- Kinh Địa Tạng
- Hòa thượng Thích Trí Quang dịch
giải
Phẩm 1: Thần
Thông Tại Cung Đao Lợi
Tôi nghe như vầy:
Một thời đức Thế tôn (5) ở tại
Đao lợi thiên cung, thuyết pháp cho mẹ. Bấy giờ các đức Phật đà và
các đại bồ tát, nhiều đến hai lần không thể nói hết (6) , ở khắp mười
phương vô lượng thế giới hệ (7) , đều đến tụ tập, tán dương đức
Thế tôn có cái năng lực ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn
đục, vận dụng sức mạnh của tuệ giác và thần thông rộng lớn siêu
việt (8) mà thuần hóa những kẻ ương ngạnh, làm cho họ biết được cái
gì đau khổ, cái gì yên vui. Các đức Phật đà lại phái thị giả vấn
an đức Thế tôn.
Khi ấy đức Thế tôn mỉm cười,
phóng ra ánh sáng ngàn vạn ức sắc thái (9) : ánh sáng đại viên mãn, ánh
sáng đại từ bi, ánh sáng đại trí tuệ, ánh sáng đại bát nhã, ánh
sáng đại tam muội, ánh sáng đại cát tường, ánh sáng đại phước đức,
ánh sáng đại công đức, ánh sáng đại qui y, ánh sáng đại tán thán...
Phóng ra ánh sáng không thể nói hết sắc thái (10) như vậy rồi, đức Thế
tôn lại xuất ra âm thanh đủ mọi sắc thái mầu nhiệm (11) : âm thanh bố
thí ba la mật, âm thanh trì giới ba la mật, âm thanh nhẫn nhục ba la mật,
âm thanh tinh tiến ba la mật, âm thanh thiền định ba la mật, âm thanh bát
nhã ba la mật; âm thanh từ bi, âm thanh hỷ xả, âm thanh giải thoát, âm
thanh vô lậu, âm thanh trí tuệ và đại trí tuệ, âm thanh sư tử hống và
đại sư tử hống, âm thanh vân lôi và đại vân lôi ...
Đức Thế tôn xuất ra âm thanh hai
lần không thể nói hết sắc thái như vậy rồi (12) , quốc độ Sa bà này
và các quốc độ phương hướng khác, có vô số ức thiên long quỉ thần
cũng đến tụ tập tại Đao lợi thiên cung, tức thiên chúng ở các tầng
trời Tứ thiên vương, Đao lợi, Tu diệm ma, Đâu suất đà, Hóa lạc, Tha
hóa tự tại; Phạn chúng, Phạn phụ, Đại phạn; Thiểu quang, Vô lượng
quang, Quang âm; Thiểu tịnh, Vô lượng tịnh, Biến tịnh; Phước sinh, Phước
ái, Quảng quả; Vô tưởng; Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện kiến, Thiên hiện,
Sắc cứu cánh; Đại tự tại; cho đến Phi phi tưởng (13) ; thiên chúng như
vậy cùng với long chúng, quỉ chúng và thần chúng đều đến tụ tập. Các
quốc độ khác và quốc độ này lại có thần biển, thần sông, thần
rào, thần cây, thần núi, thần đất, thần suối, thần lúa, thần ngày,
thần đêm, thần không gian, thần thiên giới, thần ẩm thực, thần thảo
mộc, thần chúng như vậy cũng đến tụ tập. Các quốc độ khác và quốc
độ này còn có các chúa quỉ lớn, như chúa quỉ Mắt dữ, chúa quỉ Ăn
huyết, chúa quỉ Ăn tinh chất, chúa quỉ Ăn thai trứng, chúa quỉ Gây bịnh
tật, chúa quỉ Trừ độc, chúa quỉ Từ tâm, chúa quỉ Phước lợi, chúa
quỉ Rất yêu kính, những chúa quỉ như vậy cũng đến tụ tập.
Vào lúc bấy giờ, đức Thế tôn bảo
đại bồ tát Văn thù, vị thái tử của đức Pháp vương, rằng ông hãy
quan sát, các đức Phật đà và đại bồ tát, cùng thiên long quỉ thần,
ở thế giới này hay thế giới khác, ở quốc độ này hay quốc độ khác,
hiện đến tụ tập tại Đao lợi thiên cung đây, coi biết được hay không
biết được số lượng bao nhiêu? Đại bồ tát Văn thù thưa, bạch đức
Thế tôn, đem năng lực thần trí của con mà tính đến ngàn đời đi nữa,
cũng không thể biết được. Đức Thế tôn dạy, Như lai lấy mắt Phật mà
nhìn, cũng vẫn không cùng tận được số lượng ấy. Vậy mà số lượng
ấy toàn do Địa tạng đại sĩ (14) , từ xa xưa đến bây giờ và sau này,
đã hóa độ đang hóa độ và sẽ hóa độ, đã tác thành đang tác thành
và sẽ tác thành.
Đại bồ tát Văn thù thưa, bạch
đức Thế tôn, từ quá khứ, con đã thực hành thiện pháp lâu lắm, đã
thực hiện tuệ giác vô ngại, nên nghe đức Thế tôn dạy thì con tin tưởng
và tiếp nhận tức khắc. Nhưng tuệ giác còn kém như các vị Thanh văn, nhất
là tám bộ thiên long (15) và những kẻ trong vị lai, thì dẫu được nghe lời
nói thành thực của đức Thế tôn cũng vẫn nghi ngờ, có cung kính mà tiếp
nhận đi nữa, vị tất đã khỏi dị nghị. Do đó, con thỉnh cầu đức Thế
tôn nói một cách rộng rãi, trong nhân địa, Địa tạng đại sĩ đã lập
thệ nguyện gì, đã làm công hạnh nào, mà thành tựu được sự không thể
nghĩ bàn như đức Thế tôn vừa dạy.
Đức Thế tôn dạy, Văn thù, cả
đại thiên quốc độ này có bao nhiêu cỏ, cây, lùm, rừng, lúa, mè, tre,
lau, núi, đá và bụi, mỗi vật giả thiết là một sông Hằng; rồi số
cát trong các sông Hằng ấy, mỗi hạt giả thiết là một thế giới hệ;
số bụi của các thế giới hệ này, mỗi hạt giả thiết là một kiếp;
mỗi kiếp này tích lũy bao nhiêu hạt bụi thì đem cả ra mà giả thiết mỗi
hạt là một kiếp nữa. Vậy mà Địa tạng đại sĩ, từ khi thực hiện
quả vị Đệ thập địa cho đến ngày nay, thì gian còn nhiều hơn cả ngàn
lần số lượng về kiếp đã giả thiết trên đây, huống chi thì gian mà
Địa tạng đại sĩ thực hiện quả vị Thanh văn và quả vị Duyên giác.
Văn thù, thần lực và nguyện lực của vị đại sĩ này không thể nghĩ bàn.
Trong vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe được danh hiệu của vị đại
sĩ này mà xưng tụng, chiêm ngưỡng, lễ bái, trì niệm, hiến cúng, cho đến
vẽ, khắc, đắp, sơn hình tượng của đại sĩ, thì người ấy sẽ được
trăm lần sinh lên tầng trời Đao lợi này, một thì gian lâu dài (16) không
rơi vào đường dữ.
Văn thù, Địa tạng đại sĩ trong
quá khứ lâu xa, trước đây những kiếp nhiều đến hai lần không thể
nói hết, bản thân làm một vị đại trưởng giả. Thời kỳ ấy, thế giới
hệ này có đức Phật xuất hiện, danh hiệu là Sư tử phấn tấn cụ túc
vạn hạnh như lai. Vị đại trưởng giả nhìn thấy tướng hảo của đức
Như lai ấy ngàn phước trang nghiêm, nhân đó bạch hỏi ngài đã thực
hành hạnh nguyện gì mà được tướng hảo như vậy. Đức Sư tử phấn tấn
cụ túc vạn hạnh như lai dạy rằng, muốn thực hiện thân thể như vầy
thì phải trải qua thì gian lâu xa, cứu độ bao kẻ tội khổ. Văn thù,
lúc ấy vị đại trưởng giả nhân lời huấn dụ này mà phát nguyện,
"cùng tận biên cương của thì vị lai, trải qua những kiếp không thể
tính kể đi nữa, con vẫn nguyện vì chúng sinh tội khổ trong sáu đường
(17) mà vận dụng mọi cách phương tiện, làm cho họ giải thoát tất cả,
bấy giờ bản thân con mới bước lên quả vị Phật đà". Vì đối
trước đức Sư tử phấn tấn cụ túc vạn hạnh như lai, Địa tạng đại
sĩ đã lập thệ nguyện lớn lao như vậy, nên ngày nay, dẫu đã trải qua
những kiếp nhiều đến trăm ngàn vạn ức trăm triệu (18) không thể nói
hết, đại sĩ vẫn còn làm bồ tát (19) .
