Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .

Hai Thời Công Phu
HT. Thích Trí Quang dịch giải


7
3. Lược Nói Bát Nhã Và Không
Của Bát Nhã Trong Đại Thừa

Bát nhã là Phật mẫu.- Trong đại thừa, Bát nhã là Phật mẫu: mẹ sinh của Phật. Mà là Phật mẫu thì cũng là Pháp mẫu: mẹ sinh của Pháp. Nên ngay như kinh Pháp hoa, căn bản cũng là Bát nhã: là Phật tri kiến. Như lai tòa trong 3 pháp của pháp sư Pháp hoa, phần hai của hành xứ cận xứ trong an lạc hành, đều là Bát nhã và Không của Bát nhã. Hơn nữa, thọ lượng bất tận của Phật mới chính là Bát nhã: Như lai đúng như sự thật của 3 cõi mà thấy 3 cõi không sinh không chết, không lui mất không hiện ra, không tồn tại không nhập diệt, không thật không giả, không như nhau không khác nhau.

Bát nhã là chủ đạo của Bồ tát hạnh.- Bồ tát hạnh có 6 đại mục gọi là 6 ba la mật. Ba la mật có nghĩa là rời, không phải chỉ nghĩa là đến (69) : rời bờ bến bên này mà vượt đến bờ bến bên kia, nên dịch nghĩa là đáo bỉ ngạn, dịch tắt là độ. Như vậy ba la mật có nghĩa là toàn hảo. Sáu sự toàn hảo là thí giới nhẫn tiến định tuệ (cống hiến, đạo hạnh, chịu đựng, nỗ lực, chuyên chú, tuệ giác) (70) . Sáu sự này là nhân tố của tuệ giác vô thượng, là nhân tố đem lại mọi sự toàn hảo cho chúng sinh, nên gọi là Biển cả pháp trắng (Du đà, Chính 30/529).

Sáu ba la mật được gọi bằng cái tên ấy là vì những sự hơn hết: vì lấy bồ đề tâm làm chỗ nương tựa, vì thực thi đủ hết mọi sự, vì lấy sự yên vui chúng sinh làm chủ đề, vì được sự chủ đạo của vô phân biệt trí (bản thân của Bát nhã), vì hướng đến tuệ giác vô thượng, vì hủy diệt phiền não chướng và sở tri chướng (Nhiếp luận, Chính 31/144). Nhưng 6 ba la mật trong vô số kiếp thứ nhất, nghĩa là từ thắng giải hành địa đến sơ địa, mới được gọi là ba la mật; rồi qua vô số kiếp thứ hai, nghĩa là từ sơ địa đến bát địa, thì được gọi là cận ba la mật; và đến vô số kiếp thứ ba, nghĩa là từ bát địa đến Phật địa, thì được gọi là đại ba la mật (Giải thâm mật, Chính 16/707). Trước 3 vô số kiếp thì chỉ được gọi là thí giới nhẫn tiến định tuệ mà thôi. Tu học 6 ba la mật thì phải bằng 5 sự: một là trước hết tin mạnh mẽ và hiểu thông suốt những giáo lý trong bồ tát tạng nói về 6 ba la mật, hai là đem cái diệu trí được có bởi văn tư giáo lý ấy mà nỗ lực thực hành, ba là giữ bồ đề tâm, bốn là gần thiện tri thức, năm là nỗ lực liên tục (Giải thâm mật, Chính 16/705). Sáu ba la mật lấy đại bi làm nhân, lấy ích lợi chúng sinh làm quả, lấy vô thượng bồ đề làm lợi (Giải thâm mật, Chính 16/707).

Bát nhã (tuệ) tuy là 1 trong 6 ba la mật, nhưng cái vô phân biệt trí làm chủ đạo cả 6 ba la mật chính là Bát nhã, nên Bát nhã được tôn kính nhất.

