Kinh Địa Tạng
HT. Thích Trí Quang dịch giải
Mục Lục
- I. Dẫn Nhập
- A. Thứ Nhất, Tiểu Dẫn Về Tài Liệu
- B. Thứ Hai, Tìm Xét Về Dịch Chủ
- C. Thứ Ba, Khái Lược về Nội Dung
- D. Phần Chính Thuyết
- E. Phần Bổ Túc
- II. Ghi Về Địa Tạng Đại Sĩ
- A. Địa Tạng Đại Sĩ
- B. Địa Tạng Đại Sĩ và Kinh Địa
Tạng
- III. Nghi Thức Sám Nguyện Đơn Giản
Trước Khi Trì Tụng Kinh Địa Tạng
- IV. Kinh Địa Tạng : cuốn trên (1)
- A. Phẩm 1 : Thần Thông Tại Cung Đao
Lợi
- B. Phẩm 2 : Thân Phân Hóa Qui Tụ Lại
- C. Phẩm 3 : Quán Sát Nghiệp Quả
Chúng Sinh
- D. Phẩm 4 : Nghiệp Quả Của Người
Diêm Phù
- V. Kinh Địa Tạng : cuốn giữa
- A. Phẩm 5 : Danh Xưng Địa Ngục
- B. Phẩm 6 : Thế Tôn Tuyên Dương
- C. Phẩm 7 : Lợi Ích Người Còn Kẻ
Mất
- D. Phẩm 8 : Chúa Tôi Diêm La Xưng Tụng
- E. Phẩm 9 : Xưng Tụng Danh Hiệu Chư
Phật
- VI. Kinh Địa Tạng : cuốn dưới
- A. Phẩm 10 : Trắc Lượng Công Đức
Bố Thí
- B. Phẩm 11 : Thần Đất Hộ Trì
- C. Phẩm 12 : Lợi Ích Của Sự Thấy
Nghe
- D. Phẩm 13 : Thế Tôn Ký Thác
|
Ghi Sau Khi Duyệt
Địa Tạng
Nếu nói vì sự dấn thân mà được
Phật đem chúng ta ký thác, thì đó là sự đặc thù của đức Địa tạng
mà Phật tử thì phải học tập.
Đời Phật có 2 vị đại sĩ quan
trọng. Một là đức Từ thị, sẽ thay Phật làm Phật. Hai là đức Địa
tạng, thay Phật mà gánh vác chúng sinh.
Địa tạng đề cao niệm Phật và
bất sát, và xếp vào loại bất khả tư nghị cái phước giúp người già,
người bịnh và sản phụ. Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng
rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng
chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài,
và cái phước là làm theo giáo huấn ấy.
Địa tạng nói đến quỉ thần. Quỉ
thần thật thì không đáng nói lắm. Hãy nói quỉ thần hình người mặt
người. Quỉ thần ác có thiện có. Nhưng con người đa số ác nên quỉ thần
ác lộng hành. Vậy đối phó với quỉ thần ác thì phải đừng ác.
Phật giáo có cái thuyết tam tai -
Tam tai là 3 tai nạn đao binh, tật dịch và cơ cẩn, mà tôi đã dịch là
chiến tranh, nhiễm độc và nhân mãn. Đó là 3 điều đang là mối lo lớn
nhất cho cả thế giới. Trước đây không lâu thì chiến tranh hạt nhân
là mối lo lớn nhất, nhưng hiện nay thì mối lo lớn nhất là ô nhiễm
môi trường và bùng nổ dân số. Mối lo ô nhiễm môi trường lại có những
mối lo liên hệ mà vi khuẩn HIV chỉ là một. Phật giáo không nói tận thế
như các tôn giáo khác, nhưng mô tả tam tai thì thật kinh hoàng. Và nói về
Địa tạng đại sĩ thì tam tai được nói đến còn hơn nói đến ngũ trược.
- Mồng 8 tháng tư, 2537
- Trí quang
Thứ Nhất, Tiểu
Dẫn Về Tài Liệu
1. Kinh này dịch và in năm 2514
(1970) một cách bình thường. Nay được chữa lại khá kyլ dẫu không còn
để phần dịch âm.
2. Tài liệu được sử dụng là Đại
tạng kinh bản Đại chính tân tu (ký hiệu là Chính) và Tục tạng kinh bản
chữ Vạn (ký hiệu là Vạn).
3. Nguyên bản căn cứ để chữa là
Chính 13/777 - 790. Nguyên bản này không chia 3 cuốn mà chia 2 cuốn thượng hạ.
Bản in riêng của Phật giáo Trung hoa cũng được sử dụng. Địa tạng
khoa chú (Vạn 35/197-336) lại càng được tham chiếu.
4. Quan trọng đến nỗi không thể
thiếu được trong việc tìm hiểu về đức Địa tạng là kinh Thập luân
(Chính 13/721-777). Bản dịch trước của kinh này (Chính 13/681-721) và kinh
Chiêm sát (Chính 17/901-910) cũng được tham khảo.
5. Tài liệu để soạn nghi thức sám
nguyện là Tán lễ Địa tạng bồ tát sám nguyện nghi (Vạn 129/68-71), nhưng
kinh Thập luân vẫn là tài liệu chính.
Thứ Hai, Tìm
Xét Về Dịch Chủ
Về dịch giả kinh Địa tạng, có
thể có 3 thuyết. Thứ nhất, tôi nhớ khi nhỏ có thấy 1 bản ghi ngài
Pháp cự dịch. Thứ hai, 1 bản dịch ghi là ngài Pháp đăng. Thứ ba, nhiều
bản ghi là ngài Thật xoa nan đà.
Về ngài Pháp cự, niên đại dịch
kinh là 290-306 (Chính 98/678). Xuất xứ này cũng ghi dịch phẩm của ngài, như
những xuất xứ khác. Trong những dịch phẩm được ghi, không có kinh Địa
tạng. Nhưng trong Chính 49/61, cũng như mấy xuất xứ nữa, ghi dịch phẩm của
ngài có 132 bộ 142 cuốn ẫ mà không bản mục lục nào ghi được đầy đủ.
Như vậy không rõ trong đó có kinh Địa tạng mà thất lạc, hay không?
Về ngài Pháp đăng, không thể tìm
thấy tên, nên không thể nói gì được.
Về ngài Thật xoa nan đà, niên đại
dịch kinh là 695-704 (Chính 98/668). Có đến 5 xuất xứ ghi ngài là dịch giả
kinh Địa tạng: Chính 13/777, Vạn 35/220A, Chính 99/346, Chính 99/376, và Chính
100/1010.
