Hai Thời
Công Phu
HT. Thích Trí Quang dịch giải
- 6
- Lược Giải Hồng Danh
Lược giải Hồng danh với 3 mục:
mục 1 nói về sự sám hối, mục 2 lược giải chính văn, mục 3 trích lục
lại 10 hạnh nguyện Phổ hiền.
Nói Về Sự Sám Hối
Mục này có 4 đoạn: đoạn 1: căn
bản của sự sám hối, đoạn 2: sự sám hối với sự lạy Phật, đoạn
3: cách lạy Hồng danh, đoạn 4: sự đặc thù của Hồng danh.
Đoạn 1: Căn Bản
Của Sự Sám Hối
Có 2 nhân vật tội ác mà nổi tiếng
trong thời Phật, đó là A xà thế vương và Ương quật ma la. A xà thế vương
là kẻ giết cha, phạm tội thuộc loại ngũ nghịch. Nhưng "trong Phật
pháp, ai biết sám hối thì tự ích lợi". Nên ông "tổn giảm được
tội ác, trọng tội đã được bạt nhổ lên". Và "nếu không giết
cha thì ngay trên chỗ ngồi ông đã được sơ quả" (Chính 1/109). Còn
Ương quật ma la thì giết người lấy ngón tay xâu lại làm vòng mà mang.
Nhưng khi nghe Phật nói ngài đứng lại là đối với chúng sinh ngài không
dùng khí giới, thì đốn ngộ, quăng dao xuống, sám hối, xuất gia, thành
La hán liền, và tự giác "trước làm ác, sau sám hối, thì soi chiếu
thế gian như mây tan trăng hiện" (Chính 2/280 và 719).
Chuyện 2 nhân vật này, nói ra đây
là thuật lại văn ý Phật giáo nguyên thỉ, chưa nói theo đại thừa có chủ
thuyết tội tánh bản không. Nhưng do đó cũng đủ thấy các vị thuyết
pháp nói về tội và tội báo mà làm cho người cảm thấy mình không còn
mong gì hết tội, thì lối thuyết pháp ấy cũng như thuyết về vô ngã mà
như nói về duy vật. Phật pháp nói về tội và tội báo là với chủ ý
đem lại cho người tội lỗi niềm tin tưởng có thể hủy diệt tội lỗi
ấy. Và đó là căn bản của sự sám hối.
Đoạn 2: Sự Sám Hối
Với Sự Lạy Phật
Nhưng sám hối mà hiểu rằng chỉ
lạy Phật và phát lộ thì không chính xác. Nội dung của sự sám hối có
5 môn. Pháp số 5 môn này có 2: sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỷ, hồi hướng
và phát nguyện là của Thiên thai, qui mạng, sám hối, tùy hỷ, khuyến thỉnh
và hồi hướng là của Chân ngôn. Pháp số sau là căn cứ hạnh nguyện Phổ
hiền mà qui nạp lập ra.
Nay sám Hồng danh có 7 môn: tán dương,
qui y, phát tâm, lễ bái, phát lộ, hướng nguyện và hồi hướng. Nội dung
này môn nào cũng quan trọng. Riêng môn lễ bái thì trong mức độ sơ khởi
dẫn dắt, Tăng nhất a hàm nói có 5 hiệu quả: tướng tốt, tiếng hay, nhiều
của, sinh nhà trưởng giả, sinh ở chư thiên (Chính 2/674).
Đoạn 3: Cách Lạy
Hồng Danh
Lời dẫn nhập đã nói sám Hồng
danh không phải chỉ quì mà tụng. Mà phải lạy, và lạy hằng ngày, trong
công phu tối. Châm chước chăng là có thể phân ra, ngày này lạy 53 đức
Phật, ngày sau lạy 35 đức Phật, nhưng trước và sau 53 và 35 đức Phật
thì ngày nào cũng phải tụng và lạy đầy đủ.
Bây giờ xét lại cách chia 108 lạy
trong Hồng danh. Thực sự sám Hồng danh không có ý chia đủ hay chia theo 108
lạy. Còn số 108 cũng không phải ở đâu và làm gì đều phải theo cho đúng.
Đúng được thì cũng tốt, không thì cũng không hại gì. Tuy nhiên, đã
nói đúng được cũng tốt thì lạy Hồng danh theo cách 108 lạy như thế nào?
Nhị khóa hợp giải chỉ dẫn như sau:
- tán dương 1 lạy
- qui y 3 ''
- phát tâm 1 ''
- lạy Tam bảo 3 ''
- 10 hiệu 1 ''
- lạy Phật 53 ''
- 35 ''
- phát lộ 1 ''
- hướng nguyện 1 ''
- 8 nguyện 8 ''
- 16 câu chót 1 ''
Chỉ dẫn này không thể làm theo.
Vì 4 phần sau không thể vừa tụng vừa lạy. Nên tôi đề nghị như vầy:
- qui y 4 lạy
- phát tâm 1 ''
- lạy Tam bảo 3 ''
- 11 hiệu 11 "
- 53 đức Phật 53 ''
- 35 đức Phật 35 ''
- đức Bổn tôn 1 ''
Đoạn 4: Sự Đặc
Thù Của Hồng Danh
Hồng danh được biên tập bởi
ngài Bất động, thuộc Chân ngôn tông. Tìm xét nội dung thì thấy lấy 53
đức Phật ở trong kinh Quán nhị bồ tát (Chính 20/660-666); lấy 35 đức Phật
và văn từ phát lộ hướng nguyện ở trong kinh Đại bảo tích (hội Ưu ba
ly, Chính 11/515-516); lại trích phẩm Phổ hiền mà đưa 10 nguyện thêm vào
phần hướng nguyện; sau hết, tự soạn 16 câu làm hồi hướng. Tựu trung,
qui y Kim cang thượng sư là bổn tôn của người biên tập, lạy đức Di đà
là bổn tôn của người tu tịnh độ Cực lạc, và niệm hiệu Phổ hiền
là vị nguyện vương, toàn là những biểu thị đặc thù. Riêng 35 đức Phật,
và văn từ phát lộ hướng nguyện, được biết đã là mỗi ngày đêm 6
buổi lễ bái của hành giả đại thừa ở Thiên trúc (Chính 12/42-43). Nhìn
vào nội dung trên đây, trừ sự trích 10 hạnh nguyện, tất cả đều sáng
sủa, hoàn chỉnh mà giản lược.
Tôi nói trừ sự trích 10 hạnh nguyện,vì
sự ấy tôi sẽ thảo luận đến trong mục 3.
Lược Giải Chính Văn
Toàn văn sám Hồng danh có 4 đoạn:
đoạn 1: mở đầu, đoạn 2: lạy Phật, đoạn 3: sám hối, đoạn 4: hồi
hướng. Bốn đoạn này bao gồm 7 môn đã nói trong đoạn 2 của mục 1 ở
trên.
Đoạn 1: Mở Đầu
Đoạn này có 4 thứ: thứ 1: tán dương
chư Phật, thứ 2: qui y cả tánh và tướng Tam bảo, thứ 3: phát bồ đề tâm,
thứ 4: đảnh lễ Tam bảo.
Thứ 1: Tán Dương
Chư Phật
- Đại từ đại bi
- thương xót chúng sinh,
- đại hỷ đại xả
- cứu vớt hàm thức,
- ánh sáng tướng tốt
- dùng tự trang nghiêm,
- đệ tử chí tâm
- qui mạng đảnh lễ.
Đại từ là cho vui, đại bi là cứu
khổ, đại hỷ là mừng cho chúng sinh hết khổ được vui, đại xả là bỏ
hết ý niệm thân thù; 4 đức này chỉ là pháp số đầu tiên trong nhiều
pháp số nói về đức tính của Phật. Tướng tốt là 32 tướng quí và 80
vẻ đẹp. Ánh sáng và tướng tốt ở đây chỉ là hóa thân của Phật.
Qui mạng là đem tánh mạng của mình qui về nơi Phật. Đảnh lễ: đem đỉnh
đầu của mình mà lạy ngang chân của Phật.