Bát nhã là gì? Nếu bồ tát rời xa 2 cực đoan thêm (có) và bớt (không) mà đi trong trung đạo, thì đó là Bát nhã. Do Bát nhã này mà biết đúng sự thật (1) về giải thoát là 3 giải thoát môn, (2) về tự tánh là 3 tự tánh, (3) về vô tánh là 3 vô tánh, (4) về thế tục đế là 5 minh xứ, và (5) về thắng nghĩa đế là 7 chân như (Giải thâm mật, Chính 16/706). Năm sự biết đúng như sự thật này diễn dịch 3 loại sau đây mà 3 loại ấy lại đủ hơn nhiều: bát nhã biết thế tục đế, bát nhã biết thắng nghĩa đế, bát nhã biết ích lợi chúng sinh (Giải thâm mật, Chính 16/705). Trong cái biết thế tục đế, Du dà thêm biết 3 pháp tụ: biết cái gì hữu ích, cái gì vô ích, cái gì cả hai; còn cái biết ích lợi chúng sinh thì Du dà nói là làm được mọi ích lợi chúng sinh (Chính 30/528). Nhưng 5 sự biết đúng như sự thật và 3 loại biết trên đây được qui nạp như sau: Bát nhã có 3 phần, một là da hành vô phân biệt trí, là phần nỗ lực; hai là căn bản vô phân biệt trí, là phần bản thân; ba là hậu đắc vô phân biệt trí, là phần hoạt dụng (Nhiếp luận, Chính 31/145).

Không của Bát nhã.- Không của Bát nhã thường được gọi là tánh không. Không ấy, nay căn cứ Trung luận, có thể trình bày bằng 3 cách sau đây.

Một, đương sinhvô sinh nên Không, là chính nơi các pháp đương sinh đương có trước mắt mà xét sự sinh ấy là vô sinh, vì không phải tự sinh, không phải tha sinh, không phải cọng sinh, không phải vô nhân sinh (Chính 30/2).

Hai, duyên sinh nên Không, là trong nguyên lý tương quan, cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không (71) , nên nói duyên sinh là không là giả là trung đạo (Chính 30/33).

Ba, và đây mới chính xác, Không là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt (Chính 30/24 và 25) -- Không là không sinh diệt, không thường đoạn, không nhất dị, không lai xuất: nói duyên sinh một cách siêu việt hý luận (72) như vậy (Chính 30/1).

Tác dụng Không của Bát nhã.- Không như vậy là hủy diệt tà kiến và thành tựu các pháp. Tà kiến là 62 tà kiến (Chính 30/36). Tà kiến ấy có thứ phá hoại yên vui thế gian, có thứ phá hoại đường đi niết bàn, và tất cả đều bị Không hủy diệt (Chính 30/30). Không mà như vậy thì chính vì Không mà các pháp thành tựu (Chính 30/33).

Sau hết, cũng nên biết tu học Bát nhã thì sinh ở đâu? Phật đã dạy như sau, trong kinh Đại bát nhã: Sống theo Bát nhã thì từ cõi Phật đến cõi Phật, không tách rời Phật (Chính 8/225). Từ cõi Phật đến cõi Phật, câu ấy có 2 nghĩa. Một, ngay trong đời này mà tu tập Bát nhã là sống trong Bát nhã ấy, nghĩa là sống trong cõi Phật ngay trong cõi đời này, rồi các đời sau cũng tự tiếp tục như vậy. Hai, do sự sống trong cõi Phật ngay trong cõi đời này mà đời sau sinh ra ở đâu cũng nhằm cõi Phật cả, trong có các cõi Phật của đức Di đà và đức Di lạc. Thành thật luận nói, chúng sinh có 4: có người từ chỗ tối đến chỗ tối, có người từ chỗ tối đến chỗ sáng, có người từ chỗ sáng đến chỗ tối, có người từ chỗ sáng đến chỗ sáng. Từ cõi Phật đến cõi Phật là từ chỗ sáng đến chỗ sáng, mà là chỗ sáng nhất.