Thêm nữa, trong quá khứ, cách nay
những kiếp vô số (20) không thể nghĩ bàn, bấy giờ thế giới hệ này
có đức Phật xuất hiện, danh hiệu là Giác hoa định tự tại vương như
lai. Đời sống của ngài đến bốn trăm ngàn vạn ức kiếp vô số. Trong
thời kỳ giáo pháp tương tự (21) của ngài, có một nữ nhân thuộc giai cấp
Bà la môn, phước cũ sâu dày, quần chúng khâm phục, đi đứng nằm ngồi
đều được chư thiên hộ vệ.
Nhưng mẹ của nữ nhân lại mê
tín tà thuyết, thường khinh Tam bảo. Nữ nhân như bực thánh ấy giải
thích đủ cách để khuyên mẹ, ý nguyện làm cho mẹ phát sinh kiến thức
chân chính. Mẹ của nữ nhân chưa tin hoàn toàn, thì chẳng bao lâu sinh mạng
đã kết thúc, nghiệp thức (22) sa vào vô gián ngục. Nữ nhân Bà la môn biết
mẹ sinh tiền bài bác nguyên lý nhân quả, thì tính chắc phải tùy theo
nghiệp dữ mà sa vào đường dữ, nên phát mãi nhà cửa, sắm nhiều hoa hương
và phẩm vật hiến cúng, làm việc hiến cúng lớn lao tại chùa tháp thờ
phụng đức Giác hoa định tự tại vương như lai.
Nữ nhân Bà la môn thấy đức Giác
hoa định tự tại vương như lai qua hình tượng của ngài trong một ngôi
chùa tháp, được đắp vẽ thể hiện đủ mọi nét đẹp từ bi và trang
nghiêm. Nữ nhân chiêm bái dung nhan của ngài, lòng thành kính ngưỡng mộ lại
bội phần tăng lên. Nữ nhân tự nghĩ, Phật là bậc đại giác, hoàn
thành cái trí thấu triệt toàn bộ vũ trụ. Nếu ngài còn, mẹ con mất,
con đến hỏi, chắc chắn biết được sa lạc chỗ nào. Nữ nhân khóc khá
lâu, lại thiết tha chiêm ngưỡng đức Giác hoa định tự tại vương như
lai. Thốt nhiên nghe trong không gian có tiếng bảo, nữ nhân đang khóc kia,
con đừng quá bi lụy, ta sẽ chỉ cho con biết chỗ mẹ con sinh đến. Nữ
nhân chắp tay, hướng lên không gian mà thưa, vị nào định giải tỏa lo
buồn cho con đây? Từ khi mất mẹ đến giờ, con thương nhớ ngày đêm,
không có chỗ nào khả dĩ hỏi để biết thế giới mẹ con sinh đến.
Trong không gian lại có tiếng nói, ta là Giác hoa định tự tại vương như
lai đã nhập diệt mà con đang chiêm ngưỡng lễ bái đó. Thấy con nhớ mẹ
quá hơn những kẻ thường tình, nên ta đến chỉ cho con. Nữ nhân Bà la
môn nghe nói như vậy thì cả người đổ xuống, chân tay rã rời, hai bên
đỡ cứu một lát mới tỉnh, lại hướng lên không gian mà tác bạch, xin
Phật thương con, dạy cho con biết liền thế giới mẹ con sinh đến. Con cảm
thấy cơ thể và tâm trí của con sắp phải chết mất. Đức Giác hoa định
tự tại vương như lai dạy nữ nhân, con hiến cúng rồi trở về nhà liền
đi, ngồi ngay thẳng mà trì niệm danh hiệu của ta, thì sẽ biết ngay chỗ
mẹ con sinh đến.
Nữ nhân lạy Phật, về nhà tức
khắc. Vì nhớ thương mẹ, nữ nhân ngồi ngay thẳng, trì niệm danh hiệu của
đức Giác hoa định tự tại vương như lai, suốt một ngày đêm. Bỗng thấy
mình đến nơi một bờ biển, nước biển sôi sục, có nhiều thú dữ
toàn là mình sắt, lướt nhảy trên mặt biển, xua bên này đuổi bên kia.
Thấy trăm ngàn vạn kẻ, nam có nữ có, nổi lên ngập xuống trong biển
ấy, bị các thú dữ tranh nhau mà ăn. Lại thấy quỉ dạ xoa hình thù kỳ
dị, lắm tay lắm mắt, nhiều chân nhiều đầu, nanh chĩa ngoài miệng, và
sắc nhọn như gươm, một mặt xua đuổi tội nhân đến cho thú dữ, mặt
khác chúng tự chụp bắt, túm đầu chân lại. Thảm cảnh vạn trạng,
không đủ can đảm mà nhìn mãi.
Nữ nhân Bà la môn nhờ năng lực của
sự niệm Phật nên không sợ hãi gì cả. Một chúa quỉ tên Vô độc, bước
đến cúi đầu đón tiếp, hỏi, lành thay bồ tát, người cần gì mà đến
đây? Nữ nhân hỏi chúa quỉ, chỗ này là gì? Chúa quỉ thưa, chỗ này là
lớp biển thứ nhất, ở về phía tây dãy núi đại thiết vi. Nữ nhân hỏi,
tôi nghe nói giữa dãy núi ấy có địa ngục ở trong đó, thật chăng? Chúa
quỉ thưa, thật. Nữ nhân hỏi, vì sao mà tôi đến được nơi địa ngục
này? Chúa quỉ thưa, phi thần lực thì nghiệp lực, phi hai lực ấy thì
không thể nào đến được.
Nữ nhân lại hỏi, lớp biển này
vì sao mà nước sôi sục, có nhiều tội nhân và lắm thú dữ? Chúa quỉ
thưa, tội nhân ấy là những kẻ làm ác ở châu Diêm phù (23) mà mới chết.
Trải qua bốn mươi chín ngày, nếu không có ai kế tự để làm công đức
mà cứu vớt cho họ, khi còn sống họ cũng không tạo nhân tố thánh thiện
(24) , thì sẽ y theo nghiệp dữ đã làm mà cảm ra quả khổ địa ngục, quả
khổ mà đương nhiên trước hết phải bơi qua lớp biển này. Phía đông lớp
biển này, cách mười vạn do tuần, có một lớp biển nữa, khổ sở gấp
đôi biển này. Phía đông lớp biển sau này lại còn một lớp biển khác
nữa, khổ sở càng gấp đôi. Do nhân tố độc ác của ba nghiệp thân miệng
ý mà cảm ra, và cùng mang tên biển nghiệp, là ba chỗ này đây. Nữ nhân
lại hỏi chúa quỉ, nhưng địa ngục ở chỗ nào? Chúa quỉ thưa, giữa ba
lớp biển này toàn là địa ngục (25) , số lượng đến hàng trăm hàng
ngàn, và khác biệt với nhau. Khổ sở lớn nhất thì có mười tám. Kế đó
thì có năm trăm, khổ sở vô lượng. Kế đó nữa thì có trăm ngàn, cũng
vô lượng khổ sở.
Nữ nhân lại hỏi, mẹ tôi mới mất,
không biết nghiệp thức phải đến chỗ nào? Chúa quỉ hỏi lại, mẹ người
khi sống quen làm hạnh nghiệp gì? Nữ nhân nói, mẹ tôi tà kiến, phỉ
báng Tam bảo, có lúc hơi tin rồi lại bất kính, chết mới mấy ngày mà
không biết sinh đến chỗ nào? Chúa quỉ hỏi, mẹ người tên họ là gì?
Nữ nhân nói, cha mẹ tôi đều là dòng dõi Bà la môn, cha là Thi la, mẹ là
Duyệt đế lợi. Chúa quỉ chắp tay mà bạch, xin thánh nữ trở về, khỏi
cần lo buồn thương nhớ. Nữ tội nhân Duyệt đế lợi đã sinh chư thiên
cách nay ba ngày, được biết rằng nhờ hiếu nữ làm phước cho mẹ bằng
sự hiến cúng chùa tháp thờ phụng đức Giác hoa định tự tại vương
như lai. Không phải một mình mẹ của thánh nữ được thoát địa ngục,
mà tội nhân vô gián ngục trong ngày ấy cũng được vui vẻ, cùng sinh lên
chư thiên với mẹ người. Nói rồi, chúa quỉ chắp tay thi lễ mà cáo
thoái.
Nữ nhân Bà la môn liền như mộng
tỉnh, ý thức việc này rồi, tức khắc đến trước hình tượng của đức
Giác hoa định tự tại vương như lai thờ trong chùa tháp mà phát nguyện
cao rộng, "nguyện cùng tận thì gian vị lai, có bao kẻ tội khổ, con
xin tìm đủ cách mà làm cho họ giải thoát".