Thứ 2: Qui y Cả
Tánh Và Tướng Tam Bảo
- Nam mô qui y Kim cang thượng sư (1 lạy),
- Qui y Phật (1 lạy),
- Qui y Pháp (1 lạy),
- Qui y Tăng (1 lạy).
Kim cang thượng sư, bài tụng cát tường
của văn Thí thực gọi là Thượng sư, là biểu thị cho pháp thân của Phật;
pháp thân ấy là tổng thể của vô tận Phật Pháp Tăng, nên gọi là Tam bảo
bản thể. Qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng là Tam bảo biểu tượng, nhưng
xác và rõ thì phải nói qui y đức Bổn sư, qui y giáo pháp của ngài và
qui y tỷ kheo tăng của ngài. Qui y Tam bảo như vậy, bất cứ trường hợp
nào cũng vẫn là căn bản trọng đại. Có qui y mới là Phật tử. Không
qui y mà có giữ giới thì chỉ là người tốt, và quả báo tốt mấy cũng
không gặp hay khó gặp được Phật pháp tăng.
Thứ 3: Phát Bồ Đề
Tâm
- Nay con phát tâm
- không vì bản thân
- mà cầu phước báo
- chư thiên nhân loại,
- hay cầu tuệ giác
- duyên giác thanh văn,
- tuệ giác bồ tát
- thuộc về quyền thừa
- con cũng không cầu;
- con chỉ y theo
- đại thừa tối thượng
- phát bồ đề tâm:
- nguyện cùng pháp giới chúng sinh
- đồng được tuệ giác vô thượng (1 lạy).
Quyền thừa: giáo lý Phật phương
tiện thiết lập. Đại thừa tối thượng: giáo lý Phật tuyên thuyết cứu
cánh. Tuệ giác vô thượng, chính văn là A nậu đa la tam miệu tam bồ đề,
dịch nghĩa là Vô thượng chánh đẳng chánh giác (Vô thượng chánh biến
giác), gọi tắt cả dịch âm và dịch nghĩa là vô thượng bồ đề: tuệ
giác vô thượng. Tuệ giác ấy là của Phật. Tuệ giác ấy biết đúng, biết
khắp và biết cùng tột (không có gì và có ai hơn nữa), nên gọi như vậy.
Phát bồ đề tâm: ở đây có nghĩa là phát khởi tâm chí mong cầu cho
mình và chúng sinh cùng được tuệ giác của Phật.
Thứ 4: Đảnh Lễ
Tam Bảo
- Kính lạy Chư phật mười phương cùng tận không
gian (1 lạy).
- Kính lạy Tôn pháp mười phương cùng tận không
gian (1 lạy).
- Kính lạy Hiền thánh tăng mười phương cùng tận
không gian (1 lạy).
Hiền thánh tăng: chư tăng cả bậc
hiền và bậc thánh. Đại thừa tiểu thừa đều có hiền thánh. Cả 2 đều
lấy địa vị kiến đạo của mình làm mức, dưới đó là hiền, từ đó
sắp lên là thánh.
Đoạn 2: Lạy Phật
Đoạn này cũng có 4 thứ: thứ 1: lạy
10 hiệu chư Phật, thứ 2: lạy 53 đức Phật, thứ 3: lạy 35 đức Phật,
thứ 4: lạy đức Phật bổn tôn.
Thứ 1: Lạy 10 Hiệu
Chư Phật
Kính lạy các đức Như lai, cúng,
Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ,
Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật: Thế tôn(11 hiệu có thể lạy
chung 1 lạy, cũng có thể và rất nên lạy mỗi hiệu 1 lạy; mỗi hiệu 1 lạy
thì phải đọc: Kính lạy các đức Như lai, kính lạy các đức cúng,
kính lạy các đức Chánh biến tri, kính lạy các đức Minh hạnh túc, kính
lạy các đức Thiện thệ, kính lạy các đức Thế gian giải, kính lạy
các đức Vô thượng sĩ, kính lạy các đức Điều ngự trượng phu, kính
lạy các đức Thiên nhân sư, kính lạy các đức Phật đà : kính lạy các
đức Thế tôn).
Mười hiệu, nhưng thật sự là 11.
Có vài ba cách giải thích. Cách giải thích xét ra đúng nhất là trong 11 hiệu,
10 hiệu đầu là riêng, 1 hiệu cuối là chung: vì là đấng có 10 đức tính
và thành quả mà biểu thị bằng 10 hiệu nên gọi là đấng Thế tôn. Những
cách giải thích khác có cách cho Phật thế tôn là 1 hiệu. Cách này không
đúng. Phật thế tôn nếu 1 hiệu thì phải viết Buddha-lokanatha, mà Thế
tôn ở đây là Bhagavan.
Sau đây là dịch nghĩa 11 hiệu
(theo thứ tự của chính văn): bậc Đến như chư Phật, bậc Thích ứng hiến
cúng, bậc Biết đúng và khắp, bậc Hoàn hảo sự sáng, bậc Khéo qua niết
bàn, bậc Lý giải vũ trụ, bậc Không ai trên nữa, bậc Thuần hóa mọi người,
bậc Thầy cả trời người, bậc Tuệ giác hoàn toàn: bậc Tôn cao nhất đời.
Mười (hay 11) hiệu rất quan trọng.
Không những ấn định một đức Phật là phải có 10 hiệu, mà niệm Phật
và khen Phật là nhớ và lạy 10 hiệu ấy. Do vậy mà 10 hiệu phải nên lạy
mỗi hiệu 1 lạy. Cũng nên nói thêm, trong 10 hiệu, 3 hiệu đầu Như lai,
cúng và Chánh biến tri được nói nhiều, coi như thay cho cả 10 hiệu.
Thứ 2: Lạy 53 Đức
Phật
- Nam mô Phổ quang phật (1 lạy) ...
- Nam mô Nhất thế pháp thường mãn vương phật(1
lạy).
Thứ 3: Lạy 35 Đức
Phật
- Nam mô Thích ca mâu ni phật (1 lạy) ...
- Nam mô Bảo liên hoa thiện trú sa la thọ vương phật
(1 lạy).
Thứ 4: Lạy Đức
Phật Bổn Tôn
Nam mô pháp giới tạng thân A di đà
phật (1 lạy).
Bổn tôn, ở đây chỉ đức Di đà;
ngài là đấng vốn tối tôn, lại là đấng làm gốc cho hành giả Tịnh độ
muốn "tịnh phật quốc độ, thành tựu chúng sinh". Pháp giới tạng
thân là lấy pháp giới làm thân, có nghĩa cùng thì gian, tận không gian,
toàn là thân đức bổn tôn Di đà.
Đoạn 3: Sám Hối
Đoạn này có 3 thứ: thứ 1: phát lộ,
thứ 2: hướng nguyện, thứ 3: hướng nguyện theo hạnh nguyện Phổ hiền.
- Thứ 1: Phát Lộ
- Đồng đẳng như vậy,
- chư Phật thế tôn
- khắp mọi quốc độ
- thường trú ở đời.
- Nguyện xin các ngài
- thương tưởng cho con,
- để con sám hối
- mọi thứ tội lỗi.
- Là trong đời này
- hoặc từ đời trước,
- vô thỉ sinh tử
- cho đến ngày nay,
- bao nhiêu tội lỗi
- con đã làm ra,
- bằng cách tự làm
- hoặc bảo người làm
- hoặc thấy người làm
- mà lòng mừng theo;
- của Tháp của Tăng
- của Tăng bốn phương
- mà con tự lấy
- con bảo người lấy
- con thấy người lấy
- mà lòng mừng theo;
- năm tội vô gián
- mà con tự làm
- con bảo người làm
- con thấy người làm
- mà lòng mừng theo;
- mười thứ ác nghiệp
- mà con tự làm
- con bảo người làm
- con thấy người làm
- mà lòng mừng theo ẫ
- Bao nhiêu tội lỗi
- con làm trên đây
- hoặc là che dấu
- hoặc không che dấu,
- hoặc đáng sa đọa
- vào trong địa ngục
- ngạ quỉ súc sinh
- các đường dữ khác,
- cùng với các xứ
- biên địa man dã;
- hết thảy tội lỗi
- con đã làm ra
- đáng phải sa vào
- những chỗ như vậy,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
Phát lộ tội lỗi như chính văn này
nói thì có 3 mục nhỏ, là phát lộ theo danh mục, theo đại loại và theo
quả báo.
