- Trái Tim Thiền
Quán
- Phật lịch 2544, Tl 2000
[1]
Nhập tức xuất tức niệm
Thật là huyền diệu và lý thú đối
với phương pháp tu tập hơi thở. Những ai đã từng tu tập phương pháp nầy,
tu tập đúng cách và đã thành công, thì sẽ thấy những lời nói trên
không phải là sáo ngữ mà thật sự là như vậy.
Phương pháp tu tập hơi thở đức
Phật đã nói đến rất nhiều trong kinh Tạng. Các sách Thiền của nhiều
hệ phái Phật giáo bàn đến lại còn nhiều hơn, chưa kể đến Yoga của
Ấn Ðộ, khí công của Trung Quốc, dưỡng sinh của Việt Nam đương thời
..v..v...
Phương pháp niệm hơi thở, chúng
ta có thể học với đức Phật trong kinh Tạng Pàli, học với các Tổ Sư
nhiều trường phái, nhưng cuối cùng phải học với chính mình (kinh nghiệm
bản thân). Nếu được sắp xếp theo một công thức tuần tự, tiệm tiến
nhưng vững chắc, bất cứ hành giả nào dù căn cơ đốn tiệm gì cũng
được kết quả, chỉ cần có ý chí, kiên nhẫn và tinh tấn tu tập mỗi
ngày đều đều. Với phương pháp nầy ai nóng vội muốn được liền (đốn
giáo), tự động lên lớp (phần một chưa được lại qua phần hai) thì
không được thành công (Dục tốc bất đạt!).
Trước hết hành giả phải tìm
được một chỗ thanh vắng, như đức Phật dã dạy trong kinh: "Ði
đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống ...", rồi
hành giả ngồi theo cách nào thích hợp với bản thân, như ngồi kiết già
chẳng hạn, giữ thân được thăng bằng, đầu, cổ, lưng phải thẳng. Ngồi
thế nào khi thở vô thở ra, hơi thở thông suốt, dễ thở là đúng, vì nếu
ngồi lưng cong thì bụng bị ép, ngồi nghiêng ngữa thì bụng bị căng, ngực
bị tức, mau bị mệt, bị mõi ..v..v.. Sau khi ngồi xong hành giả bắt đầu
tập:
-ooOoo-
[2]
Số tức quan
(*) Số tức
quan tuy được kể trong phần niệm hơi thở (Ànàpàna ) nhưng chỉ là tùy
pháp (Anudhamma), chỉ được nói đến trong các tập chú giải như Visudd
himagga, Abhidhammaỉỉhasaígaha ... mà thôi, chứ trong Chánh tạng không thấy
chỗ nào ghi là đức Phật có nói đến cách đếm hơi thở. Tuy nhiên vẫn
là phương tiện tốt" Chánh niệm phát sanh do đếm".
Chú tâm
theo dõi hơi thở vô xong, đếm 1
Chú tâm theo dõi hơi thở ra xong, đếm 1...
Chú tâm theo dõi hơi thở vô xong, đếm 2
Chú tâm theo dõi hơi thở ra xong, đếm 2 ...
Ðếm lên
đến 5
Trở lại từ
1 lên đến 6
Trở lại từ 1 lên đến 7
Trở lại từ 1 lên đến 8
Trở lại từ 1 lên đến 9
Trở lại từ 1 lên đến 10
Tiếp theo
trở xuống
Từ 1 lên
đến 10
Từ 1 lên đến 9
Từ 1 lên đến 8
Từ 1 lên đến 7
Từ 1 lên đến 6
Từ 1 lên đến 5 ...
Cứ như vậy,
tập cho thuần thục, là không bị quên, không bị lộn, không bị gián đoạn
vì phóng tâm. Bí quyết cu ûa cách đếm hơi thở là biết lấy hơi thở làm
cảnh (đề mục) [*] để trụ tâm chứ không phải lấy thân căn làm cảnh
(chỗ gió xúc chạm tức mũi, thanh quản v.v...), chỉ biết gần như độ chừng
hơi thở vào, ra, dừng lại vậy thôi, bởi tâm không có trú bên gió (hơi
thở) mà chỉ trú bên thân căn như mũi, miệng, thanh quản. Nếu không xác
định được căn, cảnh, thức thì trọn kiếp hành giả không có phát triển
được định, tuệ, niệm gì cả! Và chỉ cần niệm được một hơi thở
thật chính xác, thật rõ ràng, lấy đó làm kinh nghiệm cho những hơi thở
khác về sau cũng được chính xác, rõ ràng, chớ đừng ham "Ngồi
cho cố" một hai giờ mà niệm sống sít thì chỉ "Có tiếng
mà không có miếng".
[*] Ðếm
chỉ tập sự gom tâm, như là một việc làm chuẩn bị chứ không đắc định
dù Sơ thiền, nên không cần dán chặt tâm ở thân căn (Mũi, thanh quản
...)
