- HAI
KHUÔN MẶT TÂM THỨC
- Nguyên
tác Tây Tạng: Lama Gendun Rinpoche
- Dịch
sang tiếng Anh: Anila Rinchen Palmo
- 5
- DÙNG CẢM XÚC LÀM ĐẠO PHÁP
Từ trước tới
nay sự quá tự tin chỉ sinh ra hậu quả thất bại. Với cách thức này
chúng ta có nguy cơ làm hại không lường tới chính mình, đó là lý do
Chagme Rinpoche đã đưa vào chỗ này của luận thư lời cảnh cáo người đọc
không nên đi xa hơn nếu chưa cho phép.
Dùng chính lực
cảm xúc như một phương tiện để diệt trừ cảm xúc đòi hỏi chúng ta
phải có sự cảnh giác đặc biệt. Lúc đầu những phương pháp này làm tăng
lực của cảm xúc, vì chỉ khi nào cảm xúc đạt cường lực trọn vẹn
thì nó mới có thể tự thanh lọc, đủ để đốt tiêu tất cả những ô
trược. Do đó nguy cơ này là hiển nhiên.
Đó là lý do
tất cả những phương pháp này được giữ bí mật. Ngôn ngữ được dùng
để che dấu ý nghĩa thật của các pháp cũng giống như trong các văn bản
thông thường viết về cảm xúc và làm cho các phương pháp này được diễn
dịch sai lạc, nhưng một hành giả có khả năng sẽ có những kinh nghiệm
bản thân rất khác. Còn hành giả không có khả năng sẽ hiểu sai hoàn
toàn, bị tràn ngập bởi lực cảm xúc do kỹ thuật này phát sinh, phá hủy
tất cả công trình tu tập đã đạt được của mình. Tệ hơn nữa, người
đó là tấm gương xấu làm cho người khác lầm lạc.
Vì vậy tất
nhiên là sự hiểu biết trọn vẹn về pháp đối trị cảm xúc này được
dành riêng cho những người đã tự chứng tỏ, thông thạo các kỹ thuật
đã nói ở phần trước.
Tới phần
này của chương "Chim Công Lớn" do Chagme Rinpoche, Lama Gendun giải
thích sơ lược những nguyên tắc của pháp đối trị ba cảm xúc chính yếu
để trình bày phương diện quan trọng dùng lực cảm xúc. Trong khi giảng
giải, ngài có phần nào không theo sát văn bản của Chagme Rinpoche, mà dựa
trực tiếp vào kinh nghiệm riêng của mình.
Trong ba cảm
xúc được bàn tới ở đây, thì việc đối trị vô minh trong khi ngủ có
ít nguy hiểm hay không có nguy hiểm nào cả, vì vậy, pháp này được nói
tới nhiều hơn hai pháp đối trị tham dục và sân hận. Tuy nhiên, phải
nói rằng đây chỉ là một bản hướng dẫn sơ lược. Người nào muốn
thực hành đầy đủ những phương pháp này, trước hết phải học về chúng
trong ba năm ẩn tu.
Với lối tiếp
cận này, hành giả không trừ bỏ cảm xúc, cũng không biến đổi cảm xúc,
mà chính các cảm xúc trở thành phương tiện dẫn đến trí huệ.
Nhưng trước
khi trình bày giáo lý, Chagme Rinpoche cảnh cáo các đệ tử của ngài rằng
vì những phương pháp này rất đăïc biêït nên chúng không được dành
cho những người chỉ có mức tu bình thường. Chỉ khi nào khả năng của
các đệ tử đã được khảo sát cẩn thận thì họ mới được phép thực
hành những phương pháp này. Đệ tử phải có mức tu chứng rất cao thì
việc thực hành mới có hiêïu quả.
1.- Dùng Vô
minh để khắc phục Vô minh
a.- Tiến
trình thực hành
Tìm một chỗ yên tĩnh và sạch sẽ,
hoàn toàn xa cách mọi sự phiền nhiễu hay những điều xao lãng tâm. Hành
giả nên ẩn tu ở chỗ này, không tiếp xúc bất cứ ai khác trong suốt thời
gian tu tập.
Trước hết
thực hành một số pháp thanh lọc. Hành giả tự thanh lọc về tất cả những
người nào có thể có hại cho việc tu tập của mình do tiếp xúc với họ.
Thí dụ, nếu hành giả giao tiếp với những người đã vi phạm giới nguyện
"Samaya" của họ (Giới nguyện thiêng liêng của Kim Cương Thừa ràng
buộc hành giả với sự thật tối hậu), thì như vậy sẽ có ảnh hưởng
xấu đến tâm thanh tịnh của hành giả. Đó là lý do hành giả nên thực
hành "pháp ngủ" trong sự cô độc hoàn toàn, không có bất cứ một
sự can thiệp nào của bất cứ ai.
Trong khóa nhập
thất, hành giả nên dùng thực phẩm do chính mình kiếm được, chứ không
dùng thức ăn do người khác cung cấp, vì thông thường những người cúng
dường thực phẩm cho các tu sĩ thường là do mong cầu phước báo hay muốn
nhờ cầu nguyện hoặc làm lễ cho mình. Thức ăn đó bị ô nhiễm bởi
tham dục của người khác và nếu ăn vào, hành giả phải chịu ơn người
cúng dường. Những liên hệ nghiệp quả như vậy sẽ là một chướng ngại
cho việc thực hành pháp ngủ.
Hành giả tắm
rửa kỹ càng rồi tẩy tịnh bằng hương liệu. Làm lễ cúng và làm pháp
Dorje Sempa (Vajrasattva), niệm thần chú bách sư của ngài trong khi quán tưởng
mình sám hối và thanh lọc mọi nghiệp xấu đã tạo từ thời vô thủy
và đặc biệt là việc vi phạm giới nguyện, nếu có.
Những việc
nói trên cốt làm cho hành giả hoàn toàn tin tưởng vào sự thanh tịnh của
mình cũng như sự thanh tịnh của khung cảnh.
Phải thật cẩn
thận không để mình chìm vào giấc ngủ một khoảnh khắc nào trong trọn
ngày. Làm cho thể xác mệt mõi bằng bằng cách phục lạy nhiễu quanh. Đến
lúc ngủ, nằm trên một cái giường theo thế nằm của sư tử, là thế nằm
của Phật Thích Ca khi ngài nhập Niết bàn, nằm nghiêng bên phải với bàn
tay phải ở dưới má phải.