Đức Thế tôn bảo đại bồ tát Văn
thù, chúa quỉ Vô độc lúc ấy là bồ tát Tài thủ ngày nay, còn nữ nhân
Bà la môn thì chính là Địa tạng đại sĩ.
Phẩm 2: Thân
Phân Hóa Qui Tụ Lại
Khi ấy, tất cả thân hình của Địa
tạng đại sĩ phân hóa tại các địa ngục của những thế giới hệ nhiều
đến trăm ngàn vạn ức, không thể nghĩ bàn tính kể, vô số con số vô số,
đều đến tụ tập tại Đao lợi thiên cung. Do thần lực của đức Thế
tôn mà từ các phương xứ của mình, thân hình phân hóa nào cũng dẫn theo
những người đã thoát khỏi đường dữ, và nhiều đến số lượng ngàn
vạn ức trăm triệu, đồng cầm hương hoa đến hiến cúng đức Thế tôn.
Những người đi theo này, nhờ Địa tạng đại sĩ giáo hóa mà đối với
tuệ giác vô thượng (26) đã vĩnh viễn không còn thoái chuyển. Những người
này, từ bao kiếp lâu xa, đã bị trôi cuốn trong đại dương sinh tử, chịu
khổ trong sáu đường một cách liên tục. Ngày nay, nhờ từ bi cao cả và
thệ nguyện sâu xa của Địa tạng đại sĩ mà họ thực hiện được đạo
quả. Khi đến Đao lợi, lòng họ quá mừng, chiêm ngưỡng đức Thế tôn
đến nỗi mắt không rời ngài một thoáng.
Vào lúc ấy, đức Thế tôn đưa cánh
tay vàng xoa trên đỉnh đầu hết thảy thân hình của Địa tạng đại sĩ
đã phân hóa tại các thế giới hệ nhiều đến trăm ngàn vạn ức, không
thể nghĩ bàn tính kể, vô số con số vô số, mà bảo, Địa tạng đại
sĩ, Như lai đã ở trong thời kỳ dữ dội đầy cả năm thứ vẩn đục mà
giáo hóa những kẻ ương ngạnh, làm cho tâm tính của họ thuần hậu, xa bỏ
đường tà, quay về nẻo chánh. Nhưng trong mười phần, có một vài phần
vẫn còn thói dữ. Chính Như lai cũng vẫn phân hóa thân hình ra cả ngàn trăm
ức (27) , vận dụng đủ cách mà hóa độ. Kẻ trình độ cao thì nghe Như
lai dạy là tin tưởng và tiếp nhận tức khắc. Kẻ quả báo tốt thì ân
cần khuyến hóa vẫn được thành tựu. Kẻ ám độn thì giáo hóa thật
lâu mới biết quay về. Còn kẻ nghiệp nặng thì không sinh tâm kính ngưỡng.
Những kẻ như trên đây, khác nhau đến mấy, Như lai cũng phân hóa thân
hình mà cứu độ. Hoặc hiện thân nam tử, hoặc hiện thân nữ nhân. Hoặc
hiện thân thiên chúng và long chúng, hoặc hiện thân quỉ chúng và thần
chúng. Hoặc hiện núi rừng, dòng nước, đồng bằng, sông ngòi, ao hồ, suối
giếng, ích lợi khắp cả mọi người, ai cũng được độ thoát (28) . Hoặc
hiện thân Đế thích, hoặc hiện thân Phạn vương, hoặc hiện thân Luân vương.
Hoặc hiện thân cư sĩ, hoặc hiện thân quốc chúa, hoặc hiện thân tể tướng,
hoặc hiện thân thuộc quan. Hoặc hiện các thân tỷ kheo, tỷ kheo ni, thiện
nam, tín nữ. Cho đến các thân Thanh văn, La hán, Duyên giác, Bồ tát, Như
lai cũng hiện ra để hóa độ. Không phải Như lai hiện ra trước họ chỉ
có thân hình Phật đà mà thôi.
Địa tạng đại sĩ, hãy quan sát
mà coi, Như lai đã bao kiếp, siêng và khổ, hóa độ những kẻ tội khổ,
ương ngạnh và khó dạy. Tựu trung, kẻ nào chưa thuần hậu thì phải tùy
nghiệp dữ mà chịu quả khổ. Trong quả khổ ấy, nếu họ sa vào đường
dữ, lãnh chịu khổ sở khốc liệt, thì đại sĩ hãy nhớ hôm nay, tại
Đao lợi thiên cung, Như lai đem người Sa bà trong quãng từ nay đến ngày
Di lạc từ tôn xuất thế, thiết tha ký thác cho đại sĩ, mà làm cho họ
được thoát thống khổ, được gặp Phật đà, được tiếp nhận sự thọ
ký của các ngài (29) .
Khi ấy, bao nhiêu thân hình của Địa
tạng đại sĩ phân hóa tại các thế giới hệ đều hợp lại một bản
thân, cảm kích rơi lệ mà thưa với đức Phật của mình (30) , rằng bạch
đức Thế tôn, bao kiếp đến nay, con nhờ đức Thế tôn dìu dắt mà được
thần lực siêu việt và tuệ giác vĩ đại. Thân hình phân hóa của con khắp
các thế giới hệ nhiều đến như cát của trăm ngàn vạn ức sông Hằng,
mỗi thế giới hệ con lại phân hóa trăm ngàn vạn ức thân hình, mỗi
thân hình con hóa độ trăm ngàn vạn ức người, làm cho họ qui kính Tam bảo,
rời sinh tử, đến niết bàn. Hễ biết làm lành theo lời huấn thị của
đức Thế tôn, thì điều lành ấy bằng một sợi lông, một giọt nước,
một hạt cát, một mảy bụi, hay chỉ bằng một chút lông tóc đi nữa,
con cũng hóa độ cho họ dần dần được ích lợi lớn lao. Kính xin đức
Thế tôn đừng vì những kẻ tội ác trong tương lai mà lo nghĩ. Ba lần
như vậy, Địa tạng đại sĩ tác bạch, kính xin đức Thế tôn đừng vì
những kẻ tội ác trong tương lai mà lo nghĩ.
Đức Thế Tôn xưng tụng Địa tạng
đại sĩ, lành thay, Như lai tán trợ cho sự đáng mừng của đại sĩ. Đại
sĩ có năng lực hoàn thành cái thệ nguyện vĩ đại mà đại sĩ đã phát
ra từ bao kiếp lâu xa, sắp hoàn tất sự hóa độ rộng lớn và thực hiện
tuệ giác vô thượng.
Phẩm 3: Quán
Sát Nghiệp Quả Chúng Sinh
Bấy giờ thân mẫu của đức Thế
tôn là hoàng hậu Ma da, chắp tay một cách cung kính mà hỏi đức Địa tạng,
bạch đại sĩ, người Diêm phù gây nghiệp dữ và chịu quả khổ như thế
nào? Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, ngàn vạn thế giới hệ
nơi có địa ngục nơi không, nơi có nữ nhân nơi không, nơi có Phật pháp
nơi không, Thanh văn Duyên giác cũng vậy, nơi có nơi không, không phải chỉ
có mỗi một việc nghiệp quả địa ngục. Ma da hoàng hậu lại thưa, bạch
đại sĩ, nhưng tôi xin nghe trước về nghiệp dữ, và đường dữ do nghiệp
dữ ấy cảm ra, của người Diêm phù. Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa
Phật mẫu, xin ngài nghe và tiếp nhận, tôi sẽ nói đại lược về điều
ấy. Phật mẫu thưa, xin đại sĩ nói cho.
Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa
Phật mẫu, tại châu Diêm phù phía nam này, nghiệp dữ gây quả khổ có những
danh xưng như thế này. Kẻ nào bất hiếu đến nỗi sát hại cha mẹ thì
sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong
thoát khỏi. Kẻ nào làm chảy máu thân Phật, phỉ báng Tam bảo, khinh thường
kinh pháp, cũng sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát
mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào xâm phạm của tăng chúng thường trú, làm
bẩn tăng ni, ngay trong chốn già lam mà mặc ý làm sự không phải phạn hạnh
hay sự sát hại sinh mạng, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn
ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào giả làm sa môn mà tâm
hạnh không phải sa môn, lạm dụng của tăng chúng thường trú, lừa đảo
thế nhân, vi phạm giới luật, tạo các nghiệp dữ, thì sa vào vô gián ngục,
một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào trộm
cắp tài vật, thóc gạo, đồ ăn, đồ uống và đồ mặc của tăng chúng
thường trú, cho đến một vật không cho mà lấy, thì sa vào vô gián ngục,
một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi (31) . Địa
tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, những kẻ làm những nghiệp dữ
trên đây thì phải sa vào vô gián ngục, nơi có năm sự không xen cách (32)
, mong mỏi khổ sở tạm ngừng một lát cũng không thể có được.