4. Lược Nói Bát Nhã Và Không Của Bát Nhã Trong Tâm Kinh

Mặc dầu Tâm kinh chỉ là 1 bài kinh thuộc bộ Bát nhã, nhưng quả thật có những sự độc đáo rõ rệt, không thể không nói riêng ra. Thêm nữa, tiểu mục này tuy tiêu đề nói về Bát nhã và Không của Bát nhã trong Tâm kinh, nhưng không thể không nói những sự độc đáo của Tâm kinh mà làm nổi bật được 2 điều này.

Sự độc đáo thứ nhất của Tâm kinh là nói về cái Không siêu việt. Nếu có thể nói có cái Không biện chứng và có cái Không siêu việt, thì Tâm kinh biểu thị cái Không siêu việt nhiều hơn.

Cái Không siêu việt là gì? Là cái Không trong cách trình bày thứ Ba của tiểu mục 3. Cái Không ấy là ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt: là siêu việt tư duy và thảo luận, là bất khả tư nghị. Cái Không ấy được Tâm kinh nói là bất sinh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Không ấy Pháp hoa và Trung luận gọi là thật tướng, Thiền tông gọi là bản địa phong quang.

Cái Không của Tâm kinh như vậy thì Bát nhã của Tâm kinh phải là vô phân biệt trí, và Thiền tông thì trực hạ thừa dương.

Sự độc đáo thứ hai của Tâm kinh là nói Bát nhã là một bài chú. Hai bản dịch sớm nhất của Tâm kinh là của ngài Chi khiêm, đề Ma ha bát nhã ba la mật chú kinh, và của ngài La thập, đề Ma ha bát nhã ba la mật đại minh chú kinh. Rồi chính bản đối phiên chữ đâu nghĩa đó của ngài Huyền tráng cũng không dịch 4 tên chú mà dịch: Thế nên phải biết bài chú vĩ đại Bát nhã ba la mật (là) bài chú đại minh, bài chú vô thượng, bài chú vô đẳng đẳng (Chính 8/852); nghĩa là Bát nhã được gọi là đại chú: bài chú vĩ đại. Sau hết, quan sát sơ hay kyՠgì cũng thấy rõ ràng Tâm kinh cốt nói Bát nhã là một bài chú: không những câu chú cuối cùng là một bài chú, mà chính văn trước đó cũng là một bài chú, tất cả hiển ngữ và mật ngữ của Tâm kinh toàn là bài chú của Bát nhã.

Sự độc đáo thứ ba của Tâm kinh là đem Bát nhã và Không của Bát nhã làm thành một cảnh ngữ để tu học Bát nhã. Câu mật ngữ của bài chú Bát nhã trong Tâm kinh chính yếu là chữ Yết đế. Theo sự giải thích của ngài Pháp tạng (Chính 33/555), chữ Yết đế ấy dịch là khứ, là độ. Khứ là đi tới đi, độ là vượt qua đi. Đi tới đi, vượt qua đi, chính là không ái, không thủ: là Không, là Bát nhã. Nên đi tới đi hay vượt qua đi là biến Bát nhã và Không của Bát nhã thành một cảnh ngữ trong cuộc sống: phóng hạ tất cả, thoát lạc hết thảy, không vướng mắc, không khiếp sợ, không thác loạn, người tu học Bát nhã sống với bản địa phong quang, chánh kiến và thiện dụng toàn bộ cuộc sống.

5. Lược Nói Các Pháp Số Trong Tâm Kinh

Tâm kinh có các pháp số sau đây: 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, 12 duyên sinh, 4 đế, 2 chuyển y. Nên lược nói trước ở đây về các pháp số này.

Về 5 uẩn, uẩn cũng gọi là ấm. Nhưng đó là thường đọc. Đọc đúng theo 2 vị đại sư Tịnh ảnh và Khuy cơ thì đọc âm, nghĩa như chữ âm trong chữ âm dương: âm tích, âm tụ. Như vậy âm cũng là uẩn, và có thể đổi chữ mà nói là hợp thể. Năm uẩn chính là thân tâm (và vũ trụ của thân tâm) chúng ta đây. Sắc uẩn bao gồm tất cả vật lý của cơ thể và ngoại cảnh (72B) . Thọ uẩn bao gồm tất cả cảm giác của cơ thể và tâm trí. Tưởng uẩn (73) bao gồm tất cả ấn tượng, liên tưởng. Hành uẩn bao gồm tất cả tâm sở khác ngoài 2 tâm sở thọ và tưởng (74) . Thức uẩn bao gồm tất cả tâm vương. Như vậy pháp số 5 uẩn thu gọn sắc mà mở rộng tâm.