Quán tưởng
thật rõ rệt mình là thần bản mệnh Yidam, và tưởng tượng ở tim mình
hoa sen có bốn cánh. Nhụy của bông hoa màu trắng và có một chủng tự
"OM" màu trắng đứng thẳng ở trên. Cánh hoa phía trước màu xanh
có chủng tự "A" màu xanh ở trên. Cánh hoa bên phải ở hướng
Nam, màu vàng, có chủng tự "NU". Cánh hoa phía sau, hướng Tây, màu
đỏ có chủng tự "TA", Cánh hoa hướng Bắc, màu lục có chủng tự
"RA"
Khi hành giả
bắt đầu ngủ, trước hết chú tâm của mình vào chủng tự "A"
trên cánh hoa phía trước. Khi thấy mình chìm dần vào giấc ngủ, chuyển sự
chú tâm qua ba cánh kia, lần lượt từng cánh một cho tới khi sắp ngủ hẳn,
lúc đó hành giả chú tâm vào chủng tự "OM" trên nhụy hoa. Trụ
tâm trên chủng tự này không lay động hay quay sang một đối tượng nào
khác cho đến khi thực sự mất ý thức và ngủ hẳn.
Lúc đó hành
giả có cảm tưởng thế giới bên ngoài, vốn là những sự biểu lộ do
tâm tạo ra, được thu lại và tan vào tim mình. Tiếp theo là tâm trở nên
u mê, không có một chút trong sáng nào cả, chỉ có toàn bóng tối, tới chỗ
này các năng lực khác nhau của tâm sẽ đi vào kinh mạch trung ương và
trong một khoảnh khắc, ánh sáng trong suốt của tâm thức sẽ xuất hiện.
Nếu không xao lãng chúng ta sẽ có thể nhận ra ánh sáng trong suốt hay Tịnh
quang này.
b.- Ngủ và
Chết
Cần phải biết rõ hai trạng thái ngủ
và chết, vì giấc ngủ rất giống một hình thức nhỏ của sự chết. Khi
đi vào giấc ngủ, chúng ta trải qua cùng một tiến trình diễn ra vào lúc
chết. Nếu chúng ta học cách nhận biết những giai đoạn khác nhau của giấc
ngủ và có ý thức về chúng khi chúng diễn ra, thì chúng ta có thể dùng
kiếp sống này làm nơi tập luyện để sửa soạn cho những gì sẽ xảy
ra vào lúc chết và sau đó.
Khi đi qua từ
kiếp sống này đến kiếp sống khác, chúng ta kinh nghiệm trạng thái trung
gian giữa hai kiếp, hay "Bardo". Bardo mà chúng ta đang ở trong đó
lúc này là bardo đời sống, gồm khoảng thời gian từ lúc sinh ra cho đến
lúc chết. Khi ngủ tâm của chúng ta bước vào một bardo khác, bardo ngủ
và mộng, và ở cõi bardo này cho đến khi thức dậy. Hai cõi bardo này có
thể được dùng làm khuôn khổ để chúng ta tập luyện cho cõi bardo khác
bắt đầu xuất hiện vào lúc chết.
Nếu chúng ta
có ý thức trọn vẹn tính chất giả ảo của trạng thái tâm lúc thức,
thì chúng ta sẽ nhìn xa hơn sự biểu lộ của phiền não xuất hiện trong
giấc ngủ. Khi mộng, chúng ta biết là mình đang mộng, và do đó giải
thoát tâm khỏi sự rối loạn của trạng thái mộng. Nếu chúng ta tu tập
thông suốt phương pháp này, thì vào lúc chết và sau khi chết, khi nghiệp
của chúng ta bắt đầu biểu lộ trong các ảo giác khác nhau do tâm sản
sinh và kinh nghiệm, chúng ta cũng sẽ có thể tự thoát khỏi sự rối loạn
đó.
c.- Cảnh giới
lúc ngủ và lúc thức
Trong cõi Bardo của kiếp sống hiện tại,
tâm chúng ta không biết tính chất thật của sự vật, vì vậy nó sản
sinh năm độc, tức năm cảm xúc phiền nhiễu, và năm cãm xúc này lại
sinh ra đủ loại ý tưởng.
Tất cả những
ý tưởng của chúng ta, dù thô kệch hay tinh tế, đều sinh ra từ ảnh hưởng
của một trong năm cảm xúc độc hại, nếu không hiểu như vậy thì ngay
khi ý tưởng xuất hiện chúng ta sẽ đi theo nó, chúng ta phát triển nó,
ghi nhớ nó, suy ngẫm về nó, chúng ta muốn đạt những điều gì đó, muốn
tránh những điều nào đó, cứ như thế chúng ta đi qua cuộc đời với đầy
hy vọng và lo sợ, hy vọng đạt được điều gì mình muốn, và lo sợ những
gì mình không muốn xảy ra. Vì vậy mà chúng ta khổ. Nếu không đạt được
cái gì mình muốn, chúng ta khổ, và ngay cả khi đạt được, chúng ta tạm
thời tránh được đau khổ, nhưng do sự vô thường, chúng ta sẽ mất cái
mình có, sớm hay muộn, và chúng ta sẽ đau khổ hơn.
Dù chúng ta
có đạt được tham vọng trong đời của mình, chúng ta cũng không thể thỏa
mản ngồi yên mà hưởng thụ, vì không có gì bảo đảm là chúng ta sẽ
giữ được thành công một cách lâu bền. Sự vật luôn luôn thay đổi. Không
những thành quả của chúng ta không lâu bền, mà thông thường một tình
trạng thuận lợi của sự việc sẽ được tiếp theo sau bởi một giai đoạn
khó khăn mà chúng ta không thể tránh khỏi.
Vậy, sự lo sợ
ngự trị phần lớn cuộc đời chúng ta. Chúng ta sợ bệnh tật, già yếu,
chết và tái sinh. Chúng sợ phải mất cái gì mình có và không đạt được
cái gì mình muốn.
Tất cả trạng
thái Bardo khác nhau, đều là những hình tướng biểu lộ của các khuynh hướng
nội tại, kết quả của nghiệp quá khứ nơi chúng ta. Điều này có nghĩa
là, bất cứ điều gì xảy ra cho chúng ta trong cõi bardo nào, cũng tương
ứng với nghiệp tốt hay xấu chứa trong tâm chúng ta. Vì vậy chúng ta thường
nghĩ là mình không hoàn toàn điều khiển được cuộc đời của mình. Thật
vậy, những ảo giác này có hình tướng tùy theo nghiệp quá khứ của
chúng ta.