Phần tôi, sau khi tra cứu gần hết
sử truyện và mục lục, ghi lại như trên đây. Nhưng thấy vấn đề dịch
giả kinh Địa tạng vẫn bất ổn. Tôi lại không có 1 bản giảng giải mới
nào, nên không biết có sự tra cứu nào đáng kể không. Riêng ngài Thái hư
thì cũng cho dịch giả kinh Địa tạng là ngài Thật xoa nan đà (Thái hư toàn
thư, 29/2470).
Thứ Ba, Khái Lược
Về Nội Dung
Như vừa nói, nguyên bản kinh này
chia 2 cuốn: cuốn thượng có các phẩm 1-6, cuốn hạ có các phẩm 7-13.
Xét ra chia như vậy mới có nghĩa. Chia 3 cuốn thượng trung hạ chỉ để
trì tụng cho thích hợp thì gian mà thôi. Kinh này cốt nói đại nguyện đại
lực của Địa tạng đại sĩ. Cuốn thượng kể như là phần chính thuyết,
nói đại lược đã đủ, và cuối phẩm 6 đã kết thúc bằng sự đặt tên
kinh. Còn cuốn hạ kể như là phần bổ túc, bổ túc một số chi tiết.
Nay tóm lược tất cả dưới đây.
Phần Chính
Thuyết
Phẩm 1: Thần thông tại cung Đao lợi.-
Sát với chính văn thì phải dịch là thần thông tại cung trời Đao lợi.
Cung trời Đao lợi là Thiện pháp đường, tức giảng đường của Đế thích,
và là chỗ Phật thuyết pháp cho mẹ, trong pháp được thuyết có kinh Địa
tạng. Thần thông là đại bộ phận của thần lực và nhiều lúc cũng gọi
là thần lực. Vã lại chữ thần lực đủ và sát với phẩm này, nên phải
đổi ra. Xét thần lực của phẩm này nói thì thấy có 3. Một, thần lực
không nói mà thấy rõ, đó là biến cung Đao lợi vốn rất lớn và trang
nghiêm lại càng lớn và trang nghiêm vô tận (như Bồ đề tràng trong Hoa
nghiêm). Hai, thần lực ánh sáng và âm thanh mà Phật biểu hiện ở cung
Đao lợi (như phóng quang và thần lực trong Pháp hoa). Ba, thần lực hóa độ
và tác thành của đức Địa tạng mà tại cung Đao lợi Phật đã đề
cao. Chính yếu của phẩm này là 2 thần lực sau. Ngoài 3 thần lực này, phẩm
này cốt nói đại nguyện của đức Địa tạng, đại nguyện ấy cũng là
một thần lực, mà là thần lực quan trọng.
Phẩm 2: Thân phân hóa qui tụ lại.-
Phân thân là phương tiện quan trọng nhất trong những phương tiện mà đức
Địa tạng đã vận dụng để giải thoát cho bao kẻ tội khổ ẫ như đại
nguyện mà phẩm 1 đã nói. Cũng chính vì đại nguyện nghiêng nặng về bao
kẻ tội khổ, nên phân thân mà phẩm này nói đã nhấn mạnh phân thân ở
địa ngục. Nhưng phân thân của đức Địa tạng, theo kinh Thập luân thì
đếm được 42 loại (Chính 13/725), còn kinh này có 20 loại, của Phật nhưng
là điển hình cho các vị đại sĩ. Phân thân như vậy có 2 loại lớn là
hữu tình và vô tình. Trong loại vô tình, kinh Thập luân chỉ nói" hiện
những cảnh đẹp cho người vui thích", còn kinh này nói rõ hơn: hiện
ra làm núi rừng, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng.
Nói rõ mà không đủ, vì ngoài núi rừng và đồng bằng, chỉ nói toàn nước
-- Nói như vậy cũng không lạ, nếu ta biết đến vấn đề nước ở cái
xứ nóng như Ấn độ. Nhưng phải nói như chính đức Địa tạng đã nói
mới rõ và đủ hơn, dầu vắn tắt hơn, rằng thân đức Địa tạng là
thân không biên cương, rằng tại mỗi thế giới hệ, ngài phân hóa trăm
ngàn vạn ức thân hình. Và phân hóa thân hình là để thuyết pháp. Nhưng
thuyết pháp ở đây không phải chỉ có một cách nói bằng lời, mà nói bằng
nhiều cách: cách nào mà lợi người là thuyết pháp cả. Nên cảnh vật
làm người vui thích, làm người được ích lợi, thì đó chính là sự
thuyết pháp, là sự độ thoát. Đừng hiểu rằng hiện cảnh vật ích lợi
mọi người để rồi sau đó thuyết pháp độ thoát cho họ. Mặt khác, vì
đại nguyện và sự phân thân như vậy, nên trong phẩm này đức Địa tạng
được đức Thế tôn đem chúng sinh, trong đó có chúng ta, ký thác cho
ngài.
Phẩm 3: Quán sát nghiệp quả chúng
sinh.- Nghiệp quả, hay nghiệp cảm, là hành vi và kết quả của hành vi.
Nói quán sát nghiệp quả của chúng sinh, nhưng thật ra phẩm này lấy người
Diêm phù chúng ta làm điển hình mà nói. Vì đại nguyện của đức Địa
tạng chú trọng chúng sinh tội khổ, nên phân thân của ngài đã nhấn mạnh
phân thân địa ngục, và bây giờ nói quán sát nghiệp quả, nhưng thật ra
chỉ quán sát nghiệp quả địa ngục ẫ đặc biệt địa ngục vô gián, nơi
nghiệp dữ nhất và quả khổ nhất. Điều rất đáng tiếc là trong phần
nói về nghiệp dữ nhất ấy đã không nói đến nghiệp dữ hơn hết, ấy
là những chủ thuyết độc hại nhân loại mà chữ tà kiến hay ác kiến
không diễn đạt hết được. Phản bội Phật pháp, đi theo các chủ thuyết
ấy, cũng là nghiệp dữ nhất mà kinh này đã không nói đến.
Phẩm 4: Nghiệp quả của người Diêm
phù.- Phẩm này tiếp tục phẩm trước, lấy người Diêm phù chúng ta làm
điển hình mà nói về nghiệp quả của chúng sinh, nhưng nói rộng hơn: Một,
về nghiệp quả, không phải chỉ nói nghiệp quả vô gián, nhưng vẫn chú
trọng nghiệp quả đường dữ. Hai, nói về đại thệ (lời thề thực hiện
đại nguyện) của đức Địa tạng. Ba, nói về cách giải thoát nghiệp quả
cho chúng sinh của đức Địa tạng; trong cách này, ở đây đưa ra cách
nói về nhân quả, nhưng chữ nói ấy không phải chỉ là nói, khuyên và răn,
mà là nói bằng sự "vận dụng hàng trăm hàng ngàn phương tiện".
Hai phần đại thệ và cách nói như vậy là vài phương tiện của đức Địa
Tạng.
