉ cho con số lớn.
Trong giới luật, có một điều rất quan trọng, nay muốn nói
rõ cho quý vị nghe. Trong giới bổn có cấm tỳ kheo tự tay đào đất, dệt
vải. Hiện tại, chúng ta đang làm ruộng, dệt vải, vậy có phạm giới
không? Chúng ta phải biết, việc chế giới luật của Phật, có hai loại
tánh giới và giá giới. Thiên đầu là tội ba la di, tức tánh giới, cũng
là giới căn bản; nếu phạm thì không thể sám hối được. Những giới
khác, đều là giá giới; nếu phạm thì có thể sám hối. Người nghiên cứu
kinh tạng, luật tạng, phải nên hiểu rõ tường tận về sự khác biệt
giữa các giới khinh, trọng, khai, giá.
Đối với tánh giới, nếu làm thì vi phạm lý thể. Vô luận
Phật có chế hay không chế, nếu làm thì phạm tội, như giết hại, ăn cắp,
tà dâm, v.v... Giá giới, tức là lúc Phật chưa chế giới mà làm thì
không có tội. Từ khi Phật chế giới ra, nếu làm thì thành tội, như giới
đào đất dệt vải. Phật chế ra giá giới vì có nhiều nguyên nhân, như
địa thế, sự việc, thời tiết. Ví như lập ra giới không được đào
đất và dệt vải, là vì muốn tránh sự hiềm nghi của người đời. Xã
hội Ấn Độ thời xưa, hành khất thức ăn y phục, vốn là việc của người
xuất gia. Nếu tự mưu tính việc ăn mặc, thì bị người đời hiềm nghi.
Vì vậy, Phật phải chế ra giới này. Song, xã hội và phong tục tập quán
các nơi không đồng; phải thuận theo địa thế, sự việc thời tiết mà
chế giới. Do đó, không thể giữ giới cứng chắc. Trong luật Ngũ Phần,
Phật nói:
- Tuy Ta chế giới như thế, nếu tại các nơi khác, không
thể hành thanh tịnh, thì không nên ứng dụng. Tuy Ta chẳng chế giới, nhưng
tại các nơi khác, nếu nên hành ở các nơi khác để sự tu hành được
thanh tịnh, thì phải hành theo.
Do đó, xưa kia tổ Bá Trượng thấy hoàn cảnh nước Tàu
và Ấn Độ không đồng, nên cử ra giới: "Ngày nào không làm thì
ngày đó không ăn". Nếu Phật giáng sanh nơi xứ này, thì quyết chắc
sẽ không chế giới đào đất, dệt vải. Thế nên, chúng ta làm ruộng dệt
vải, chẳng phải phạm giới luật. Hy vọng trong khi tu trì, quý vị chớ
nên bỏ phế việc lao động. Trong lúc lao động, cũng không nên quên việc
tu trì. Cả hai việc đều có thể làm cùng một lúc. Đối với việc thọ
trì giá giới, quý tại tuân thủ bổn ý chế giới của Như Lai, chớ nên
tử thủ chấp chặt giới điều. Nếu hiểu được ý Phật, tuy tương phản
điều văn, nhưng cũng gọi là trì giới. Nếu không hiểu được ý Phật,
tuy tôn thủ giới điều, nhưng cũng thành phạm giới. Song, không thể vay mượn
lời tôi, mà phá giới luật Phật chế. Muốn hiểu chi tiết, quý vị phải
nghiên cứu và thâm nhập sâu vào tạng luật.
Giới Bồ Tát nhiếp hết ba tụ: Nhiếp luật nghi giới, nhiếp
thiện pháp giới, nhiếp chúng sanh giới.
Thứ nhất, nhiếp luật nghi giới, tức là xa rời tất cả
việc ác. Trong tụ giới này, chỉ tức là trì, và tác tức là phạm; phải
thuận theo luật giáo mà hộ trì nghiêm túc, cẩn trọng chớ phạm.
Thứ hai, nhiếp thiện pháp giới, tức là tích tụ tất cả
việc lành. Thân miệng ý đều lành; ba huệ văn tư tu, mười ba la mật, tám
muôn bốn ngàn pháp trợ đạo, đều tu hành đến cứu cánh cùng cực. Nơi
tụ này, tác tức là trì, chỉ tức là phạm; phải thuận theo giáo pháp
mà hành, chớ hối hận, thối tâm.
Thứ ba, nhiếp chúng sanh giới, cũng gọi là nhiêu ích hữu
tình giới, tức độ tận hết tất cả chúng sanh; dùng bốn môn vô lượng
làm tâm, và dùng bốn nhiếp pháp làm hạnh. Bốn môn tâm vô lượng tức là
từ, bi, hỶ, xả. Từ là ban vui. Bi là cứu khổ. HỶ là hoan hỶ vui mừng
khi chúng sanh thoát rời mọi khổ não, và đắc pháp lạc sung túc. Xả là
khiến chúng sanh hành hạnh Phật, đến nơi Phật địa, rồi khởi tâm xả
bỏ.
Bốn nhiếp pháp, tức là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng
sự. Thứ nhất bố thí, tức là nếu có chúng sanh thích muốn tiền tài
thì bố thí tiền tài; nếu thích nghe pháp thì bố thí pháp; nếu sợ hãi
thì sẽ an ủi che chở, khiến họ sanh tâm thân ái, y theo mình mà thọ
giáo học đạo. Thứ hai ái ngữ, tức là tùy theo chúng sanh lợi căn và độn
căn mà dùng lời lành thiện khuyên lơn an ủi, khiến họ sanh tâm thân thiết,
y theo mình mà học đạo. Thứ ba lợi hành, tức là khởi hành động lành
thiện từ thân miệng ý, làm lợi ích chúng sanh, khiến họ sanh tâm thân mến
mà thọ đạo. Thứ tư đồng sự, tức là dùng pháp nhãn quán sát căn tánh
của chúng sanh, tùy theo ý thích mà thị hiện; lại nữa, cùng làm việc, tạo
ích lợi, khiến họ thọ đạo. Nơi tụ này, tác tức là trì, chỉ tức
là phạm.
Ngoài ra, lúc Bồ Tát phát tâm, phải phát bốn hoằng thệ
nguyện:
Thứ nhất, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, tức là
phát tâm Bồ Tát, hành đạo Bồ Tát, y theo giáo pháp, đoạn trừ ngã ái,
hy sinh thân mình cho người, lấy tâm chúng sanh làm tâm mình, lấy khổ
chúng sanh làm khổ của mình, thường hành bố thí bình đẳng độ khắp
chúng sanh. Bồ Tát Địa Tạng bảo:
- Chúng sanh độ tận hết thì Ta mới thành Bồ Đề. Địa
ngục chưa trống không, Ta thệ không thành Phật.
Thứ hai, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn. Chúng sanh từ
vô lượng kiếp đến nay, lưu lạc trong sanh tử, đều do chưa đoạn được
phiền não. Phiền não do cội gốc sáu độc phát ra chi nhánh, tầng tầng lớp
lớp vô tận. Cội gốc sáu độc tức là tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến.
Từ đó, sanh ra giải đãi, làm biếng, phóng dật, đố kỴ, chướng ngại,
hôn trầm, tán loạn, xiểm khúc, cuồng vọng, không biết xấu hổ, cùng
vô số chi nhánh. Tuy phiền não rất nhiều, nhưng tổng quát không vượt
ngoài hai sự chấp trước, tức là chấp ngã và chấp pháp. Chúng sanh vì
chưa đạt được ý nghĩa đạo lý duyên khởi tánh không, nên vọng chấp
thân tâm này là thật ngã, cùng phân biệt các pháp là pháp thật. Vì dùng
chúng làm nhân, nên vọng lầm, khiến thọ quả khổ sanh tử. Thế nên, đức
Thế Tôn thiết giáo phương tiện, tùy theo bịnh mà cho thuốc. Ngài thuyết
ra vô lượng pháp môn, để trị vô tận phiền não của chúng sanh. Chúng
ta phải y theo giáo mà phụng hành, thệ nguyện đoạn tận hết phiền não.
Thứ ba, pháp môn vô lượng thệ nguyện học. Bồ Tát vì
muốn lợi ích khắp muôn loài hữu tình, nên nơi vô lượng pháp thế gian,
xuất thế gian, đều tùy thuận tu học. Vì vậy, Bồ Tát luôn cầu học
pháp ngũ minh. Một là thanh minh, tức hiểu rõ ngôn từ văn tự. Hai là
công xảo minh, tức hiểu rõ tất cả công nghệ, chi thuật, toán số v.v...
Ba là dược phương minh, tức hiểu rõ y thuật. Bốn là nhân minh, tức học
về luân lý, để định quyết chánh tà, hoạch kiểm pháp chân ngụy. Năm
là nội minh, tức hiểu rõ tông chỉ của Phật. Vô luận pháp thế gian hay
pháp xuất thế gian, khoa học, triết học, Bồ Tát phải đều học. Lục Tổ
bảo:
- Phật pháp tại thế gian, không rời sự giác ngộ trong thế
gian. Nếu rời pháp thế gian mà cầu Bồ Đề, thì như tìm lông rùa sừng
thỏ.
Vì vậy, không phải chỉ nhắm mắt, ngồi xếp bằng, mà
tính là tu hành. Gánh nước, chặt củi, cuốc đất, trồng rau, cho đến
ăn cơm, mặc áo, đi đại tiểu tiện, đều là tu hành Phật pháp. Người
xuất gia chớ nên đóng cửa làm xe, tử thủ một pháp.
Thứ tư, Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành. Phật đạo,
tiếng Phạn gọi là Bồ Đề; Tàu dịch là giác. Giác tức là tự tánh
linh giác. Giác tánh này nơi Thánh không tăng, nơi phàm không giảm, vốn tự
viên thành, ai ai cũng có. Chư Phật thánh nhân, thị hiện thế gian, làm bậc
đạo sư cho trời người, làm mô phạm cho đời hậu thế. Các ngài lại
chỉ dạy chúng sanh rằng nếu rời vọng tưởng chấp trước, tức có khả
năng thành Phật.