Các trạng
thái bardo là sản phẫm hữu tình do tâm rối loạn của chúng ta, không có
sự thật vững chắc nào cả, không có hình thể hay màu sắc thật. Vì
không hiểu như vậy, nên chúng ta cảm thấy đau khổ. Bất cứ cái gì
chúng ta nghĩ hay cảm nhận cũng chỉ là ấn tượng được tạo ra trong tâm.
Do sự rối loạn của tâm, chúng ta cho rằng mọi vật đều xuất hiện ở
tâm và vì vậy chúng ta có thể điều khiển được chúng, thay đổi chúng,
ảnh hưởng tới chúng, tất cả những nổ lực của chúng ta đều được
hướng tới việc đạt những mục tiêu nào đó, giữ vững những tình trạng
nào đó, hay ngăn chận những sự việc nào đó có thể xảy ra, nhưng tất
cả những việc chúng ta làm chỉ tạo thêm đau khổ cho chính mình, vì
chúng ta đang sống trong ảo giác.
Như đã giải
thích trong phần nói về việc nhận ra thực chất của các cảm xúc, chúng
ta phải học cách chứng nghiệm sự thật của mỗi cảm xúc khi chúng xuất
hiện trong tâm. Bất cứ ý tưởng nào do chúng gây ra, dù thô kệch hay tinh
tế, chúng ta cũng nhìn vào tính chất thật của ý tưởng đó khi nó xuất
hiện trong tâm. Chúng ta sẽ thấy rằng những ý tưởng, những hình thức
cảm xúc đó, không có hình thể hay màu sắc nào riêng biệt cả, không có
gì xác định rõ ràng về chúng. Khi chúng ta nhận thấy một cảm xúc
không có gì xác định rõ ràng để quan sát cả, lúc đó chúng ta hiểu ra
tính chất thật của nó. Nó giống như hư không. Như vậy chúng ta đã
nhìn thẳng vào tính chất tối hậu của cảm xúc và thoát khỏi sự rối
loạn tâm thức và những phiền não do nó gây ra. Chúng ta không kinh nghiệm
sự vật qua việc phân biệt chủ thể và đối tượng nữa.
Nếu chúng ta
hiểu biết như vậy trong đời sống lúc thức, thì khi chúng ta ngủ và mộng,
chúng ta cũng có thể hiểu biết như vậy về giấc mộng khi nó diễn ra.
Chúng ta sẽ có thể thoát khỏi ảo giác của giấc mộng. Nếu trong lúc thức,
chúng ta thoát tính chấp giữ vào những nhận thức xuất hiện trong tâm
thì trong khi ngủ chúng ta cũng có thể thoát tính chấp giữ vào những ảo
giác của giấc mộng.
Thế giới mà
chúng ta kinh nghiệm lúc thức giống như một giấc mộng ở nhìều mặt,
theo nghĩa thế giới này không thật hay vững chắc, chỉ do tâm chúng ta
phóng chiếu. Chúng ta phải tập cho tâm của mình trụ trong sự hiểu biết
này. Chúng ta không nhất quyết từ chối sự thật của thế giới mà
chúng ta nghĩ là hiện hữu, hãy để cho tâm mình tự hiểu ra rằng, thế
giới này chưa lúc nào có sự hiện hữu thật sự, mà chỉ là hình ảnh
do tâm của chúng ta phóng chiếu.
Một cách để
đạt sự hiểu biết này là suy ngẫm về tính vô thường của sự vật. Nếu
chúng ta quan sát sự biến đổi của thế giới, chúng ta sẽ thấy là
không có gì đứng yên dù chỉ trong một khoảnh khắc, thời gian không bao
giờ ngừng lại. Dù bề ngoài có vẻ không biến đổi, nhưng thế gian không
phải là một cái gì vững chắc để chúng ta nương tựa. Đúng hơn thế
gian giống như một giấc mộng hay một ảo ảnh, một cuốn phim trên máy
truyền hình tâm trí. Chúng ta phải tập coi kinh nghiệm sống lúc thức chỉ
là ảo giác, để không còn chấp giữ những sự kiện diễn ra trong kinh
nghiêïm sống này. Chúng ta phải trau dồi ý thức về đời sống lúc thức
như một ảo giác hay một giấc mộng, để tự chuẩn bị cho bất cứ chuyện
gì có thể xảy ra. Bằng cách hiểu rằng hiện hữu của chúng ta chỉ là
những cảnh phiền não do tâm phóng chiếu, chúng ta sẽ thoát khỏi cuộc sống
phiền não. Chúng ta có thể thường trực trụ trong ý thức mọi sự vật
đều do tâm tạo ra (vạn pháp duy tâm tạo).
Đây là bước
đầu tiên để thực hành việc chuyển hóa giấc ngủ. Quen thuộc với
cách ý thức về tính giả ảo của sự vật như vậy tức là chúng ta thiết
lập một thói quen tái khẳng định mình trong khi chúng ta đang mộng. Giữa
giấc mộng, chúng ta sẽ chợt nhận ra rằng giấc mộng chỉ là một giấc
mộng, một ảo ảnh được phóng chiếu từ tâm thức. Một khi đã nhận
ra tính chất thật của giấc mộng, chúng ta sẽ trụ trong sự thật tối hậu
của tâm thức, thoát khỏi phiền não do giấc mộng gây ra.
d.- Nguyên
nhân của các giấc mộng
Giấc mộng là sản phẩm của những cảm
nghĩ và hành động quen thuộc của chúng ta trong đời sống lúc thức. Vì
chúng ta lầm nghĩ mọi việc trải qua trong lúc thức là có thật, nên
chúng ta có khuynh hướng suy nghĩ và hành động theo một lối cá biệt, và
điều này được tâm phóng chiếu khi chúng ta ngủ, với hình thức ảo ảnh
của giấc mộng.