Phẩm 5: Danh xưng địa ngục.- Danh
xưng địa ngục là tên của các địa ngục. Chính tên của mỗi địa ngục
biểu thị hình cụ và cực hình của địa ngục ấy. Phẩm này chỉ bổ
túc cho phẩm 4, nói về các địa ngục, nơi nghiệp dữ phải chịu quả báo,
sau khi chịu hoa báo và trước khi chịu dư báo. Nhưng đến đây, sau 3 phẩm
3, 4 và 5 nói về nghiệp quả, những điểm chính yếu sau đây phải được
nhận rõ: địa ngục thật khổ, và ai làm nghiệp dữ thì người ấy tự
chịu, chứ không ai có thể chịu thay cho; như vậy địa ngục là thật, nếu
thật có nghiệp dữ; nhưng cũng không thật, nếu nghiệp dữ không có hay
có mà được trừ bỏ; sự trừ bỏ cũng vẫn có thể hy vọng, nếu biết
qui y đức Địa tạng và làm theo kinh này chỉ dẫn; và đức Địa tạng
trừ bỏ cứu vớt cho cũng không phải chỉ trừ bỏ cứu vớt nơi cái
nhân mà còn ngay nơi cái quả: Đó là sự đặc biệt, bất khả tư nghị của
đức Địa tạng và kinh Địa tạng.
Phẩm 6: Thế tôn tuyên dương.- Các
phẩm trước đã nói về thệ nguyện, phương tiện và sở độ của đức
Địa tạng, phẩm này nói về sự ích lợi nhân thiên của ngài. Ích lợi
nhân thiên là đem lại cho nhân thiên và mọi loài sự ích lợi mà phần
chính là ở chính trong nhân thiên. Sự ích lợi ấy gọi là sự yên vui tuyệt
diệu (thắng diệu lạc). Sự ích lợi ấy ích lợi cả nhân và quả, cả
hiện tại và vị lai. Ích lợi này còn được nói đến trong phẩm 12 và rải
rác ở các phẩm khác. Và, như đã nói, đến đây kể như đã lược đủ
về đại nguyện và đại lực của đức Địa tạng, nên Phật đặt tên
cho kinh này, tên ấy biểu thị đại nguyện và đại lực đã nói.
Phần Bổ Túc
Phẩm 7: Lợi ích người còn kẻ mất.-
Phẩm này bổ túc cho chi tiết ích lợi kẻ mất: làm cách nào để kẻ mất
được ích lợi mà người còn cũng được. Trong cách ấy, hại nhất cho kẻ
mất, cái hại phải cố mà tránh, ấy là sự sát sinh cúng tế.
Phẩm 8: Chúa tôi Diêm la xưng tụng.-
Diêm la là Diêm la thiên tử, cũng gọi là Diêm vương, thuộc loài quỷ, thống
lãnh quỉ chúng và tổng quản địa ngục. Phẩm này bổ túc những chi tiết
sau đây: Thứ nhất, bổ túc sự đại tinh tiến, cứu độ không chán mệt
của đại nguyện đức Địa tạng. Thứ hai, bổ túc uy thần của đức Địa
tạng đối với thế giới quỉ -- thế giới rất mạnh và đa dạng, mạnh
nên gây họa mạnh bao nhiêu thì giúp phước cũng mạnh bấy nhiêu, khi có
uy thần của đức Địa tạng. Thứ ba, bổ túc ích lợi khi chết, nhất
là lúc sinh. Trong chi tiết này có vài chi tiết nhỏ: Một, lúc sinh không
được sát sinh tiệc tùng (phẩm trước mới nói khi chết không được sát
sinh cúng tế); còn khi chết thì phẩm này nói đến một trong những cái gọi
là "cách ấm mê": sự bị mê hoặc dẫn dụ khi chết. Hai, chúa quỉ
Chủ sinh mạng, vị bổ túc chi tiết thứ ba này được Phật gọi là một
vị đại bồ tát và thọ ký cho: quan trọng biết bao. Điều cần phải đặc
biệt nói thêm, là kinh này hết sức răn việc sát sinh (để cúng tế khi
chết và tiệc tùng lúc sinh), coi việc sát sinh cùng loại với tội vô
gián (chính văn : ... ngoại trừ 5 thứ nghiệp dữ vô gián với nghiệp dữ
sát sinh, còn những nghiệp dữ tương đối nhỏ hơn...).
Phẩm 9: Xưng tụng danh hiệu chư Phật.-
Phẩm này bổ túc chi tiết nghe hay niệm danh hiệu Phật đà. Điều cần
ghi chú, là mục đích bổ túc, cũng như lời kết thúc, tuy có vẻ nhấn mạnh
giành cho sự chết -- sắp chết, chết, sau khi chết; nhưng, những hiệu
năng của mỗi hiệu Phật được nói đến lại không phải chỉ như vậy.
Vậy mới biết, khi sắp chết, cái an ủi người chết, cái để cho người
chết bám víu là danh hiệu của Phật, nhưng danh hiệu ấy cũng là, trước
hết đã là, cái cho người sống bám víu, và từ đó thấy rõ cái phước
được biết Phật và được niệm Phật cần thiết đến mức nào trong đời
sống.
Phẩm 10: Trắc lượng công đức bố
thí.- Phẩm này bổ túc nhân tố thánh thiện, đặc biệt còn chỉ cách biến
nhân tố ấy từ hữu lậu thành vô lậu.
Phẩm 11: Thần đất hộ trì.- Phẩm
này bổ túc chi tiết phụng thờ đức Địa tạng. Cách thức và ích lợi
của sự phụng thờ ấy, phẩm này nói rõ. Trong phần ích lợi, sự đất
đai được màu mỡ (thứ 1) và hay gặp dịp làm phước (thứ 10) đã đáng
chú ý, nhưng đáng chú ý hơn nữa là ở phẩm này người nói về đức Địa
tạng là một vị Địa thần: 2 chữ Địa như vậy không phải ngẫu nhiên
mà trùng hợp.
Phẩm 12: Ích lợi của sự thấy
nghe.- Thấy nghe là thấy hình tượng hay nghe danh hiệu của đức Địa tạng.
Ích lợi của sự thấy nghe như vậy là bổ túc cho sự ích lợi nhân
thiên của đức Địa tạng. Trước khi nói ích lợi ấy, Phật phóng ánh
sáng đặc biệt, và vị phát khởi là chính đức Quan âm: như thế cũng đủ
thấy sự ích lợi ấy bất khả tư nghị đến mức nào. Nên sự ích lợi
nhân thiên chính là sự bất khả tư nghị: siêu việt và khác thường, tư
tưởng và ngôn ngữ bình thường không thể tư duy và mô tả sự ích lợi
ấy, nhất là tư duy mô tả theo cách thức bình thường.