Lục Tổ bảo:
- Phải hướng vào trong tự tánh mà tìm Phật, chớ nên hướng
ngoại truy cầu. Tự tánh ngu mê, tức là chúng sanh. Tự tánh giác ngộ, tức
là Phật.
Chúng ta phải xả mê quay về giác, và thệ nguyện thành Phật
đạo. Hoằng tức là thâm sâu và rộng rãi; nghĩa là thâm sâu đến tận cùng
ba cõi, và rộng rãi biến khắp mười phương. Thệ tức là tự chế phục
tâm mình. Nguyện tức là chí cầu đầy đủ. Bồ Tát phải phát những thệ
nguyện như thế; chớ sợ, chớ thối tâm, chớ dao động, mãi đến tận
đời vị lai, luôn dũng mãnh chuyên cần tu tập.
Hư Vân tôi bất quá chỉ thuyết lại những lời của Phật,
để nhắc nhở kẻ hậu lai. Đức giáo chủ cõi Ta Bà, Phật Thích Ca Mâu
Ni, là hòa thượng bổn sư của quý vị. Bồ Tát Đại Trí Văn Thù là hòa
thượng Yết Ma A Xà Lê. Bồ Tát Di Lặc, nhất sanh bổ xứ, là hòa thượng
giáo thọ A Xà Lê. Bảy vị Phật trong đời quá khứ và mười phương chư
Phật, là những bậc tôn chứng. Mười phương Bồ Tát là các bậc thầy dẫn
lễ, cùng là pháp lữ đồng học của quý vị. Tuy tôi thọ thỉnh, nhưng
chỉ là pháp sư giáo giới của quý vị, được gọi là hòa thượng Bỉnh
Giới.
10/ Kết
khuyến [^]
Lúc lên đàn thọ giới, quý vị mỗi người phải thành
tâm khẩn thiết, lễ bái cầu thỉnh chư Phật, chư Bồ Tát từ bi gia hộ.
Lại nữa, phải thỉnh mời chư thiên, long thần, tám bộ quỶ thần, đồng
lâm đến đàn tràng hộ giới. Tôi sẽ vì quý vị mà tác pháp hồi hướng.
Quý vị mỗi người tại nơi bổn xứ, phải thanh tịnh ba nghiệp, chăm chú
nhất tâm; trong mười hai thời, y theo pháp mà lễ sám. Phải nên dũng mãnh
tinh tấn, chớ tham ăn ngủ, khiến tự mất lợi ích. Song, không nên khổ
nhọc quá mức, đến nỗi phải sanh bịnh. Khi tĩnh tọa, phải điều hòa
thân thể: "Ngồi thẳng niệm nhớ thật tướng". Thật tướng tức
là bổn tâm. Bổn tâm tức là Phật. Nếu vọng tưởng không sanh thì đắc
tịnh giới. Nếu giới thanh tịnh thì đắc định. Định sanh tức phát huệ.
Phật thuyết đại tạng giáo, tức là giới, định, huệ.
Nếu đắc được bổn tâm này, thì cành nhánh không bị hư hoại. Nếu luôn
y theo đó mà hành trì, thì không uổng là giới tử của đàn tràng, lại cũng
không phụ niềm hy vọng của tôi. Xin đại chúng, hãy cùng nhau phấn tấn.
Những vị bên ngoài vào núi, ngày mai nên hoan hỶ trở về quê quán. Mỗi
người phải tự hành trì.
XXIV. Thiền
tông cùng Tịnh Độ tông [^]
(Vào năm 1955, cư sĩ Lương Hàn Chiêu vào núi, cung thỉnh
Ngài giải thích nguyên nhân phát khởi sự tranh luận giữa Thiền Tông và
Tịnh Độ tông. Dưới đây là lời giải thích về tông chỉ không hai
khác của Thiền Tông và Tịnh Độ tông.)
Hỏi: Khi hỏi rằng tham thiền có bằng niệm Phật không,
thì thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ đáp:
- Có thiền không Tịnh Độ, mười người tu, chín người
lạc. Điển hình là Giới thiền sư, hậu thân làm Tô Đông Pha, cho đến
Nhạc Đàng Tăng làm Thần Thị Tử Hội, v.v...
Đáp: Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát Văn Thù sau khi chọn lựa
pháp môn viên thông, liền thuyết kệ:
- Xoay về nguồn tánh vốn không hai, nhưng phương tiện lại
có nhiều pháp môn. Thánh tánh không thể chẳng thông. Thuận nghịch chỉ
là phương tiện.
Từ trong các pháp môn, Bồ Tát Văn Thù định ra nhĩ căn viên
thông:
- Đây là phương tiện chân thật của giáo thể ở phương
này, vốn được thanh tịnh tại âm thanh. Nếu muốn đạt tam ma đề (chánh
định), phải dùng tánh nghe mà nhập vào.
Lại chỉ ra:
- Những phương tiện khác, đều do thần thông ứng hóa của
Phật cảm nên. Hiểu sự liền bỏ trần lao, chẳng phải chỗ thường tu học.
Đối với niệm Phật tam muội, ngài Văn Thù bảo:
- Chư hành vốn vô thường, tánh chất của vọng niệm
nguyên là sanh diệt, nay cảm thọ nhân quả sai biệt, sao được viên
thông!
Trong quyển Tứ Liệu Giản, thiền su Vĩnh Minh viết: "Có
Thiền không Tịnh Độ, mười người tu, lạc hết chín. Ấm cảnh hiện tiền,
chớp mắt liền tùy nghiệp chuyển sanh. Không Thiền có Tịnh Độ, muôn người
tu, muôn người vãng sanh. Thấy Phật A Di Đà, sao lo không khai ngộ! Có Thiền
có Tịnh Độ, ví như hổ thêm sừng; đời này làm thầy người, đời vị
lai làm Phật Tổ. Không Thiền không Tịnh Độ, giường đồng cùng trụ sắt,
muôn kiếp và ngàn đời, chẳng có nơi nương tựa".
Gần đây, người tu Tịnh Độ đa số đều cố chấp vào
quyển Tứ Liệu Giản này, mà thật ít có ai nghiên cứu Kệ Viên Thông, để
đối chiếu, nên họ đều hiểu lầm ngộ giải, khiến chẳng những phụ
bạc Bồ Tát Văn Thù lại còn làm lụy đến thiền sư Vĩnh Minh. Tựu
chung, đối với những pháp môn quyền thật, họ không thể dung hội quán
thông, nên thấy pháp Thiền và Tịnh, như lửa với nước, và băng với
than. Bàn về việc này, Hư Vân tôi không thể lặng thinh. Kiểm lại thì thấy
rằng tổ Vĩnh Minh Diên Thọ sanh vào đời Tống, là con cháu của Dư Hàng
Vương. Ngài là một trong ba vị tổ, có rất nhiều trước tác nhất ở
Tàu. Trong cuốn Phật Tổ Thống Ký, quyển thứ hai mươi sáu viết: "Thời
Ngô Việt Tiễn, Ngài làm quan thuế, nhưng thường dùng tiền của công khố,
mua cua cá phóng sanh. Việc này bại lộ, nên bị bắt nhốt xử trảm. Ngô
Việt Vương bảo quan quân:
- Nếu thấy sắc mặt của ông ta biến đổi thì hãy chém,
bằng ngược lại hãy thả.
Khi sắp bị chém, sắc mặt Ngài vẫn bình thường, nên
được tha mạng. Sau đó, Ngài theo thiền sư Tứ Minh Thúy Nham xuất gia.
Ngài không đắp y phục tơ lụa, ăn không trọng mùi vị. Sau này, đến
tham thiền với Thiệu quốc sư mà phát minh tâm địa... Kế đến, Ngài
lên núi Trí Giả Nham, bốc thăm hai thẻ. Thẻ thứ nhất viết: "Suốt
đời tu thiền định." Thẻ thứ hai viết: "Tụng kinh, hành muôn việc
thiện, trang nghiêm Tịnh Độ".
Ngài lại thành tâm cầu khẩn, rồi bốc được thẻ
"tụng kinh, hành muôn việc thiện, trang nghiêm Tịnh Độ", cho đến
bảy lần.
Ngài là một vị thiền sư, đệ tử đời thứ ba của thiền
sư Pháp Nhãn. Trước tác của Ngài có rất nhiều. Bài "Tâm Phú"
và bài "Tâm Phú Lạc" giảng giải về việc minh tâm kiến tánh.
Bài "Vạn Sự Đồng Quy" giảng giải về sự viên dung vô ngại của
các pháp. Một trăm quyển "Tông Cảnh Lục", hoằng dương xiển lý
"dâng cành hoa ngộ tông chỉ" của Thiền tông, cùng dung hợp giáo
lý các tông pháp, quy về nguồn tâm.
Ở Nhật Bản, có mười ba tông phái. Ở Tàu, có mười tông
phái. Bộ Tông Cảnh Lục lấy tâm làm tông, và lấy việc ngộ đạo làm
pháp tắc. Lời lẽ tuy có sâu cạn, nhưng muôn pháp đều cùng phát xuất từ
một cội nguồn. Những điểm vi tế đều phát xuất từ tâm. Dẹp tà trợ
chánh, khiến người sau không đi lầm lạc.
Suốt đời, Ngài giảng thuyết rất nhiều, nhưng chưa từng
bảo tu Thiền là dở. Ngài ngộ đạo từ Thiền tông, sao lại đi hoằng
dương Tịnh Độ? Đối với người đại ngộ, pháp pháp đều dung thông;
tham Thiền là tu đạo; niệm Phật cũng là tu đạo. Chúng ta lao động cuốc
đất ở đây, cũng là tu đạo. Vì muốn cứu độ những người độn căn
hạ liệt trong đời mạt pháp, nên cả đời Ngài hoằng dương pháp môn niệm
Phật, và được người người tôn vinh là vị tổ thứ sáu của tông Tịnh
Độ. Nơi chùa Tịnh Từ, tăng chúng kiến lập tháp kỶ niệm tôn thờ
Ngài. Trong quyển Phật Tổ Thống Ký, viết: "Có vị tăng từ Lâm
Xuyên đến, kể rằng lúc bị bịnh nặng, hồn nhập xuống cõi u minh, thấy
vua Diêm La đảnh lễ trước tôn tượng của một vị
thánh tăng. Hỏi ra thì biết là vua Diêm La đang đảnh lễ
tôn tượng thiền sư Vĩnh Minh Diên Thọ ở Hàng Châu. Ngài đã được vãng
sanh vào hàng thượng phẩm thượng sanh ở cõi Tây Phương".