Một, phát lộ tội lỗi theo danh mục
tội lỗi là gồm có xâm phạm vật của Tam bảo, 5 tội vô gián và 10 thứ
ác nghiệp. Tựu trung, 10 thứ ác nghiệp khỏi nói, chỉ nói 2 loại trước.
Trong loại xâm phạm vật của Tam bảo, của Tháp là của chùa tháp thờ Phật;
của Tăng là của hòa thượng, a xà lê, bổn sư, y chỉ sư và thọ nghiệp
sư; của tăng bốn phương là của chư Tăng mọi nơi qui tụ lại (nói sát
là của tự viện ngày nay). Còn 5 tội vô gián thì kể thông thường là giết
cha, giết mẹ, giết La hán, phá tăng hòa hợp, làm đổ máu thân Phật.
Thêm 2 sự giết hòa thượng và a xà lê nữa thì gọi là 7 tội nghịch. Nhưng
5 tội vô gián kể theo kinh Địa tạng tuy hồn hàm mà lại khá thâm thiết
đối với người xuất gia. Kinh ấy nói: Kẻ nào bất hiếu đến nỗi sát
hại cha mẹ thì sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát
mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào làm chảy máu thân Phật, phỉ báng Tam bảo,
khinh thường kinh pháp, cũng sa vào vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức
năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào xâm phạm của tăng chúng thường
trú, làm bẩn tăng ni, ngay trong chốn già lam mà mặc ý làm sự không phải
phạn hạnh hay sự sát hại sinh mạng, thì sa vào vô gián ngục, một kiếp
ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi. Kẻ nào giả làm sa
môn mà tâm hạnh không phải sa môn, lạm dụng của tăng chúng thường trú,
lừa đảo thế nhân, vi phạm giới luật, tạo các nghiệp dữ, thì sa vào
vô gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi.
Kẻ nào trộm cắp tài vật, thóc gạo, đồ ăn, đồ uống và đồ mặc của
tăng chúng thường trú, cho đến một vật không cho mà lấy, thì sa vào vô
gián ngục, một kiếp ngàn vạn ức năm cầu thoát mà khó mong thoát khỏi.
Năm tội vô gián như thế này rất nên bổ túc và làm nổi bật lên những
điểm chính yếu về những chủ thuyết độc hại nhân loại và phá hoại
Phật pháp.
Cả 3 danh mục tội lỗi trên đây
còn có 3 tiểu loại về nội dung, đó là có loại tự mình làm, có loại
bảo người làm (bằng cách sai sử, xúi dục, chỉ dẫn, khuyến khích ...),
có loại tùy hỷ với người (bằng cách tán thành, hỗ trợ ...). Điều
quan trọng phải biết là loại nào cũng nặng cả, có khi còn nặng hơn tự
làm.
Hai, phát lộ tội lỗi theo đại loại
tội lỗi là tất cả danh mục tội lỗi trên đây mà công khai hay che dấu
(nhất là che dấu bằng myՠtừ, bằng danh nghĩa).
Ba, phát lộ tội lỗi theo quả báo
tội lỗi là tất cả danh mục và đại loại tội lỗi trên đây mà đọa
3 đường dữ, các đường dữ khác ngoài 3 đường dữ, những chỗ biên
địa man dã. Biên địa man dã, chính văn là biên địa hạ tiện cập miệt
lệ xa, Chính 12/43 dịch biên địa cập di lệ xa, đủ biết là nói 2 nơi.
Biên địa là những chỗ ở quanh bên ngoài (đối lại, những chỗ ở giữa
bên trong gọi là trung quốc). Còn miệt lệ xa thì ngài Huyền tráng dịch
biên địa (Chính 50/229), Phật học đại từ điển nói dịch cấu trược
chủng (những giống dân dơ bẩn, ác và mọi nhất). Như vậy biên địa với
miệt lệ xa có lẽ chỉ là một, và nguyên thỉ trong thành kiến người
Ấn thì chỉ trung bộ Ấn độ, nơi Phật sinh mới là trung quốc, còn tất
cả các miền ở quanh bên ngoài, nhất là phía bắc Ấn, đều gọi là miệt
lệ xa, dịch nghĩa biên địa (Chính 50/239). Thậm chí Trung quốc cũng bị
cho là biên địa (Chính 50/246). Từ đó diễn ra nghĩa rộng hơn và đúng đắn,
là những xứ không có Phật pháp, văn hóa tốt cũng không có, gọi là
biên địa.
Sau hết, lời phát lộ này, bản dịch
khác có thêm những ngôn từ đáng chú ý: "... hoặc sinh nhằm tám nạn,
hoặc đọa địa ngục ngạ quỉ súc sinh, hoặc sinh những chỗ biên địa
man dã, hoặc sinh tầng trời Trường thọ (65) , hoặc được làm người mà
giác quan không đủ, mà kiến thức sai lầm bài bác nhân quả, mà chán thấy
nghe chư Phật xuất thế; hết thảy nghiệp chướng như vậy, ngày nay đối
trước chư Phật thế tôn, bậc toàn giác, bậc đủ năm loại mắt sáng, bậc
biết tận cùng bản thể, bậc hiểu tận cùng hiện tượng, bậc biết tất
cả, bậc thấy tất cả, con xin thành tâm sám hối hết thảy, không dám
che dấu, cầu nguyện cho con phục hồi như cũ giới pháp thanh tịnh"
(Chính 12/43).
- Thứ 2: Hướng Nguyện
- Ngày nay con xin
- chư Phật thế tôn
- chứng biết cho con
- thương tưởng đến con,
- con lại đối trước
- chư Phật thế tôn
- hết lòng chân thành
- tác bạch như vầy:
- Hoặc trong đời này
- hoặc mọi đời khác,
- con làm bố thí
- cho đến chỉ cho
- các loài súc vật
- một viên thực phẩm,
- hoặc kính tuân giữ
- giới luật thanh tịnh,
- hoặc tu tịnh hạnh
- được bao thiện căn,
- tác thành chúng sinh
- được bao thiện căn,
- tu hành tuệ giác
- được bao thiện căn,
- thành vô thượng trí
- được bao thiện căn --
- tất cả thiện căn
- đã nói trên đây,
- con tập hợp lại
- đối chiếu suy nghĩ,
- đem hồi hướng cả
- về nơi tuệ giác
- vô thượng bồ đề
- của Phật thế tôn.
- Quá khứ hiện tại
- và cả vị lai
- chư Phật thế tôn
- hồi hướng thế nào,
- con cũng nguyện làm
- hồi hướng như vậy.
- Nên sự sám hối
- mọi thứ tội lỗi,
- cùng sự tùy hỷ
- mọi thứ phước đức,
- cho đến công đức
- thỉnh Phật thế tôn,
- con nguyện thành tựu
- tuệ giác vô thượng.
- Chư Phật thế tôn
- trong ba thì gian
- là bậc tối thắng
- đối với chúng sinh,
- là vùng biển cả
- công đức vô lượng,
- nên con ngày nay
- qui mạng đảnh lễ.
Trong các pháp hạnh được kể ra
để hướng nguyện, tịnh hạnh là phạn hạnh, tức là sự không dâm dục,
là từ bi hỷ xả, là hạnh niết bàn; tựu trung, khởi thỉ và căn bản là
sự không dâm dục. Tác thành chúng sinh, nói đủ là "tịnh phật quốc
độ, thành tựu chúng sinh" (làm sạch thế giới, làm nên chúng sinh), từ
ngữ đặc biệt của Pháp hoa nói về bồ tát hạnh. Tu hành tuệ giác là
tu tập 37 bồ đề phần. Thành vô thượng trí là đạt đến tuệ giác vô
thượng. Nên sự sám hối mọi thứ tội lỗi, cùng sự tùy hỷ mọi thứ
phước đức, cho đến công đức thỉnh Phật thế tôn là nói tắt bằng
cách đưa ra 4 hạnh nguyện để nói về 10 hạnh nguyện Phổ hiền; 4 hạnh
nguyện được đưa ra là sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh
Phật trú thế và thỉnh (Phật) chuyển pháp luân.