Về 12 xứ, cũng gọi lục nhập: 6 căn giao tiếp 6 cảnh nên gọi 6 nhập, và 6 nhập, như vậy, tức là 12 xứ. Xứ là sinh xứ: chỗ giúp cho 6 thức phát sinh. Trong 12 xứ, trừ phần tâm của pháp xứ và trừ ý xứ (75) , tất cả 10 xứ còn lại và phần sắc của pháp xứ đều là sắc uẩn. Như vậy pháp số 12 xứ thu gọn tâm mà mở rộng sắc.

Về 18 giới, giới ở đây nghĩa là chủng loại: 6 căn, 6 cảnh và 6 thức phân thành từng chủng loại. Từng chủng loại còn được kê nhãn giới, sắc giới và nhãn thức giới, cho đến ý giới, pháp giới và ý thức giới. Như vậy pháp số 18 giới quân bình tương đối về sắc và tâm.

Các pháp số 5 uẩn, 12 xứ và 18 giới hay gọi là 3 khoa. Lại hay nói 5 uẩn phá ngã chấp. Nhưng luận Đại thừa ngũ uẩn nói: Hỏi, vì gì Phật nói uẩn xứ giới? Đáp, vì, theo thứ tự, đối trị 3 thứ ngã chấp: nhất tánh ngã chấp, thọ giả ngã chấp, tác giả ngã chấp (76) (Chính 31/850).

Về 12 duyên sinh, có người nói vốn chỉ có 10. Nói như vậy thì hơi lạ, vì đã có ái với thủ thì làm sao không có vô minh và hành? Duyệt lại A hàm thì thấy pháp số 12 duyên sinh quan trọng không nhỏ, nhất là đối với các vấn đề luân hồi và giải thoát. Biết đúng sự thật về 12 duyên sinh là tuệ giải thoát, hữu ngã cũng biết, vô ngã cũng biết, hữu ngã vô ngã cũng biết, phi hữu ngã phi vô ngã cũng biết; như lai hữu chung cũng biết, như lai vô chung cũng biết, như lai hữu chung vô chung cũng biết, như lai phi hữu chung phi vô chung cũng biết (Trường, Chính 1/61). Nhưng biết chứ không phải ký (ghi nhận), và vì sao không ký thì Phật đã nói rõ trong Trung a hàm và Trường a hàm (Chính 1/804 và 111).

Về 4 đế thì đế chính là chân lý. Xét ra 4 đế mới thật đặc hữu của Phật giáo từ danh đến nghĩa. Nên 4 đế cực kỳ đơn giản mà cũng cực kỳ bao la. Cứ nhìn mục lục của những đại tác như Thành thật luận hay Câu xá luận, thấy chỉ nói về 4 đế, cũng đủ biết đặc tính ấy.

Về 2 chuyển y là đại niết bàn và đại bồ đề. Gồm cả 2 chuyển y thì gọi là Phật quả. Cả 2 chuyển y đều là kết quả của Bát nhã.

Đại niết bàn là tánh tịnh niết bàn (chân như bản lai thanh tịnh), hữu dư niết bàn (chân như xuất phiền não chướng), vô dư niết bàn (chân như xuất sinh tử khổ) (77) , vô trú niết bàn (chân như xuất sở tri chướng). Vô trú niết bàn được đại bi đại trí vĩnh viễn phụ dực nên không ở sinh tử không ở niết bàn (78) , lợi lạc chúng sinh, tận cùng vị lai dụng mà thường tịch (Thành duy thức, Chính 31/55).