Phật tử Tàu lấy ngày mười bảy tháng chạp làm ngày
vía Phật A Di Đà. Vậy họ y cứ theo kinh điển nào? Kinh A Di Đà thuyết:
"Qua mười muôn ức cõi Phật về phía tây, có Phật hiệu là A Di Đà".
Vậy ai biết được mười bảy tháng chạp là ngày vía của
Phật A Di Đà? Ngày này, vốn là ngày sanh nhật của thiền sư Vĩnh Minh, vì
Ngài chính là Phật A Di Đà thừa nguyện hóa thân trở lại cõi Ta Bà.
Tứ Liệu Giản vừa viết ra, hai tông Thiền Tịnh liền khởi
tranh luận. Người tu Tịnh Độ bảo:
- Có Thiền, không Tịnh Độ, mười người tu, chín người
lạc.
Nếu chỉ tu theo Thiền tông thì không thể giải thoát khỏi
sanh tử. Nếu chỉ tu theo tông Tịnh Độ thì "muôn người tu, muôn người
được vãng sanh". Vừa tham Thiền vừa niệm Phật thì như "hổ mọc
sừng". "Không Thiền không Tịnh Độ", là kẻ ác trong thế
gian.
Người tu Tịnh Độ phê bình Thiền tông như thế. Ngày
nay, họ vẫn còn náo nhộn không ngừng, tức thường bảo rằng tham Thiền
là việc xấu. Họ lại dẫn chứng:
- Giới thiền sư, hậu thân làm Tô Đông Pha. Thanh Tảo Đường,
hậu thân làm Tăng Lỗ Công. Tôn Trưởng Lão, hậu thân làm Lý Thị Lang.
Nam Am Chủ, hậu thân làm Trần Trung Túc. Trí Tạng Mỗ, hậu thân làm Trương
Văn Định. Nghiêm Thủ Tọa, hậu thân làm Vương Quy Linh. Thiền sư Tắc Thừa,
hậu thân làm Hàn Thị Tử. Kính Tự Tăng, hậu thân làm Kỳ Phu Tử. Thiện
Mân, hậu thân làm Đổng Ty Hộ Nữ. Hải Ấn, hậu thân làm Chu Phòng. Nhạn
Đàng Tăng, hậu thân làm Tần Thị Tử Cối, do dựa quyền thế mà tạo
các nghiệp ác. Những vị này, nếu xưa kia phát tâm cần cầu vãng sanh
cõi Tịnh Độ, thì chắc sẽ không bị triển chuyển như vầy... Làm dân
thường, làm người nữ, làm kẻ ác, hoặc chuyển thân làm quan thần, văn
võ danh tiếng, nhiều không thể tính được. Ai ơi! Hãy nên vãng sanh qua
cõi Tây Phương!
Theo tôi nhận thấy, hậu thân của người tu hành, bị
"triển chuyển hạ liệt" do người chớ chẳng phải do pháp. Thời
vua Đường Hy Tông, có cô kỶ nữ tại Đĩnh Châu, nơi miệng thường thoát
ra mùi hương hoa sen. Một vị tăng nước Thục bảo:
- Cô này đời trước làm ni, thường tụng Pháp Hoa hơn hai
mươi năm.
Tụng kinh Pháp Hoa mà triển chuyển làm thân kỶ nữ, không
thể đổ lỗi cho kinh Pháp Hoa. Cũng vậy, hậu thân của các vị thiền sư
làm thường dân, người nữ, kẻ ác, v.v... không thể đổ lỗi cho Thiền
tông được. Ba mươi hai ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm, tùy theo sở
nguyện của chúng sanh mà hóa độ, hiện thân thuyết pháp. Vậy có thể
nào bảo rằng ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm cũng bị "triển
chuyển hạ liệt" được không? Phật A Di Đà hóa thân làm thiền sư
Vĩnh Minh. Hậu thân thiền sư Vĩnh Minh làm tổ sư Thiện Kế. Hậu thân của
tổ sư Thiện Kế làm cư sĩ Vô Tướng Tống Liêm. Tổ sư Thiện Kế tại
chùa Bán Dong Thọ Thánh, ngoài thành Sương Môn, ở Tô Châu, viết nguyên bộ
kinh Hoa Nghiêm bằng máu. Sự nghiệp hoằng pháp của Ngài chỉ bằng phân nửa
sự nghiệp của thiền sư Vĩnh Minh. Lúc làm quan, Tống Liêm ít khi hành việc
thiện, nên không thể sánh bằng tổ sư Thiện Kế. Như vậy, có thể bảo
rằng Phật A Di Đà cũng "triển chuyển hạ liệt" được không? Tần
Thủ Tọa tu thiền, đốt một cây hương liền ngồi tịch mất, nên không
được hứa khả nơi núi Cửu Phong. Đề Y Đạo Giả đến đi tự tại,
nhưng núi Tào Sơn cũng không thừa nhận. Do những câu chuyện này, người
tu hành tông Tịnh Độ thường phê phán tu theo Thiền tông là sai, mà chẳng
chịu tìm hiểu kỸ càng. Núi Cửu Phong và núi Tào Sơn vốn là những nơi
xuất sanh chư thiện tri thức chánh tri chánh kiến của Thiền tông. Phải
nên chú tâm đến Thiền tông, chứ sao lại đánh giá thấp như thế! Hiện
tại, có ai trong chúng ta, ngồi thiền mà thị tịch không? Chúng ta chưa sánh
bằng Tần Thủ Tọa, Đề Y Đạo Giả, sao lại dám khinh mạt Thiền tông?
Thật ra, tông môn có sâu cạn. Pháp môn Hiển giáo và Mật giáo cũng có đốn
tiệm tà chánh. Pháp môn niệm Phật cũng lại như thế.
Bàn về sự khác biệt, có nhiều loại thiền định, như
thiền ngoại đạo, thiền phàm phu, thiền Tiểu Thừa, thiền Trung Thừa,
thiền Đại Thừa. Thiền tông ở Tàu là tổ sư thiền, hay thiền tối thượng,
tức không đồng với các loại thiền khác. Song, người tu thiền trong đời
mạt pháp, thật sự có tu lầm lạc, nên không lạ gì bị thiền sư Vĩnh
Minh chê trách trong quyển Tứ Liệu Giản.
Vì quyển Tứ Liệu Giản này được lưu truyền trong thiên
hạ rất lâu, nên khi xem qua, tôi không dám phê bình là sai lầm. Mắng
trách "có Thiền, không Tịnh Độ, mười người tu, chín người lạc",
có phải là Ngài phân Thiền Tịnh làm hai không? Người niệm Phật, nếu tâm
tịnh thì cõi Phật thanh tịnh, tức thấy tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh Độ.
Thiền tông cùng Tịnh Độ tông vốn không hai. Song, người đời nay chỉ
giới hạn, bảo rằng niệm Phật là tu Tịnh Độ, còn tham thiền là tu thiền.
Xưa kia, đức Phật vượt thành xuất gia, vào núi Đan Đặc
tu đạo. Đầu tiên, Ngài tu theo ông A Lam Ca Lam ba năm, học thiền định bất
dụng xứ, nhưng nhận biết đó chẳng phải là pháp cứu cánh. Kế tiếp,
Ngài đến tu với ông Uất Đầu Lam Phất ba năm, học thiền định phi phi
tưởng xứ, và cũng biết định này chẳng phải là tối thượng. Ngài lại
đến núi Hương Tượng, cùng tu với ngoại đạo; ngày ăn một hạt mè, trải
qua sáu năm... Kế đến, Ngài tới dưới cội cây Bồ Đề ngồi thiền
trong suốt bốn mươi chín ngày đêm. Rạng ngày mồng tám tháng chạp, khi
sao mai vừa chớp sáng, Ngài liền đại ngộ, thành đẳng chánh giác, rồi
ta thán:
- Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng
trí huệ Như Lai. Vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể chứng đắc.
Khi ấy, Thiền với Tịnh Độ xuất phát từ chỗ nào? Thuyết
pháp trong bốn mươi chín năm trường, Ngài vẫn chưa cho đó là cứu cánh.
Khi đưa cành hoa lên, mỉm cuời phó chúc cho tôn giả Ca Diếp, Ngài cũng
chưa từng nói một chữ "Thiền". Thiền vốn là pháp môn tối thượng.
Ví như sữa bò, ngày ngày bị pha trộn với nước, khiến dần dần mất
chất tinh khiết. Người học Phật cũng như người thêm nước vào sữa.
Thiền sư Vĩnh Minh thấy sữa Thiền đã bị nước thế tục hòa tan, nên bảo
"có Thiền không Tịnh Độ, mười người tu, chín người lạc", chứ
không phải nói rằng sữa Thiền sai lạc. Thiền sư Vĩnh Minh lên đảnh núi
Trí Giả, bốc thăm giữa Thiền và Tịnh, rồi cầu được quẻ tu Tịnh Độ
bảy lần. Nếu Thiền không hay, Ngài quyết không bốc thăm như thế. Nếu
ưa chuộng pháp môn Tịnh Độ, thì Ngài đâu cần bốc thăm đến bảy lần
mới quyết chắc. Điều này chứng minh rằng Ngài vốn ngưỡng mộ Thiền
tông. Vả lại, Ngài xuất thân từ Thiền tông và là bậc pháp nhãn trong
tông môn, có lý nào đi nói xấu Thiền tông?