Thứ 3: Hướng Nguyện
Theo Hạnh Nguyện Phổ Hiền
Đại nguyện vương Phổ hiền có
10, nhưng ở đây chỉ trích lục có 8, xét ra chỉ vì 2 đại nguyện vương
khác văn khó trích lục mà thôi.
- Hết thảy chư Phật
- trong ba thì gian,
- tại các quốc độ
- khắp cả mười phương,
- con xin vận dụng
- ba nghiệp thanh tịnh,
- kính lạy khắp cả
- không có thiếu sót.
- Năng lực uy thần
- của hạnh Phổ hiền
- làm con hiện khắp
- trước chư Như lai,
- một thân lại hiện
- thân như vi trần,
- lạy khắp chư Phật
- cũng như vi trần.
Đây là 1, lễ kính Phật đà, gọi
tắt là lạy Phật. Vi trần: bụi nhỏ.
- Trong một vi trần
- có vi trần Phật,
- và đều ở trong
- chúng hội bồ tát,
- vi trần pháp giới
- cũng y như vậy,
- lòng con tin Phật
- thật sâu và đầy,
- nên biển âm thanh
- con vận dụng cả,
- xuất ra vô tận
- lời chữ nhiệm mầu,
- cùng tận đời kiếp
- của thì vị lai,
- tán dương biển cả
- công đức của Phật.
Đây là 2, tán dương Như lai, gọi
tắt là khen Phật. Trong 1 vi trần có vi trần Phật là nói chư Phật trong 1
thế giới: thế giới nhiều như vi trần nên 1 thế giới gọi là 1 vi trần;
trong 1 thế giới, qua thì gian quá khứ hiện tại vị lai, đã có chư Phật
nhiều như vi trần, nên gọi là trong 1 vi trần có vi trần Phật. Vi trần
pháp giới cũng y như vậy là nói chư Phật trong tất cả thế giới: trong
tất cả thế giới nhiều như vi trần, mỗi thế giới đều có chư Phật
cũng nhiều như vi trần.
- Con đem vòng hoa
- tốt đẹp hơn hết,
- âm nhạc, hương xoa,
- tàn lọng, bảo cái,
- những đồ trang hoàng
- hơn hết như vậy,
- con đem hiến cúng
- chư Phật như lai.
- Y phục hơn hết
- hương liệu hơn hết
- hương vụn, hương đốt,
- cùng với đuốc đèn,
- tất cả đều như
- Diệu cao núi lớn,
- con đem hiến cúng
- chư Phật như lai.
- Con đem cái biết
- cao rộng hơn hết
- tin tưởng sâu xa
- tam thế chư Phật,
- vận dụng thần lực
- hạnh nguyện Phổ hiền
- mà khắp hiến cúng
- chư Phật như lai.
Đây là 3, hiến cúng rộng lớn, gọi
tắt là hiến cúng Phật. Vòng hoa, dịch sát là xâu hoa. Âm nhạc, chính văn
là kyՍ nhạc, kyՠphải viết bộ thủ hay bộ nhân, viết bộ nữ là sai. KyՍ
nhạc ở đây là diễn tấu nhạc khí, tức là âm nhạc. Chỗ khác, có lúc
kyՠnhạc là biểu diễn kịch nghệ và diễn tấu âm nhạc. Hương xoa tức
là dầu thơm, phấn sáp. Diệu cao: dịch nghĩa tên núi Tu di. Cái biết cao rộng
hơn hết, chính văn là quảng đại thắng giải tâm: tâm trí lý giải siêu
việt rộng lớn.
- Bao nhiêu nghiệp dữ
- mà con đã làm,
- đều bởi vô thỉ
- những tham sân si,
- động thân miệng ý
- mà phát sinh ra,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
Đây là 4, sám hối nghiệp chướng,
gọi tắt là sám hối. Thân miệng ý, chính văn là thân ngữ ý, nhưng xét
ra thân khẩu ý đi với nhau thì chỉnh và đúng hơn. Tham sân si thì rộng,
nhưng không xác bằng dâm nộ si. Và đó là 3 độc hay bất thiện căn. Có
chỗ, ngoài 3 thứ này còn có 1 thứ nữa là bố (sợ hãi).
- Mười phương hết thảy
- các loại chúng sinh,
- cùng với các vị
- Thanh văn Duyên giác,
- Tu học tiếp tục
- Tu học hoàn tất,
- tất cả Như lai
- cùng với Bồ tát,
- có công đức gì
- con tùy hỷ cả.
Đây là 5, tùy hỷ công đức, gọi
tắt là tùy hỷ. Tu học tiếp tục: các vị hữu học. Tu học hoàn tất:
các vị vô học (vô: hoàn tất). Trong 4 quả Thanh văn, 3 quả trước là hữu
học, quả La hán là vô học. Nhưng bậc vô học tuyệt bậc là Phật. Tùy
hỷ: đã dịch mừng theo, là tán thành, hỗ trợ, mừng mà tán thưởng.
- Mười phương đâu có
- Ngọn Đèn Thế Giới
- khi mới thành tựu
- tuệ giác vô thượng,
- con xin thỉnh cầu
- tất cả các ngài
- chuyển đẩy bánh xe
- diệu pháp tối thượng.
Đây là 6, xin chuyển pháp luân, rõ
thì phải nói xin Phật chuyển đẩy bánh xe chánh pháp. Ngọn Đèn Thế Giới
là Phật, Phật thì như ngọn đèn to lớn soi sáng thế gian. Chuyển đẩy bánh
xe diệu pháp, nói rõ là lăn đẩy bánh xe chánh pháp đi tới phía trước,
không đi lùi, đi lệch hay ngừng lại.
- Chư Phật như lai
- muốn hiện niết bàn,
- thì con chí thành
- thỉnh cầu các ngài
- sống với đời kiếp
- nhiều như vi trần
- để làm lợi lạc
- hết thảy chúng sinh.
- Đây là 7, xin Phật ở đời.
- Lạy Phật, khen Phật,
- và hiến cúng Phật,
- xin Phật ở đời,
- chuyển đẩy pháp luân,
- tùy hỷ, sám hối,
- bao thiện căn này
- con đem hồi hướng
- ích lợi chúng sinh
- có nghĩa hồi hướng
- nguyện thành trí Phật.
Đây là 10, hồi hướng khắp cả,
gọi tắt là hồi hướng. Và như vậy thì trích lục này không có 2 đại
nguyện vương 8 và 9 (thường học theo Phật và hằng thuận chúng sinh).
Trong văn hồi hướng khắp cả này, 2 câu lạy Phật, khen Phật, và hiến
cúng Phật chính văn là Sở hữu lễ tán cúng dường Phật, nhiều bản chữa
Phật ra phước. Xét ra rất sai, và sai quá rõ. Chính văn này nói tắt, rõ
thì phải nói "Sở hữu lễ Phật, tán Phật, cúng dường Phật", tức
nói về 3 nguyện trước hết, và chữ Phật ăn chung cả 3 nguyện ấy.
Cũng như 2 câu dưới xin Phật ở đời, chuyển đẩy pháp luân chính văn là
Thỉnh Phật trú thế chuyển pháp luân. Chính văn này cũng nói tắt, rõ
thì phải nói Thỉnh Phật trú thế, thỉnh (Phật) chuyển pháp luân. Còn chữ
phước mà người chữa muốn nói thì chính là chữ thiện căn ở câu dưới,
và chữ thiện căn ấy, ngoài 7 đại nguyện vương được kể ra còn nói
những đại nguyện vương còn lại. Trí Phật, chính văn là Phật đạo. Phật
đạo có 2 nghĩa. Nghĩa chính thức thì đạo là dịch nghĩa chữ bồ đề
(mà dễ hiểu thì dịch là giác), do đó, tôi đổi ra Phật trí hay Phật tuệ,
có nghĩa là trí Phật, là tuệ giác của Phật. Còn nghĩa không chính thức
thì Phật đạo là nhân hạnh của Phật, tức bồ tát vạn hạnh.