Khi chúng ta
quen nghĩ đời sống lúc thức là có thật, thì trong giấc mộng chúng ta cũng
cho rằng những sự vật đang xuất hiện là có thật, và chúng ta còn tiếp
tục nghĩ như vậy sau khi đã thức dậy, vì chúng ta nghĩ rằng giấc mộng
có liên quan gì đó với đời sống lúc thức của mình. Nếu có giấc mộng
dễ chịu thì chúng ta cảm thấy sung sướng và cho đó là điềm báo trước
một viêïc tốt sắp xảy ra. Nếu mộng những điều khó chịu thì chúng
ta coi đó là điều xấu. Như vậy giấc mộng trở thành động lực gây ra
hy vọng hay lo sợ cho chúng ta, làm cho cuộc đời của chúng ta thêm phiền
não. Một khi chúng ta nhận ra giấc mộng, chỉ là sự biểu lộ của tâm
thì chúng ta sẽ không bị ảnh hưởng bởi chúng nữa. Thí dụ, có hai người
ngủ trong cùng một căn phòng và mộng. Ngủ cùng phòng không có nghĩa là gặp
cùng một giấc mộng, vì giấc mộng tùy thuộc vào khuynh hướng lúc thức
của cá nhân. Người này giấc mộng đẹp khi thức dậy với cảm giác hạnh
phúc, người kia gặp ác mộng, cảm thấy lo buồn. Tâm của mọi người tạo
ra giấc mộng của người đó.
Ngay lúc thức
dậy sau giấc mộng, nếu để ý kỹ, chúng ta sẽ thấy là những sự vật
mà chúng ta cho là thật trong giấc mộng thì bây giờ đã tan biến hết. Bằng
cách suy ngẫm như vậy mỗi khi thức dậy, chúng ta sẽ không coi những giấc
mộng là có ý nghĩa liên quan tới đời sống lúc thức nữa. Nếu chúng ta
để cho tâm trụ trong trạng thái tự nhiên lúc thiền định, trong thực tại
tự nhiên của tâm thức mà chúng ta gọi là "Mahamudra" hay đại ấn,
thì khi nào một ý tưởng xuất hiện chúng ta sẽ tức khắc nhận ra tính
chất thật của nó và thoát khỏi sự lôi cuốn của nó. Trong giấc ngủ sự
việc cũng như vậy, do đó chúng ta nên tập cách nhận ra giấc mộng.
Để thành
công trong việc có ý thức về giấc mộng, chúng ta phải tập tính dứt bỏ
trong đời sống lúc thức như đã nói ở trên. Như vậy chúng ta sẽ nhận
ra Tịnh quang khi đi vào giấc ngủ cũng như nhận ra thực chất của bất cứ
giấc mộng nào.
Tóm lại, muốn
có ý thức về những biểu lộ của tâm thức trong giấc ngủ thì phải
có ý thức về những biểu lộ của tâm trong đời sống lúc thức.
e.- Tịnh
quang:
* Ánh sáng trong và mỏng
Chúng ta đã nói tới Tịnh quang, như kinh
nghiệm của tâm lúc ngủ khi không có giấc mộng nào cả. Chúng ta có thể
kinh nghiệm Tịnh quang ở nhiều mức khác nhau, vì vậy có một số từ ngữ
được dùng để chỉ những kinh nghiệm này: Tịnh quang mỏng, Tịnh quang
sâu, Tịnh quang thiền định, Tịnh quang tối hậu.
Tịnh quang mỏng
là trạng thái xuất hiện khi hành giả thực hành phương pháp này với sự
mong cầu lớn. Khi chúng ta rơi vào vô thức, tâm của chúng ta không ngủ hẳn.
Chúng ta quá mong muốn nhận ra tâm, đến nổi lúc ngủ tâm ta trụ ở trạng thái không thức mà cũng
không ngủ, vẫn trong sáng và ý thức trọn vẹn về tình trạng. Lúc đó
tâm phóng chiếu một trạng thái giả ảo rất giống tình trạng thông thường
của đời sống lúc thức, đến đổi chúng ta không biết chắc là mình
đang ngủ hay thức. Chúng ta trụ giữa kinh nghiệm này, tìm mọi cách để
có thể quyết định là mình thức hay ngủ, nhưng không biết dựa vào
tiêu chuẩn nào để quyết định.
Loại kinh nghiệm
rất rõ rệt này là do ký ức mạnh của chúng ta. Chúng ta quá mong muốn
và cố gắng đạt kinh nghiệm Tịnh quang, đến nổi tâm trở nên rất
trong sáng, kích thích ký ức về thiền định mà chúng ta đã thực hành
lúc thức, và rồi ký ức này do tâm rối loạn tái tạo. Vậy, kinh nghiệm
mà chúng ta gặp sự thật chính là ký ức về việc thiền quán của chúng
ta.
Các hành giả
trải qua thời kỳ nhập thất ba năm thường gặp kinh nghiệm này vì lúc
đó họ quen với việc thiền quán ban ngày, và sự thiền quán này tái xuất
hiện dễ dàng trong giấc ngủ. Kinh nghiệm này cũng thường được gặp
khi thiền quán về hoa sen bốn cánh có các chủng tự đã nói ở phần
trên. Lý do là khi chúng ta thiền quán về các chủng tự này với ước muốn
đạt kinh nghiệm Tịnh quang, tâm sẽ trở nên căng thẳng. Thật vậy, có
khi sự phấn khích của chúng ta làm cho tâm căng thẳng tới mức chúng ta
không thể ngủ được. Dù có cố gắng chìm vào giấc ngủ, như tiến trình
tự nhiên của giấc ngủ đã được biến đổi và tâm kẹt giữa hai trạng
thái ngủ và thức, do đó mà có kinh nghiệm Tịnh quang mỏng.
*
Thiền quán trong giấc ngủ
Như thường lệ, khi ngủ chúng ta nên để
cho tâm trụ trong tính chất như thật của nó, và lúc đầu không làm gì tới
nó, sau đó khéo dùng tâm quán mỗi chủng
tự trên bông sen bốn cánh, không xao lãng khỏi việc thiền quán. Coi những
chủng tự này là những đối tượng thiền quán dùng để làm cho tâm an tĩnh;
trụ tâm trên đối tượng nhưng không tập trung, không cưỡng ép tâm. Nên
để cho tâm thật thoải mái và trong sáng.
Dần dần, qua
thực hành, chúng ta sẽ nhận ra những giai đoạn hôn trầm khi chúng ta
chìm vào giấc ngủ, và cả những dấu hiệu tinh tế của sự mất quyền
năng của năm uẩn. Lúc đó các năng lực âm và dương sẽ giao hội ở tim
và tâm thức của chúng ta sẽ bị kẹt giữa những năng lực này, cảm thấy
như vô thức trong một khoảnh khắc. Chính những điều này sẽ xảy ra
vào lúc chết ,vì vậy ngủ và chết là hai tiến trình giống nhau.