Pháp tham thiền, phải nên quán chiếu xem bổn lai diện mục
của mình trước khi cha mẹ sanh ra như thế nào. Mục đích chỉ cầu minh
tâm kiến tánh. Người sau tu thiền sai khác với phương pháp này. Vừa đắc
được vài cảnh giới thanh tịnh, hay thân thể được nhẹ nhàng, thì tự
bảo rằng mình đã có công phu. Thật ra, đã bị dính nơi ấm cảnh. Họ nào
biết rằng một niệm do duyên khởi, tức vốn vô sanh; nơi cột trụ trăm
thước, phải nên tiến thêm một bước. Vì thế, ngài Vĩnh Minh bảo:
- Ấm cảnh hiện tiền, liền tùy nghiệp vãng sanh.
Ngược lại, niệm Phật vốn có nơi nương tựa. Song, Ngài
không bảo rằng chẳng cần niệm Phật mà vẫn có thể "muôn người
niệm, muôn người được vãng sanh", mà là phải chân thật tu hành
pháp môn Tịnh Độ thì mới có thể thấy Phật A Di Đà. Nếu dùng câu
"lúc thấy Phật A Di Đà, sao lo không khai ngộ", làm chỗ nương tựa,
thì đây cũng là vọng tưởng sai lầm.
Trong kinh Lăng Nghiêm, ngài A Nan bạch Phật:
- Từ lúc theo Phật phát tâm xuất gia, con thường tự suy
nghĩ rằng không cần tu hành mệt nhọc, chỉ nương oai thần của Phật, nhờ
Như Lai ban ân huệ, sẽ cho thiền định tam muội. Nào biết rằng thân tâm
vốn không thể tu thế được, nên khiến quên mất bản tâm của mình.
Phật Thích Ca không thể dùng oai thần lực mà ban ân huệ
thiền định tam muội cho ngài A Nan được. Như vậy, Phật A Di Đà làm sao
ban ân huệ thiền định tam muội cho mình được?
So sánh với vọng tưởng, ba độc, năm dục, thì chắc chắn
niệm Phật là hay hơn. Như lúc mộng, nếu mơ thấy điềm lành, thì khi tỉnh
dậy, tinh thần sảng khoái. Nếu mơ thấy ác mộng, thì khi tỉnh dậy, tâm
tư bồn chồn sợ hãi mờ mịt. Thế nên, đui mù khởi vọng tưởng, không
bằng nhất tâm niệm Phật. Nếu đạt đến pháp pháp đều dung thông, tức
tu hành pháp cao tột "có Thiền có Tịnh Độ", thì như hổ vốn có
oai thế, mà nay lại thêm sừng, càng gia tăng oai mãnh, khiến làm Phật Tổ
dễ dàng. Lý này là lẽ đương nhiên.
Đối với người không có căn lành, tức không tin Thiền cũng
không tin Tịnh Độ, chỉ hàm đồ mê mờ, thì "muôn kiếp cùng ngàn đời,
chẳng có nơi nương tựa".
Suốt đời, tôi luôn khuyên người người nên niệm Phật.
Song, tôi thật bất mãn những vị thường khuyên người chớ nên tu thiền.
Mỗi lần nhớ lại kinh Lăng Nghiêm nói "tà sư thuyết pháp, như số cát
sông Hằng", khiến tâm tư đau nhức. Nay tôi đem quyển Tứ Liệu Giản
ra để lược bày. Hy vọng tất cả người tu hành, chớ nên thiên chấp
vào văn cú của quyển Tứ Liệu Giản này, khiến vọng sanh phân biệt cao
thấp giữa Thiền và Tịnh, thì mới không phụ lòng thiền sư Vĩnh Minh.
XXV. Phương
tiện khai thị thuyết pháp vào ngày 19-10-1958 [^]
Cổ nhân bảo:
- Chớ đến những nơi chợ búa lợi danh. Ngủ trong núi cũng
là vi diệu.
Người trên thế gian luôn bị danh lợi ràng buộc, triền
phược tầng tầng lớp lớp. Bỏ được một tầng thì vẫn còn tầng
khác. Tập khí xấu xa, giam cầm thân tâm, không thể nào xoay chuyển được.
Người có giác chiếu thì không chạy theo lợi danh. Kẻ không giác chiếu,
luôn chạy đuổi theo chúng. Vì vậy, con người có biết bao khó khăn hoạn
nạn. Chư cổ đức thường nhắc nhở những vị tu hành:
- Tỳ kheo thường trụ nơi núi rừng thì Phật hoan hỶ. Ngược
lại, tỳ kheo thường trú tại nơi ồn ào náo nhiệt thì Phật rất ưu sầu.
Thật vậy, chư tỳ kheo phải thường trú nơi A Lan Nhã. Sớ
kinh Đại Nhật viết: "A Lan Nhã được gọi là nơi 'Ý Lạc', tức là
nơi an lạc của hành giả không tịch. Bên ngoài chùa cất những am tranh
theo hạn lượng, để ở một mình hay cùng vài ba người mà trú. Những am
tranh đó, có thể do các thí chủ xây cất. Hành giả lại có thể ngồi
bên dưới các gốc cây cổ thụ, tại những khoảnh đất trống".
Chư tỳ kheo thường trú nơi A Lan Nhã, chớ nên trú ở bên
ngoài tự viện. Đó là hạnh bậc nhất trong mười hai hạnh Đầu Đà.
Thành ấp chợ búa vốn là nơi trao đổi lừa ngựa, và là chốn của hai
chữ danh lợi, khiến con người thường bị trần lao triền phược trói buộc;
suốt ngày chỉ bận rộn trong thị phi khổ não.
Vì vậy, chư Tổ Sư xưa nay, phần lớn là cư trú nơi núi
rừng. Thích Ca Thế Tôn xuất gia tu đạo, nơi Tuyết Sơn tu khổ hạnh trong
sáu năm trường. Tại nhà hay tại thành thị chẳng phải là nơi tu hành
sao, hà tất phải đến núi tuyết tu hành? Tháng chạp tuyết rơi, băng giá
lạnh lẽo, vốn là lúc vạn vật thu mình. Núi sông đất đai đều biến
thành thế giới kim ngân lưu ly, khiến muôn vạn màu sắc đều tan mất. Đó
vốn là cảnh giới của các bậc đạo nhân. Thật vậy, nơi Tuyết Sơn
băng giá lạnh lẽo, khiến muôn niệm đều tan, nên không bị cảnh chuyển.
Không trụ tại thế gian, nên gọi là xuất gia. Không khởi vọng tưởng, tức
gọi là xuống tóc tu đạo. Thuở xưa, chư Phật đều đến núi tuyết để
ẩn cư tu hành. Phàm phu chúng ta sao lại dám sống qua ngày tại thành ấp
chợ búa nhộn nhịp. Chư cổ đức một khi đã trụ tại thâm sơn, thì
không còn nhiễm duyên trần. Dẫu có ông hoàng đế nào đến thỉnh mời,
các ngài cũng chẳng màng xuống núi.
Xưa kia, thiền sư Vô Nghiệp tại Phần Châu thường bảo rằng
chỗ đắc chí bậc nhất của chư cổ đức là nơi am tranh thạch đá.
Ngài thường dùng nồi đá nấu cơm rau đạm bạc. Trải qua ba mươi năm,
Ngài chẳng đoái hoài đến danh lợi; niệm niệm chẳng còn nghĩ về tiền
tài vật báu; quên hẳn người đời, thường ẩn tích nơi rừng sâu núi
thẩm. Quân vương dầu có xuống chiếu thỉnh mời vào kinh đô, mà Ngài vẫn
dửng dưng, không màng đi. Chư hầu thỉnh mời mà chẳng màng đến. Nào như
chúng ta, mãi tham danh ái lợi, mờ mịt trên đường đời, như những
thương buôn! Ngài nói được và làm được những điều này. Vua Đường
Huệ Tông xuống chiếu triệu Ngài vào kinh đô, mà Ngài chối từ, lấy cớ
là già bịnh. Khi Đường Mục Tông lên ngôi, vì ngưỡng mộ đạo cao đức
trọng của Ngài, nên sai hai vị tăng lục là Linh Phụ và Đẳng Tê đến núi
cung ngưỡng thỉnh mời vào kinh. Hai vị tăng lục đến, thưa:
- Hoàng Thượng lần này ân cần cung thỉnh hòa thượng vào
kinh, chẳng khác bình thời. Xin Ngài hãy thuận theo thiên ý, chớ từ chối
vì lý do bịnh hoạn.
Nghe thế, Ngài chúm chím cười, bảo:
- Bần đạo có đức độ gì mà phải lụy phiền đến thánh
chúa. Xin mời quý vị hãy đi trước. Bần đạo sẽ theo sau.
Nói xong, Ngài đi tắm rửa cạo đầu. Đến tối, Ngài gọi
các đệ tử như Huệ Âm, v.v..., bảo:
- Tánh thấy, nghe, hiểu, biết của các ngươi, thọ lượng
đồng thái dương hư không, vốn không sanh không diệt. Tất cả cảnh giới,
đều vốn tự Không-tịch. Không có pháp nào để chứng đắc. Kẻ ngu không
liễu đạt, do cảnh làm mê hoặc. Một khi bị cảnh mê hoặc, thì lưu chuyển
không cùng tận. Các ngươi nên biết, tâm tánh vốn tự có, chớ chẳng do
tạo tác, ví như kim cương, không thể bị phá hoại. Tất cả các pháp, như
bóng như âm hưởng, không có chi là thật cả. Kinh thuyết: "Chỉ có một
sự thật. Còn hai tức chẳng phải chân. Thường hiểu tất cả đều là
không, thì chẳng lụy tình đến vật chi". Đây là nơi dụng tâm của
chư Phật. Các ngươi phải tinh cần hành theo.
Nói xong, Ngài ngồi xếp bằng mà thị tịch. Ngày làm lễ
trà tỳ, mây ngũ sắc hóa hiện, mùi hương lạ vi diệu bay khắp bốn
phương. Xá lợi của Ngài, sáng chói như châu ngọc. Vì không thích đến
những nơi chợ búa lợi danh, mà tâm hoàn toàn tại đạo, nên Ngài đến
đi tự do tự tại, chẳng hề bị sanh tử xoay chuyển. Người đời thì
khác biệt.