Ma da hoàng hậu lại hỏi, bạch đại
sĩ, vô gián ngục là gì? Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa Phật mẫu, địa
ngục phần nhiều ở giữa dãy núi đại thiết vi. Loại lớn thì có mười
tám sở. Loại kế đó thì có năm trăm, tên gọi khác nhau. Loại kế đó nữa
thì có trăm ngàn, tên gọi cũng khác. Vô gián ngục là, thành các địa ngục
chu vi hơn tám vạn dặm, làm toàn bằng sắt; thành ấy cao một vạn dặm,
trên thành lửa dồn lại, ít có chỗ trống; trong thành, ngục sở liền
nhau nhưng tên gọi khác nhau, tựu trung có một ngục sở tên vô gián ngục.
Ngục sở ấy chu vi một vạn tám ngàn dặm. Tường ngục cao một ngàn dặm,
toàn làm bằng sắt; lửa trên suốt dưới, lửa dưới thấu trên; rắn sắt
và chó sắt phun lửa mà đuổi tội nhân, lại bò và chạy qua lại trên tường
ngục. Trong ngục có cái giường rộng đầy vạn dặm; một người thọ hình
tự thấy thân mình nằm khắp mặt giường, mà ngàn vạn người cùng lúc
thọ hình thì ai cũng tự thấy thân mình nằm khắp mặt giường. Do nghiệp
dữ của những người ấy mà cảm ra quả khổ như vậy.
Tội nhân vô gián ngục phải chịu
đủ thứ cực hình. Trăm ngàn dạ xoa và quỉ dữ nanh như gươm, mắt như
điện, móng như đồng, móc kéo tội nhân. Dạ xoa khác, cầm kích sắt lớn
mà đâm tội nhân, vào mình, vào miệng, vào mũi, vào bụng, vào lưng, rồi
dồi lên trên không mà giơ kích đỡ lấy, hoặc xóc để trên giường.
Chim ưng bằng sắt ăn mắt tội nhân. Rắn sắt quấn cổ tội nhân mà xiết.
Cả trăm đốt và khớp của cơ thể đều bị đóng đinh dài. Lưỡi bị lôi
ra mà cày, ruột bị rút ra mà chặt, miệng bị rót nước đồng sôi, mình
bị quấn giây sắt nóng. Chết đi sống lại cả ngàn vạn lần trong mỗi
một ngày đêm: nghiệp dữ cảm ra như vậy. Vậy mà phải trải qua cái kiếp
có cả ức năm, cầu thoát nhưng khó mong thoát khỏi. Hễ thế giới hệ
này hư rã thì chuyển qua thế giới hệ khác, thế giới hệ khác hư rã
thì chuyển qua thế giới hệ khác nữa, thế giới hệ khác nữa hư rã
thì chuyển qua thế giới hệ khác khác nữa. Sau khi thế giới hệ này kết
thành thì lại bị chuyển về. Quả khổ vô gián ngục là như vậy.
Vì năm sự sau đây, do nghiệp dữ
cảm ra, nên mệnh danh vô gián. Một là cực hình chịu suốt ngày đêm cho
đến hết số lượng một kiếp, không lúc nào gián đoạn, nên mệnh danh
vô gián. Hai là một tội nhân cũng tự thấy mình đầy cả ngục, mà nhiều
tội nhân thì ai cũng tự thấy mình đầy cả ngục, nên mệnh danh vô
gián. Ba là hình cụ như chỉa ba, gậy, chim ưng, rắn, sói, chó, cối giã,
cối xay bằng đá, cưa, đục, đồ chặt, đồ phát, vạc nấu, nước sôi,
lưới sắt, giây sắt, lừa sắt, ngựa sắt, da sống để quấn đầu, sắt
sôi để dội thân, viên sắt nóng để bắt nuốt khi van đói, nước sắt
sôi để bắt uống khi kêu khát, từ năm này qua năm khác, trọn hết số lượng
một kiếp vài trăm triệu năm, cực hình liên hợp mà lại liên tục,
không có gián đoạn, nên mệnh danh vô gián. Bốn là bất kể nam nữ, mọi
rợ văn minh (33) , già trẻ, sang hèn, rồng thần, trời quỉ, hễ tạo nghiệp
dữ thì cảm quả khổ và đồng chịu như nhau, nên mệnh danh vô gián. Năm
là sa vào vô gián ngục thì từ khi mới vào cho đến hết số lượng một
kiếp, mỗi một ngày đêm chết đi sống lại đến cả vạn lần, cầu lấy
một lát tạm ngừng cũng không thể có được, trừ phi nghiệp dữ hết rồi
mới được chết hẳn mà sinh làm loài khác: sống chết liền liền như vậy
nên mệnh danh vô gián.
Địa tạng đại sĩ nói, kính thưa
Phật mẫu, vô gián ngục nói đại lược là như vậy. Nếu nói rõ ràng về
tên hình cụ và sự khổ sở trong đó, thì suốt một kiếp muốn nói cho hết
vẫn không hết được. Ma da hoàng hậu nghe rồi, buồn và lo, chắp tay đảnh
lễ mà lui về chỗ của mình.
Phẩm 4:
Nghiệp Quả Của Người Diêm Phù
Địa tạng đại sĩ khi ấy thưa rằng,
bạch đức Thế tôn, con nhờ thần lực của đức Thế tôn mà khắp trong
trăm ngàn vạn ức thế giới hệ, con phân hóa thân hình cứu vớt những kẻ
đang chịu quả khổ của nghiệp dữ. Phi thần lực từ bi vĩ đại của đức
Thế tôn, con không thể có sự phân thân đó. Nay con lại được đức Thế
tôn đem sáu đường chúng sinh, trong quãng từ nay đến ngày Di lạc từ
tôn xuất thế, ký thác cho con, dạy con cứu độ cho họ giải thoát. Dạ,
bạch đức Thế tôn, con xin vâng lời. Xin đức Thế tôn đừng lo nghĩ. Đức
Thế tôn dạy, Địa tạng đại sĩ, kẻ chưa giải thoát thì thức tánh bất
định: làm dữ thì kết thành khổ quả, làm lành thì cảm ra phước báo,
và làm dữ làm lành gì cũng tùy hoàn cảnh chi phối; rồi luân chuyển năm
đường liên miên bất tận, trải qua những kiếp nhiều như cát bụi mà vẫn
còn mê mờ, lầm lẫn, vẫn bị chướng ngại, tai nạn. Y như cá lội trong
lưới, cuốn theo dòng nước chảy mãi: đã sẩy vào trong dòng nước có lưới
rồi thì dẫu có lúc tạm thoát ra khỏi lưới đi nữa, cũng sẽ mắc lại
lưới ấy mà thôi (34) . Nên vì họ mà Như lai lo nghĩ. Nay đại sĩ đã muốn
hoàn thành lời nguyện căn bản và lời thề trọng đại trong nhiều kiếp
đã qua, hóa độ những kẻ tội khổ một cách sâu rộng, thì Như lai còn
lo nghĩ gì nữa.
Khi lời ấy được đức Thế tôn
nói ra thì trong pháp hội có một vị đại bồ tát danh hiệu Định tự tại
vương, thưa với ngài, bạch đức Thế tôn, Địa tạng đại sĩ từ bao kiếp
đến nay, kiếp nào đã phát nguyện gì mà ngày nay được đức Thế tôn
ân cần xưng tụng, con thỉnh cầu đức Thế tôn tóm tắt mà dạy cho
chúng con. Đức Thế tôn dạy đại bồ tát Định tự tại vương, hãy nghe
cho kyլ hãy khéo nghĩ và nhớ, Như lai sẽ nói cho các người.
Trong quá khứ, cách nay bằng những
kiếp nhiều đến vô lượng vô số trăm triệu không thể nói hết, lúc
ấy có đức Phật danh hiệu Nhất thế trí thành tựu như lai, ứng cúng,
chánh biến tri, minh hạnh túc, thiện thệ, thế gian giải, vô thượng sĩ,
điều ngự trượng phu, thiên nhân sư, phật: thế tôn. Ngài sống đến sáu
vạn kiếp. Khi chưa xuất gia, ngài làm một tiểu quốc vương, kết bạn với
một tiểu quốc vương lân bang, cùng nhau thực thi mười nghiệp lành, lợi
ích dân chúng. Nhưng dân chúng lân bang đa số làm ác. Hai vị quốc vương
mới bàn tính phương cách thích hợp. Một vị nguyện thành Phật sớm để
hóa độ cho hết dân chúng ấy. Một vị nguyện nếu không hóa độ trước
những kẻ tội khổ, làm cho họ được yên vui và được toàn giác, thì bản
thân chưa muốn thành Phật. Định tự tại vương, vị quốc vương nguyện
thành Phật sớm là Nhất thế trí thành tựu như lai, còn vị quốc vương
nguyện hóa độ lâu dài những kẻ tội khổ mà chưa muốn thành Phật là
Địa tạng đại sĩ.