- Đoạn 4: Hồi Hướng
- Nguyện đem công đức
- hơn hết như vầy,
- hồi hướng cả về
- pháp tánh vô thượng;
- chính nơi pháp tánh
- vô thượng như vậy,
- Tam bảo bản thể
- Tam bảo biểu tượng,
- chân lý tuyệt đối
- chân lý phổ thông,
- tất cả dung thông
- thành tam muội ấn:
- cái biển công đức
- vô lượng đến thế,
- con xin hồi hướng
- vào đó tất cả.
Đây là hồi hướng về trí Phật.
Nghĩa là hồi hướng sự bái sám Hồng danh này về nơi tuệ giác của Phật:
về nơi pháp tánh mà tuệ giác ấy chứng ngộ. Tuệ giác và pháp tánh ấy
chính là tam muội ấn (định ấn), có 3 mặt là định ấn của Phật bộ,
định ấn của Liên hoa bộ và định ấn của Kim cang bộ. Tam bảo bản thể
là Tam bảo về tánh. Tam bảo biểu tượng là Tam bảo về tướng. Chân lý
tuyệt đối là chân đế. Chân lý phổ thông là tục đế. Dung thông là
tam muội ấn nói trên viên mãn tất cả Tam bảo và chân lý như vậy.
- Thân khẩu ý nghiệp
- của các chúng sinh,
- tà kiến đàn áp
- phỉ báng Phật pháp,
- và bao nghiệp chướng
- cùng loại như vậy,
- nguyện cầu cho họ
- diệt sạch hết thảy,
- trong mỗi tâm niệm
- tuệ giác khắp cả,
- khắp độ chúng sinh
- cùng được Bất thoái.
Đây là hồi hướng cho chúng sinh,
cầu cho chúng sinh nhờ công đức bái sám Hồng danh mà được diệt tội
đắc quả. Diệt tội là diệt tội thập ác: 10 ác nghiệp nơi thân khẩu
ý, là diệt tội tà kiến: kiến thức và chủ thuyết độc hại nhân loại
phá hoại Phật pháp, là diệt tất cả tội lỗi cùng loại, nói tóm là diệt
tất cả tội lỗi làm trở ngại cho sự đắc quả. Đắc quả là thực hiện
cho mình và cho người sự Không thoái chuyển, bằng cách ý nghĩ này liên
tiếp ý nghĩ khác sống theo tuệ giác của Phật.
- Vũ trụ có cùng,
- chúng sinh có tận,
- hạnh nghiệp có tận,
- phiền não có cùng,
- tâm nguyện của con
- cũng không cùng tận;
- nguyện sự hồi hướng
- của con cũng vậy.
Đây là hồi hướng sự bái sám Hồng
danh mà cầu nguyện cho hạnh nguyện của mình, trong đó có hạnh nguyện hồi
hướng, được liên tục và quảng đại.
Nam mô đại hạnh Phổ hiền bồ tát
(3 lần).
Sám hối là 1 trong 10 đại nguyện
vương của đức Phổ hiền. Nội dung sự sám hối gồm có lạy Phật và hướng
nguyện, thì cũng là lạy Phật và hướng nguyện theo 10 đại nguyện
vương Phổ hiền, nên sám Hồng danh kết thúc bằng cách niệm hồng danh của
ngài.
Trích Lục Lại
10 Hạnh Nguyện Phổ Hiền
Như đã nói, sám Hồng danh trích lục
10 đại nguyện vương mà chỉ có 8 là vì văn khó trích lục. Nhưng khó mà
vẫn có thể và vẫn nên trích lục lại cho đủ. Làm việc này chỉ vì cần
làm chứ không cốt để thay đổi sự trích lục của sám Hồng danh. Mặt
khác, sự trích lục lại ở đây dĩ nhiên vẫn trích lục từ phẩm Phổ
hiền, nhưng vừa đủ thì thôi.
Trước hết, đây là phần dịch
âm: Một, lễ kính chư Phật:
- Sở hữu thập phương thế giới trung
- Tam thế nhất thế Nhân sư tử,
- Ngã dĩ thanh tịnh thân ngữ ý
- Nhất thế biến lễ tận vô dư.
- Hai, xưng tán Như lai:
- Ngã dĩ nhất thế âm thanh hải
- Phổ xuất vô tận diệu ngôn từ
- Tận ư vị lai nhất thế kiếp
- Tán Phật thậm thâm công đức hải.
- Chú thích : ngã dĩ là đổi chữ các dĩ.
- Ba, quảng tu cúng dường:
- Ngã dĩ quảng đại thắng giải tâm
- Thâm tín nhất thế tam thế Phật,
- Tất dĩ Phổ hiền hạnh nguyện lực
- Phổ biến cúng dường chư Như lai.
- Bốn, sám hối nghiệp chướng:
- Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp,
- Giai do vô thỉ tham sân si,
- Tùng thân ngữ ý chi sở sinh,
- Nhất thế ngã kim giai sám hối.
- Năm, tùy hỷ công đức:
- Thập phương nhất thế chư chúng sinh,
- Nhị thừa hữu học cập vô học,
- Nhất thế Như lai dữ Bồ tát,
- Sở hữu công đức giai tùy hỷ.
- Sáu, thỉnh chuyển pháp luân:
- Thập phương sở hữu Thế gian đăng
- Tối sơ thành tựu bồ đề giả,
- Ngã kim nhất thế giai khuyến thỉnh
- Chuyển ư vô thượng diệu pháp luân.
- Bảy, thỉnh Phật trú thế:
- Chư Phật nhược dục thị niết bàn,
- Ngã tất chí thành nhi khuyến thỉnh,
- Duy nguyện cửu trú sát trần kiếp
- Lợi lạc nhất thế chư chúng sinh.
- Tám, thường tùy Phật học:
- Quá hiện vị lai Thiên nhân sư
- Nhất thế ý lạc giai viên mãn,
- Ngã nguyện phổ tùy tam thế học,
- Tốc đắc thành tựu đại bồ đề.
Chú thích: Quá hiện vị lai Thiên
nhân sư là tóm tắt 3 câu: cúng dường quá khứ chư Như lai, cập dĩ hiện
tại thập phương Phật, vị lai nhất thế Thiên nhân sư.
- Chín, hằng thuận chúng sinh:
- Ngã thường tùy thuận chư chúng sinh
- Tận ư vị lai nhất thế kiếp,
- Hằng tu Phổ hiền quảng đại hạnh,
- Viên mãn vô thượng đại bồ đề.
- Mười, phổ giai hồi hướng:
- Sở hữu lễ tán cúng dường Phật,
- Thỉnh Phật trú thế chuyển pháp luân,
- Tùy hỷ sám hối chư thiện căn,
- Hồi hướng chúng sinh cập Phật đạo.
- Hướng nguyện:
- Ngã thử Phổ hiền thù thắng hạnh
- Vô biên thắng phước giai hồi hướng,
- Phổ nguyện trầm nịch chư chúng sinh
- Tốc vãng Vô lượng quang phật sát.
- Đây là phần dịch nghĩa: Một, lễ kính Phật đà:
- Hết thảy chư Phật
- trong ba thì gian
- tại các quốc độ
- khắp cả mười phương,
- con xin vận dụng
- ba nghiệp thanh tịnh
- kính lạy khắp cả
- không có thiếu sót.
- Hai, tán dương Như lai:
- Biển cả âm thanh
- con vận dụng cả,
- xuất ra vô tận
- lời chữ nhiệm mầu,
- cùng tận đời kiếp
- của thì vị lai,
- tán dương biển cả
- công đức của Phật.
- Ba, hiến cúng rộng lớn:
- Con đem cái biết
- cao rộng hơn hết
- tin tưởng sâu xa
- tam thế chư Phật,
- vận dụng thần lực
- hạnh nguyện Phổ hiền
- mà khắp hiến cúng
- chư Phật như lai.