Đời tôi rất khổ đau, nhiều nạn nhiều chướng, nhiều
quỶ nhiều bịnh. Bao năm lừa lẫn ăn uống nơi cửa Không. Vào nam ra bắc,
nên nay tâm rất hổ thẹn. Khi vừa sanh ra, mẹ tôi liền tạ thế. Tôi bất
hiếu như thế; e sợ thiên lôi đánh chết, nên phát tâm vì mẹ mình mà tạo
công đức, bằng cách lễ bái xá lợi Phật, triều bái núi Ngũ Đài để
cầu ngài Văn Thù Sư Lợi gia hộ cho mẹ hiền. Tuy những việc đó chỉ
là hướng ngoại truy cầu, nhưng cũng có đôi phần tốt. Lần thứ hai trở
lại triều bái núi Ngũ Đài, tôi gặp quân Nghĩa Hòa Đoàn khởi nghĩa, vào
năm 1900.
Lúc đó, tôi muốn đến Xiểm Tây, nhưng không được. Vừa
trở lại Bắc Kinh thì gặp nạn liên quân tám nước vây đánh kinh thành,
khiến Hoàng Đế, Hoàng Thái Hậu, cùng hoàng gia trong triều nội phải chạy
lánh nạn. Mỗi ngày họ phải chạy bộ cả chục dặm, mà không có kiệu
cán. Lúc đến huyện Phụ Bình, liền gặp tướng ở Cam Phiên là Sầm
Xuân Huyên, dẫn ba ngàn quân đến hộ giá. Khi đó, tôi theo đoàn hộ giá
đến ải Ngọc Môn, rồi qua Nhạn Môn. Nếu là thời bình, thì Hoàng Đế
oai nghiêm lẫm liệt. Mỗi lần Hoàng Đế ra khỏi hoàng cung, thì pháo nổ
báo hiệu chín lần. Đi trên đường, đều có quân hầu cận. Đường ra vào,
không ai dám đi. Người người đều cung kính, mà không dám nhìn mặt vua.
Lúc chạy tị nạn, Hoàng Đế lăng xăng vội vã, không còn ra vẻ oai nghi lẫm
liệt, lại không có kiệu để ngồi; ăn khổ cực cũng được; ai gặp mặt
cũng được; thường dân nói chuyện vãn cũng được. Chẳng có gì là tôn
quý. Tất cả mọi việc đều xả bỏ được. Sầm Xuân Huyên vốn là quan
tuần phủ của tỉnh Xiểm Tây. Khi đó, tại Bắc Kinh, Lý Hồng Chương nghị
hòa với liên quân tám nước. Tại cửa Tây Hoa Môn, lập đài kỶ niệm đại
sứ người Đức (bị phục kích chết). Liên quân lại yêu cầu phải để
tám cái đầu người Tàu tại mộ phần của ông đại sứ người Đức. Sắp
xếp mọi việc xong, Lý Hồng Chương liền thỉnh Hoàng Đế trở về Bắc
Kinh.
Lúc ấy, tôi đang ở tại Xiểm Tây, trú nơi chùa Ngọa
Long. Từ sáng đến tối, qua lại với quan lại tể tướng, phiêu bạc
trong danh lợi, phiền phiền não não. Công phu có khi được thọ dụng,
nhưng cũng có lúc đi đứng nằm ngồi lại bất an. Thường lo sợ vì nếu
lỡ nói sai lời thì đầu lìa xác. Quý vị thấy không! Nơi danh lợi, có
chi là tốt đẹp! Vì sợ lụy phiền não, nên phải vào núi Chung Nam, tu
hành ẩn danh. Song, ẩn không được, lại phải vào núi Thái Bạch. Núi cao
một trăm tám mươi dặm. Trèo lên núi đó, vẫn gặp người khác, nên tôi
không thể trụ được, rồi lại chạy đến Vân Nam, muốn làm người vô
sự. Chẳng bao lâu, thị phi phiền não lại đến. Thiên hạ chiếm đoạt tài
sản tự viện, nên đại chúng thúc tôi lên Bắc Kinh bày tỏ sự tình. Lại
thỉnh Kinh Tạng, khiến thêm nhiều thị phi. Nhân vì nhớ tình hộ giá
lánh nạn lúc xưa, Hoàng Đế lại ban phát tặng phẩm, khiến tôi phải lọt
vào hố danh lợi nữa. Vì có liên hệ mật thiết với triều Mãn Thanh,
nên lúc chánh phủ Dân Quốc vừa thành lập, tôi trở thành kẻ cừu địch.
Tướng Lý Căn Nguyên phái quân vào núi tìm tôi. Trên núi, tổ sư Ca Diếp
hiển hiện điềm linh ứng, nên thoát được đại nạn. Sau này, tại Thượng
Hải tôi thành lập Tổng Hội Phật Giáo, thiết lập pháp hội Cầu Thế
Giới Hòa Bình, Tiêu Tai Miễn Nạn, rồi lại vào kinh đô để gặp Tôn
Trung Sơn, Vương Thế Khải. Kế đến, tôi thiết lập phân hội Phật giáo
tại vùng Quý Châu, Vân Nam, Tây Tạng. Điên ba đảo bốn, chánh phủ cũ
tan rã, chánh quyền mới lên chấp chính. Họ lại nghi tôi là đảng viên của
chánh phủ cũ, vì lúc xưa thường qua lại với đảng Quốc Dân tại Trùng
Khánh và chủ tịch Lâm Sâm. Sau ba mươi năm, hiệp ước bất bình đẳng ký
kết với liên quân tám nước được hủy bỏ. Quân Nhật vừa đầu hàng,
Trung Quốc chiến thắng. Lý Nhậm Triều làm tướng đóng doanh trại tại
Quế Lâm. Tôi lại vào nơi danh lợi, rối rắm mù mịt, nên dẫn đến hoạn
nạn tại Vân Môn. Tại Hồ Bắc tôi lại phải xuất đầu, rồi ra bắc vào
kinh đô dâng kiến nghị. Vừa rời Bắc Kinh, chánh phủ lại bảo tôi phải
trở lại kinh đô. Ngồi trên lưng cọp, chẳng biết nước cờ chết. Hiện
tại, họ lại bảo tôi vào kinh nữa. Bộ nội vụ phái người đến mời,
mà tôi không đi. Vì họ yêu cầu, nên nhờ hai vị là Từ Tạng và Tánh Phước,
đại biểu tôi để ra bắc. Song, hai vị này lại chẳng chịu đi; hôm qua
họ gởi thơ đến khước từ. Tâm tôi chán chường. Nhớ lại lời người
xưa thường nhắc nhở là chớ chạy vào chốn danh lợi; dẫu ngủ trong
núi cũng là điều vi diệu lắm rồi. Song, dầu có hối hận nhưng đầu đã
lộ, thì thật vô ích. Người người ai cũng muốn kết giao qua lại với
những nhà quyền quý, nhưng họ nào biết phước họa thường đi đôi, như
hình với bóng. Xin khuyên quý vị trẻ tuổi, phải nên sớm nỗ lực dụng
công, đạo tâm kiên cố, chớ nhiễm thế pháp, cùng nơi trường danh lợi.
Làm người trên thế gian thật không phải chuyện dễ. Xưa
kia, thiền sư Khuê Phong Tông Mật, vốn là đệ tử đời thứ tư của ngài
Thần Hội. Ngài có duyên lành với tông Hoa Nghiêm. Vừa xem qua sớ sao của
quốc sư Thanh Lương liền tôn sùng trì phụng. Sau này, Ngài làm môn đệ của
quốc sư Thanh Lương, rồi trở thành tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm. Khi
ấy, quốc gia tôn sùng Phật pháp. Vì ngài Thanh Lương làm quốc sư, nên
ngài Khuê Phong cũng được trọng vọng. Do đó, ngài Khuê Phong thường qua
lại với các nhân sĩ đại phu. Đương thời, Lý Phác Mạc tạo phản với
triều đình, nhưng thất bại, nên chạy đến chùa của ngài Khuê Phong
lánh nạn. Vì nghĩ tình thân hữu xưa kia, nên ngài Khuê Phong muốn cho ông
ta lưu lại để lánh nạn, nhưng đại chúng trong chùa lại không chuẩn y.
Vì vậy, ông Lý Phác Mạc phải rời chùa, nhưng khi đến Phượng Tường lại
bị bắt chém. Về sau, Khuê Phong cũng bị bắt vì án quan bảo rằng Ngài
qua lại với nghịch thần. Nơi phán đường, ngài Khuê Phong chẳng run sợ,
bảo:
- Đối với oán thân, nhà Phật đều xem bình đẳng. Hể
thấy người bị nạn thì phải ra tay cứu giúp. Hôm nay, tôi thật có tội.
Vậy hãy y theo pháp luật mà trừng phạt.
Đại trượng phu luôn có tinh thần vô úy. Có việc gì thì
nói rõ việc đó. Khi phạm tội, không chạy trốn hình phạt. Vua quan thấy
việc khó xử, nên tha cho Ngài. Sau này, các Phật tử có thành kiến, nên
không thích Ngài. Song, cũng có người bảo rằng việc làm và sự đến đi
của Ngài phân minh rõ ràng. Chúng ta không có công phu, chí hướng, và lòng
can đảm như Ngài. Đời tôi đã từng trải qua bao hiểm nạn gian nguy.
Quân lính liên quân tám nước đã từng chĩa súng vào đầu tôi. Khi Lý Căn
Nguyên dẫn binh lính vào núi tìm tôi, bảy tám trăm người xuất gia đều
bỏ chạy trốn, chỉ còn lại một mình. Tướng quân thổ phỉ là Dương
Thiên Phúc và Ngô Học Hiển gặp tôi liền tra khảo đánh đập. Sau này,
Đường Kế Phiêu cùng Long Vân khởi chiến sự. Tăng chúng chùa Vân Môn bị
bắt bớ, nên trách tôi không phân biệt cừu địch hay bạn hữu. Người Dân
Quốc trách tôi thường qua lại với Hoàng Đế, quan lại đại thần của
triều Mãn Thanh. Làm sao tôi phân rõ ai là bạn, ai là giặc? Họ có phân
chia cách nào cũng đúng. Cuối cùng, họ lại tha tội cho tôi. Lần này,
tôi không muốn vào kinh đô, nhưng các đệ tử ở khắp nơi gởi thư đến
trách rằng tôi không biết thời cuộc, và không đoái hoài gì đến Phật
pháp. Nghĩ đến những việc lộn xộn những khi vào kinh đô thuở xưa, nên
tôi không muốn đi. Song, dầu không muốn vào kinh cũng chẳng được. Hiện
tại mọi việc đã được an bày. Chiếc đại y vẫn được bảo tồn. Quy
củ giới luật tại các tùng lâm vẫn còn gìn giữ. Tôi không muốn đi ra
bắc nữa, vì tuổi già sức yếu lại thường bịnh hoạn, thân thể đang
rã rời. Xin quý vị hãy cẩn trọng!