Lại nữa, trong quá khứ, cách nay
vô lượng vô số kiếp, có đức Phật xuất hiện thế gian, danh hiệu của
ngài là Thanh tịnh liên hoa mục như lai. Ngài sống đến bốn chục kiếp.
Trong thời kỳ giáo pháp tương tự của ngài, có một vị La hán đem phước
đức mà hóa độ cho người. Nhân tuần tự hóa độ, vị La hán ấy gặp
một nữ nhân tên Quang mục, thiết trai hiến cúng. Vị La hán hỏi muốn cầu
nguyện điều gì, Quang mục thưa, gặp ngày mẹ con mất, con muốn nhờ phước
hiến cúng tôn giả để cứu vớt cho mẹ con; không biết mẹ con hiện nay
sinh đến chỗ nào? Vị La hán thương mà nhập định quan sát, thấy mẹ
Quang mục đọa vào đường dữ, chịu khổ khốc liệt. Ngài hỏi Quang mục,
mẹ con lúc sống làm nghiệp dữ nào mà nay phải chịu khổ lớn ở trong
đường dữ? Quang mục thưa, thói quen của mẹ con chỉ thích ăn cá và ba
ba. Thích ăn nhất là cá và ba ba con. Bằng cách hoặc chiên hoặc nấu, mẹ
con tha hồ mà ăn. Số lượng sinh mạng của chúng, tính ra, chết đến ngàn
vạn mà còn hơn nữa. Xin tôn giả thương mà dạy cho con biết làm cách
nào để cứu mẹ. Vị La hán từ bi chỉ dạy cách thức, khuyên Quang mục
hãy chí thành trì niệm danh hiệu của đức Thanh tịnh liên hoa mục như
lai, lại đắp vẽ hình tượng của ngài mà thờ phụng, thì người còn kẻ
mất đều được phước báo.
Quang mục nghe vậy, tức khắc hy
sinh những gì mình luyến tiếc, nhờ vẽ liền tượng Phật mà tôn thờ.
Cùng cực tôn kính, Quang mục khóc mà chiêm ngưỡng và lạy. Ngay phần sau
của đêm ấy, Quang mục mộng thấy thân Phật ánh vàng rực rỡ, đồ sộ
như núi Tu di, phóng ánh sáng lớn mà bảo Quang mục, mẹ con không bao lâu nữa
sẽ sinh trong nhà con, hễ biết đói lạnh là biết nói. Sau đó, nữ tỳ
trong nhà Quang mục sinh một đứa bé, chưa đầy ba ngày mà đã biết nói.
Cúi đầu, tủi khóc, đứa bé bảo Quang mục, trong phạm vi sinh tử, hễ tự
làm nghiệp dữ thì tự chịu quả khổ. Ta là mẹ con đây, lâu nay phải
ở trong chỗ đen tối. Từ khi biệt ly với con, ta sa mãi vào trong địa ngục
lớn. Nhờ phước con làm mới được sinh làm người, nhưng làm người hèn
hạ mà chết yểu, năm mười ba tuổi sẽ lại bị sa vào đường dữ. Con
có cách gì cứu mẹ cho khỏi? Quang mục nghe nói, biết đích mẹ mình, nghẹn
ngào khóc mà hỏi, nếu là mẫu thân thì phải biết tội mình đã làm nghiệp
dữ nào mà phải sa vào đường dữ ? Đứa bé nói, sát sinh và mắng nhiếc,
vì hai nghiệp dữ ấy mà phải chịu quả khổ. Phi cái phước con làm để
cứu nạn cho mẹ, thì vì hai nghiệp dữ ấy lẽ đáng mẹ chưa được giải
thoát. Quang mục hỏi, quả khổ địa ngục như thế nào? Đứa bé nói, quả
khổ ấy nói ra thật bất nhẫn. Mà có nói đi nữa, trăm ngàn năm cũng không
cùng.
Quang mục nghe như vậy, hướng lên
không gian, khóc mà tác bạch, con cầu nguyện cho mẹ con thoát hẳn địa ngục,
hết mười ba tuổi thì không còn nghiệp dữ để sa vào đường dữ. Phật
đà mười phương xin thương tưởng con, chứng minh cho con vì mẹ mà phát
thệ nguyện rộng lớn: Nếu mẹ con được thoát hẳn ba nẻo đường dữ
và thân người hèn hạ, cho đến cái thân nữ nhân cũng vĩnh viễn không
làm nữa, thì trước hình ảnh đức Thanh tịnh liên hoa mục như lai, con
nguyện từ nay sắp đi, cho đến trăm ngàn vạn ức kiếp sau này, bao nhiêu
những kẻ tội khổ ở trong địa ngục ngạ quỉ súc sinh của các thế giới
hệ, con thề cứu vớt cho họ thoát khỏi những chỗ ấy; những kẻ tội
khổ thành Phật cả rồi con mới thành. Phát thệ nguyện rộng lớn như vậy
rồi, Quang mục nghe rõ tiếng nói của đức Thanh tịnh liên hoa mục như
lai, bảo, Quang mục, lòng từ bi của con thật lớn lao, khi con biết vì mẹ
mà phát nguyện vĩ đại. Ta thấy mẹ con hết mười ba tuổi, bỏ quả báo
này rồi, sẽ sinh làm một phạn chí, sống lâu trăm năm. Hết quả báo ấy
thì vãng sinh Vô ưu quốc độ, sống lâu với những kiếp không thể tính
kể. Về sau thành Phật thì hóa độ sâu rộng, trong đó có nhân loại và
chư thiên, và số người được hóa độ nhiều như cát sông Hằng.
Đức Thế tôn dạy đại bồ tát
Định tự tại vương, vị La hán đem phước đức hóa độ Quang mục lúc
ấy là bồ tát Vô tận ý ngày nay. Mẹ của Quang mục nay là bồ tát Giải
thoát. Còn Quang mục thì chính là Địa tạng đại sĩ; trong những kiếp lâu
xa của quá khứ, đại sĩ đã từ bi như vậy, phát ra thệ nguyện nhiều
như cát sông Hằng, hóa độ chúng sinh một cách sâu rộng. Sau này, bất cứ
nam tử hay nữ nhân, có kẻ không làm lành, có kẻ làm dữ, có kẻ phủ nhận
nguyên lý nhân quả, có kẻ tà dâm vọng ngữ, có kẻ lưỡng thiệt ác khẩu,
có kẻ phỉ báng đại thừa, những kẻ nghiệp dữ như vậy tất sa đường
dữ. Nhưng nếu gặp bạn tốt khuyến khích qui y Địa tạng đại sĩ thì dẫu
chỉ bằng thì gian đàn chỉ (35) một cái, những kẻ ấy cũng thoát được
quả khổ trong ba đường dữ. Nếu ai hết lòng tôn kính, qui y, chiêm ngưỡng,
lễ bái, xưng tụng, hay phụng hiến hoa hương, y phục (36) , bảo vật, ẩm
thực, thì trong vị lai, trăm ngàn vạn ức kiếp thường ở trên chư thiên,
hưởng thụ sự yên vui tuyệt diệu. Phước báo chư thiên hết rồi, sinh
xuống nhân gian, cũng vẫn còn trăm ngàn kiếp thường làm quốc chúa, nhớ
được nhân quả gốc ngọn về đời trước của mình.
Định tự tại vương, Địa tạng
đại sĩ có cái thần lực lớn lao, và bất khả tư nghị, ích lợi sâu rộng
cho mọi người như vậy. Bồ tát các người hãy nhớ kinh này và truyền
bá rộng rãi. Đại bồ tát Định tự tại vương thưa, bạch đức Thế tôn,
xin đức Thế tôn đừng lo nghĩ. Chúng con, ngàn vạn bồ tát đại sĩ, chắc
chắn có năng lực vâng theo uy thần của đức Thế tôn mà truyền bá kinh
này một cách rộng rãi tại châu Diêm phù, lợi ích chúng sinh. Thưa đức
Thế tôn như vậy rồi, đại bồ tát Định tự tại vương chắp tay cung kính
đảnh lễ mà lui về chỗ của mình.
Lúc ấy bốn vị Thiên vương ở bốn
phương hướng cùng đứng dậy khỏi chỗ họ ngồi, chắp tay cung kính mà
thưa, bạch đức Thế tôn, từ những kiếp lâu xa, Địa tạng đại sĩ đã
phát đại nguyện như trên, vì lý do nào mà ngày nay sự hóa độ của đại
sĩ vẫn chưa hết, đại sĩ vẫn còn lặp lại đại nguyện ấy, chúng con
thỉnh cầu đức Thế tôn dạy cho chúng con rõ. Đức Thế tôn bảo bốn vị
Thiên vương, lành thay, Như lai nay vì lợi ích sâu rộng cho các ông, cho hết
thảy chư thiên, nhân loại và các loài khác, trong hiện tại và vị lai,
nói về những phương tiện mà Địa tạng đại sĩ ở trong các nẻo đường
sinh tử của châu Diêm phù, thuộc thế giới hệ Sa bà này, thương mà cứu
những kẻ tội khổ. Bốn vị Thiên vương thưa, bạch đức Thế tôn,
chúng con nguyện muốn được nghe.