Sau đó, khoảnh
khắc vô thức này có thể nhường chỗ cho thiền quán mà chúng ta đã thực
hành vào ban ngày. Trong pháp thực hành Mahamudra (đại ấn, đại thành tựu)
chúng ta phát triển khả năng thiền quán với ý thức thật trong sáng và
thoải mái về sự hợp nhất của cảnh giới (sự biểu lộ của chân
tâm), quang minh (phương diện năng động của chân tâm tạo ra các cảnh giới)
và tính không. Việc thiền quán này sẽ tái xuất hiện vào lúc này, và
tâm lại trở nên rất trong sáng. Dù dang ngủ, nhưng tâm thực sự đang
tham thiền.
Khi trụ trong
trạng thái này lâu dài, tâm sẽ phóng chiếu ảo ảnh, tạo ra giấc mộng.
Nhưng chúng ta không chịu ảnh hưởng của những ảo giác này theo thường
lệ, chúng ta quan sát giấc mộng như nhìn bóng trong gương. Tâm hiểu ra rằng
giấc mộng không có thật, vì vậy chúng ta không bị lôi cuốn bởi những
sự kiện của giấc mơ, không bị ảnh hưởng bởi chúng, giống như mặt
gương không bị ảnh hưởng bởi hình phản chiếu trong gương, dù những
hình này có phức tạp và khích động đến mức độ nào đi nữa.
Giấc mộng xuất
hiện như vậy vì trong đời sống lúc thức, chúng ta tập không ưa, ghét,
chấp giữ, hay chối bỏ. Khuynh hướng này tái xuất hiện trong giấc ngủ,
vì vậy khi tâm phóng chiếu các hình tướng và tạp niệm rối loạn,
chúng ta không chấp giữ hay chối bỏ chúng. Tâm không có các cảm xúc phiền
não, chìm vào thiền định đại ấn. Bất cứ niệm tưởng nào xuất hiện
cũng được tự động nhận ra là giả ảo, và tất nhiên nó sẽ biến trở
lại trạng thái thiền định. Đó là lý do chúng ta phân cách với giấc mộng
dù nó đang diễn ra.
Ngay cả khi ý
thức của chúng ta không hoạt động và đi vào giấc mộng, chúng ta vẫn
còn một chút ý thức đủ để dẹp bỏ sự bám giữ của mình vào những
sự kiện của giấc mộng, và giấc mộng được thay thế bằng thiền quán
về tính không. Những giấc mộng dữ thường gây ra phản ứng này. Chúng
ta cũng có thể quán tưởng mình là vị thần Yidam, hay cầu nguyện Đạo
sư hay vị thần bảo hộ mình. Việc này có thể làm cho giấc mộng biến
đổi không còn đáng sợ nữa. Nếu có thể làm được như vậy trong giấc
ngủ, chúng ta cũng có thể làm được việc này sau khi chết., trong trường
hợp chúng ta gặp tình trạng đáng sợ tương tự. Đối với người Tây Tạng
thì thực hành pháp này rất dễ, vì ngay từ lúc nhỏ họ đã quen với việc
cầu nguyện tức khắc Đạo sư hay Tam bảo khi gặp khó khăn. Những phản
ứng như vậy là một phần của sự giáo dục của họ. Do đó những phản
ứng này xuất hiện rất dễ dàng trong giấc mộng. Đối với người Tây
phương thì cần phải nổ lực tập luyện để có thể thoát và biến đổi
những giấc mộng đáng sợ trong khi ngủ.
Nếu có ý thức
về giấc mộng mà mình đang mộng, chúng ta có thể củng cố ý thức này
bằng cách cố ý gây ảnh hưởng tới dòng sự kiện từ bên trong giấc mộng.
Thí dụ, nếu trong giấc mộng thấy mình ở trên bờ của một vực thẳm,
sợ rơi xuống đó, chúng ta hãy nghĩ: "Đây chỉ là một giấc mộng,
nên mình sẽ không bị gì cả" rồi nhảy xuống vực. Chúng ta sẽ thức
dậy, không hề hấn gì cả. Việc nhận biết tính chất thật của giấc mộng
này là cách tuyệt hảo để chúng ta dần dần thoát khỏi những giấc mộng,
không còn bị lôi cuốn vì tưởng lầm chúng là thật nữa.
f.- Tịnh
quang sâu
Tịnh quang sâu là trạng thái tâm trụ
trong thiền quán đại ấn, và cũng trụ trong đó, trong suốt giấc ngủ của
chúng ta. Ở bên trên nhị nguyên, Tịnh quang này sâu tới mức chúng ta
không còn cảm giác gì về chủ thể phân biệt và đối tượng kinh nghiệm
nữa. Chúng ta không ý thức về một sự vật nào cả, không kinh nghiệm,
không mộng, và ngay khi tâm thức dậy, chúng ta thấy mình vẫn đang thiền
định bản chất rốt ráo của tâm (thanh tịnh và bất nhị). Chúng ta cảm
thấy an lạc cả thân lẫn tâm. Theo Gampopa đại đệ tử của Milarepa (thế
kỷ mười hai) thì da của hành giả sẽ có màu tái nhợt và mịn màng, những
dấu hiệu của việc trụ trong Tịnh quang sâu, nhưng chúng ta không có ý thức
gì về kinh nghiệm này.
g.- Tịnh
quang Thiền định
Tịnh quang thiền định xuất hiện khi hành
giả kiên trì thực hành pháp an tâm. Trong khi tham thiền, chúng ta có kinh
nghiệm về ba đặc tính của đại định là an lạc, trong sáng và vô niệm.
Nếu được trau dồi, ba tính chất này sẽ trụ trong tâm thức cả trong giấc
ngủ và có ảnh hưởng tới nhận thức lúc chúng ta ngủ. Sau khi đã chìm
vào giấc ngủ, chúng ta có cảm tưởng là tâm đang tỏa ra từ tim, đầy
trong sáng, và có vẻ như đầy trong thân thể soi sáng khắp xung quanh nơi
chúng ta ngủ. Chúng ta cảm thấy có thể nhìn xuống thể xác đang ngủ của
mình cũng như các đồ vật khác. Cùng lúc chúng ta biết chắc là mình
đang ngủ.