- Bốn, sám hối nghiệp chướng:
- Bao nhiêu nghiệp dữ
- mà con đã làm,
- đều bởi vô thỉ
- những tham sân si,
- động thân miệng ý
- mà phát sinh ra,
- ngày nay con xin
- sám hối tất cả.
- Năm, tùy hỷ công đức:
- Mười phương hết thảy
- các loại chúng sinh,
- cùng với các vị
- Thanh văn Duyên giác,
- Tu học tiếp tục
- Tu học hoàn tất,
- tất cả Như lai
- cùng với Bồ tát,
- có công đức gì
- con tùy hỷ cả.
- Sáu, xin chuyển pháp luân:
- Mười phương đâu có
- Ngọn Đèn Thế Giới
- khi mới thành tựu
- tuệ giác vô thượng,
- con xin thỉnh cầu
- tất cả các ngài
- chuyển đẩy bánh xe
- diệu pháp tối thượng.
- Bảy, xin Phật ở đời:
- Chư Phật như lai
- muốn hiện niết bàn,
- thì con chí thành
- thỉnh cầu các ngài
- sống với đời kiếp
- nhiều như vi trần,
- để làm lợi lạc
- hết thảy chúng sinh.
- Tám, thường học theo Phật:
- Các đức Phật đà
- cả ba thì gian
- bao nhiêu ý nguyện
- đều viên mãn cả,
- con nguyện tùy thuận
- học tập các ngài
- để mau hoàn thành
- tuệ giác vô thượng.
- Chín, hằng thuận chúng sinh:
- Cùng tận đời kiếp
- của thì vị lai,
- con thường tùy thuận
- các loại chúng sinh,
- bằng cách thực thi
- hạnh nguyện Phổ hiền,
- viên mãn tuệ giác
- tối thượng vĩ đại.
- Mười, hồi hướng khắp cả:
- Lạy Phật, khen Phật,
- và hiến cúng Phật,
- xin Phật ở đời,
- chuyển đẩy pháp luân,
- tùy hỷ, sám hối,
- bao thiện căn này
- con đem hồi hướng
- ích lợi chúng sinh
- có nghĩa hồi hướng
- nguyện thành trí Phật.
- Hướng nguyện:
- Hạnh nguyện Phổ hiền này
- là hạnh nguyện tối thượng,
- phước đức cũng tối thượng
- và vô lượng vô biên;
- con xin hồi hướng cả,
- nguyện cầu cho chúng sinh
- đang còn bị chìm đắm
- mau chóng sinh Cực lạc
- quốc độ đức bổn tôn
- A di đà như lai.
Trước Khi Lược Giải Tâm Kinh
1. Lược Nói Oai
Linh Của Tâm Kinh Và Đức Quan Âm, Vị Thuyết Ra Tâm Kinh
Sử truyện của ngài Huyền tráng,
dịch giả Tâm kinh, chép:
... Chừng canh ba, pháp sư lén vượt
được cửa ải Ngọc môn, mừng lắm, để đồ xuống, nằm ngủ cách người
Hồ hơn 50 bước. Mới nằm một lát, người Hồ rút dao đứng dậy, đi nhẹ
về phía pháp sư. Đi chưa được mươi bước thì lùi lại, không biết ý
gì. Pháp sư ngờ người Hồ có lòng khác, nên ngồi dậy niệm đức Quan
âm. Thấy vậy, người Hồ về chỗ nằm ngủ. Trời gần sáng, pháp sư gọi
dậy, lấy nước, lót lòng, rồi sắp đi thì người Hồ nói, đường đi
nguy hiểm, xa xôi, nước không, cỏ chẳng có, chỉ nơi 5 đồn canh mới có
nước. Đồn nào cũng phải ban đêm lén đến mới lấy được nước, và
có nước mới qua được sa mạc này. Nhưng bị phát giác thì chết. Đệ tử
nghĩ chẳng bằng quay về thì hơn. Pháp sư không chịu nên người Hồ miễn
cưỡng mà đi. Được vài dặm, đứng lại, nói, đệ tử không thể đi
được. Đệ tử còn gánh nặng gia đình, phép vua lại không thể vi phạm.
Pháp sư biết ý, bảo cứ về. Người Hồ nói, chắc chắn pháp sư không
qua khỏi, bị bắt rồi khai đến con thì sao? Pháp sư nói, thân này bị xả
nhỏ ra tôi cũng không khai đến anh. Pháp sư thề thốt nặng lời, người
Hồ mới yên bụng lui về, sau khi giao lại cho pháp sư một con ngựa.
Vậy là pháp sư đơn độc đi vào
sa mạc. Chỉ nhìn xương người hay phân ngựa mà đi. Một lát bỗng có mấy
trăm quân binh đầy cả trước mắt, thoáng đi thoáng ngừng, người ngựa
cờ xí biến ảo liền liền, nhìn xa rất rõ, đến gần lại tan. Pháp sư
mới nhìn nghĩ là giặc cướp, đến gần mới biết quái dị. Nhưng nghe
trong không gian có tiếng nói, bảo cứ đi, đừng sợ. Đi được 80 dặm thì
thấy đồn canh thứ nhất. Sợ lính canh nhìn thấy nên pháp sư núp vào hố
cát, đến đêm mới đi. Khi đến phía tây đồn canh, thấy nước, pháp sư
xuống uống, rửa tay, và sắp sửa lấy nước thì một mũi tên bay vút đến,
xuýt trúng đầu gối. Thoáng cái lại có một mũi nữa. Biết đã bị phát
giác, pháp sư kêu lớn, xin đừng bắn, tôi là tăng sĩ. Rồi dắt ngựa đi
lại đồn canh. Binh sĩ điệu vào gặp hiệu úy Vương Tường. Nhưng chính
nhờ viên hiệu úy này giúp đỡ mà pháp sư đến được đồn canh thứ
tư. Viên hiệu úy ở đây nghe có lời Vương Tường nên hoan hỷ, mời ngủ
lại, lại biếu túi da lớn để dựng nước và biếu lúa mạch cho ngựa
ăn, tiễn pháp sư mà dặn đừng đi về phía đồn canh thứ năm. Viên hiệu
úy ở đó có thể hại ngài. Từ đây đi cỡ trăm dặm thì có suối Dã
mã, ngài hãy lấy thêm nước ở đó.
Vậy là pháp sư đi vào đại sa mạc
Mông cổ. Đại sa mạc này dài hơn 800 dặm. Trên không có chim bay, dưới
không có thú chạy. Nước không có, cỏ cũng không. Bấy giờ pháp sư một
mình một ngựa, chỉ niệm đức Quan âm và bài Tâm kinh mà đi. Hồi trước,
khi còn ở đất Thục, pháp sư gặp một bịnh nhân, ghẻ lở hôi thối dơ
bẩn, áo quần rách rưới dơ dáy. Pháp sư đưa về chùa, tặng quần áo,
biếu thực phí. Bịnh nhân cảm kích, truyền thọ bài kinh ấy cho pháp sư
(66) . Nhân đó pháp sư đã thường trì tụng. Bây giờ, khi vào đại sa mạc,
gặp bao nhiêu hiện tượng quái dị vây bọc trước sau, pháp sư niệm bài
kinh này thì tan biến liền. Bao nhiêu nguy khốn mà pháp sư phải gặp, thật
do bài kinh này cứu độ.
Pháp sư đi cỡ trăm dặm thì lạc
đường, tìm suối Dã mã không thấy. Lấy túi nước xuống để uống thì
lỡ tay đổ cả. Vật độ mạng trên đường ngàn dặm, thoáng cái sạch hết!