(Phụ chú: Xin xem lại tiểu sử và cuộc đời tu hành của
ngài Hư Vân trong quyển 'Đường Mây Trên Đất Hoa').
XXVI. Biểu
tướng của Tăng Đồ trong đời mạt pháp [^]
Người thế tục có câu:
- Tú tài là tội nhân của Khổng Tử. Tăng sĩ là tội
nhân của Phật đà.
Lời của người xưa thật rất thâm thúy. Làm mất sáu nước
là do người của sáu nước, chứ chẳng phải do người nước Tần. Làm nước
Tần tan rã là do thân tộc nhà Tần, chứ chẳng do thiên hạ. Diệt Phật
pháp là do tăng sĩ. Hôm nay, để bày tỏ nỗi lòng uẩn khúc, tôi tự hỏi
tự đáp những lời như sau.
Hỏi: Hiện tại có thể sửa đổi năm tháng Phật lịch, tức
không dùng mồng tám tháng tư là ngày làm lễ Phật đản sinh được không?
Đáp: Vận pháp của Phật Thích Ca có ba thời kỳ là chánh
pháp, tượng pháp, và mạt pháp. Đời chánh pháp có một ngàn năm, và đời
tượng pháp cũng có một ngàn năm. Mạt pháp có mười ngàn năm. Đời chánh
pháp và tượng pháp đã qua. Hiện nay là đời mạt pháp và đã qua chín trăm
năm tám mươi hai năm. Thật ra, không có mạt, vì pháp làm sao mạt được?
Nếu thường được nhiều người ủng hộ, thì Phật pháp trường tồn muôn
năm. Sự tướng có phân biệt là chánh pháp, tượng pháp, và mạt pháp.
Song, nếu con người chân chánh thì thời mạt pháp cũng là chánh pháp. Nếu
tự sanh thối thất, thì tuy là đời chánh pháp, nhưng đã trở thành mạt
pháp.
Kinh Mạt Pháp thuyết rất nhiều biểu tướng suy vi, mà hiện
nay đã xuất hiện: Tăng cưới vợ; ni lấy chồng; sắc y ca sa biến thành
màu trắng. Người bạch y (cư sĩ) ngồi trên tòa, còn tỳ kheo ngồi dưới
tòa. Lúc con người thọ mạng khoảng ba mươi tuổi, thì pháp Đại Thừa sẽ
bị diệt mất. Lúc con người thọ mạng chỉ còn hai mươi tuổi, pháp tiểu
thừa cũng bị diệt luôn. Lúc thọ mạng của con người là mười tuổi,
thì chỉ còn sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật". Trong đời mạt pháp,
tất cả pháp của Phật thuyết ra, đều bị hoại diệt, mà đầu tiên là
kinh Lăng Nghiêm, rồi đến kinh Ban Chu Tam Muội. Ví như ông Âu Dương Cảnh
Vô dùng kiến giải của mình, viết trăm lời ngụy thuyết, để phản đối
bộ kinh Lăng Nghiêm. Tại Hồng Kông, có ông pháp sư nọ, bảo rằng kinh
Hoa Nghiêm, Viên Giác, Pháp Hoa, Đại Thừa Khởi Tín Luận, v.v... đều là
ngụy giả. Đây là biểu tướng của đời mạt pháp.
Đời quá khứ, Phật Ca Diếp vừa nhập diệt, chư thiên liền
thu góp ba tạng thánh giáo của Ngài, mà kết thành tam tạng kinh điển, rồi
lập tháp cúng dường. Trong đời Đường, chư thiên xuống mách bảo luật
sư Đạo Tuyên là thánh giáo tam tạng cùng kinh tượng của Phật Ca Diếp vẫn
còn lưu giữ tại kho tàng thánh tích ở núi Chung Nam, tức Nam Cao Tứ Đài.
Hiện tại, có mười ba vị Bồ Tát hàng Viên Giác, đang thủ hộ trong đó.
Ngày nay, vào mỗi tháng chạp, dân chúng địa phương thường nghe tiếng
chuông khánh vang dội trên hư không.
Lúc trước, liên hội Phật Giáo Trung Quốc vừa được thành
lập. Trong những lần luận nghị, có người bảo Phật pháp đã diệt tận.
Thật ra, đó là người Phật tử tự diệt. Chánh phủ không màng Phật tử
đã diệt hay không, chỉ phái người đến làm chủ tọa các buổi thảo luận.
Trong những buổi thảo luận, có các Phật tử phân vân rối rít bàn tán rằng
trong kinh giáo, có các bộ kinh hại chết rất nhiều thanh niên nam nữ như
kinh Phạm Võng, Tứ Phần Luật, Bá Trượng Thanh Quy, nên phải hủy diệt
thủ tiêu. Họ lại bảo rằng ba y ca sa, vốn là áo quần của dân chúng đời
Hán, chứ chẳng phải là tăng y. Hiện tại, tăng sĩ nên cải cách, chẳng
cần đắp ba bộ ca sa. Nếu vẫn còn đắp mặc, tức là bảo thủ phong kiến,
chống đối lại chế độ mới. Họ lại bảo rằng vì tín giáo tự do,
nên tăng ni có quyền tự do lập gia đình, ăn thịt uống rượu. Vừa nghe
qua những lời ngược ngạo, tà tri tà kiến, tôi phản đối dữ dội, chẳng
nệ hà họ là người gì. Họ lại không thừa nhận ngày Phật đản sinh là
mồng tám tháng tư. Tôi liền căn cứ theo bổn pháp nội truyền, cùng những
lời đối đáp giữa pháp sư Ma Thắng và vua Minh Đế để cải chánh như
sau:
- Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sanh vào mồng tám tháng tư, thuộc
năm giáp dần, tức nhằm đời Chu Chiêu Vương thứ hai mươi bốn tại
Trung Thổ.
Theo sách vở đời Ngụy, sa môn Đàm Mô Tối bảo:
- Phật giáng sanh vào mồng tám tháng tư năm thứ hai mươi
bốn của triều vua Chu Chiêu Vương, và nhập diệt vào ngày mười lăm tháng
hai năm thứ năm mươi hai của triều vua Mục Vương. Năm tháng Phật đản
sanh và nhập Niết Bàn, hầu hết các triều đại quân chủ đều tuân phụng
như nhau mà không sửa đổi.
Đời vua Chu Chiêu Vương, năm Giáp Dần, cách ngày nay (1952)
khoảng hai ngàn chín trăm tám mươi hai năm. Hiện tại, họ muốn sửa thành
hai ngàn năm trăm lẻ hai năm. Ông Khổng Tử vốn sanh sau Phật, nhưng họ lại
muốn sắp đặt ngày sanh của Khổng Tử trước Phật. Trong buổi hội nghị
đó, tôi cùng họ tranh luận về giới luật, niên hiệu, tăng y và bảo rằng
không thể hủy hoại. Hai tôn giả Mã Thắng và Trúc Pháp Lan đem giáo lý của
Phật đà từ Thiên Trúc sang Trung Thổ. Khi đó, Phật mới vừa diệt độ.
Đương thời, phía đông chùa Bạch Mã có ánh sáng lạ kỳ chiếu vào ban
đêm. Tôn giả Mã Thắng bảo rằng xưa kia vua A Dục đã từng sai người
mang xá lợi của Phật đặt để nơi đó. Nghe điều này, vua Minh Đế liền
sai người dựng tháp cúng dường. Bấy giờ tăng sĩ cùng đạo sĩ thi thiết
pháp thuật. Tôn giả Mã Thắng hiện thần thông biến hóa quảng đại, phi
thân trên không trung. Ngài Trúc Pháp Lan xuất đại pháp âm, tuyên dương Phật
pháp. Thần thông trí huệ diệu dụng của hai tôn giả, dầu kể suốt bao
năm tháng cũng không thể hết. Chư cao tăng sau này như ngài Cưu Ma La Thập,
Huyền Trang, Đạo Tuyên, v.v... tuy thuyết pháp bao ngôn từ, mà không bao giờ
xác quyết sửa đổi cải biến ngày Phật đản sinh. Vào năm Dân Quốc thứ
hai, cư sĩ Chương Thái Đàm cùng các vị khác, chiêu tập khai mở đại pháp
hội Vô Giá tại chùa Pháp Nguyên, Bắc Kinh. Trong lần đó, họ cũng thảo
luận về ngày Phật đản sinh, và đồng nghị quyết rằng mồng tám tháng
tư là ngày Phật đản sinh. Hiện tại, hầu hết các quốc gia trên thế giới
đều dùng dương lịch. Song, chánh phủ cũng chưa bảo rằng Phật giáo đồ
nên sửa đổi từ âm lịch sang dương lịch. Tôi chủ trương là chúng ta
phải ứng dụng theo Phật Lịch, vậy có được hay không? Đó là tôn kính
giới luật và giáo pháp của bậc cổ nhân, mà không thể sửa đổi. Họ
lại ương ngạnh bảo rằng mồng tám tháng hai, mồng tám tháng tư, ngày mười
lăm tháng hai, vốn là ngày kỶ niệm tổ tiên. Họ muốn đổi ngày Phật
đản sinh từ mồng tám tháng tư qua rằm tháng tư. Kinh Phạm Võng thuộc thời
Hoa Nghiêm và Tứ Phần luật thuộc thời A Hàm. Họ đều muốn hủy bỏ.