Ðến lúc
nào hành giả thấy đếm từng hơi thở vô, từng hơi thở ra có vẻ phiền
toái, bận rộn, muốn đơn giản một chút cho thoải mái, dễ chịu. Hành
giả đổi cách đếm như sau: Chú tâm theo dõi hơi thở vô, ra rồi mới đếm
[Ðếm trong thanh quản, chứ không cần bằng môi.]
- Hít vô,
thở ra xong, đếm 1
- Hít vô, thở ra xong, đếm 2
Ðếm lên
đến 5
Trở lại từ
1 lên đến 6
Trở lại từ 1 lên đến 7
Trở lại từ 1 lên đến 8
Trở lại từ 1 lên đến 9
Trở lại từ 1 lên đến 10
Tiếp theo
trở xuống
Từ 1 lên
đến 10
Từ 1 lên đến 9
Từ 1 lên đến 8
Từ 1 lên đến 7
Từ 1 lên đến 6
Từ 1 lên đến 5
Hành giả
nên biết:
- Hít vô
xong đếm 1, kể là một khoảng cách.
- Thở ra xong đếm 1, kể là một khoảng cách.
- Hít vô rồi thở ra xong mới đếm 1, kể làmột khoảng cách.
Ðếm là
cách làm dấu cho nhớ, cũng như người ta vát lúa từ kho xuống ghe, hay từ
ghe lên kho, khi nhấc bao lúa lên vai người ta lấy thẻ, lên đến kho người
ta bỏ thẻ ... gọi là có Chánh niệm do đếm.
Khởi đầu
hành giả đếm thầm, có động đậy thanh quản, khi thuần thục rồi hành
giả nên bỏ cách đếm thầm (Có động đậy thanh quản), tập đếm bằng
cách nhớ con số như:
- Chú
tâm theo dõi hơi thở vô xong đếm 1...
- Chú tâm theo dõi hơi thở ra xong đếm 1 ...
Nhớ ở đây
đương nhiên là tưởng tri, vì con số là "khái niệm" làm dấu
cho nhớ, chữ "nhớ" ở đây đúng nghĩa là "nhớ"
như nhớ nhà, nhớ cảnh ... Sở dĩ phải nói rõ như vậy để phân biệt
rõ ràng đối với cách đếm thầm nói trên, tức là cách nhớ nầy, hoàn
toàn không có động đậy thanh quản (Glotte, Larynx).
Nếu hành
giả chưa tập, hay tập cách đếm thầm chưa được thuần thục, thì định
lực còn yếu chuyển qua cách nầy sớm quá sẽ bị quên, mà quên sẽ bị
phóng tâm, nên phải theo cách đếm thầm trước, được rồi mới qua cách
nhớ con số, cứ như vậy mà tập cho thuần thục, không bị quên, không bị
lộn, không bị gián đoạn vì phóng tâm.
BIỂU
ÐỒ SỐ TỨC
I . (Ðếm
thầm)
Ghi chú:
Màu dợt tượng trưng niệm, màu đậm tượng trưng hơi thở.
II. (Nhớ
số)
Ghi chú: Khi
chú tâm, ghi nhận thì Chánh niệm đặt ở mũi, hay ở miệng, hay ở thanh
quản ... Chỗ nào chỉ một chỗ thôi, nếu thở bằng mũi thì đặt niệm
ở mũi, nếu thở bằng miệng thì đặt niệm ở miệng, nhưng mũi hay miệng
đều ngang qua thanh quản.
Ðến khi
nào hành giả thấy cách đếm hơi thở gọi là số tức quan, có vẻ phiền
toái, bận rộn vì con số đếm, muốn đơn giản hơn một chút cho thoải
mái, dễ chịu. Hành giả bỏ cách đếm, đổi qua cách tùy tức thuần túy
(Chỉ chú tâm theo dõi hơi thở).
2.I. TÙY QUÁN HƠI THỞ
Hành giả
tác ý định niệm nơi mũi [*], ghi nhận và biết rõ hơi thở vào, hơi thở
ra:
- Bắt đầu
hít vô là chặng đầu, tiếp tục hít vô, hít vô và hít vô là chặng
giữa, cái hít vô cuối cùng là chặng cuối của một hơi thở
vô.
- Bắt đầu
thở ra là chặng đầu, tiếp tục thở ra, thở ra và thở ra là chặng
giữa, cái thở ra cuối cùng là chặng cuối của một hơi thở
ra.
[*] Bắt
đầu từ đây trở đi, hành giả phải tác ý đặt niệm nơi Thân căn
(Mũi, thanh quản ...) có thể đắc Sơ thiền ... như đề mục gió. Nếu
Quán có thể đắc sanh diệt trí ...như các Niệm xứ khác.
Hướng tâm
an trú niệm nơi mũi:
1. Chú tâm
ghi nhận và biết rõ hơi thở vô dài từ chặng đầu, chặng giữa và chặng
cuối.
2. Chú tâm
ghi nhận và biết rõ hơi thở ra dài từ chặng đầu, chặng giữa
vàchặng cuối.
3. Chú tâm
chi nhận và biết rõ hơi thở vô và hơi thở ra dài từ chặngđầu,
chặng giữa và chặng cuối.