Vậy mà còn lạc đường đến nỗi quanh quẩn không biết nên đi theo ngã
nào. Pháp sư nghĩ quay lại hướng đông, chỗ đồn canh thứ tư đã. Nhưng
đi hơn mươi dặm, pháp sư tự nghĩ, mình đã nguyện không đến xứ Phật
thì không lui về hướng đông một bước, sao nay quay về. Thà đi tới hướng
tây mà chết, chứ không quay về hướng đông để sống. Trở ngựa lại,
pháp sư chuyên tâm niệm đức Quan âm mà đi tới hướng tây bắc. Bấy giờ
bốn bề cát nóng mênh mông, người ngựa đều lả. Đêm thì yêu quái nhấp
nháng như sao, ngày thì cuồng phong cuốn cát lên, tung bay như mưa mùa. Pháp
sư không nao núng gì cả, chỉ khổ vì khát quá, không đi được nữa. Đã
4 đêm 5 ngày rồi, pháp sư không có một giọt nước thấm môi. Cổ, miệng
và bụng khô nóng gần chết. Quị xuống mặt cát nóng rát dưới cái nắng
sa mạc mà pháp sư vẫn thầm niệm đức Quan âm, khốn đốn đến thế mà
không ngừng, thầm bạch rằng con đi đây không cầu lợi lộc, không mong
danh vọng, chỉ vì Phật pháp vô thượng mà thôi. Bồ tát là đức Từ bi,
thương người mà cứu khổ. Con thế này là đang khổ đây, lẽ nào ngài
không biết. Pháp sư tác bạch như vậy và không ngừng niệm danh hiệu của
ngài. Nửa đêm hôm ấy là đêm thứ năm, đột nhiên có luồng gió mát thổi
đến thân thể pháp sư. Pháp sư nghe mát như tắm nước lạnh. Nhờ vậy mà
sáng mắt, ngựa cũng dậy được. Cơ thể đã thư, pháp sư thiếp được
một lát, mộng thấy vị thần cao lớn, bảo sao không gắng dậy mà đi, lại
nằm như thế này. Pháp sư hoãng dậy, đi được mươi dặm thì đột nhiên
ngựa tự rẽ qua ngã khác, kéo lại cũng không chịu. Đi vài dặm bỗng thấy
cả mẫu cỏ xanh. Pháp sư cho ngựa ăn, và đi mươi bước thì thấy một
ao nước, trong và ngọt. Uống rồi người ngựa đều khỏe, nghỉ lại 1
ngày. Hôm sau múc nước, lấy cỏ, và đi tới. Hai ngày sau nữa pháp sư mới
ra khỏi sa mạc ... (Chính 50/223).
... Lại đến nước Y lan noa bát phạt
đa. Trên đường đến đó có già lam Ca bố đức. Phía nam già lam này,
cách vài ba dặm, có hòn núi đơn độc, cây cao cỏ tốt, lá rậm hoa thơm,
ao trong suối đẹp. Núi là thắng cảnh mà lại có chùa thiêng, cảm ứng
thần kỳ. Tinh xá chính giữa có ngôi tượng Quan âm bằng gỗ đàn hương,
uy thần đặc tôn. Thường có vài mươi người, trong một hay hai tuần không
ăn cơm, không dùng cả nước có thực phẩm nghiền nát, thành tâm cầu
nguyện. Ai chân thành thì cảm ứng. Và cảm ứng luôn, nên người đến càng
đông. Người trong chùa sợ tượng bị bẩn, nên bốn phía cách tượng chừng
7 bước, dựng lan can gỗ. Ai đến cũng triều bái ở ngoài lan can. Hoa hương
hiến cúng cũng từ ngoài tung vào. Hoa của ai nằm trong tay hay mắc vào
cánh tay của Bồ tát thì được cát tường.
Pháp sư cũng đến cầu nguyện. Mua
hoa, xâu thành vòng, pháp sư đến chỗ tôn tượng, chí thành lễ bái tán dương
rồi, quì xuống cầu nguyện 3 điều. Một, tại đất Ấn độ này con học
tập xong rồi, về nước mà được an toàn thì xin hoa nằm trong bàn tay của
ngài. Hai, bao nhiêu phước tuệ có được, con nguyện sinh Đâu suất nội
viện, phụng sự Di lạc từ tôn, nguyện này như ý thì xin hoa mắc vào
cánh tay của ngài. Ba, giáo lý có chỗ nói chúng sinh có một số không có
Phật tánh, nay con nghi hoặc, không rõ có hay không có; nếu một số ấy cũng
có Phật tánh, có thể tu hành thành Phật, thì xin hoa mắc vào cổ của
ngài. Tác bạch rồi, pháp sư tung hoa vào, được đúng cả như lời cầu
nguyện. Pháp sư hoan hỷ hết sức. Những người lễ bái và người trong
chùa ai cũng vỗ tay, dậm chân, mà nói thật là chưa từng có (Chính
50/239).
... Từ biệt rồi, pháp sư yên lặng,
chánh niệm, miệng tụng: sắc không, thọ tưởng hành thức cũng không,
nhãn giới không, cho đến ý thức giới cũng không, vô minh không, cho đến
lão tử cũng không, thậm chí bồ đề cũng không, không ấy cũng không ...
Đệ tử là Đại thừa quang hỏi pháp sư chắc chắn được sinh Di lạc nội
viện không, pháp sư nói chắc chắn. Nói rồi, hơi thở nhẹ dần, một lát
pháp sư mất mà nhẹ nhàng đến nỗi thị giả không biết liền ... (Chính
50/277).
Sử truyện của ngài Huyền tráng
đến nay đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Học giả ra sức khảo chứng
càng không ít. Trong bao nhiêu nguy khốn mà ngài trải qua có sa mạc Gobi. Ở
đó, ngày nay không nói cuồng phong cuốn cát lên tung bay như mưa mùa, mà
nói là bão cát. Cũng ngày nay, phi cơ loại trung bình bay trên vùng trời sa
mạc này vẫn dồi sốc rất khó chịu. Nên học giả thế giới đã và vẫn
còn khiếp phục ngài Huyền tráng, nhận rằng phi sức mạnh tôn giáo thì
không dễ gì vượt qua bao nhiêu nguy khốn mà ngài đã gặp. Oai linh của đức
Quan âm, và của bài Tâm kinh mà đức Quan âm tuyên thuyết, chính cuộc đời
và công nghiệp của ngài Huyền tráng là một minh chứng (67) .
2. Lược Nói Bát
Nhã Và Không Của Bát Nhã Trong A Hàm
Bát nhã trong A hàm.- Trong bộ A
hàm, chánh tri kiến chính là Bát nhã. Chánh tri kiến gọi tắt là chánh kiến,
có nghĩa thấy biết chính xác. Nên chánh tri kiến cũng gọi là như thật
tri kiến hay như thật tri, có nghĩa thấy biết đúng như sự thật. Và tri
kiến mà chánh, mà như thật, thì có nghĩa vô đắc: không thủ đắc. Trưởng
giả Cấp cô độc hằng ngày đến yết kiến đức Thế tôn. Một hôm ra
đi hơi sớm, trưởng giả ghé vào tinh xá của ngoại đạo. Hai bên chào hỏi
nhau rồi, các vị ngoại đạo hỏi trưởng giả, ông yết kiến đức Cù
đàm mà thấy biết những gì? Trưởng giả thưa, xin quí vị nói sự thấy
biết của quí vị rồi tôi sẽ thưa sự thấy biết của tôi. Các vị ấy
nói những sự thấy biết của mình: đối với thế giới thì thấy cố định
hay thấy chuyển biến, thấy hữu hạn hay thấy vô hạn, đối với sinh mạng
và bản thân thì thấy đồng nhất hay thấy biệt lập, đối với sự diệt
khổ rồi thì thấy vĩnh cửu hay thấy hư vô. Vị nào cũng nói cái mình thấy
biết là chân lý, ngoài ra đều tà ngụy cả, và bảo trưởng giả hãy
nói sự thấy biết của ông. Trưởng giả thưa, cái tôi thấy biết là
duyên khởi (tương quan): thấy biết duyên khởi thì đối với mọi sự thấy
biết đều không thủ đắc (Tạp, Chính 2/248, lược dịch).
Thấy biết như vậy là thanh tịnh
kiến: thấy biết trong sáng. Thấy biết trong sáng là thấy Không; Không ấy
là Thánh pháp ấn: ấn tín của Phật đối với vạn hữu (Tăng, Chính
2/20).