Đại bồ đề là đại viên cảnh trí (chuyển đệ bát thức), bình đẳng tánh trí (chuyển đệ thất thức), diệu quán sát trí (chuyển đệ lục thức), thành sở tác trí (chuyển tiền ngũ thức) (Thành duy thức, Chính 31/56 và 57). Bốn trí này phối nhiếp 3 thân, nên đại bồ đề có chỗ nói về 3 thân (Nhiếp luận, Chính 31/149).

Điều nên nói thừa ở đây, là trong A hàm, niết bàn là gì thì có vẻ diễn tả bằng sự không diễn tả. Đến đại thừa thì, như trên, nói rất minh bạch, và minh bạch nhất là vô trú niết bàn.

6. Thử Hội Dịch Tâm Kinh

Khởi sự từ năm 223 cho đến năm 980, và sau đó vẫn còn, Tâm kinh có khá nhiều bản dịch, và hiện còn khá đủ, nằm trong Chính 8/847-852 (và ở chỗ khác nữa). Nay tôi căn cứ những bản dịch ấy, nhất là căn cứ đoạn văn mà tôi thấy là xuất xứ của Tâm kinh (Chính 8/223 và 5/22), bắt chước người xưa, thử làm một bản hội dịch như dưới đây. Và đây là những chữ tắt ghi trong bản hội dịch ấy.

Xx : xuất xứ của Tâm kinh.
Đb : định bản Tâm kinh, ngài Huyền tráng dịch.
Đp : đối dịch chữ đâu nghĩa đó, cũng ngài Huyền tráng dịch.
Td : bản dịch của ngài La thập.
Hd : bản dịch của ngài Thi hộ.
Pd : bản dịch của ngài Pháp thành.
nb : nhiều bản dịch.
Ts : lược sớ của ngài Pháp tạng.
bt : bổ túc của tôi.

Đây là bản hội dịch Tâm kinh
bài kinh Tinh túy của thần chú đại bát nhã (Td, Đb), mẹ sinh các vị toàn giác (nb).

Tôi nghe như vầy :

Một thời đức Thế tôn cùng các vị đại tỷ kheo và đại bồ tát ở trong đỉnh Linh sơn, thuộc thành Vương xá. Đại bồ tát Quan tự tại cũng hiện diện trong đại hội này. Ngài là vị đại bồ tát đã đi (Hd) vào Bát nhã toàn hảo, soi thấy 5 hợp thể đều Không (nb).

Ngài nói, tôn giả Thu tử (nb), như trong kinh Đại bát nhã, đức Thế tôn đã dạy cho tôn giả, rằng (bt) Thu tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy. Thu tử, không ấy của các pháp không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt (nb), không quá khứ, không vị lai, không hiện tại (Xx, Td). Thế nên trong Không không sắc thọ tưởng hành thức, không nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không nhãn giới cho đến không ý thức giới, không vô minh và sự diệt tận của vô minh, cho đến không lão tử và sự diệt tận của lão tử, không khổ tập diệt đạo, không quán trí, không thủ đắc (Xx, nb).

Tôn giả Thu tử, vì không thủ đắc (nb) nên Bồ tát y theo Bát nhã toàn hảo thì tâm không bị chướng ngại, không bị chướng ngại thì không khiếp sợ, siêu thoát mộng tưởng thác loạn, cứu cánh niết bàn (nb); lại vì không thủ đắc nên (bt) Phật đà cả ba thì gian y theo Bát nhã toàn hảo thì được vô thượng bồ đề (nb). Tôn giả Thu tử, do đó mà biết Bát nhã toàn hảo là thần chú vĩ đại: (Đp, Pd) thần chú rất sáng chói, thần chú tối thượng, thần chú tuyệt bậc mà đồng bậc, trừ được hết thảy khổ não, chắc thật, không hư ngụy. Nên tôi tuyên thuyết thần chú Bát nhã toàn hảo: (nb) Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, vượt qua bên kia hoàn toàn: vượt qua tuệ giác vô thượng. Mau chóng thành tựu như vậy! (Ts). Tôn giả Thu tử, tu học thần chú này là tu học Bát nhã toàn hảo (Hd).