Có thể đạt
kinh nghiệm này khi tâm lúc thức của chúng ta trụ vững trong tham thiền. Nếu
gia tăng sự ổn định tâm này thì ánh sáng của tâm lúc ngủ sẽ mạnh hơn
nữa và tâm có thể đi xa hơn căn phòng nơi chúng ta ngủ.
h.- Tịnh
quang tối hậu
Tịnh quang tối hậu sẽ được hành giả
kinh nghiệm khi mọi tính chất của sự định tâm được phá hủy bởi lực
minh sát quán. Pháp thực hành cao cấp này phát sinh trí huệ nguyên thủy đích
thực của tâm thức, ở điểm này tất cả những kinh nghiệm về ánh
sáng tỏa chiếu chấm dứt và thay vào đó là quang minh và tính không, là sự
thật tối hậu của tâm thức. Bây giờ, tâm thức trong giấc ngủ trụ
trong Tịnh quang tối hậu, sự thật đích thực của nó.
Trong khi thực
hành thiền định chúng ta hóa giải mọi sự chấp thủ thô kệch vào sự
thật thế gian, và điều này phát sinh những kinh nghiệm trong thiền quán cũng
như trong giấc ngủ như đã nói ở trên. Trong minh sát quán chúng ta loại bỏ
những chấp thủ tinh tế hơn vào ảo tưởng về tính chất của thế gian.
Vì vậy trong giấc mộng và trong thiền định những kinh nghiệm về loại
thiền quán này rất khác nhau. Tất cả những kinh nghiệm và tri thức đạt
được trong việc hành thiền của chúng ta sẽ có ảnh hưởng tới giấc
ngủ.
Tóm lại, với
sự thiền quán trong giấc ngủ và giấc mộng, chúng ta hiểu biết tính chất
thật những sự biểu lộ của vô minh này, và nổ lực bên trong giấc ngủ
và mộng để đạt giác ngộ.
2.- Dùng Tham
dục hóa giải Tham dục
a.- Hợp nhất trong Kim Cương Thừa
Một phần trong pháp thực hành của
chúng ta là thực hiện sự hợp nhất diệu dụng và trí huệ. Đây là một
vấn đề được nói tới nhiều trong Kim Cương Thừa, nhưng nhiều người
đã hiểu sai lầm về ý nghĩa thật của vấn đề này. Họ thường nghĩ rằng
pháp bất nhị hay sự hợp nhất âm dương là nói tới đàn ông và đàn
bà. Thật ra, đây là một quan kiến rất chật hẹp đưa tới một số sai
lầm lớn trong kinh nghiệm thiền quán. Khi nói đến trí huệ, tức là âm,
phương diện nữ tính, là chúng ta nói tới sự thật rằng tất cả các hiện
tượng (các pháp hữu vi), không ngoại lệ, đều không có tự tính hay sự
sống riêng của mình cả. Khi nói tới diệu dụng là chúng ta nói tới phương
diện nam tính, hay dương, của tất cả các hiện tượng, sự kiện chúng hữu
tình. Nói về sự hợp nhất giữa trí huệ và diệu dụng là nói về chân
lý rằng không có sự phân biệt tự biểu lộ của hiện tượng và sự
không tự tính của nó. Điều này có nghĩa là không lìa tánh không để
theo sắc tướng mà cũng không lìa sắc tướng để theo tánh không. Chúng
ta phải tập để cho tâm trụ trong sự hợp nhất của hai đối cực này.
Nếu không hiểu
rõ sự hợp nhất giữa diệu dụng và trí huệ theo nghĩa tối hậu này,
thì mỗi lần thiền quán về các vị thần hợp nhất, chúng ta chỉ làm tăng
tính ái dục độc hại. Cảm xúc tham dục của chúng ta sẽ mỗi lúc mỗi
tệ hại hơn, và do đó không giải quyết được vấn đề.
Tuy nhiên
chúng ta không nên rơi vào thái cực chối bỏ hoàn toàn ý tưởng nữ là
trí huệ và nam là diệu dụng. Chối bỏ như vậy tức là chúng ta theo thuyết
hư vô cực đoan, làm cho mình chối bỏ sự thật đích thực của sự vật.
Mọi hiện tượng
phát sinh từ tâm của chúng ta có hình tướng như thế là nhờ tùy thuộc
vào tâm. Điều này được gọi là "tendrel" hay là duyên khởi,
liên hệ tương thuộc giữa các hiện tượng và tâm mà từ đó chúng phát
sinh. Khi tâm chúng ta hoạt động theo cách nhị nguyên thì thế giới mà nó
sản sinh sẽ phải là sự biểu hiện nhị nguyên, và một phần của tính
nhị nguyên đó là phóng chiếu vào thế giới đó là sự hiện hữu của
phái tính đối xứng (nam và nữ), cùng với những liên hệ phiền não xuất
hiện khi hai cực thu hút tìm cách giải quyết sự nhị nguyên mà họ là phản
ảnh (tức là ái dục phái tính).
Một khi tâm
chúng ta hoàn toàn trong sạch, những hiện tượng biểu lộ của nó sẽ là
biểu hiện của trí huệ thuần túy, vì vậy chúng ta có hình ảnh sự giao
hợp tự nhiên của các thần linh trí huệ. Lần này tâm tự biểu hiện
mình theo điều kiện tính bất nhị của biểu lộ và tánh không. Tự thân
các thần linh trí huệ không có ái dục gì cả, họ không giao hợp vì yêu
nhau.
Chúng ta thiền
quán về các vị thần giao hợp nhau, là để tạo liên hệ giữa tâm hiện
tại của chúng ta với trạng thái bất nhị tối hậu tức sự biểu lộ
trí huệ mà trong đó có sự hợp nhất của các vị thần.
Với những ai
không hiểu sự thật tự nhiên này thì việc thiền quán về các thần giao
hợp sẽ chỉ làm tăng thói quen ái dục mà họ có trong tâm. Bất cứ lúc
nào trong tâm của chúng ta cũng có hai khuynh hướng vô minh và trí huệ. Khi
vô minh chiếm ưu thế chúng ta không thể nhận ra tính chất giác ngộ của
tâm và tự coi mình là tầm thường. Đức Phật và một người bình thường
chỉ khác nhau ở chỗ Đức Phật đã trông thấy tính chất thật của tâm
mình, còn người bình thường thì chưa. Nếu chúng ta thực tâm tự coi
mình là thần linh, thị kiến tự nhiên phát xuất từ việc nhận ra căn bản
tâm, thì lúc đó chúng ta là một vị Phật, chúng ta có trí huệ. Còn nếu
không như vậy, tâm của chúng ta vẫn bị ảnh hưởng bởi các cảm xúc như
sân hận và tham dục, làm cho chúng ta kinh nghiệm một thế giới không
trong sạch. Chúng ta không cần phải tìm Phật tính ở đâu cả. Chúng ta đã
có sẳn Phật tính, chỉ còn việc nhận ra Phật tính mà thôi.