Phẩm 13: Thế tôn ký thác.- Chính văn
là chúc lụy nhân thiên: đem nhân loại và chư thiên, và bao chúng sinh tội
khổ mà chúc lụy. Chúc, hay phó chúc, là giao phó, căn dặn. Lụy là mối lụy,
trách nhiệm nặng nề. Chúc lụy là căn dặn mà giao phó trách nhiệm nặng
nề. Nên tôi đổi ra chữ ký thác cho dễ hiểu. Nội dung phẩm này tổng kết
sự ích lợi bất khả tư nghị của đức Địa tạng, nhưng quan trọng nhất
là một lần nữa Phật lại đem chúng ta và chúng sinh ký thác cho ngài. Sự
ký thác này thật đặc biệt: một là chỉ ký thác cho ngài, hai là chỉ
kinh này có sự ký thác như vậy. Ngay như kinh Pháp hoa, sự ký thác ở đó
cũng không như ở đây.
Địa Tạng Đại
Sĩ
Tài liệu ghi về đại sĩ dưới đây
toàn xuất từ kinh Thập luân. Cách ghi thì phần nhiều lược văn mà không
lược ý, nhưng cũng có chỗ dẫn dụng chính văn. Chỗ nào dẫn kinh điển
khác thì ghi tên rõ ràng.
1. Danh hiệu của đức Địa tạng.-
Theo nghĩa đen, địa là đất, tạng là kho tàng: kho tàng đất, gọi là Địa
tạng. Nếu đọc Địa tàng thì lại có nghĩa sự tàng trữ của đất.
Nhưng nghĩa chính thì nên lấy cách đọc Địa tạng. Đại nhật kinh sớ nói
Điạ tạng bồ tát chủ trì kho báu vô biên công đức phát khởi từ bản
tánh của tâm địa. Định nghĩa này biến thành định nghĩa mà khoa nghi thường
nói "khể thủ bản nhiên tịnh tâm địa, vô tận phật tạng đại từ
tôn". Còn 1 bài tựa của Địa tạng khoa chú (Vạn 35/206A) dẫn lời Phật
nói dũng mãnh là Địa tạng. Lời này không thấy ghi xuất xứ, nhưng rất
đúng với đại thệ nguyện và đại tinh tiến của đức Điạ tạng phân
thân vào trong các đường dữ, nhất là vào trong địa ngục. Còn kinh Thập
luân, khi tả đức tính của ngài về lục độ, có nói nhẫn thì vững như
cõi đất to lớn, định thì sâu như kho tàng bí mật. Lời này thành định
nghĩa của Phật học đại từ điển. Thế nhưng các định nghĩa ấy không
bằng chính văn sau đây. "Vị đại sĩ này, bằng định lực, làm cho tất
cả trái hạt phong phú. Tại sao, vì vị đại sĩ này đã qua vô số kiếp,
nơi vô số Phật, phát cái nguyện cực kỳ tinh tiến và kiên cố; do năng
lực của nguyện ấy, để hóa độ chúng sinh, ngài giữ gìn tất cả đất
đai và mầm giống cho chúng sinh tùy ý hưởng dụng. Chính năng lực của
ngài đã làm cho cả cõi đất to lớn này cỏ cây rau lá sinh trưởng tốt
tươi, thóc lúa hoa quả đầy đủ chất lượng". Lời này cho thấy Địa
tạng là kho đất, là nghĩa đen thật sự. Và việc này rất liên hê đến
sự tồn tại của Phật pháp, liên hệ một cách đặc biệt. "Địa tạng
đại sĩ bạch đức Thế tôn, con nguyện tế độ tất cả bốn chúng đệ
tử của đức Thế tôn. Con làm tăng trưởng hết thảy bạch pháp giải
thoát, tăng trưởng cây trái thực phẩm và dược liệu, tăng trưởng đất
nước gió lửa, nói tóm, con làm cho dòng giống Tam bảo trường tồn, rực
rỡ và uy đức ... Đức Thế tôn nói, Địa tạng đại sĩ làm được như
vậy là vì đại sĩ đã được tuệ giác Bát nhã sâu xa, nắm chắc tính
chất đối kháng và hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình sinh diệt của đất
nước gió lửa".
Tư tưởng hệ Phật giáo về con người
và thế giới con người không phải chỉ có một mặt: có mặt do phước báo
mà có, đó là nhân quả dị thục; có mặt do nhân lực mới thành, đó là
nhân quả sĩ dụng; nhưng còn mặt nữa, đó là thần lực của chư Phật
chư đại bồ tát. Thần lực ấy thấy rõ nhất nơi Địa tạng đại sĩ,
nên trong kinh đã dẫn, đức Thế tôn đề cao như sau, "giả sử có người
đối với vô số đại bồ tát trì niệm và hiến cúng cả trăm kiếp, không
bằng có người trong thì gian một bữa ăn chí tâm qui y, lễ bái, trì niệm
và hiến cúng Địa tạng, vị đại sĩ có đại bi nguyện và đại tinh tiến
quá hơn các vị bồ tát".
Đến đây thì đã thấy khi xưng niệm
ngài, nên thay những chữ thừa mà thiếu là đại bi đại nguyện đại thánh
đại từ bằng những chữ đại bi đại nguyện đại định đại lực, đã
thấy ngài là vị minh dương cứu khổ chứ không phải chỉ là u minh giáo
chủ, đã thấy trì niệm ngài không phải chỉ để cầu siêu. Những điều
này, dưới đây sẽ còn thấy rõ hơn nữa.
Trên đây là định nghĩa chính về
danh hiệu của Địa tạng đại sĩ. Phần tôi, căn cứ tinh thần kinh Địa
tạng, nhất là căn cứ câu "tất cả thân hình của Điạ tạng đại
sĩ phân hóa tại các địa ngục của các thế giới hệ" trong phẩm 2,
tôi lại muốn định nghĩa đơn giản, rằng Địa tạng là tàng hình trong
điạ ngục. Tôi nói muốn định nghĩa như vậy, không nói đó là định
nghĩa. Tuy nhiên, tôi thấy như vậy lại rất thâm thiết đối với hạnh
nguyện của Địa tạng đại sĩ. Sau này có dịp được thấy Thái hư đại
sư đã có ý kiến đó (Thái hư toàn thư tập 29 trang 2468).
2. Hình tượng của đức Địa tạng.-
Địa tạng đại sĩ đến với Phật từ phương nam, bằng hình tướng
Thanh văn, tức hình tướng xuất gia. Hình tướng ấy vừa tiêu biểu vừa
hộ trì cho Tăng bảo và sự giải thoát của toàn bộ Phật pháp. Thị hiện
hình tướng ấy, có nghĩa như Phật nói, "chỉ có chư Phật thế tôn
và bồ tát đại sĩ mới hộ trì được 2 việc: hộ trì người xuất gia
vì muốn tiếp nối dòng giống Tam bảo và hộ trì chánh pháp thuận với sự
giải thoát của cả Tam thừa. Thế quyền không làm được việc ấy; đừng
rình sơ hở mà hại đệ tử và chánh pháp của ta".