Bấy giờ đức Thế tôn tán dương đại bồ tát Quan tự tại, tốt lắm, đúng như lời đại bồ tát nói. Đối với Bát nhã toàn hảo, hãy tu học như vậy. Tu học như vậy thì chư vị Như lai đều hoan hỷ. Nghe đức Thế tôn dạy như vậy, tất cả 4 chúng và 8 bộ đề rất hoan hỷ, tín thọ và phụng hành (nb).

Ghi chú :

Do đó mà biết Bát nhã toàn hảo là thần chú vĩ đại: thần chú rất sáng chói ... Câu này cũng có thể dịch: Do đó mà biết thần chú vĩ đại Bát nhã toàn hảo là thần chú rất sáng chói... Lại có thể dịch: Do đó mà biết Bát nhã toàn hảo, thần chú vĩ đại ấy là thần chú rất sáng chói...

 

Lược Giải Tâm Kinh

Trước hết, dưới đây là những chữ gọi tắt những tài liệu dùng trong phần lược giải này.

Xuất xứ: một đoạn văn của kinh Đại bát nhã (Chính 8/223 và 5/22).

Khiêm dịch: bản dịch của ngài Chi khiêm (đã mất, chỉ còn đầu đề).

Thập dịch: bản dịch của ngài La thập (Chính 8/847).

Đối phiên: bản dịch chữ đâu nghĩa đó của ngài Huyền tráng (Chính 8/851).

Hộ dịch: bản dịch của ngài Thi hộ (Chính 8/852).

Lược giải Tâm kinh bằng 3 tiết: tiết 1 lược giải đầu đề, tiết 2 lược giải chính văn, tiết 3 viết tắt lại Tâm kinh.

Tiết 1: Lược Giải Đầu Đề
Bài kinh Tinh túy của đại bát nhã

Hoa văn đầu đề Tâm kinh là Ma ha bát nhã ba la mật đa tâm kinh, dịch đủ là bài kinh (kinh) nói về tinh túy (tâm) của đại trí độ (ma ha bát nhã ba la mật đa).

Nhưng tôi ngờ tâm là chú tâm (tinh túy của thần chú) (79) . Nếu ngờ như vậy là đúng thì đầu đề Tâm kinh có thể thêm như sau: Ma ha bát nhã ba la mật đa chú tâm kinh, bài kinh nói về tinh túy của thần chú đại trí độ. Rất rõ ràng Tâm kinh cốt nói về thần chú Bát nhã, cốt nói Bát nhã là thần chú, nên đầu đề có thể theo 2 bản Khiêm dịch và Thập dịch mà thêm như vậy.

Tiết 2: Lược Giải Chính Văn

Chính văn Tâm kinh có thể chia làm 3 mục: mục 1 mở đầu, mục 2 nói về Bát nhã, mục 3 nói về thần chú Bát nhã.

Mục 1: Mở Đầu

Quan tự tại đại bồ tát đã đi vào Bát nhã ba la mật đa sâu xa, soi thấy năm uẩn đều không, vượt mọi khổ ách.

Quan tự tại là đức Quan âm. Hoa nghiêm sớ sao nói Bà lô chỉ đế dịch Quan, Thấp phạt ra dịch Tự tại, Nhiếp phạt ra dịch Âm; Phạn bản tự có 2 tiếng nên dịch ra khác nhau (Vạn 11/291B) (80) . Đại bồ tát, sát chính văn thì chỉ là bồ tát. Nhưng bồ tát là danh từ gọi chung tất cả bồ tát, từ thấp đến cao. Còn đại bồ tát thì gọi các vị như đức Quan âm ở đây, nên tôi lấy chữ của một số bản dịch khác mà bổ túc.