Trong các cảm
xúc thì tham dục là cảm xúc khó trừ bỏ nhất. Đó là vì tất cả chúng
ta có thói quen tiềm tàng luôn tìm cách nắm giữ sự vật cho riêng mình,
và chúng ta thấy ý tưởng buông bỏ tính chấp thủ rất kỳ lạ. Chúng ta
đặc biệt gặp khó khăn trong việc đối trị ái dục. Chúng ta bị trói
vào luân hồi bằng sợi dây tham dục rất khó cắt đứt.
b.- Bốn
"Mudra"
Phương pháp dùng ái dục làm đạo pháp
đạt giác ngộ gồm bốn pháp được gọi là bốn "Mudra" (nguyên
nghĩa là dấu ấn).
Mudra thứ nhất
là "Karma mudra", hay "Nghiệp ấn". Dùng nghiệp ấn nghĩa là
thực hành giao hợp một người đàn bà vật chất, nhưng người đó phải
là người có đủ điều kiện. Tuy nhiên, người nào chưa đạt quả vị Bồ
tát sẽ rơi vào những cõi thấp nếu y dùng phương pháp này. Bồ tát là
người đã thoát ngã chấp và bám giữ vào nhị nguyên, có nhiều quyền năng
đối với bên ngoài, tức là có thể làm những điều thường được gọi
là phép lạ. Nói cách khác, sự thành tựu của một Bồ tát trở thành hữu
hình đối với thế giới bên ngoài.
Nhưng có những
người nhận định sai lầm về mức độ tu chứng của mình. Do kiêu ngạo
họ nghĩ là mình đã đạt quả vị Bồ tát và có ảo tưởng là mình
không cần phải giữ giới đức. Tâm của họ chịu ảnh hưởng của những
cảm xúc mạnh hơn trước, và họ đi tới chỗ thực hành mười điều không
đức hạnh (sát sinh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, nói ác hay nói hành,
nói chia rẽ, nói phù phiếm, tham, sân, si) vì cho rằng mình không còn bị
luật nhân quả chi phối nữa. Như vậy là họ tự lừa dối mình và hướng
dẫn sai lầm những người tin cậy mình, và hậu quả dành cho họ là tái
sinh vào những cõi thấp.
Những người
nào chưa thọ đại giới nhưng đã tập luyện các pháp dùng kinh mạch năng
lực tinh tế và các tinh lực thì có thể dùng pháp nghiệp ấn. Đó là trường
hợp của các gia chủ Kim Cương Trì (cư sĩ tại gia). Loại hành giả này vẫn
giữ năm giới căn bản của người tại gia (không sát sinh, không trộm cướp,
không tà dâm, không nói dối, không uống rượu). Chúng ta được biết là
có nhiều "terton". tức là những người khám phá các kho tàng kinh
sách đã được cất dấu từ xưa và cả những người thuộc phái Sakya
và phái Drikung cũng dùngpháp nghiệp ấn này.
Loại thứ
nhì là "Ramaya mudra" hay "thệ ấn", là pháp luyện
"tummo", sức nóng huyền bí, hay lửa tam muội. Hành giả thiền
quán về lửa trí huệ và sức nóng của lửa này làm cho lực Bồ đề tâm
tan chảy trong thân thể. Mỗi lần chúng ta cảm thấy tham dục, sức nóng
do cảm xúc này sanh ra, hay tummo, sẽ được kinh nghiệm như sự hợp nhất
của an lạc và tánh không, với điều kiện là tâm của chúng ta phải trụ
trong trạng thái tánh không bất biến suốt thời thiền.
Trong pháp
Tummo, điều rất quan trọng là không để mất sức mạnh bên trong của
thân thể, nghĩa là phải bảo vệ năng lực tính dục (bảo tinh) như giữ
sinh mạng của mình, không để mất qua ái dục. Pháp này thường được dùng
trong dòng Dhagpo Kagyu.
Pháp Mudra thứ
ba là "Jnana mudra" hay "trí ấn", là pháp thiền quán về thần
linh giao hợp, hai phương diện nam nữ hợp nhất và được coi là bất khả
phân. Với pháp thiền quán này chúng ta lập liên hệ bình đẳng của hai
đối cực (âm và dương) nội tại trong trạng thái thực tế tối hậu, đó
là sự hợp nhất của sắc tướng và tánh không đã nói ở phần trên.
Pháp Mudra thứ
tư và cuối cùng là "Mahamudra" hay "đại ấn", tức là
tánh không của tâm, cũng được gọi là Mẹ của chư Phật ba thời quá khứ,
hiện tại, vị lai, vì từ tánh không
này phát sinh bốn hạng thánh nhân: Thinh văn, Duyên giác, Bồ tát và Phật.
Pháp thiền quán về tánh không còn được gọi là pháp Mẹ Lớn. Pháp này
đặc biệt có giá trị đối với những người không thể thực hành các
pháp tu tập dùng các kinh mạch và các lựïc tinh thế, thí dụ những người
già.
Bốn pháp
Mudra này là bốn phương pháp dùng ái dục làm phương tiện đạt giác ngộ.
3.- Dùng Sân
hận thanh lọc Sân hận
a.- Sự luân
hồi của quỷ
Chúng ta tức giận khi gặp những người
và nhiều tình huống trái ý mình. Chúng ta cần phải có những kẻ thù địch
để có dịp đối trị cảm xúc này.
Những hoàn cảnh
tốt nhất để chúng ta tập luyện là những nghịch cảnh mà chúng ta gặp
hàng ngày. Những khó khăn này thường là việc làm của các tinh linh (ma,
quỷ) có ác cảm với chúng ta và thích gây khó khăn cho chúng ta.
Những lực lượng
tiêu cực này, hay quỷ, là những chúng sinh đã làm rất nhiều việc xấu
trong các kiếp trước. Họ đã tạo cho mình thói quen thích làm hại nghười
khác, một khuynh hướng làm lệch lạc lối nghĩ của họ tới mức họ chỉ
có những tà niệm, những thái độ tiêu cực và những ý muốn thấy người
khác đau klhổ. Những ý tưởng xấu này được thể hiện khi những người
này dùng trọn kiếp sống của mình để gây đau khổ cho người khác,
càng nhiều người càng tốt, dù chính họ cũng đang chịu đau khổ. Họ chỉ
nghĩ tới việc giữ vững luân hồi và những đau khổ của luân hồi, vì
vậy họ quyết cản trở người khác tiến tới giác ngộ. Những người
như vậy chắc chắn sẽ sa vào địa ngục vì những nghiệp xấu này.