Đức Thế tôn dạy bốn vị Thiên
vương, từ những kiếp lâu xa cho đến ngày nay, Địa tạng đại sĩ hóa
độ chúng sinh mà vẫn chưa hoàn tất đại nguyện, là vì một mặt thương
những kẻ tội khổ trong thì hiện tại, mặt khác nhìn đến vô số kiếp
thuộc thì vị lai, những kẻ tội khổ vẫn dây dưa không ngừng, nên đại
sĩ vẫn phải lặp lại thệ nguyện trọng đại.
Vị đại sĩ như vậy, ở tại châu
Diêm phù của thế giới hệ Sa bà, đã vận dụng trăm ngàn vạn ức phương
tiện mà giáo hóa. Bốn vị Thiên vương, Địa tạng đại sĩ gặp người
sát sinh thì nói về quả khổ chết yểu vì tội cũ, gặp người trộm cắp
thì nói về quả khổ nghèo nàn và khốn khó, gặp người tà dâm thì nói
về quả khổ làm bồ câu uyên ương (37) ; gặp người ác khẩu thì nói về
quả khổ bà con đánh cãi nhau, gặp người chê bai thì nói về quả khổ
không lưỡi hoặc lở miệng; gặp người giận dữ thì nói về quả khổ
xấu xí lại tàn tật, gặp người keo lẫn thì nói về quả khổ sở cầu
hay trái ý; gặp người ăn uống vô độ thì nói về quả khổ đói khát
và bịnh cổ, gặp người săn bắn tha hồ thì nói về quả khổ kinh hãi
điên cuồng mà mất mạng, gặp người phản nghịch cha mẹ thì nói về quả
khổ trời đất giết chết bằng tai nạn, gặp người thiêu đốt núi rừng
thì nói về quả khổ cuồng sảng mà tự lấy cái chết, gặp cha ghẻ mẹ
ghẻ ác độc thì nói về quả khổ trở lại gây ra roi vọt và phải chịu
lấy ngay trong đời này, gặp người lưới bắt chim non thì nói về quả
khổ cốt nhục phân ly; gặp người phỉ báng Tam bảo thì nói về quả khổ
mù điếc câm ngọng, gặp người khinh ngạo giáo pháp thì nói về quả khổ
ở lâu trong các đường dữ, gặp người phá tán lạm dụng của tăng chúng
thường trú thì nói về quả khổ nhiều đời luân hồi địa ngục, gặp
người làm bẩn phạn hạnh vu khống tăng ni thì nói về quả khổ ở lâu
trong loài súc sinh; gặp người sát hại sinh vật bằng nước sôi, bằng lửa,
bằng sự chém chặt, thì nói về quả khổ luân hồi đền mạng lẫn nhau,
gặp người phá giới phạm trai thì nói về quả khổ cầm thú đói khát,
gặp người tiêu dùng phi lý thì nói về quả khổ nhu cầu thiếu thốn, gặp
người ta tao cao ngạo thì nói về quả khổ tôi tớ hèn hạ, gặp người
đâm thọc gây rối thì nói về quả khổ không lưỡi hay nhiều lưỡi; gặp
người kiến thức sai lầm thì nói về quả khổ sinh chỗ không có Phật
pháp (38) .
Đại loại như vậy, người Diêm
phù từ thân miệng ý tạo ra nghiệp dữ và kết thành quả khổ có đến
hàng trăm hàng ngàn sắc thái, nay Như lai chỉ nói sơ lược. Đối với
nghiệp dữ và quả khổ khác nhau như vậy của người Diêm phù, Địa tạng
đại sĩ vận dụng hàng trăm hàng ngàn phương tiện mà giáo hóa cho họ.
Vì lẽ những người ấy, sau khi chịu những quả khổ như Địa tạng đại
sĩ đã nói (39) , họ còn sa vào địa ngục, trải qua đời kiếp khó có hy
vọng thoát khỏi. Nên các ông hộ vệ dân chúng và hộ vệ đất nước thì
đừng để nghiệp dữ mê hoặc mọi người.
Bốn vị Thiên vương nghe đức Thế
tôn dạy, buồn và khóc, chắp tay lạy ngài mà lui về chỗ của mình.
Phẩm 5:
Danh Xưng Địa Ngục
Khi ấy đại bồ tát Phổ hiền bạch
đức Địa tạng, thưa đại sĩ, tôi thỉnh cầu ngài nói cho tám bộ, cho bốn
chúng (40) , cho cả mọi người trong hiện tại vị lai, về tên gọi và cực
hình của địa ngục, nơi chịu quả khổ của những kẻ tội ác ở thế
giới hệ Sa bà, trong đó có châu Diêm phù, để bao kẻ sau này, trong thời
kỳ giáo pháp cuối cùng, biết rõ quả khổ ấy. Địa tạng đại sĩ nói,
thưa nhân giả, tôi sẽ dựa vào uy thần của đức Thế tôn và của nhân
giả mà nói đại lược về tên gọi và cực hình của địa ngục.
Thưa nhân giả, phía đông Diêm phù
có dãy núi tên thiết vi. Giữa dãy núi ấy đen tối thăm thẳm, không có
ánh sáng của mặt trời mặt trăng, có địa ngục lớn nhất tên cực vô
gián, có địa ngục tên đại a tỳ, có địa ngục tên bốn góc, có địa
ngục tên dao bay, có địa ngục tên tên lửa, có địa ngục tên núi ép,
có địa ngục tên phóng giáo, có địa ngục tên xe sắt, có địa ngục tên
giường sắt, có địa ngục tên bò sắt, có địa ngục tên áo sắt, có
địa ngục tên ngàn mũi nhọn, có địa ngục tên lừa sắt, có địa ngục
tên nước đồng sôi, có địa ngục tên ôm cột đồng, có địa ngục tên
lửa tuôn, có địa ngục tên cày lưỡi, có địa ngục tên chặt đầu, có
địa ngục tên đốt chân, có địa ngục tên ăn mắt, có địa ngục tên
viên sắt, có địa ngục tên cãi cọ, có địa ngục tên rìu sắt, có địa
ngục tên giận nhiều ... Địa tạng đại sĩ nói với đại bồ tát Phổ
hiền, thưa nhân giả, trong dãy núi thiết vi có những địa ngục như vậy,
số lượng vô số. Lại còn có địa ngục kêu la, địa ngục rút lưỡi,
địa ngục phẫn giải, địa ngục xích đồng, địa ngục voi lửa, địa
ngục chó lửa, địa ngục ngựa lửa, địa ngục bò lửa, địa ngục núi
lửa, địa ngục đá lửa, địa ngục giường lửa, địa ngục cầu lửa,
địa ngục chim ưng lửa, địa ngục cưa răng, địa ngục lột da, địa ngục
uống huyết, địa ngục đốt tay, địa ngục đốt chân, địa ngục đâm
ngược, địa ngục nhà lửa, địa ngục nhà sắt, địa ngục sói lửa ...
Những địa ngục như vậy mỗi thứ còn có những địa ngục nhỏ phụ
thuộc, hoặc một hoặc hai, hoặc ba hoặc bốn, cho đến hàng trăm hàng
ngàn, và tên gọi khác nhau.
Địa tạng đại sĩ nói với đại
bồ tát Phổ hiền, thưa nhân giả, tất cả địa ngục ấy được cảm ra
bởi nghiệp lực của những kẻ làm ác ở châu Diêm phù. Nghiệp lực cực
lớn: cao như núi cao, sâu như biển cả, hại cả thánh đạo. Vì vậy, mọi
người đừng khinh thường lỗi nhỏ, cho là không hại gì. Bởi lẽ chết
rồi, quả báo đủ cả, mảy may cũng phải chịu lấy. Chí thân như tình
cha con đi nữa, cũng đường ai nấy đi. Túng sử gặp nhau, cũng không được
chịu thay cho nhau (41) . Tôi nay dựa vào uy thần của đức Thế tôn, sắp kể
ra đây một cách sơ lược cảnh tượng cực hình của trong địa ngục. Ước
mong nhân giả nghe qua lời ấy. Đại bồ tát Phổ hiền nói, chính vì tôi
biết từ lâu (42) về quả khổ ba đường dữ, nên mong muốn đại sĩ nói
để làm cho sau này, trong thời kỳ giáo pháp cuối cùng, những kẻ làm ác
nghe lời đại sĩ mà biết quay về với Phật.