- Theo dõi hơi
thở ra: "Tùy quán thân trong thân nội phần" [*].
- Theo dõi hơi thở vô: "Tùy quán thân trong thân ngoại phần" .
- Theo dõi hơi thở ra và hơi thở vô: "Tùy quán thân trong thân nội
và ngoại phần".
- Biết rõ (Tuệ tri) hơi thở vô: "Tùy quán Pháp tập khởi nơi thân"
.
- Biết rõ hơi thở ra: "Tùy quán Pháp hoại diệt nơi thân" .
- Biết rõ cả hơi thở vô và hơi thở ra: "Tùy quán Pháp tập khởi
và hoại diệt nơi thân" (Ðây chỉ là nói riêng về phần Cảnh,
còn Căn và Thức sẽ nói đến sau).
[*] Phân
ra nội phần và ngoại phần ... theo hơi thở nói riêng.
Câu: "Nó chánh niệm thở vô,
nó chánh niệm thở ra".
Nên hiểu:
Nó là tâm Thiện dục giới, mới có sở hữu Niệm đồng sanh, để ghi nhận
hay theo dõi hơi thở vô, hơi thở ra.
Câu: "Thở vô dài, nó biết rõ
hơi thở vô dài".
Nên hiểu:
Nó là tâm Thiện dục giới hợp trí, mới có sở hữu Tuệ quyền đồng
sanh, để biết rõ (Tuệ tri, Pajànàti) hơi thở vô dài. Và "Thở vô
dài, nó biết rõ hơi thở vô dài, không phải thở vô xong rồi mới biết
hơi thở vô dài". Vì đoạn nầy kinh văn dùng thì hiện tại chứ
không phải thì quá khứ (cái đã qua) và biết bằng Tuệ chứ không phải
biết bằng Tưởng (biết chuyện đã rồi). Như đã nói là biết rõ từ chặng
đầu, chặng giữa và chặng cuối của hơi thở, tức là hơi thở có bao
nhiêu thì biết rõ bấy nhiêu (không nhiều hơn cũng không ít hơn), có nghĩa
là Tuệ tri không bị gián đoạn, như ống tre dài 5 tấc thì cái thước kéo
ra đo đến chỗ 5 tấc là hết ống tre. Tức là chỉ có gió là hơi thở,
chứ không có người thở, chỉ có Niệm ghi nhận hơi thở, chứ không có
người ghi nhận hơi thở, chỉ có Tuệ biết rõ hơi thở, chứ không có người
biết rõ hơi thở, và chỉ có tâm đồng sanh với Niệm, Tuệ ... chứ không
có người đồng sanh với Niệm, Tuệ. Ở vào khoảng dừng của hơi thở
ra và hơi thở vô, hành giả tập trung tư tưởng tăng cường chánh niệm bằng
cách nghĩ rằng:
"Hãy
tinh tấn" rồi:
- Với sự
tinh tấn làm cho hơi thở vô dài vi tế (khi thở vô).
- Với sự tinh tấn làm cho hơi thở ra dài vi tế (khi thở ra).
- Với sự tinh tấn làm cho cả hơi thở vô và hơi thở ra dài càng vi tế
hơn (từ lúc bắt đầu hơi thở vô cho đến chấm dứt hơi thở ra)
Khi tập
như vậy một thời gian (mau hoặc lâu tùy theo căn cơ của từng hành giả),
thuần thục rồi, tâm nhu nhuyến, dễ sử dụng, sự hân hoan sanh khởi, bấy
giờ hành giả hãy tác ý ở vào khoảng dừng của hơi thở ra và hơi thở
vô, rồi hành giả tập trung tư tưởng tăng cường chánh niệm bằng
cách nghĩ rằng : "Với sự hân hoan nầy sẽ làm cho hơi thở vi tế
hơn nữa" rồi:
- Với sự
hân hoan làm cho hơi thở vô dài ấy được vi tế (khi thở vô).
- Với sự hân hoan làm cho hơi thở ra dài ấy được vi tế (khi thở ra).
- Với sự hân hoan làm cho cả hơi thở vô và hơi thở ra dài đó càng lúc
càng vi tế hơn nữa (từ lúc bắt đầu thở vô cho đến lúc chấm dứt hơi
thở ra)
"Như
len lén thở vô, như len lén thở ra, êm, chậm, sâu đều đều ..."
BIỂU
ÐỒ TÙY TỨC
I . (Biết
rõ)
Ghi chú: Từ
phần sau của chặng đầu hơi thở vô cho đến phần trước của chặng cuối
hơi thở vô là chặng giữa của hơi thở vô
II. (Biết
rõ liên tục)
Ghi chú: Hơi
thở có gián đoạn, nhưng Tuệ tri không được gián đoạn: Vô biết vô, dừng
biết dừng, ra biết ra, dứt biết dứt. Sau chặng đầu hơi vô cho đến
trước chặng cuối hơi ra là chặng giữa của cách biết rõ liên tục.