Không trong bộ A hàm.- Trước đây
hay nói Không của tiểu thừa là phân tích không, nói Không của đại thừa
là đương sinh vô sinh, lại nói Không của tiểu thừa là không trong 4 hành
tướng vô thường khổ không vô ngã. Những cách nói như vậy xét ra thật
là võ đoán. Bởi vì Tạp a hàm đã nói minh bạch, rằng Không là tánh tự
nhĩ: thực chất tự như thế (Chính 2/56). Kinh ấy còn nói không phải tự
sinh, tha sinh, cọng sinh, vô nhân sinh (Chính 2/81 và 93). Vậy thì Không không
phải chỉ là không trong 4 hành tướng, mà Không là căn bản của tất cả
lý, hạnh, quả, là Không tam muội.
Về Không là căn bản của tất cả
lý hạnh quả thì hãy tham cứu 2 bài kinh chuyên nói về Không trong Trung a
hàm (Chính 1/736-740); 2 bài kinh này nếu không biết đến thì đừng nói gì
về Không cả. Còn Không là Không tam muội thì như Phật nói với tôn giả
Xá lợi phất, Không tam muội là rất bậc nhất ... Không tam muội thì
không chấp ngã nhân, thọ mạng, không chấp chúng sinh, không chấp các
hành, nên không tạo nghiệp mới, không tạo nghiệp mới nên không còn hậu
hữu, không còn hậu hữu thì không có quả báo khổ vui của thế gian. Xá
lợi phất, khi ta chưa được tuệ giác Phật đà, ngồi dưới bồ đề đại
thọ nghĩ rằng chúng sinh vì không được phương pháp gì mà phải lưu chuyển
sinh tử, không được giải thoát? Ta lại nghĩ, chúng sinh vì không có
Không tam muội nên lưu chuyển sinh tử mà không cứu cánh giải thoát ...
Được Không tam muội thì được Vô nguyện tam muội, được Vô tướng
tam muội; được Không tam muội thì thành tựu Vô thượng giác. Lúc bấy
giờ ta được Không tam muội nên 7 ngày đêm ta nhìn bồ đề đại thọ không
nháy mắt. Xá lợi phất, do vậy mà biết Không tam muội là tam muội bậc
nhất; tam muội chúa tể chính là Không tam muội (Tăng, Chính 2/773).
Không tam muội còn được gọi là
Thượng tọa thiền (Tạp, Chính 2/57). Đại sĩ thiền của kinh này nói
(Chính 2/236) cũng thực sự là Không tam muội. Vô tránh đạo của ngài Tu bồ
đề (68) chính là thực hành chân thực không (Trung, Chính 1/703). Không, như
vậy, là tâm trí không đi theo 2 cực đoan nên chánh hướng trung đạo (Tạp,
Chính 2/84).
Chánh tri kiến và Không tam muội như
vậy hủy diệt cái gì? Cái ấy, hay nói đến nhất là ngã và ngã sở, nhưng
hay nói đến hơn nữa là 2 chấp có và không. Có và không, không phải chỉ
là 2 cực đoan, 2 phạm trù khẳng định và phủ định, mà Tăng a hàm giải
thích thật đặc biệt: Đức Thế tôn nói với các vị tỷ kheo, có 2 sự
thấy là thấy có với thấy không. Thấy có là thế nào? Là thấy có dục
có sắc có vô sắc -- Thấy có dục là 5 dục: mắt thấy sắc thì rất
ưa, quí và nhớ, chưa bao giờ rời bỏ mà cứ tôn thờ mãi; tai nghe tiếng,
mũi ngửi hơi, lưỡi biết mùi, thân biết xúc, ý biết pháp (cũng như vậy),
và đó gọi là thấy có. Thấy không là thế nào? Là thấy có thường thấy
không thường, thấy có đoạn thấy không đoạn, thấy có biên thấy không
biên, thấy có mạng thấy không mạng, thấy thân mạng khác nhau thấy thân
mạng là một, (và) 62 sự thấy (xuất từ các sự thấy) như trên gọi là
thấy không, và toàn là không phải sự thấy chính xác (Chính 2/577). Do đó
luận Du dà đã nói: Không tam muội là tâm trí chuyên nhất quán sát về
Không, và Không ấy đại khái có 4. Một là quán sát không: quán sát các
pháp không thường, không lạc, cho đến không tự ngã, không ngã sở ...
Hai là kết quả không: tâm trí giải thoát, không mọi phiền não tham sân
si ... Ba là bên trong không: không bản thân, nghĩa là không có mọi cố chấp
lệch lạc về tự ngã, ngã sở, ngã mạn ... Bốn là bên ngoài không:
không ngũ dục, nghĩa là không ái không dục đối với ngũ dục ấy (Chính
30/337).
Không như vậy vì sao có thể thực
hiện? Vì như Trung a hàm đã nói: Nếu có ai nói một cách đúng đắn để
nói cái điều sáng suốt này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất
đều siêu việt, không bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp, thì người
ấy chính là ta đây -- Bởi vì chính ta nói đến cái điều sáng suốt
này: tất cả chúng sinh sinh ra ở đời thực chất đều siêu việt, không
bị đau khổ hay khoái lạc khuất lấp (Chính 1/680). Tạp a hàm còn nói rõ:
Không phải giác quan buộc đối cảnh hay đối cảnh buộc giác quan, mà sự
buộc chỉ là tham dục; ví như 2 con bò chẳng con nào buộc con nào, mà buộc
cả 2 con chính là cái ách (Chính 2/60). Pháp thoại sau đây càng nên chú ý.
Ma la ca thưa, bạch đức Thế tôn, con già cả, giác quan suy tàn, nhưng vẫn
muốn được nghe đức Thế tôn cho con một lời dạy tóm tắt. Con nghe rồi
sẽ tinh chuyên tư duy, cho đến tự biết không còn hậu hữu. Đức Thế tôn
bảo thôi. Ma la ca vẫn cầu thỉnh lần thứ hai rồi lần thứ ba. Bấy giờ
đức Thế tôn mới nói, ... thấy là thấy, nghe là nghe, hay là hay, biết
là biết, và nói chỉnh cú sau đây: cái này không phải cái kia, cái kia
không phải cái này, cũng không phải giữa hai cái, đó là biên cương đau
khổ (đau khổ chấm dứt). Ma la ca thưa, con biết rồi bạch đức Thế tôn,
con hiểu rồi bạch đức Thiện thệ! Đức Thế tôn hỏi, ông hiểu biết
thế nào? Ma la ca thưa lại bằng lời chỉnh cú (lược dịch): sáu giác
quan thấy nghe hay biết sáu đối cảnh mà không chánh niệm thì nổi tham
sân si, nếu chánh niệm thì không tham sân si: đó là niết bàn. Rồi đó Ma
la ca bất phóng dật mà tinh chuyên tư duy và thành bậc La hán (Tạp, Chính
2/90).
Như vậy thì vì "không" mới
"có".- Không, như vậy, thực chất là đem cái tâm vốn không mà
quán sát các pháp vốn không (Tạp, Chính 2/72). Không, như vậy, không phải
đoạn kiến: không phải phủ định, hoài nghi, nên Tạp a hàm (Chính 2/92)
đã nói: các tỷ kheo, có nghiệp báo mà không có tác giả: có hành vi và
có kết quả của hành vi mà không có cái gọi là chủ thể (bản ngã). Trường
a hàm nói càng rõ và đủ hơn: Như lai sử dụng phương tiện, nói các
pháp mà không thủ đắc, nói sạch không mà có thành tựu (Chính 1/35). Như
vậy đúng là "dĩ hữu không nghĩa cố, nhất thế pháp đắc thành"
(Trung luận, Chính 30/33). Nên phải chiêm nghiệm lời dạy đầy tính tích cực
sau đây của Phật: Cái thân vô thường mà ông cho là tự ngã đó, ta nói
nó là ô nhiễm, là thanh tịnh, là giải thoát. Ông đừng nói ô nhiễm
không thể diệt trừ, thanh tịnh không thể phát sinh, con người phải ở mãi
trong sự đau khổ; đừng nói như vậy, vì ô nhiễm có thể diệt trừ,
thanh tịnh có thể phát sinh, con người có thể ở trong an lạc (Trường,
Chính 1/112).