Thanh Quy của Tổ Bá Trượng, từ đời Đường cho đến ngày nay, thiên hạ
đều phụng hành, mà họ lại muốn sửa đổi. Tăng y ca sa từ đời Hán
đến nay, họ cũng muốn cải đổi. Quý vị xem coi, có phải là đời mạt
pháp không? Vì vậy, tôi phải tranh luận với họ, mà bảo rằng nếu các
ông muốn cải đổi thì phải tự cải đổi chính mình.
Phật đà vốn là người Ấn Độ. Ở Ấn Độ, một năm
chia làm ba quý. Mỗi quý là bốn tháng. Nước Tàu mỗi năm chia làm bốn
quý. Mỗi quý chia làm ba tháng. Nước Tàu có phân hiệu niên giáp, mà nước
Ấn Độ lại không có. Vì vậy, chớ nên hàm đồ thay triều đổi niên đại
không rõ ràng. Ngài Huyền Trang ở Ấn Độ mười tám năm, mà chưa từng xác
định niên đại. Trải qua hơn hai ngàn năm, người xưa thường cử hành lễ
Phật đản vào mồng tám tháng tư. Nếu sửa đổi thì rất bất tiện.
Chúng ta là ai, mà lại dám tự sửa đổi?
Tôi bàn luận với Lý Nhậm Triêu là những Phật tử xấu
xa này, muốn cải đổi giáo chế của Phật đà. Nếu chánh phủ không tự
chủ, dung túng những kẻ này, tạo những việc xằng bậy, thì Phật tử
quốc tế sẽ sanh tâm hồ nghi.
Đối với những kẻ manh tâm xằng bậy cải đổi quy chế
giới luật Phật giáo, Lý Nhậm Triêu cùng các người khác khuyên tôi hãy
nên nhẫn nhục với họ. Chánh phủ thấy việc tranh cãi lộn xộn, liền hỏi
han về lý do muốn sửa đổi giới luật quy chế Phật giáo. Có người bảo
rằng tăng ni phải nên mặc y hoại sắc. Chánh phủ hỏi rằng y hoại sắc
là như thế nào? Năng pháp sư đáp rằng ca sa vốn là y hoại sắc, còn những
y phục khác thì không phải. Mọi người nghe lời phân trần rõ ràng này,
quyết định giữ lại y ca sa hoại sắc, hủy bỏ ý kiến của những kẻ
muốn cải đổi tăng bào. Tôi bảo rằng lời nói của Năng pháp sư là
không sai. Tiếng Phạn gọi là Ca Sa. Tiếng Tàu gọi là y hoại sắc. Y ca sa
có ba loại là y năm điều, y bảy điều, và đại y. Lại có một khỏa y
và một cái quần. Chư tăng Ấn Độ dùng ba y và một cái quần tức là y
khố chúng ta đang mặc ở nước Tàu. Những y ca sa và quần này luôn luôn
mặc trên thân. Ngủ cũng mặc, mà chết cũng không rời. Tại Ấn Độ khí
hậu nóng nực nên chỉ cần có ba y ca sa là đủ. Tại Tàu khí hậu lạnh
lẽo, nên trong mình còn phải mặc thêm y phục thế tục, nhưng không được
mặc y phục có nhiều màu sắc rực rỡ, mà phải nhuộm thành y hoại sắc.
Nếu đi ra ngoài làm việc Phật sự thì phải đắp y ca sa. Y ca sa không thường
đắp, nên khiến người nhìn khởi tâm tôn kính. Các triều đại như Tống,
Kim, Nguyên đều sửa đổi y phục khác với đời Hán. Tăng nhân đến hôm
nay vẫn chưa từng sửa đổi, tức dùng y ca sa đời Hán làm tăng y. Đó gọi
là đại y ca sa, cũng là y hoại sắc. Nếu cho rằng mặc loại y ca sa này
khiến đi đứng bị hạn chế, thì không nên cải đổi. Nếu cải đổi
tăng y thì ranh giới giữa tăng nhân kẻ tục khó phân định. Nghe những lời
tôi phân trần, chánh phủ đồng ý tán trợ, và lại bảo rằng Phật luật
Tổ quy không thể sửa đổi, mà phải giữ gìn bảo hộ.
Sau đó, chánh phủ gọi tôi vào kinh đô, tiếp đãi các
thân hữu Phật giáo quốc tế.
Tạm cáo kết cuộc. Quý vị thấy không, có phải là tăng
sĩ tự hủy hoại Phật pháp chăng? Lão già Hư Vân này vô lực khuông phò
Phật pháp. Ngưỡng vọng đoàn thể tăng già chánh tri kiến, đồng tránh
khỏi những phong ba bão táp, thì Phật pháp mới không bị hủy diệt.
XXVII. Mười
hai bài kệ tham thiền [^]
- "Tham thiền chẳng huyền bí "Tham thiền không học vấn
- Thể hội tận căn nguyên Học vấn tăng thấy nghe
- Ngoài tâm chẳng có pháp Ảnh hưởng không kham truyền
- Sao bảo trời ngoài trời". Ngộ đến dư là thừa".
- "Tham thiền không nghe nhiều "Tham thiền chớ nói rỗng
- Nghe nhiều thành thiền bịnh Người nói khách ngoài cửa
- Thương thay Quán Thế Âm Nhiều vị bảo đạt thiền
- Nghe lại tự tánh mình". Chứng rùa thành ba ba".
- "Tham thiền không nên nói "Tham thiền tham tự tánh
- Lúc nói không chỗ che Nơi nơi thường tùy thuận
- Lúc chứng bằng hư không Lại chẳng giả mài giũa
- Nói bụi cùng thuyết trần". Gốc vốn thường thanh tịnh".
- "Tham thiền như tìm báu "Tham thiền pháp thức tu
- Lúc vào núi nhà tìm Bảo quyết khỏi sanh tử
- Gặp kho hiện trước mặt Tử tế đưa lên xem
- Nhất định sẽ liễu đạo". Cười ngã lão Hàn Sơn".
- "Tham thiền phải nghi nhiều "Tham thiền không nói thiền
- Nghi lớn tuyệt đường rẽ Chỉ mê mới thuyết thiền
- Đạp đổ Diệu Cao Phong Tâm này nếu chưa ngộ
- Thì trời bay đất đổ". Phải gấp mau tham thiền".
- "Tham thiền không thân sơ "Tham thiền không giai cấp
- Mới là trân gia bảo Mau siêu lên đất Phật
- Mắt tai thân mũi lưỡi Tích trượng vừa đưa lên
- Diệu dụng thật khó bàn" Liền thấy nghĩa đệ nhất".
XXVIII. Bài
ca đi, đứng, nằm, ngồi [^]
- Đi trên núi,
- Đạp nát đảnh đầu mây.
- Hồi quang phản chiếu,
- Đại địa chẳng có tấc bụi.
- Đứng trên núi,
- Cắt đoạn đường sanh tử.
- Trợn mắt mà nhìn,
- Ngàn thánh chẳng thèm ngó.
- Ngồi trên núi,
- Suốt ngày chỉ như thế.
- Ngồi nát bồ đoàn,
- Không dạy trẻ con đọa.
- Nằm trên núi,
- Cỡi lừa cỡi ngựa qua.
- Ta chủ nhân ông,
- Không mộng vẫn sáng soi".
Phụ chú [^]
1/ Đại
lão HT. Hư Vân tiếp nối mạch nguồn năm phái Thiền [^]
Vào mùa hè năm giáp tuất, có các trưởng lão và cư sĩ từ
núi Quy Sơn đến gặp Ngài ở tại chùa Nam Hoa, như trưởng lão Nam Ngạc Bảo
Sanh, thủ tọa Cửu Thành Liễu Chiếu, cư sĩ Tế Khoan Huệ ở thành Trường
Sa, v.v... Họ là những vị tuổi cao lạp lớn, được chư sơn trưởng lão
cung kính tín nhiệm. Vì thấy tông môn không có người thừa kế, tổ đình
xiêu sụp, hoang tàn, họ đồng quyết định, đến thỉnh mời Ngài qua núi
Quy Sơn để trùng tu tự viện, cùng kế thừa và phục hồi tông Quy Ngưỡng,
hầu mong mạch pháp năm tông phái của Thiền tông được nối tiếp dài
lâu. Vì thật khó từ chối, nên Ngài phải nhận lời. Tra cứu kỸ càng,
nhận biết tông này do tổ Linh Hựu khai sáng, rồi truyền đến đời thứ
tư, thiền sư Tư Phúc Như Bảo. Từ đó, tận hết hai mươi chữ truyền tông
Quy Ngưỡng. Cuối cùng là chữ "Diệu", rồi không còn chữ nào tiếp
dòng truyền. Song, theo sử sách thì dòng Quy Ngưỡng vẫn còn truyền đến
hai ngài Tam Ngư Chí Khiêm và Hưng Dương Từ Đạt thuộc đời Tống, thì
ngừng. Có thuyết nói rằng hai ngài là anh em, đồng thừa kế mạch phái từ
thiền sư Báo Từ Đức Thiều, làm tổ thứ sáu của dòng Quy Ngưỡng. Có
thuyết nói rằng thiền sư Chí Khiêm làm vị tổ thứ sáu, còn thiền sư Từ
Đạt thì làm tổ thứ bảy. Hệ phái Quy Ngưỡng truyền thừa rất ít. Vì
vậy, sau này không có chỗ căn cứ để kiểm nghiệm. Song, Ngài ghép nối
pháp danh của thiền sư Từ Đạt với mình để trích diễn ra năm mươi chữ
truyền tông phái, hầu mong hậu hiền tiếp nối không đứt đoạn. Kệ viết:
- "Từ đức tuyên diễn đạo đại hưng
- Giới đỉnh hình biến ngũ phân tân
- Huệ diễm di bố châu sa giới
- Hương vân phổ ấm xán cổ kim
- Từ bi tế thế nguyện vô tận
- Quang siêu nhật nguyệt lãng thái thanh
- Chấn khai điểm hoa hoằng quy thượng
- Viên tướng tâm đăng vĩnh xương minh".