III. (Với
sự tinh tấn)
Ghi chú: Dấu
chấm lững (...) sau chữ dài là ngắn, cách niệm hơi ngắn cũng giống như
niệm hơi dài.
IV. (Với
sự hân hoan) biết rõ liên tục
Ghi chú: Hơi
thở vô và hơi thở ra vẫn có chặng đầu và chặng cuối, nhưng chánh niệm
thì liên tục. Từ lúc bắt đầu thở vô cho đến chấm dứt hơi thở ra,
chỉ tính là một khoảng cách của Niệm: Vô biết vô, dừng biết dừng,
ra biết ra, dứt biết dứt.
Cách trình
bày về chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối của hơi thở vô, hơi thở
ra như trên là nói về thời điểm của hơi thở mà Niệm có thể ghi nhận
được, Tuệ có thể biết được.
Nếu nói về
địa điểm ( vị trí) trên thân để đặt Niệm (chú tâm) thì có 2 cách:
1. Ðối với
hành giả sơ cơ Ðịnh, Niệm, Tuệ còn yếu kém thô thiển, thì nên đặt
Niệm ở những vị trí Thân căn thô phù dễ nhận như mũi, ngực (tim), bụng
(rún) để ghi nhận hơi thở vào, hơi thở ra. Nhưng chỉ đặt Niệm chỗ nào
một chỗ mà thôi. Khoảng 5 - 7 phút sau dời Niệm qua chỗ khác cũng được,
nhưng không được một hơi thở mà dời Niệm đến 3 chỗ sẽ bị tán loạn.
Thở sâu hay thở dài là một việc khác, còn đặt Niệm một chỗ hay dời
nhiều chỗ lại là một việc khác nữa.
2. Ðối với
hành giả thông thạo, thuần thục có Ðịnh, Niệm, Tuệ vững mạnh thì
có thể đặt Niệm ở những chỗ vi tế hơn như thanh quản, khí quản, phế
quản... Cách đặt Niệm và dời Niệm cũng như trên.
2.II. QUÁN THEO HƠI THỞ
NGẮN
Hành giả
tu tập định niệm hơi thở vô, hơi thở ra như vậy cho thật thuần thục,
lúc mới tập chưa quen, sẽ cảm thấy mệt vì thở sâu, thở dài, thở đều,
tự động như muốn thở ngắn, thở cạn lại. đây là sự tự nhiên có
hai lý giải:
1. Giống như
người tập thể dục (như cử tạ chẳng hạn), mới tập mau thấm mệt,
nhưng nếu cố gắng tập từ từ rồi cũng sẽ quen. Ðó là cách tinh tấn,
kham nhẫn, chịu đựng thọ khổ để lúc đau bệnh, nhứt là giờ phút
lâm chung vì đã quen với cảm giác thọ khổ, nên có thể vượt qua sầu não,
thắng quá khổ ưu.
2. Thờ vô
sâu, dưỡng khí vào các phế nang nơi bộ hô hấp ... đầy đủ dưỡng khí,
không còn bị thiếu thốn, nên có trạng thái như ngán thở, giống như
người ăn uống đầy đủ, không còn đói khát, nếu ăn uống thêm sẽ có
trạng thái như ngán ăn uống, và muốn ăn ít, uống ít lại, hành giả có
thể để tự nhiên cho bộ hô hấp thở cạn, thở ngắn, nhưng phải có
Chánh niệm tĩnh giác y như cách thở dài:
- Chú tâm
theo dõi hơi thở vô ngắn.
- Chú tâm theo dõi hơi thở ra ngắn.
- Chú tâm theo dõi hơi thở vô và ra ngắn.
- Tinh tấn làm cho hơi thở vô ngắn ấy được vi tế.
- Tinh tấn làm cho hơi thở ra ngắn ấy được vi tế.
- Tinh tấn làm cho hơi thở vô và hơi thở ra ngắn ấy được vi tế.
- Với sự hân hoan làm cho hơi thở vô ngắn ấy được vi tế hơn nữa.
- Với sự hân hoan làm cho hơi thở ra ngắn ấy được vi tế hơn nữa.
- Với sự hân hoan làm cho hơi thở vô và hơi thở ra ngắn ấy càng vi tế
hơn nữa.
"Như
lén lén thở vô, như lén lén thở ra êm, chậm, cạn, đều đều" hoặc
là "Như lén lén thở vô, như lén lén thở ra, êm, chậm, ngắn, đều
đều". Hành giả cứ tuần tự nhi tiến, chớ có nóng vội, dục tốc
bất đạt, miển tu tập đúng phương pháp và luyện tập cho thật thuần
thục rồi mới tập tiếp qua cách kế:
- 9 cách thở
dài - 9 cách thở ngắn - thành 18 cách.
- 18 cách theo cảnh - 18 cách theo căn - 18 cách theo thức bằng 54 cách.