Địa tạng đại sĩ nói, thưa nhân
giả, cực hình địa ngục như thế này. Có chỗ kéo lưỡi tội nhân cho
bò cày. Có chỗ moi tim tội nhân cho dạ xoa ăn. Có chỗ đun vạc sôi cuồn
cuộn mà nấu thân tội nhân. Có chỗ nung đỏ cột đồng mà bắt tội
nhân ôm lấy. Có chỗ phun lửa táp vào tội nhân. Có chỗ toàn là băng lạnh.
Có chỗ tràn đầy phẫn giải. Có chỗ phóng toàn viên sắt có cạnh sắc
gai nhọn (43) . Có chỗ đâm toàn giáo lửa. Có chỗ chỉ đánh lưng bụng.
Có chỗ chỉ đốt tay chân. Có chỗ rắn sắt quấn xiết. Có chỗ xua chó
sắt cắn. Có chỗ toàn là bắt cỡi lừa sắt ... Thưa nhân giả, cực
hình như vậy trong các địa ngục được có bởi hàng trăm hàng ngàn hình
cụ toàn là đồng, sắt, đá và lửa. Cả bốn thứ này đều do nghiệp dữ
chung của mọi người cảm ra. Nếu kể cho rõ về cực hình địa ngục, thì
trong mỗi chỗ đã có cả trăm cả ngàn cảnh tượng thảm khốc, huống
chi nhiều chỗ. Tôi nay dựa vào uy thần của đức Thế tôn và của nhân
giả mà nói sơ lược như trên. Nói và giải thích cho rõ thì trọn đời
cũng không hết được.
Phẩm 6: Thế
Tôn Tuyên Dương
Vào lúc bấy giờ, toàn thân đức
Thế tôn phóng ra ánh sáng vĩ đại, chiếu khắp cõi Phật tương đương số
cát của trăm ngàn vạn ức sông Hằng, rồi xuất ra âm thanh vĩ đại, tuyên
cáo hết thảy bồ tát đại sĩ cùng thiên long quỉ thần (44) trong các cõi
Phật ấy, rằng các người hãy nghe, hôm nay Như lai sẽ xưng tụng tán dương
việc Địa tạng đại sĩ khắp trong thế giới hệ mười phương, vận dụng
sức mạnh của uy thần và từ bi vô cùng vĩ đại, siêu việt, cứu vớt hộ
trì hết thảy những kẻ tội khổ. Sau khi Như lai nhập niết bàn, các người,
bồ tát đại sĩ và thiên long quỉ thần, hãy làm mọi cách mà kính giữ
kinh này, để cho ai nấy đều thực hiện được cái vui niết bàn.
Khi lời ấy của đức Thế tôn
được nói ra thì trong pháp hội có một vị đại bồ tát danh hiệu Phổ
quảng, chắp tay cung kính mà thưa, bạch đức Thế tôn, hôm nay con thấy đức
Thế tôn xưng tụng Địa tạng đại sĩ có uy thần và từ bi rất vĩ đại
và siêu việt, nên con thỉnh cầu đức Thế tôn vì những người trong thời
kỳ giáo pháp cuối cùng mà nói về việc Địa tạng đại sĩ đem lại
ích lợi trong nhân loại và chư thiên (45) , lúc tạo tác nguyên nhân cũng
như lúc hưởng chịu kết quả, để tám bộ thiên long cùng những kẻ
trong tương lai biết tôn kính tiếp nhận huấn dụ của đức Thế tôn. Đức
Thế tôn dạy đại bồ tát Phổ quảng, và cả bốn chúng, hãy nghe cho kyլ
Như lại sẽ nói cho các người một cách sơ lược về việc Địa tạng
đại sĩ lợi ích bằng cách tạo ra phước đức trong nhân loại và chư
thiên. Đại bồ tát Phổ quảng thưa, bạch đức Thế tôn, chúng con xin
tuân lời ngài, nguyện muốn được nghe.
Đức Thế tôn dạy đại bồ tát
Phổ quảng, trong thì vị lai, thiện nam hay thiện nữ nào nghe danh hiệu của
Địa tạng đại sĩ mà chắp tay, xưng tụng, lễ bái hay ngưỡng mộ, thì
người ấy siêu thoát cái tội đáng lẽ phải chịu khổ trong ba mươi kiếp.
Phổ quảng, thiện nam hay thiện nữ
nào vẽ hình tượng của Điạ tạng đại sĩ, hay làm hình tượng đại
sĩ bằng đất đá, keo sơn, bạc vàng, đồng sắt, thì dầu một chiêm ngưỡng
hay một lễ bái, kẻ đó vẫn được trăm lần sinh lên Đao lợi, trong một
thì gian lâu dài không sa vào đường dữ. Giả sử phước báo chư thiên hết
rồi, sinh xuống nhân gian, cũng vẫn còn làm quốc chúa, không mất lợi
ích lớn lao.
Phổ quảng, nữ nhân nào chán thân
nữ nhân, chí thành hiến cúng Địa tạng đại sĩ qua tượng vẽ, tượng
làm bằng đất đá, keo sơn, đồng sắt, với cách ngày nào cũng tinh tiến
hiến cúng hương hoa, ẩm thực, y phục, gấm lụa (46) , tràng phan, bảo vật,
thì nữ nhân ấy, hết cái thân quả báo nữ nhân này rồi, trăm ngàn vạn
kiếp không còn sinh vào thế giới có nữ nhân, huống chi phải làm lại
thân ấy. Ngoại trừ trường hợp vì thệ nguyện từ bi, phải làm thân nữ
nhân để hóa độ kẻ khác, thì thiện nữ ấy, nhờ sức thần của đức
Địa tạng mà mình hiến cúng và nhờ sức mạnh của công đức hiến cúng
đức Địa tạng, nên trăm ngàn vạn kiếp không còn làm thân nữ nhân nữa.
Phổ quảng, nữ nhân nào chán ngán
cái thân xấu xí bịnh hoạn, thì hãy đối trước hình tượng Điạ tạng
đại sĩ mà chí tâm chiêm ngưỡng, lễ bái. Làm như vậy dẫu thì gian chỉ
bằng bữa ăn, nữ nhân ấy cũng ngàn vạn đời được cái thân tướng mạo
toàn hảo, không mọi bịnh hoạn (47) . Nếu nữ nhân xấu xí ấy không
chán thân nữ nhân, thì trong trăm ngàn vạn ức đời thường làm vương nữ,
vương phi, con gái tể tướng, quí tộc, đại trưởng giả, sinh ra là đoan
trang, tướng mạo tuyệt hảo. Vì lòng chí thành nên chiêm bái Địa tạng
đại sĩ được phước như vậy.
Phổ quảng, thiện nam hay thiện nữ
nào đối trước hình tượng Địa tạng đại sĩ mà diễn tấu nhạc khí
(48) , ca vịnh, tán dương, hương hoa hiến cúng, lại khuyến cáo một người
cho đến nhiều người cùng làm như vậy, thì những người ấy, trong hiện
tại cũng như trong tương lai, luôn luôn được hàng trăm hàng ngàn quỉ thần
ngày đêm hộ vệ, không để cho việc dữ lọt vào tai họ, huống chi để
họ bị mọi sự ngang trái.
Phổ quảng, trong thì gian vị lai, nếu
có người ác, quỉ ác và thần ác, thấy thiện nam hay thiện nữ nào biết
qui y, tôn kính, hiến cúng, xưng tụng, chiêm ngưỡng hay lễ bái hình tượng
Địa tạng đại sĩ mà mỉa mai, phỉ báng rằng vô phước và vô ích, hoặc
nhe răng ra mà cười, hoặc công kích sau lưng trước mặt, hoặc lôi cuốn
một người hay nhiều người chung nhau phỉ báng, thì sự phỉ báng này dầu
chỉ một lát mà thôi, kẻ phỉ báng ấy, ngàn vị Phật đà của Hiền kiếp
nhập diệt cả rồi, quả khổ của sự phỉ báng làm cho họ vẫn còn ở
trong vô gián ngục, chịu hình phạt rất nặng. Hiền kiếp qua rồi mới
được làm ngạ quỉ, ngàn kiếp sau đó mới được làm súc sinh, ngàn kiếp
sau đó nữa mới được làm người. Dẫu được làm người, nhưng làm người
nghèo nàn hèn hạ, giác quan không đủ, phần nhiều bị nghiệp dữ trở lại
kết nơi tâm lý, nên không bao lâu lại sa vào đường dữ. Phổ quảng, phỉ
báng sự hiến cúng Điạ tạng đại sĩ của người khác mà còn bị quả
khổ như vậy, huống chi chính mình phỉ báng Địa tạng đại sĩ bằng kiến
thức ác hại.
Phổ quảng, trong thì gian vị lai,
nam tử hay nữ nhân đau ốm liệt giường mòn gối, cầu sống không được,
muốn chết không xong. Ban đêm mộng thấy quỉ dữ, thấy bà con, thấy đi
vào đường hiểm, thấy lắm sự kinh hãi (49) , thấy đi với quỉ thần. Rồi
ngày tháng dần dà chuyển thành lao bại, trong giấc ngủ kêu la thảm thiết.