Nếu chúng ta
ghét, giận một chúng sinh như vậy, y có thể chiếm cả thể xác lẫn tâm
thức của chúng ta. Chúng ta bị y ám ảnh và làm theo ý muốn của y. Nhưng
nếu chúng ta có lòng từ bi với y, thì chính y sẽ ở dưới quyền điều
khiển của chúng ta, và chúng ta có thể giúp y thoát tình trạng khủng khiếp
này.
Sự đau khổ
và tình trạng xấu của loại quỷ này trầm trọng tới mức không thể
được chuyển hóa bằng tâm từ bi an tĩnh thông thường, mà cần phải có
một loại từ bi đặc biệt mãnh liệt phát xuất từ tâm với hình dạng
một vị thần phẫn nộ. Tâm từ bi phẫn nộ nhận thấy rằng sự đau khổ
của loại quỷ này không chỉ do chúng không hướng tới giác ngộ, mà còn
do chúng liên tục làm hại người khác và cản trở việc đạt giác ngộ.
Nhận biết như vậy, chúng ta phát nguyện mạnh mẽ giải thoát y khỏi trạng
thái xấu này.
Dùng sân hận
để khắc phục sân hận nghĩa là quán tưởng rằng chúng ta đoạn lìa và
hủy diệt trong một lúc tất cả nghiệp xấu và ý hướng xấu trong tâm của
y, giải thoát y khỏi con đường tà để y có thể đi tới giác ngộ.
Để cho việc
này có hiệu quả, tâm từ bi phẫn nộ của chúng ta phải được phối hợp
với trí huệ bất nhị. Tâm của chúng ta phải nhận ra rằng chướng ngại
này không gì khác hơn là sự hiển lộ tâm của chính mình. Kẻ địch chính
là chúng ta.
b.- Sân hận
và Từ bi
Nếu chúng ta gặp một chúng sinh như vậy
và không thể làm được gì đối với y, thì hãy để cho y theo con đường
y đã chọn, trong khi vẫn phát ý nguyện mạnh mẽ là y có thể được giải
thoát khỏi trạng thái xấu. Nếu chúng ta không có khả năng giúp y thì đó
không phải là lỗi không hành động của chúng ta.
Nếu chúng ta
cố gắng hủy diệt tiêu cực của chúng sinh đó trong khi chúng ta thiếu
tri thức và trí huệ để thực hiện đúng việc làm này, thì như vậy không
khác gì tức giận một người và hủy diệt người đó. Khi tâm chúng ta
có sự ghét giận thông thường do nhận thức nhị nguyên, thì hành động
hủy diệt như vậy giống như giết người và chính chúng ta sẽ chịu hậu
quả của hành động này. Hơn nữa, nếu chúng ta không thành công trong việc
hủy diệt tính tiêu cực của y, y sẽ cảm thấy bị đe dọa bởi hành động
của chúng ta, và sẽ gây đủ loại khó khăn cho chúng ta.
Vậy chúng ta
cần phải biết rõ khả năng của mình để tránh nguy cơ làm cho sự việc
tệ hại hơn.
Nếu được làm
đúng cách, thì năng lực xuất hiện trong tâm không phải là cảm xúc sân
hận, mà là lực từ bi thanh tịnh có lợi cho chúng sinh tiêu cực vì hành
động này sẽ đưa y đi hẳn vào con đường giải thoát. Tâm từ bi phẫn
nộ đó là đối cực của cảm xúc sân hận thông thường của chúng ta.
Đây là cách
đối trị với những lực lượng có hại không phải là những thực thể
vật chất.
c.- Địch nhân
Trong trường hợp chúng ta gặp kẻ thù địch
là con người vật chất thì tốt nhất là nên nhận biết phương diện tích
cực của tình trạng.
Nếu chúng ta
gặp một người nào làm cho chúng ta tức giận, một người mà chúng ta
không thích, một người không hợp với chúng ta, chúng ta nên nhận thấy
thái độ thù địch của người đó đối với chúng ta không phải là lỗi
của người đó. Y chỉ biểu lộ kết quả của sự tức giận trước đó
của chính chúng ta. Khi đã chấp nhận điều này, chúng ta nên coi tình trạng
rắc rối của mình là một cơ hội tốt để luyện tánh nhẫn nhục, và
vì cơ hội này chỉ xuất hiện do sự có mặt của y, chúng ta nên biết
ơn y, và còn tới mức ước mong hiệu quả của sự sân hận của y sẽ
còn là của chúng ta trong tương lai để chúng ta kinh nghiệm và do đó trau
dồi tính nhẫn nhục.
Khi rắc rối
và tức giận đã trôi qua, thì kẻ gây rối thật ra là người đã tạo cơ
hội tốt cho chúng ta tập tánh nhẫn nhục. Bài học tương tự khi gặp phải
chỉ vì chúng ta nhận định và phản ứng lại nó theo cái thấy sai lệch
cố chấp của mình. Do ích kỷ chúng ta muốn mọi việc thuận theo ý của
mình, bằng ngược lại, ta cảm thấy như cản trở chướng ngại. Nếu nhận
ra những tính trạng này từ tính ngã chấp thì chúng ta sẽ coi chúng là những
điều tốt.
Trong chương
"Chim Công Lớn" này chúng ta đã được thấy nhiều cách đối trị
của các cảm xúc, nhận ra tính chất thật của chúng, chuyển hóa chúng,
và dùng chúng như đạo pháp dẫn tới giác ngộ.
Bằng cách ghi
nhớ cẩn thận những giáo lý này và ứng dụng chúng khi có cơ hội, chúng
ta sẽ sớm tìm ra con đường thoát khỏi những phiền não của tâm do bị
tràn ngập bởi các cảm xúc.
Tác giả
Chagme Rinpoche chấm dứt chương này với lời tạ lỗi vì những điểm sai
lầm nếu có, xin những bậc có nhiều kiến thức về kinh sách hơn mình lượng
thứ, và ngài mong rằng qua công đức biên soạn tác phẩm này, nguyện cho
mọi người sẽ ham thích và thực hành giáo pháp, nguyện sẽ có nhiều tu
sĩ và cư sĩ làm theo đến cùng giáo lý của Đức Phật.
Mộ
địa, đọc xong ngày 2/6/1998
Giới thiệu
| chương 1 | chương 2 | chương 3 | chương 4 | chương 5