54 cách đặt
niệm ở mũi như thế nào thì ở môi, lưỡi, răng, thanh quản, vai, bụng,
ngực... cũng có thể đặt niệm như thế đó, là cảm nghiệm các thân hay
biến mãn tuệ tri cùng khắp châu thân, nhưng nên nhớ và biết rằng : "Mỗi
lần một chỗ", chứ không thể nào một lúc mà "Cảm
giác toàn thân", vì tâm không thể một lúc biết 2 cảnh (trừ
đức Phật hiện song thông), nên khi chú niệm nơi Cảnh thì Căn và Thức
phải bỏ qua một bên. Cũng vậy, khi chú niệm nơi Căn, thì Cảnh và Thức
tạm gác một bên, khi chú niệm nơi Thân thức [*] (vừa diệt) thì Căn và
Cảnh không được chú ý đến.
[*] Tâm
Thân thức và tâm Thiện dục giới hợp Trí không thể đồng sanh; bất cứ
Tâm nào là Cảnh năng duyên sở quán đều là Tâm vừa diệt.
2.III. CẢM NGHIỆM CÁC
THÂN
Sabbakàyappati
Samvedì Assasissàmìti Sikkhati
(Học tập như vầy: cảm nghiệm các thân, rồi mới thở vô).
Và
Sabbakàyappati
Samvedì Passasissàmìti Sikkhati
(Học tập như vầy: Cảm nghiệm các thân, rồi mới thở ra).
Cảm nghiệm
các thân là thế nào?
Tiêu đề "Cảm
nghiệm các thân" (Sabbakàyappati Samvedì), nên đặt ở khoảng dừng
giữa hơi thở ra và hơi thở vô (trước khi thở vô), và đặt ở khoảng
hơi thở ngừng lại giữa hơi thở vô và hơi thở ra (trước khi thở
ra). Hai khoảng dừng lại ấy như hai trạm gác (kiểm soát). Chính
giai đoạn hơi thở dừng lại đó là cơ hội cho hành giả tập trung tư
tưởng (tụ khí qui thần), cũng cố chánh niệm, tĩnh giác, tinh tấn,
định tâm ... để chuẩn bị cho tiến trình hơi thở vô, hoặc lộ trình hơi
thở ra, giống như xe sắp qua đèo, tài xế kiểm tra lại đèn (Tuệ), thắng
(Ðịnh), tay lái (Niệm), vỏ, ruột, bánh xe (Tinh tấn). Tiêu ngữ "Cảm
nghiệm" (Patisam Vedì) là kinh nghiệm cảm giác (cảm giác có
kinh nghiệm chứ không phải cảm giác suông), còn tiêu từ các thân (Sabbakàya)
là những chỗ mà hơi thở trực tiếp xúc chạm đến như: Mũi, miệng,
thanh quản, phế nang..., hoặc trực tiếp tác động đến như: Cơ hoành, bụng,
ngực, vai...
Hơi thở là
gió (Vàyo), gió là xúc xứ (Photthabbàyatana), xúc xứ là sở đối
của thân xứ (Kàyàyatana). Như vậy, cảm nghiệm các thân ở đây
là nới rộng tầm hoạt động của Niệm, Ðịnh, Tuệ đến các vùng khác
của thân có thể cảm nhận được sự xúc chạm của hơi thở dù trực
tiếp hay gián tiếp. Vì vậy nên trong tập Paỉi Sambhidàmagga (trang
183, số 48, hàng 15 - 22) có giải thích rằng: "Các thân được nói ở
đây có 2 là Danh thân (Nàmakàya), và Sắc thân (Rùpakàya)":
Danh
thân:
- Xúc (Phassa)
- Thọ (Vedanà)
- Tưởng (Sannà)
- Tư (Cetanà)
- Tác ý. (Manasikàra)
Sắc
thân:
- Sắc Tứ
đại
- 24 Sắc nương Tứ đại
- Hơi thở vào
- Hơi thở ra
- Tướng hơi thở.
Vì nương gá
nhau nên gọi là hữu vi thân (Kàya Samkhàram), tức Sắc thân. Hành giả
sau khi tu tập định niệm nơi mũi, ghi nhận hơi thở vào, hơi thở ra, có
sự chú tâm biết rõ (Pajànàti) từ chặng đầu, chặng giữa, và chặng
cuối của mỗi hơi thở cho thật thuần thục. Rồi hành giả tập tiếp
theo cũng giống như định niệm nơi mũi, nhưng bây giờ đổi vị trí xúc
chạm là an trú niệm nơi miệng (Parimukham Satim), cũng 9 cách thở
dài, 9 cách thở ngắn như an trú niệm ở mũi, hoặc an trú niệm ở thanh
quản (bất cứ cách nào, thanh quản cũng phải luôn luôn mở, trừ khi đại
tiện tiểu tiện), cũng 9 cách thở dài và 9 cách thở ngắn như an trú niệm
ở mũi, miệng, thanh quản là nơi hơi thở xúc chạm trực tiếp, có thể
dán chặt (Tầm, Tứ) tâm nơi ấy không có gì khác nhau cả.