Như vậy toàn là đang bị luận định về nghiệp dữ, nặng nhẹ chưa quyết,
nên chết đã khó mà lành càng khó hơn. Mắt phàm nam nữ làm sao rõ được
việc ấy. Vậy thân nhân nên đối trước tượng Phật đà hay tượng Bồ
tát, cao tiếng mà tụng cho bịnh nhân một biến kinh này. Lại nên đem tài
sản mà bịnh nhân vốn luyến tiếc, như y phục, đồ quí, ruộng vườn,
nhà cửa, đối trước bịnh nhân, cao tiếng nói rõ mình tên họ như vậy,
xin vì bịnh nhân mà đối trước kinh Phật và tượng Phật đem tài sản của
bịnh nhân hiến cúng kinh tượng, hoặc tạo tượng Phật đà hay tượng Bồ
tát, hoặc làm chùa tháp, hoặc cúng vào qụ hương đèn, hoặc hiến cúng tăng
chúng thường trú. Hãy nói ba lần như vậy cho bịnh nhân nghe và biết. Giả
sử bịnh nhân ý thức đã tản, đến nỗi hơi thở đã hết, cũng vẫn một
ngày cho đến bảy ngày, cao tiếng mà nói và cao tiếng tụng kinh. Như vậy
thì bịnh nhân ấy, sau khi chết, nghiệp dữ đã làm dẫu nặng đến như
năm tội sa vào vô gián ngục đi nữa (50) , cũng vẫn thoát khỏi lâu dài,
sinh ra ở đâu cũng tự biết đời trước của mình. Ấy là bịnh nhân
được làm cho mà hiệu quả đến như vậy, huống chi chính thiện nam hay
thiện nữ nào tự sao chép kinh Địa tạng hoặc khuyên người sao chép, tự
đắp vẽ tượng Địa tạng hay khuyên người đắp vẽ, thì kết quả nhận
được thật đại lợi ích. Vì lý do ấy, Phổ quang, hễ thấy ai đọc hay
tụng kinh Địa tạng, cho đến chỉ chốc lát xưng tụng hay tôn kính kinh
này mà thôi, các người cũng phải vận dụng trăm ngàn phương tiện, khuyến
khích cho họ nỗ lực mà đừng có thoái chí, thì quyết chắc trong hiện tại
cũng như trong tương lai, họ thực hiện được ngàn vạn ức công đức bất
khả tư nghị.
Phổ quảng, trong thì gian vị lai,
những kẻ chiêm bao hay ngủ say, thấy các quỉ thần với bao nhiêu biến dạng
buồn có, khóc có, rầu có, than có, sợ có, hãi có. Ấy toàn là cha mẹ
con cái, anh em chị em, hay vợ chồng bà con, trong quá khứ một đời mười
đời hay trăm đời ngàn đời, hiện ở trong đường dữ mà chưa được
thoát khỏi, không biết hy vọng vào đâu làm phước cứu vớt, nên họ
báo mộng cho những kẻ xương thịt trong quá khứ, trông mong làm phước để
cứu họ thoát khỏi đường dữ. Phổ quảng, các người hãy vận dụng thần
lực làm cho những kẻ xương thịt ấy biết đối trước tượng Phật đà
hay tượng Bồ tát, chí tâm tự tụng kinh này hay cung thỉnh người khác tụng
cho, số lượng phải ba biến hay bảy biến. Như vậy, những kẻ bà con
còn ở trong đường dữ kia, hễ tiếng tụng kinh đủ biến chấm dứt, thì
họ cũng được siêu thoát, mộng mị cũng không bao giờ còn thấy họ nữa.
Phổ quảng, trong thì gian vị lai,
những kẻ thấp thỏi, như những người làm tôi tớ cho đến những người
không còn tự chủ, ý thức nghiệp cũ mà muốn sám hối, thì hãy chí
thành chiêm bái hình tượng Địa tạng đại sĩ, và ít nhất cũng trong một
tuần bảy ngày, trì niệm danh hiệu của đại sĩ cho được vạn biến, thì
những người ấy hết quả báo này rồi, trong ngàn vạn đời sau thường
sinh chỗ tôn quí, lại không còn trải qua quả khổ ở trong ba đường dữ.
Phổ quảng, trong thì gian vị lai, tại
châu Diêm phù này, sát đế lợi hay bà la môn, trưởng giả hay cư sĩ, mọi
người thuộc giai cấp và sắc tộc khác nhau, có con mới sinh thì bất cứ
nam hay nữ, trong một tuần bảy ngày, hãy sớm đọc tụng cho chúng bản
kinh không thể nghĩ bàn này, lại trì niệm cho chúng danh hiêu của Địa tạng
đại sĩ đủ số vạn biến. Như vậy, những trẻ sơ sinh ấy, bất cứ
nam hay nữ, nếu đời trước có nghiệp dữ để sẽ chịu quả khổ thì cũng
tiêu tan được cả, yên vui, dễ nuôi, tăng thêm tuổi thọ; nếu sinh ra bởi
phước đức, thì hạnh phúc và tuổi thọ lại càng thêm lên.
Phổ quảng, trong thì gian vị lai, mỗi
tháng các ngày mồng một, mồng tám, mười bốn, rằm, mười tám, hâm ba,
hâm bốn, hâm tám, hâm chín hay ba mươi, là những ngày kê cứu tội ác để
phán định nặng nhẹ. Mà người Diêm phù thì cử động (51) hay suy tư toàn
là nghiệp, toàn là tội, huống chi lại còn mặc ý sát sinh trộm cướp tà
dâm vọng ngữ, nghiệp dữ cả trăm cả ngàn. Trong những ngày thập trai
trên đây, nếu kẻ nào biết đối trước tượng Phật đà, tượng Bồ tát
hay tượng Hiền thánh mà tụng một biến kinh này, thì khu vức người ấy
cư trú, đông tây nam bắc chu vi một trăm do tuần, không có mọi sự tai nạn,
và nhà ở của người ấy thì bất cứ lớn nhỏ, từ hiện tại đến vị
lai, trong cả trăm cả ngàn năm thoát khỏi đường dữ một cách lâu dài.
Mỗi ngày thập trai biết tụng kinh này một biến, việc ấy, ngay trong đời
này, đã làm cho cả nhà không có tai họa, bịnh tật, ăn mặc sung túc.
Đại loại như vậy, Phổ quảng, các
người nên biết Địa tạng đại sĩ, xuất từ thần lực vĩ đại, có những
sự ích lợi cho người đạt đến số lượng trăm ngàn vạn ức, không thể
nói hết. Đối với Địa tạng đại sĩ, người Diêm phù có sự liên hệ
lớn lao. Người ở đây nghe danh hiệu hay thấy hình tượng của đại sĩ,
cho đến nghe kinh này dầu chỉ được ba chữ hay năm chữ, một bài chỉnh
cú hay một câu đủ nghĩa (52) , hiện tại cũng đạt được sự yên vui
tuyệt diệu, mà vị lai thì trăm ngàn vạn đời luôn luôn sinh ra trong nhà
tôn quí, tướng mạo và tánh tình đều hoàn hảo.
Lúc ấy đại bồ tát Phổ quảng
nghe đức đại giác Thế tôn tán dương và xưng tụng Địa tạng đại sĩ
rồi, quì xuống, chắp tay mà thưa thêm nữa, rằng bạch đức Thế tôn, từ
lâu rồi con đã biết vị đại sĩ này có thần lực siêu việt và nguyện
lực vĩ đại như đức Thế tôn đã dạy. Nhưng con muốn làm cho bao kẻ
sau này biết được những sự ích lợi xuất từ thần lực và nguyện lực
ấy, nên đã thỉnh vấn đức Thế tôn. Con xin cung kính tiếp nhận những
lời đức Thế tôn huấn dụ.
Bạch đức Thế tôn, kinh này ngài
mệnh danh là gì, và dạy chúng con truyền bá như thế nào? Đức Thế tôn
dạy đại bồ tát Phổ quảng, kinh này có ba danh hiệu: có thể mệnh danh
là Bản nguyện của Địa tạng đại sĩ, cũng có thể mệnh danh là Bản hạnh
của Địa tạng đại sĩ, lại có thể mệnh danh là Năng lực hạnh nguyện
của Địa tạng đại sĩ. Cả ba danh hiệu ấy đều căn cứ vào thệ nguyện
trọng đại và ích lợi chúng sinh của Địa tạng đại sĩ đã phát ra từ
bao kiếp lâu xa. Vì lý do ấy, các người hãy thể theo đại nguyện như vậy
mà truyền bá kinh này.
Đại bồ tát Phổ quảng nghe đức
Thế tôn huấn dụ, chắp tay cung kính, làm lễ mà lui về chỗ của mình.
Phần | 1 | 2 | 3 | 4 |