Dịch:
- "Từ đức tuyên diễn hưng đại đạo
- Hương giới tràn đầy khắp năm phần
- Đuốc huệ chiếu soi khắp pháp giới
- Mây hương bao trùm sáng cổ kim
- Từ bi cứu thế nguyện vô tận
- Sáng hơn nhật nguyệt trong xanh thẳm
- Cầm hoa chấn khai, hoằng Quy Ngưỡng
- Đuốc tâm tròn đầy mãi sáng soi".
Lại nữa, khi ở chùa Nam Hoa, Ngài biết chốn tổ đình
dòng Vân Môn, hương khói vô định, tức có lúc nối tiếp có lúc ngừng.
Vì vậy, Ngài quyết tâm khôi phục lại dòng thiền Vân Môn. Kiểm lại
dòng Vân Môn thì thấy rằng tông này phát khởi từ thiền sư Văn Yển, rồi
truyền được mười một đời, cho đến thiền sư KỶ Am Thâm Tịnh tại
chùa Quang Hiếu, tỉnh Ôn Châu, thuộc triều Tống thì dừng. Dòng kệ từ
tổ Văn Yển truyền đến đời thứ tám là Ưu Hồng Tăng, có hai mươi chữ.
Sau này, không biết ai lại thêm vào hai mươi chữ truyền hệ phái. Vì vậy,
cổ phái lại phân thành ba. Nay muốn kế tục hoằng truyền, nhưng Ngài lại
không biết phải bắt đầu từ chữ nào. Do đó, phải dùng pháp danh của
Ngài, ghép với thiền sư Thâm Tịnh, để viết ra năm mươi sáu chữ, hầu
mong các bậc hiền sĩ đời sau tấn bước, truyền đăng vô tận. Kệ viết:
- "Thâm diễn diệu minh diệu càn khôn
- Trạm tịch hư hoài hải ấn dung
- Thanh tịnh giác viên huyền trí cảnh
- Huệ giám tinh chân đạo đức dung
- Từ bi hỶ xả xương phổ hóa
- Hoằng khai điểm hoa tích truyền đăng
- Kế chấn Vân Môn quan nhất chỉ
- Huệ trạch thương sanh pháp vũ long".
Dịch:
- "Thâm diễn diệu minh, sáng càn khôn
- Lặng lẽ u hoài, hình hải ấn
- Thanh tịnh viên giác, kính trí treo
- Huệ giám tinh chân, dung đạo đức
- Từ bi hỶ xả, xướng độ khắp
- Cầm hoa hoằng khai, tiếp truyền đăng
- Chấn thừa Vân Môn, chỉ nhất ải
- Nguồn huệ dồi dào, mưa pháp tràn".
Mùa xuân năm Quý Dậu, thiền sư Minh Trạm từ Trường
Đinh đến Nam Hoa, bảo rằng vừa sáng lập núi Bát Bảo tại Trường
Đinh, chí nguyện muốn tiếp nối dòng Pháp Nhãn. Không biết lý do gì, thiền
sư Minh Trạm lại khẩn thỉnh Ngài cứu vãn dòng hệ Pháp Nhãn. Đáp lời
của thiền sư Minh Trạm, Ngài nói:
- Tông này xuất phát tại núi Thanh Lương ở Kim Lăng, và bị
thất truyền đã lâu, nên không dễ dàng mà khôi phục lại. Kể từ đời
Tống, Nguyên, tiếp nối lưu truyền. Tra trong bộ điển tịch, thiền sư
Văn-ích khai mở hệ phái, truyền được bảy đời, cho đến thiền sư Tường
Phù Lương Khánh thì ngưng, nên không thể kiểm duyệt hệ phái được nữa.
Từ thiền sư Văn-ích truyền đến thiền sư họ Quang đời thứ sáu, có
hai mươi chữ. Sau này, không biết người nào lại thêm bốn mươi chữ.
Tuy có hai phái, nhưng con cháu lại ngưng truyền. Tra lại hệ phái thì thấy
rằng thiền sư Văn-ích xuất sanh ra quốc sư Đức Thiều ở núi Thiên Thai
cùng thiền sư Thái Khâm tại núi Thanh Lương. Điều tra hệ phái thì có
hai thuyết: Một là quốc sư Đức Thiều truyền xuống cho thiền sư Luơng
Khánh. Một là thiền sư Thái Khâm truyền pháp xuống thiền sư Lương Khánh.
Có nơi ghi bảy đời: "Ích, Thiều, Thọ, Thắng, Nguyên, Huệ, Lương".
Có nơi ghi: "Ích, Khâm, Tề, Chiếu, Nguyên, Huệ, Lương".
Nay muốn tiếp nối kế thừa, thật khó mà khảo chứng.
Vì vậy, phải chọn ra hệ phái từ quốc sư Đức Thiều, rồi ghép pháp
danh của Ngài cùng thiền sư Lương Khánh, mà viết ra dòng chữ hệ phái,
để hậu hiền mãi mãi tiếp tục tương truyền huệ đăng.
Kệ viết:
- "Lương hư bổn tịch thể vô lượng
- Pháp giới thông dung quảng hàm tàng
- Biến ấn xum la viên tự tại
- Tắc không tình khí tổng chân thường
- Duy tư thắng đức chiêu nhật nguyệt
- Huệ đăng phổ chiếu động âm dương
- Truyền tông Pháp Nhãn đại tương nghĩa
- Quang huy địa cửu cố thiên trường".
Dịch:
- "Hư không lặng lẽ, thể không cùng
- Pháp giới dung thông, chứa đầy tràn
- Ấn khắp xum la, tròn tự tại
- Tình khí lấp không, thảy chân thường
- Duy mình thắng đức, sáng nhật nguyệt
- Đuốc huệ chiếu khắp, thấu âm dương
- Truyền tông Pháp Nhãn, tương nghĩa lớn
- Rạng ngời khắp nơi, mãi dài lâu".
Đại lão hòa thượng Hư Vân xuất gia tại núi Cổ Sơn. Từ
đời Minh đến thời cận đại, hai tông Lâm Tế và Tào Động được tiếp
nối tương truyền tại núi Cổ Sơn. Hòa thượng Diệu Liên dĩ nhiên là vị
tiếp thừa hai tông Lâm Tế và Tào Động. Hòa thượng Diệu Liên truyền mạch
pháp của hai tông này lại cho ngài Hư Vân.
Do đó, ngài Hư Vân làm vị tổ dòng Lâm Tế, đời thứ bốn
mươi ba, và tổ dòng Tào Động, đời thứ bốn mươi bảy.
Dòng Quy Ngưỡng gần mấy trăm năm, không ai kế thừa. Do
hòa thượng Bảo Sanh cùng chư sơn trưởng lão khẩn thỉnh, ngài Hư Vân
làm vị tổ thứ tám, tính từ tổ khai sơn Quy Sơn Linh Hựu. Sau này, đại
lão hòa thượng Hư Vân truyền lại cho đệ tử đắc pháp là ngài Độ Luân
Tuyên Hóa (1918-1995), vị khai sơn chùa Vạn Phật Thánh Thành ở MỸ Quốc.
Dòng Pháp Nhãn đã bị thất truyền rất lâu. Do hòa thượng
Thanh Trì và thiền sư Minh Trạm ở núi Bát Bảo khẩn thỉnh, ngài Hư Vân
tiếp nối mạch pháp của thiền sư Lương Khánh, tức làm tổ sư dòng
Pháp Nhãn, đời thứ tám.
Dòng Vân Môn cũng bị thất truyền đã lâu. Từ tổ khai sơn
Văn Yển, truyền đến đời thứ mười một là thiền sư KỶ Am Thâm Tịnh.
Vì muốn trùng hưng mạch phái Vân Môn, ngài Hư Vân tiếp thừa tông phái,
làm tổ thứ mười hai, sau thiền sư KỶ Am Thâm Tịnh.
2/ Nhân
duyên của quyển Tăng Đính Phật Tổ Đạo Ảnh [^]
Truy cứu từ đời Minh, bốn quyển Phật Tổ Đạo Ảnh do
hai thầy Chân Tịch và Vân Phúc phát tâm sưu tập tất cả hình ảnh, pháp
tướng, kệ cú của chư thánh tăng Ấn Độ và Trung Quốc, gồm có hai trăm
bốn mươi tôn tượng, được lưu trữ tại tự viện núi Ngưu Thủ. Sau này,
đại sư Hám Sơn tuyển chọn truyện tán; ngài Tử Bá khắc bản lưu truyền.
Đời Thanh, niên hiệu Sùng Trinh, hòa thượng Vĩnh Giác tại chùa Dõng Tuyền,
núi Cổ Sơn lại sưu tập thêm hơn một trăm ba mươi pháp tướng và kệ
cú của chư Tổ Sư, rồi khắc bản lưu truyền, nhưng lâu ngày lại bị lạc
mất hết. Niên hiệu Khang Hy, năm thứ tư, thầy Vi Lâm gom nhóm và bổ khuyết
lại. Tất cả được một trăm hai mươi hai tôn tượng và kệ cú. Sau này
được khắc in, gọi là bản Phật Tổ Đạo Ảnh.
Thời cận đại, khi trụ trì tại chùa Dõng Tuyền, ngài Hư
Vân phát hiện bản trân bảo này. Nhận thấy bản Phật Tổ Đạo Ảnh rất
có giá trị về lịch sử Thiền tông, nên Ngài trùng tân chỉnh lý. Ngài lại
đi khắp nơi sưu tập các tư liệu về tông phái của chư Tổ Sư, thánh tăng
Ấn Độ và Trung Quốc. Cộng chung với bản cũ và tư liệu sưu tập, tất
cả hơn ba trăm ba mươi vị Tổ Sư. Do đó, Ngài thêm truyện kệ cú tán, rồi
xuất bản thành bốn quyển, được gọi là Tăng Đính Phật Tổ Đạo Ảnh
Truyện Tán.
Hiện nay, bốn quyển này được cố hòa thượng Tuyên
Hóa, đệ tử truyền tâm ấn của đại lão hòa thượng Hư Vân, xuất bản
tại chùa Vạn Phật Thánh Thành.
| Mục lục và giới thiệu
| I
| II
| III
| IV
| V
| VI
| VII
| VIII
| IX
|
|
|