Kế đến hành
giả có thể tập theo cách thở ngực, thở bụng là những chỗ riêng biệt
(Upatthapetvà), hơi thở không trực tiếp xúc chạm, nhưng trực tiếp
tác động (gây ảnh hưởng dây chuyền). Nhưng hành giả nên lưu ý là khi
tác ý an trú niệm ở điểm nào thì chỉ một chỗ đó thôi, chớ không
nên một hơi thở mà theo dõi từ mũi, vô tim, xuống rún và từ rún, lên
tim, ra mũi. Visuddhimagga có giải rằng: "Nếu hành giả dùng niệm
theo dõi hơi thở bằng cách chặng đầu là rún, chặng giữa là tim, chặng
cuối là mũi khi thở ra ... thì tâm bị phân tán, bất an, loạn động! Tốt
hơn hết là bằng cách dán chặt tâm vào chỗ xúc chạm của hơi thở, như
người thợ cưa chú tâm vào lằn mực, như n gười què ngồi một chỗ đẩy
võng đưa em, như người lính gác cổng, ai có giấy xuất trình thì cho qua,
không cần chạy tới chạy lui ... ". Bởi hơi thở vô, hơi thở ra và tướng
hơi thở không phải là đối tượng duy nhất của một tâm, người nào biết
rõ 3 việc nầy thì có thể tu tập được thành đạt Bí quyết của cách "Cảm
nghiệm các thân" là tập trung tư tưởng vào một chỗ nào trên
thân như mũi, thanh quản ..v..v.. Ghi nhận trạng thái xúc chạm của gió (hơi
thở) cho thật rõ ràng, chỉ cần được một chỗ, lấy đó làm kinh nghiệm
cho những chỗ khác (như bụng, vai ...) về sau. Nếu hành giả tu tập không
được chín chắn một chỗ nào đó, thì qua những chỗ khác sẽ sống sượng
và suốt đời cũng niệm lổm bổm không có cái nào nên cái nào cả!
Vì vậy,
hành giả có thể tác ý chú tâm theo dõi ở bụng khi thở vô, bụng phồng
lên và khi thở ra, bụng xẹp xuống, nhưng nên lưu ý:
"Hơi
thở không xuống rún
Hơi thở không vào tim
Do hơi thở tác động
Toàn thân liên quan nhau"
"Tâm điều khiển hơi thở
Hơi thở tác động thân
Do ảnh hưởng tác động
Vai, ngực, bụng giao động"
Tâm thô, hơi thở thô
Thở thô, co giản thô,
Tâm tế, hơi thở tế
Thở tế, thắc nở tế"
"Thở dài, phồng xẹp thô
Thở ngắn, phồng xẹp tế,
Thở nhanh, phình thót thô
Thở chậm, phình thót tế
Ngưng thở, không phì hót
Dừng thở, không thô tế
Vai, ngực, bụng, hơi thở
Ðồng sanh, không trước sau"
Thật vậy,
khi bắt đầu thở vô thì vai, ngực, bụng ... từ từ phồng lên, tiếp tục
hít vô, hít vô thì vai ngực bụng càng phồng lên, phồng lên. Khi ngưng thở
(lúc nhốt hơi), thì vai ngực bụng đồng thời cũng ngưng phồng thêm (chỉ
giữ mức phồng chừng ấy thôi), và khi bắt đầu thở ra, thì vai, ngực,
bụng ... từ từ xẹp xuống, tiếp tục thở ra, thở ra thì vai, ngực, bụng
cũng tiếp tục xẹp xuống, xẹp xuống theo. Khi ngừng thở (xả hết hơi có
thể xả), thì vai, ngực, bụng ... cũng không xẹp nữa (chỉ giữ mức xẹp
chừng ấy thôi).
Lúc nào
còn hít vô thì nơi mũi vẫn còn hơi thở xúc chạm, và vai, ngực, bụng
... vẫn còn phồng lên. Khi nào còn thở ra thì nơi mũi hơi thở vẫn còn
xúc chạm, và vai, ngực, bụng ... vẫn còn xẹp xuống, khi nào ngưng thở,
thì nơi mũi không còn hơi thở xúc chạm, và vai, ngực, bụng ... cũng không
còn phồng xẹp. Chúng đồng sanh đồng diệt, không trước cũng không sau
(nhưng tâm điều khiển hơi thở dĩ nhiên là sanh trước). Do đó, nếu
hành giả theo dõi hơi thở vô khi chạm mũi, rồi chú tâm đến tim, đến rún
là ngay khi đó hành giả đã bỏ sự hiện diện của hơi thở vô đang tiếp
tục xúc chạm nơi mũi, giống như người thợ cưa chú tâm đến răng cưa
mà không chú tâm đến lằn mực, như người chạy theo cái võng đưa qua
đưa lại, như người lính gác bỏ cổng chạy theo khách để kiểm tra, thở
ra cũng thế.
Như vậy:
- "Cảm
nghiệm các thân" rồi thở vô .
- "Cảm nghiệm các thân" rồi thở ra.
Các thân tức
là các chỗ trong thân mà hơi thở trực tiếp xúc chạm, trực tiếp tác động
là Sắc thân. Dán chặt tâm (Danh thân) trên chỗ hơi thở xúc chạm.