Quốc độ này Tăng bảo là người
xuất gia. Muốn làm cho Phật pháp tồn tại thì phải ái hộ người xuất
gia. Ái hộ người xuất gia, trước hết và căn bản, là ái hộ giới
pháp. "Người xuất gia dẫu tàn tệ đến nỗi chỉ là cái thây chết
phá giới, không giới, sẽ đọa ác đạo, nhưng vẫn làm thiện tri thức
cho nhân thiên ở chỗ có thể tuyên thuyết Phật pháp cho họ, lại vì có
hình tướng và uy nghi của người xuất gia nên làm cho mọi người phát
sinh cảm nghĩ quí báu". Do đó, Phật không chấp nhận họ là đệ tử,
nhưng cũng không chấp nhận thế quyền xúc phạm đến họ. Phật chỉ chấp
nhận sự trừng trị theo giới luật của Tăng chúng thanh tịnh.
Ái hộ người xuất gia là, kế đó,
ái hộ sự giải thoát và chánh pháp đem lại sự giải thoát ấy. Chánh
pháp giải thoát là cọng tướng của toàn bộ Phật pháp gồm cả thanh văn
tiểu thừa và vô thượng đại thừa, tuy nhiên, chánh pháp ấy căn bản vẫn
là thanh văn tiểu thừa. "Như vậy những kẻ tự xưng đại thừa,
khinh miệt và cản trở sự truyền bá tiểu thừa, những kẻ không tin, phỉ
báng và cản trở cả tiểu thừa đại thừa, tất cả những kẻ này
không được xuất gia, xuất gia rồi phải đuổi gấp, vì họ mới thật
là kẻ đại tội ác gần với tội ác vô gián". "Đừng vì lợi
và danh mà lừa đảo thế gian, tự xưng đại thừa, phỉ báng tiểu thừa.
Làm như vậy thì họ không còn là đồ chứa đựng chánh pháp, dầu là
chánh pháp tiểu thừa hay chánh pháp đại thừa". Nên đối với những
kẻ phá hoại này Phật nghiêm khắc hơn cả với kẻ phá giới. Ngài đã
biết trước và dạy thi hành sự bất cọng trú đối với họ: "Tăng
chúng thanh tịnh và hòa hợp trục xuất rồi mà họ dùng tiền của, học
thức, khéo miệng và mưu mô, làm cho thế quyền đứng về phía họ, buộc
Tăng chúng thanh tịnh phải để họ ở chung như cũ, thì trong Tăng chúng những
vị tỷ kheo giữ giới và hổ thẹn, hãy vì hộ trì giới pháp mà trình
bày rõ ràng với thế quyền, đừng giận dữ thóa mạ những kẻ phá pháp
ấy. Nếu thấy trình bày mà bị đàn áp, thì nên bỏ chỗ ấy mà đi ở
chỗ khác".
Ái hộ người xuất gia không phải
chỉ ái hộ giới luật thanh tịnh và chánh pháp giải thoát, Địa tạng đại
sĩ còn ái hộ bằng sự làm tăng thêm tư cụ để người xuất gia sống mà
giữ giới, mà tu bạch pháp giải thoát, mà, nói tóm, tiếp nối dòng giống
Tam bảo. Nên như đã thấy, "Địa tạng đại sĩ bạch đức Thế tôn,
con nguyên tế độ tất cả 4 chúng đệ tự của đức Thế tôn. Con làm tăng
trưởng hết thảy bạch pháp giải thoát, tăng trưởng cây trái thực phẩm
và dược liêu, tăng trưởng đất nước gió lửa, nói tóm, con làm cho
dòng giống Tam bảo trường tồn, rực rỡ và uy đức".
Với sự tiêu biểu và hộ trì người
xuất gia như trên đây, hình tướng xuất gia của đức Địa tạng đã
thành vấn đề, và là vấn đề trọng đại, là phải.
3. Đại nguyện của đức Địa tạng.-
Kinh đã dẫn tả đại nguyên này bằng những từ ngữ như sau. "Vị đại
sĩ này có vô số những sự bất khả tư nghị, ích lợi chúng sinh một
cách cần mẫn tinh tiến, là vì đối trước hằng sa chư Phật, để ích lợi
chúng sinh, ngài đã phát khởi thệ nguyện đại từ bi, rất kiên cố, khó
phá hoại, rất dũng mãnh, rất tinh tiến và vô cùng tận; do năng lực
tăng thượng của thệ nguyện ấy mà trong mỗi thì gian bằng một ngày đêm
hay một bữa ăn, ngài cứu độ được vô lượng chúng sinh, làm cho những
sở cầu đúng như chánh pháp của họ đều thỏa mãn cả".
4. Phân thân của đức Địa tạng.-
Kinh đã dẫn nói, "Vị đại sĩ này, bằng vào những sự bất khả tư
nghị đã hoàn thành, vào sự dũng mãnh tinh tiến của thệ nguyện kiến cố,
để cứu độ chúng sinh, khắp trong thế giới hệ mười phương, ngài thị
hiện đủ mọi thân hình". Thân hình mà ngài thị hiện, không những
đủ loài, đủ hạng trong mỗi loài, đủ từ thân Phật đà đến thân địa
ngục, mà quan trọng và đặc biệt, còn "hiện những cảnh đẹp cho
người vui thích". Nhưng câu này phải nói như kinh Địa tạng mới rõ:
thân của Địa tạng đại sĩ là thân không biên cương. Phẩm 2 của kinh
ấy nói về sự phân thân của Phật, điển hình cho sự phân thân của chư
Phật và đại bồ tát, lại nói, "hoặc hiện rừng núi, dòng nước,
đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp cả mọi người,
ai cũng được độ thoát". Chính văn câu này như sau, "hoặc hiện
sơn, lâm, xuyên, nguyên, hà, trì, tuyền, tỉnh, lợi cập ư nhân, tất giai
độ thoát". Trước đây tôi đã chuyển văn một chút mà dịch như
sau, "hoặc hiện núi sông, bình nguyên, ao hồ, suối giếng, ích lợi khắp
cả, toàn là tác dụng hóa độ". Chưa có kinh điển nào nói minh bạch
được như vậy, dẫu rằng trong cách nói cũng có thể làm cho ta hiểu rằng
sự phân thân của chư Phật và đại bồ tát là như thế đó, không phải
chỉ có những thân hình như chúng ta hiểu theo nghĩa của chúng ta.
5. Định lực của đức Địa tạng.-
Kinh đã dẫn nói, tại bất cứ thế giới hệ nào, Địa tạng đại sĩ
cũng nhập các định, hoạt hiện vô biên diệu dụng, hóa độ vô lượng
chúng sinh. Sau khi kể rõ 23 định (2) , nhập định nào có lực dụng gì,
kinh đã dẫn nói, "nói tổng quát, vị đại sĩ này, hằng ngày mỗi buổi
sáng sớm, vì cứu độ chúng sinh nên nhập vô số định. Định lực ấy
tùy sở ưng mà ích lợi chúng sinh trong mọi thế giới hệ", "đặc
biệt là trong giai đoạn ngũ trược và những thế giới hệ không có Phật
xuất hiện".
6. Sở độ của đức Địa tạng.-
Như lời kinh đã dẫn trên đây, đối tượng sở độ của Địa tạng đại
sĩ có 3. Thứ nhất, nói tổng quát là chúng sinh trong hết thảy quốc độ
và thì gian. Thứ hai, nói đặc biệt lại có 3, là chúng sinh ở những quốc
độ không có Phật, ở những quốc độ có Phật nhưng thuộc giai đoạn
ngũ trược (và dẫn đếm tam tai) và thuộc giai đoạn cách hở giữa 2 đức
Phật (mà Phật pháp không còn). Thứ ba, nói thiết cận là châu Diêm phù,
tức loài người chúng ta đây, và theo kinh Địa tạng thì quan trọng là
chúng sinh tội khổ trong các ác đạo, nhất là ác đạo địa ngục, của
châu Diêm phù. Do đó, Phật nói, Địa tạng đại sĩ ứng hiện khắp nơi,
nhưng nghiêng nặng đối với giai đoạn dữ dội (Chiêm sát, Chính 17/902).
Chính đại sĩ thì ngài nói, đã 13 đại kiếp đến nay, ngài nỗ lực cực
nhọc loại trừ ngũ trược và tam tai cho chúng sinh. Còn kinh Địa tạng thì
nói đi lặp lại, rằng đối với châu Diêm phù, ngài có một sự liên hệ
lớn lao.
Vì châu Diêm phù, và giai đoạn
ngũ trược dẫn đến tam tai (3) , là đối tượng sở độ đặc biệt của
Địa tạng đại sĩ, nên ở đây phải nói sơ lược.
Như đã nói, Diêm phù là thế giới
loài người chúng ta đây. Thế giới ấy là 1 trong 1 tỷ thành phần của
thế giới hệ Sa bà. Đại bộ phận thế giới hệ này, cũng như các thế
giới hệ tương tự, có như nhau một quá trình là thành: kết thành, trú:
tồn tại, hoại: hư rã, không: tan biến. Nhưng không rồi lại thành, lại
trú, lại hoại, lại không, luân chuyển như thế chứ không mất hẳn. Mỗi
thời kỳ thành trú hoại không đều có thì gian như nhau, nhưng chỉ thời
kỳ trú mới có chúng sinh sinh sống, chúng sinh mà trong đó loài người là
đại bộ phận. Thời kỳ trú có 20 tăng giảm. Thời kỳ thành rồi thì
có người sinh sống, và sống rất lâu, ấy là tăng; sau đó con người vì
phát sinh ngũ trược mà sự sống giảm dần, giảm đến trung bình không
quá trăm tuổi là ngũ trược tăng thì, và rồi sẽ giảm dần nữa cho đến
dẫn ra tam tai, ấy là giảm. Tam tai là đao binh, tật dịch, cơ cẩn (chiến
tranh, nhiễm độc, nhân mãn). Sau tam tai, con người sống sót rất ít, mới
biết khủng khiếp và thương nhau, loài người lại phồn thịnh, trong đó
có sự sống lâu tăng dần, nhờ sự thương nhau đó, đó lại là tăng. Và
cứ như thế mà tăng rồi giảm, giảm lại tăng. Hiện nay là ngũ trược
tăng thì của thời kỳ giảm thứ 9 trong 20 thời kỳ tăng giảm của thời
kỳ trú. Như vậy thì trước nữa và sau nữa còn có vô tận những giai
đoạn ngũ trược và tam tai. Trong ngũ trược, nhất là trong tam tai, Địa tạng
đại sĩ cứu độ bằng định lực. Nguyên nhân chính của tam tai là sự
tàn hại lẫn nhau, nên từ tâm thương nhau là nguyên nhân chính kết thúc
tam tai. Do đó mà trong tam tai, ai tu từ tâm thì khỏi. Mà một trong vô số
hiệu năng định lực của đức Địa tạng là làm cho con người "bỏ
được tâm lý độc hại mà hướng về nhau bằng từ tâm".
7. Phó cảm của đức Địa tạng.-
Diệu dụng của Địa tạng đại sĩ là như thế, như một ít điều đã
ghi trên đây. Diệu dụng ấy, như vậy, toàn là để thỏa mãn mọi sự sở
cầu, miễn mọi sự sở cầu ấy là "như pháp sở cầu" và xuất
từ "chí tâm xưng niệm", đó là 2 từ ngữ mà kinh Thập luân đã
dẫn luôn luôn nói đến.
Địa Tạng Đại
Sĩ và Kinh Địa Tạng
Bây giờ hãy nói vắn tắt về nội
dung kinh Địa tạng và đức Địa tạng qua kinh này.
Kinh này được gọi là hiếu kinh của
Phật giáo. Hiếu niệm của Phật giáo, chỉ cần nói, theo Bồ tát giới Phạn
võng, cái tội nặng nhất là phải sinh ở những chỗ không được nghe cái
tên Cha mẹ hay Phật pháp tăng, cũng đủ để ý thức. Gọi là hiếu kinh của
Phật giáo, vì kinh này có nội dung sau đây.
Thứ nhất, kể lại hiếu hạnh của
Địa tạng đại sĩ mà đại nguyện của ngài đã xuất phát từ hiếu hạnh
ấy và hoàn thành hiếu hạnh ấy. Đại nguyện của Địa tạng đại sĩ
đại khái có 2 cách nhìn: một, căn bản là "chúng sinh độ tận
phương chứng bồ đề, địa ngục vị không thệ bất thành Phật";
hai, tùy thời, tùy căn và tùy cảnh, còn có những lời thề để thực hiện
đại nguyện căn bản trên đây. Đối tượng của đại nguyện Địa tạng
đại sĩ đương nhiên vô giới hạn, nhưng đặc biệt là chúng sinh tội khổ
trong tam đồ, nhất là trong địa ngục; là người Diêm phù; và như đã
nói, còn có những kẻ ở các thế giới hệ không Phật, hay có Phật mà
thuộc giai đoạn ngũ trược, giai đoạn tam tai, và thời kỳ cách hở giữa
2 đức Phật.