Tiêu từ
"Cảm nghiệm các thân" là cách nói chung những chỗ thân xúc chạm
hơi thở và đặt tiêu đề ấy ở khoảng hơi ngừng, tức suy nghĩ (Tác
ý) trước, niệm theo dõi hơi thở sau là cách xử dụng thì vị lai trong văn
Pàli. Và đây là phương pháp tùy quán (xét theo) hơi thở thật sự, chứ
không phải là cách tự kỷ ám thị gì cả!
BIỂU
ÐỒ CẢM NGHIỆM CÁC THÂN
Thanh quản,
mũi, môi, lưỡi, răng, vai, ngực, bụng ... đều là thân xứ, thân hành,
thân xúc ... Mỗi chỗ đều thở theo 18 cách: 9 cách hơi dài và 9 cách hơi
ngắn, luôn cả những cách đếm (số tức) cũng được.
Ghi chú:
Thanh quản, mũi, miệng ... là những chỗ đặt niệm ghi nhận hơi thở giống
như nhau, không có khác biệt gì cả. Nếu thở bằng miệng thì môi, răng,
lưỡi cũng là chỗ đặt niệm theo dõi hơi thở được y như vậy. Vì hơi
thở là gió vào ra đều đi qua những chỗ đó và xúc chạm những chỗ đó
giống nhau. Hơi thở hay gió là cảnh xúc (Photthabbàrammana), và những
chỗ gió xúc chạm đó như mũi, môi, lưỡi, răng, thanh quản ... đều là
Thân căn (Kàyindriya ) như nhau. Vai, ngực, bụng cũng vậy, nhưng chỉ
do hơi thở trực tiếp tác động, chứ không trực tiếp xúc chạm.
Như vậy là
đã xác định về cách Niệm thân trong các thân đối với Sắc thân. Còn
phần Danh thân tức tư tưởng hay tâm thức thì có thể phân ra 4 tầng lớp:
1. Tầng lớp
Biểu tri là tâm thức hay tư tưởng, thể hiện ra ngoài bằng Thân biểu
tri (đưa tay lắc hay gật đầu), hay bằng Khẩu biểu tri (nói, cười, khóc...).
2. Tầng lớp
Thanh quản là tâm thức hay tư tưởng được ghi nhận bằng cách niệm thầm,
có động đậy thanh quản, như cách đếm hơi thở (Số tức), hay niệm phồng
xẹp, hoặc niệm Phật kèm theo hơi thở (thuộc hệ Tổ sư thiền).
3. Tầng lớp
Khái niệm là tâm thức hay tư tưởng phân biệt hơi thở vô, ra, dài, ngắn.
Cách nầy được kể là hệ Như Lai thiền, vì đây là hình thức sơ đẳng
nhứt mà đức Phật sử dụng đến như trong kinh Ðại Niệm Xứ....
4. Tầng lớp
Chân đế là tâm thức hay tư tưởng, ghi nhận hơi thở bằng cách trực
giác (không cần xuyên qua Khái niệm) như cách: "Cảm nghiệm các thân,
Tịnh hóa hữu vi thân..." chỉ còn là BIẾT sau khi tác ý đến cách
nào đó thôi.
2.IV. TỊNH HÓA HỮU VI
THÂN
Passambhayam
Kàya Sankhàram Assasissàmìti Sikkhati
(Tịnh hóa hữu vi thân, rồi mới thở vô),
và
Passambhayam
Kàya Sankhàram Passasissàmìti Sikkhati
(Tịnh hóa hữu vi thân, rồi mới thở ra) là thế nào?
Hành giả vẫn
tiếp tục như cách "Cảm nghiệm các thân" nói trên, nhưng tác
ý bỏ từ từ những Sắc, Danh thô, tu tập những Sắc, Danh tế hơn. Như
chú tâm theo dõi hơi thở, rồi đếm là thô, so với cách theo
dõi hơi thở vô, hơi thở ra (không đếm) là tế. Theo dõi hơi thở vô
dài, theo dõi hơi thở ra dài là thô, so với chú tâm theo dõi hơi thở
vô ngắn, theo dõi hơi thở ra ngắn là tế. Theo dõi hơi thở với sự
tinh tấn là thô, so với theo dõi hơi thở bằng sự hân hoan là tế.
Thở với tâm Bất thiện (Tham, Sân, Si) là thô, so với thở bằng
tâm Thiện (Vô tham, Vô sân, Vô si) là tế. Thở với tâm Thiện dục
giới (không có Thiền) là thô, so với thở bằng tâm Thiện sắc giới
(có Thiền) là tế. Thở mà thân có giao động là thô, so với
hơi thở mà thân không có giao động là tế ... cứ tuần tự bỏ thô nầy
đi đến tế kia là "Tịnh hóa hữu vi thân", hay "An tịnh thân
hành". Như đức Thế Tôn thuyết giảng trong bài kinh Vitakka Santhàna (Ðình
chỉ tư duy): "Như một người đang đi mau, nó suy nghĩ: "Tại sao ta
lại đi mau? Ta hãy đi chậm lại". Trong khi đi chậm, nó suy nghĩ:
"Tại sao ta lại đi chậm? Ta hãy đứng lại". Trong khi đứng lại,
nó suy nghĩ: "Tại sao ta đứng? Ta hãy ngồi xuống". Trong khi ngồi,
nó suy nghĩ: "Tại sao ta ngồi? Ta hãy nằm xuống". Như vậy, người
ấy bỏ dần các cử chỉ thô, và làm theo các cử chỉ tế".