Thứ hai, tóm tắt những ích lợi,
những sự bất khả tư nghị của đại nguyện Địa tạng đại sĩ đem lại
cho chúng sinh. Đại nguyện Địa tạng đại sĩ thể hiện qua danh hiệu, hình
tượng và kinh điển (kinh Địa tạng) của ngài. Nên 3 pháp hạnh trì niệm
danh hiệu, chiêm bái hình tượng và trì tụng kinh điển chính là trì niệm,
chiêm bái và trì tụng đại nguyện của Địa tạng đại sĩ, và những sở
cầu mà trong kinh nói rõ, sẽ được đại nguyện ấy làm cho như ý. Đặc
biệt chữ sinh tử trong kinh này nói, ngoài cái nghĩa tổng quát như bao nhiêu
kinh điển khác, còn có cái nghĩa rõ nhất là lúc sinh lúc chết, khi còn
khi mất. Kinh này dạy rõ thực hành như thế nào về 3 pháp hạnh thì tiếp
nhận được những gì về ích lợi mà đại nguyện Địa tạng đại sĩ
đem lại cho, trong lúc sinh lúc chết và người còn kẻ mất. Do đó, khi cha
mẹ hay thân nhân đau ốm, khi sắp chết, khi chết và sau khi chết, kinh này
kể rõ đại nguyện Địa tạng đại sĩ tác thành hiếu niệm cho những người
con hiếu hạnh như thế nào, và dạy rõ cách thức mà những người con hiếu
hạnh có thể làm được để tiếp nhận sự tác thành ấy. Đó là đối
với lúc chết và người mất. Đối với lúc sinh và người còn, kinh này
càng rất quan tâm, bằng cách răn sự sát sinh, đề cao sự giúp đỡ sản
phụ, bịnh nhân và người già, lại chỉ dạy những sự cần thiết, chỉ
dạy cũng với thái độ nghiêm trọng.
Thứ ba, có một chi tiết quan trọng
là kinh này rất trọng thắng diệu lạc (sự yên vui tuyệt diệu) ở trong
nhân loại và chư thiên. Giải thoát, theo kinh này, là giải thoát ác đạo
(nhất là địa ngục) và giải thoát luân hồi. Con cá sa vào dòng nước có
lưới, thì thoát là thoát lưới và thoát cả dòng nước. Chỉ thoát lưới
là thoát tạm, thoát rồi cũng có thể mắc lại. Phải giải thoát cả lục
đạo luân hồi mới là giải thoát vĩnh viễn, nếu chỉ giải thoát ác đạo
thì thoát rồi cũng có thể đọa lại. Lý lẽ là như vậy, nhưng cấp bách
nhất vẫn là sự giải thoát ác đạo mà sinh lên nhân thiên, hưởng thắng
diệu lạc. Đó là điều kinh này đặc biệt quan tâm. Điều ấy rất phù
hợp với thái độ của Phật nói trước về giới luận và thí luận mỗi
khi thuyết pháp cho người mới đến.
Thứ tư, việc cảm động nhất và
nổi nhất của kinh này là do những điều trên, nhất là do đại nguyện,
mà Địa tạng đại sĩ được Phật đem chúng sinh tội khổ ký thác cho.
Không những như vậy, sự ký thác này, và kinh đại nguyện này của Địa
tạng đại sĩ, được Phật thực hiện và tuyên thuyết khi ngài lên Đao lợi
thuyết pháp cho mẹ, trước ngày nhập niết bàn. Như vậy, chính việc đem
chúng sinh ký thác cho Địa tạng đại sĩ, và việc nói về đại nguyện của
Địa tạng đại sĩ, là việc báo hiếu của Phật, đối với mẹ và đối
với chúng sinh. Quan trọng biết bao! Kinh này phổ cập sâu rộng, chính là
vì điều này đây.
Với nội dung trên đây, trọng tâm
kinh Địa tạng là nói về đại nguyện của Địa tạng đại sĩ, nên Phật
đã mệnh danh là kinh bản nguyện, và dạy thọ trì cùng truyền bá theo đại
nguyện ấy. Mặt khác, kinh này nói giản dị, sự việc cần thiết và gần
gũi lòng người, nhưng hạnh nguyện là hạnh nguyện thượng thừa, và triết
thuyết thì cực kỳ viên đốn khi minh bạch nói rằng cảnh vật cũng là
hóa thân và toàn là tác dụng hóa độ. Cảm kích nhất vẫn là việc kinh
này được Phật nói lúc ngài thuyết pháp cho mẹ để nhập niết bàn, lại
nói về đại nguyện của một vị đại sĩ như đức Địa tạng, và thiết
tha đem chúng ta ký thác cho đại sĩ. Như vậy, qua kinh Địa tạng, đức Địa
tạng mới thật bất khả tư nghị.
Nghi Thức Sám Nguyện
Đơn Giản Trước Khi Trì Tụng Kinh Địa Tạng
1. Phụng thỉnh qui
y
Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức
Phật bổn sư Thích ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai,
cùng Phật, Phật pháp và Tỷ kheo tăng khắp cả pháp giới.
Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức
Phật bổn tôn A di đà như lai, cùng Quan thế âm bồ tát, Đại thế chí bồ
tát, Thanh tịnh đại hải chúng bồ tát ở quốc độ Cực lạc.
Nhất tâm phụng thỉnh và qui y đức
đại bi đại nguyện đại định đại lực Địa tạng bồ tát, cùng Bồ
tát, Duyên giác và Thanh văn khắp cả pháp giới.
2. Tác bạch tâm
nguyện
Đệ tử tên họ XX , pháp danh XX,
nguyện vì cầu siêu cho XX, cầu an cho XX (4) , và cầu nguyện cho bản thân,
cho người thân kẻ thù trong đời này và bao nhiêu kiếp khác, cho hết thảy
Tăng ni Phật tử, cho mọi người và mọi loài, mà chí thành lễ bái và
trì tụng kinh Địa tạng bản nguyện. Ngưỡng nguyện Tam bảo vô thượng
và Địa tạng đại sĩ từ bi chứng minh, nhiếp thọ hộ trì, làm cho người
còn kẻ mất đều được siêu thoát, an lạc.
3. Lễ bái chư Phật
bồ tát
Kính lạy đức Phật bổn sư Thích
ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai, cùng hết thảy chư
Phật như lai trong pháp hội tuyên thuyết kinh Địa tạng và trong thì hiện
tại khắp các quốc độ mười phương.
Kính lạy đức Sư tử phấn tấn cụ
túc vạn hạnh như lai, đức Giác hoa định tự tại vương như lai, đức
Nhất thế trí thành tựu như lai, đức Thanh tịnh liên hoa mục như lai, cùng
hết thảy chư Phật như lai trong thì quá khứ khắp các quốc độ mười
phương.