Ðoạn kinh
nầy dù đức Thế Tôn nói tỷ dụ, nhưng cũng phải hiểu theo nghĩa chơn
đế (Paramattha Sacca):
- "Thân
đang đi mau (Sắc di chuyển nhanh), nó suy nghĩ (Danh hay tâm Thiện dục
giới): tại sao ta đi mau, ta hãy đi chậm lại".
Chữ
"ta" ở đây là gồm cả Danh và Sắc (Thân và Tâm), chứ
không nên hiểu theo nghĩa tục đế (Sammuti Sacca ), tức là chấp theo
khái niệm (Pannatti) tự ngã! "Chỉ có động tác đi, chứ không
có người (ngã) đi, tức là Danh điều khiển, Sắc di chuyển gọi là
đi".
Hành giả
không nên nóng vội, không nên tự động lên lớp, mà phải tu tập từ từ,
tu tập đều đều, lâu ngày sẽ thấy hơi thở vô, hơi thở ra càng lúc
càng vi tế dần dần. Nếu thở mà vai, ngực, bụng ... còn giao động mạnh
là còn thô, nên tác ý thở nhẹ hơn (Dĩ tướng chuyển tánh) cho các giao
động của thân do hơi thở tác động từ từ giảm thiểu và giảm thiểu
từ từ. Ðến lúc thở mà thân không còn lung lay, lút lắt, rung chuyển ...
Các mạch máu, tế bào, tim mạch cũng ảnh hưởng theo, nhẹ nhàng lần lần
và tâm cũng được an tịnh do năng lực định niệm hơi thở. Vì thân tịnh
thì tâm tịnh, mà tâm tịnh thì phiền não tịnh.
Bí quyết của
phương pháp niệm hơi thở trong phần niệm thân của Tứ Niệm Xứ mà đức
Thế Tôn đã nói trong các kinh như Ðại Niệm xứ ... đó là hành giả phải
biết rõ 2 cách niệm hơi thở dài và ngắn, là lấy hơi thở làm cảnh (đề
mục) khi gió chạm thân, còn 2 cách sau: "Cảm nghiệm các Thân" và
"Tịnh hóa hữu vi thân" là lấy Thân căn làm Cảnh ghi nhận hơi thở
xúc chạm. Xác định được thành phần và xác định được vị trí thì
không còn lẫn lộn, mù mờ về đề mục thiền của mình đang tu tập,
như vậy sẽ có sự tiến hóa nhanh chóng và dễ dàng. Xác định vị trí
là Pháp hỗ trợ cho Ðịnh (Dhammava Vatthànam upacàram)
Hành giả
tu tập phương pháp định niệm hơi thở nên theo pháp Tứ y:
"Y
pháp bất y nhơn
Y trí bất y tưởng
Y chơn bất y tục
Y tịnh bất y nhiễm"
"Y pháp
bất y nhơn": Nương theo thực tướng của các Pháp (Sabhava dhamma) mà
Quán, chứ không nên nương theo ý niệm nhơn ngã (Puggala). Như cái gọi
là con người chỉ là sự tập họp hay liên kết của 6 đại: Ðất, Nước,
Lửa, Gió, Hư không và Thức, ngoài 6 chất nầy, không có một tự ngã hay
người hoặc thú gì cả.
Sáu đại
bao la thế giới nầy
Quả nhân, nhân quả mãi vần xoay
Các Duyên năng sở liên quan vậy
Nhơn ngã là chi? Khái niệm bày!
Cùng một
ý nghĩa nầy, phân ra những khía cạnh khác là "Y trí bất y tưởng, y
chơn bất y tục, y tịnh bất y nhiễm". Xác thân nầy có:
- Thịt, da,
gân, xương ... là Ðất.
- Máu, mật ... là Nước.
- Ấm, nóng ... là Lửa.
- Hơi thở ... là Gió.
- Ðường hô hấp ... là Hư không.
- Tâm ... là Thức.
Tâm (Citta),
tâm Sở (Cetasika ), Sắc (Rùpa) và Níp-Bàn (Nibbàna) vì có
thực tính (Sabhàvadhamma) nên gọi pháp Chơn đế hay cực nghĩa Pháp (Paramattha
dhamma) còn Chế định hay Khái niệm (Pannatti) không phải là Pháp
có thực tính nên gọi là Tục đế (Sammutisacca). Tu pháp Thiền quán
thì phải lấy pháp Chơn đế chứ không lấy Tục đế nên nói là "Y
Chơn bất y Tục".
Lời nói
đầu | Phần I | Phần II | Phần III