Kính lạy đức Vô biên thân như
lai, đức Bảo tánh như lai, đức Ba đầu ma thắng như lai, đức Sư tử hống
như lai, đức Bảo thắng như lai, đức Bảo tướng như lai, đức Ca sa tràng
như lai, đức Đại thông sơn vương như lai, đức Tịnh nguyệt như lai, đức
Sơn vương như lai, đức Trí thắng như lai, đức Tịnh danh vương như lai,
đức Trí thành tựu như lai, đức Vô thượng như lai, đức Diệu thanh như
lai, đức Mãn nguyệt như lai, đức Nguyệt diện như lai, cùng chư Phật
như lai nhiều đến số lượng không thể nói hết.
Kính lạy đức Tỳ bà thi như lai,
đức Thi khí như lai, đức Tỳ xá phù như lai, đức Câu lưu tôn như lai,
đức Câu na hàm mâu ni như lai, đức Ca diếp như lai, đức Thích ca mâu ni
như lai, đức Di lạc như lai, cùng hết thảy chư Phật như lai trong ba thì
quá khứ hiện tại và vị lai của quốc độ Sa bà.
Kính lạy đức Vô tướng như lai,
cùng hết thảy chư Phật như lai trong thì vị lai khắp các quốc độ mười
phương.
Kính lạy Văn thù sư lợi bồ tát,
Tài thủ bồ tát, Định tự tại vương bồ tát, Vô tận ý bồ tát, Giải
thoát bồ tát, Phổ hiền bồ tát, Phổ quảng bồ tát, Quan thế âm bồ
tát, Hư không tạng bồ tát, cùng hết thảy bồ tát đại sĩ ở quốc độ
Sa bà và khắp các quốc độ mười phương.
4. Lễ bái Địa tạng
đại sĩ
Kính lạy đức Địa tạng, vị đại
sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, được Phật đem chúng
sinh ký thác.
Kính lạy đức Địa tạng, vị đại
sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, thị hiện hình tướng xuất
gia để tiêu biểu và hộ trì cho người xuất gia tiếp nối dòng giống
Tam bảo, cho giới pháp của người xuất gia, cho chánh pháp giải thoát của
toàn bộ Phật pháp.
Kính lạy đức Địa tạng, vị đại
sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, tế độ bốn chúng đệ tử
của Phật bằng cách làm tăng trưởng bạch pháp giải thoát, tăng trưởng
cây trái thực phẩm và dược phẩm, tăng trưởng đất nước gió lửa, để
dòng giống Tam bảo trường tồn, rực rỡ và uy đức.
Kính lạy đức Địa tạng, vị đại
sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, tế độ chúng sinh bằng
cách giữ gìn cõi đất to lớn, làm cho cây trái thực phẩm và dược phẩm
đầy đủ chất lượng, để chúng sinh tùy ý hưởng dụng.
Kính lạy đức Địa tạng, vị đại
sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, phân hóa thân không biên cương
ra làm đủ loài đủ giống, làm cả cảnh vật, lợi ích khắp cả, ai cũng
được độ thoát.
Kính lạy đức Địa tạng, vị đại
sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, ứng hóa khắp nơi, đặc
biệt ứng hóa trong địa ngục, trong châu Diêm phù, trong những quốc độ
không có Phật xuất hiện, trong những quốc độ có Phật xuất hiện nhưng
thuộc thời kỳ ngũ trược tam tai, thời kỳ cách hở giữa 2 đức Phật mà
Phật pháp không còn.
Kính lạy đức Địa tạng, vị đại
sĩ đại bi đại nguyện đại định đại lực, ích lợi cho cả lúc tạo
tác nguyên nhân và lúc hưởng chịu kết quả, cho cả người còn kẻ mất,
cho cả lúc sinh lúc chết, tác thành hiếu đạo cho những người con hiếu
hạnh.
Kính lạy đức Địa tạng, vị đại
sĩ đại bi nguyện và đại tinh tiến quá hơn các vị bồ tát, phó cảm hết
thảy sở cầu như pháp của tất cả những người chí tâm xưng niệm.
5. Sám nguyện hồi
hướng
- Đệ tử chúng con
- tuy được thân người,
- nhưng lại tách rời
- chánh tín chánh kiến,
- tách rời bạn tốt
- chỗ tốt thời tốt.
- Không biết tùy hỷ
- không tuân giới luật.
- Xúc phạm các vị xuất gia
- trở ngại chánh pháp giải thoát.
- Tự phong đại thừa
- phỉ báng thanh văn.
- Lợi dụng xuất gia
- phá người xuất gia,
- ỷ thế thế quyền
- phá Tăng thanh tịnh,
- phá mọi chánh pháp
- của cả tam thừa.
- Tự gây vô số ác nghiệp
- tự tạo vô lượng khổ báo.
- Ngày nay chúng con
- lòng rất hãi sợ,
- phát lộ sám hối
- dứt sự tiếp tục.
- Chân thành tùy hỷ
- công đức của người,
- nỗ lực bền chí
- tu tập bạch pháp.
- Học đại bi nguyện
- tập đại tinh tiến.
- Tuân giữ giới pháp
- hộ trì Tăng bảo,
- hộ trì chánh pháp
- thuận với giải thoát,
- làm cho dòng giống
- Tam bảo vô thượng
- tồn tại lâu dài
- rực rỡ uy đức.
- Ngưỡng nguyện chư Phật
- đại từ thế tôn,
- ngưỡng mong Địa tạng
- định lực đại sĩ,
- từ bi nhiếp thọ
- hộ trì chúng con.
- Làm cho chúng con
- thường gặp thiện hữu,
- chừa tội phá giới
- bỏ lỗi phá pháp,
- tịnh trừ hắc nghiệp
- siêu thoát u minh,
- hiến cúng Tam bảo
- phục vụ Phật pháp.
- Nguyện cầu người còn kẻ mất
- ước mong người thân kẻ thù
- đồng được siêu thoát
- đồng được an lạc,
- thể hiện từ tâm
- hỷ xả với nhau,
- đời đời kiếp kiếp
- không rời Tam bảo,
- cùng nhau kết thành
- bà con Phật pháp,
- cùng nhau đạt đến
- tuệ giác vô thượng.
Kính lạy đức Phật bổn sư Thích
ca mâu ni như lai, đức Phật đương lai Di lạc như lai, cùng Phật, Phật
pháp, Tỷ kheo tăng khắp cả pháp giới.
Kính lạy đức Phật bổn tôn A di
đà như lai, cùng Quan thế âm bồ tát, Đại thế chí bồ tát, Thanh tịnh
đại hải chúng bồ tát ở quốc độ Cực lạc.
Kính lạy đức đại bi đại nguyện
đại định đại lực Địa tạng bồ tát, cùng Bồ tát, Duyên giác và
Thanh văn khắp cả pháp giới.
http://buddhismtoday.com/viet/kinh/dt/026-diatang-1.htm
Chân thành cảm ơn quý
cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm
chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích
Nhật Từ 29-4-2000
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 |