Đã đi vào, sát chính văn thì chỉ nói đi. Nhưng nói đã đi thì đúng hơn. Không có chữ đã thì có vẻ chỉ khi nói Tâm kinh, đức Quan âm mới đi vào, hay tệ hơn nữa mới bắt đầu đi vào, Bát nhã. Nên tôi lấy chữ của Hộ dịch mà dịch. Hộ dịch nói rõ dĩ năng tu hành (Chính 8/852). Bát nhã ba la mật đa sâu xa là Bát nhã đại ba la mật, thuộc vô số kiếp thứ ba. Thấy năm uẩn là thấy tất cả các pháp qua pháp số 5 uẩn, hơn nữa, 5 uẩn nói sát thân tâm và thế giới của thân tâm chúng ta đây. Đều không, đúng ra phải dịch đều là Không, và Không ở đây là thật tướng không, cái không siêu việt mà mục 2 sẽ nói. Vượt mọi khổ ách là câu mà chính bản Đối phiên không có, cũng như một số bản dịch khác không có. Không có thì già dặn và đầy đủ hơn, bởi vì cắt nghĩa chữ khổ ách sâu rộng đến mấy, Bát nhã cũng không phải chỉ vượt qua khổ ách mà thôi.

Trọn lời mở đầu trên đây có thể viết tắt lại như sau: Đại bồ tát Quan tự tại đã thâm nhập đại bát nhã, thấy tất cả các pháp toàn là Không.

Mục 2: Nói Về Bát Nhã

Mục này có 2 đoạn: đoạn 1 nói về Bát nhã, đoạn 2 nói về đại dụng của Bát nhã.

Đoạn 1: Nói Về Bát Nhã

Ngài nói, tôn giả Thu tử, sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy. Tôn giả Thu tử, Không ấy của các pháp không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt. Thế nên trong Không không sắc thọ tưởng hành thức, không nhãn nhĩ tĩ thiệt thân ý, không sắc thanh hương vị xúc pháp, không nhãn giới cho đến không ý thức giới, không vô minh và sự diệt tận của vô minh, cho đến không lão tử và sự diệt tận của lão tử, không khổ tập diệt đạo, không quán trí, không thủ đắc, vì không thủ đắc gì cả.

Ngài nói là chữ bổ túc. Đáng lẽ còn bổ túc thêm nữa: Ngài nói, tôn giả Thu tử, như trong kinh Đại bát nhã, đức Thế tôn đã dạy cho tôn giả, rằng. Đáng lẽ phải bổ túc thêm như vậy, vì trọn đoạn chính văn trên đây gần như sao lại Xuất xứ.

Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc; sắc tức là không, không tức là sắc. Thọ tưởng hành thức cũng đều như vậy. Câu này có thể viết tắt lại mà đủ hơn, như sau: các pháp chẳng khác không, không chẳng khác các pháp; các pháp tức là không, không tức là các pháp. Và không đây là thật tướng không, được nói ngay sau câu này. Nên câu này lấy câu đương xứ tiện thị của Thiền tông mà giải thích thì tuyệt hảo.

Không ấy của các pháp, sát thì phải dịch: Không của các pháp ấy.

Không ấy của các pháp không sinh không diệt, không nhớp không sạch, không thêm không bớt Xuất xứ và Thập dịch còn có không quá khứ, không vị lai, không hiện tại. Không sinh không diệt là không khái niệm phát sinh với không khái niệm tiêu diệt, không dơ không sạch là không khái niệm thanh khiết với không khái niệm dơ bẩn, không thêm không bớt là không khái niệm thêm lên với không khái niệm bớt đi (81) ; không quá khứ, không vị lai, không hiện tại (82) thì có 2: không quá khứ không hiện tại là không khái niệm đã mất với không khái niệm đang còn, không vị lai không hiện tại là không khái niệm sẽ có với không khái niệm đang có. Một số phạm trù đủ cả không gian thì gian này tiêu biểu cho những khái niệm đối kháng nhau, và những khái niệm như vậy được gọi là thủ đắc: là ngã chấp pháp chấp. Nói không sinh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt (và không quá khứ, không vị lai, không hiện tại) là nói thật tướng không: thật tướng của các pháp siêu việt những khái niệm như vậy. Thực chất cái biết của chúng ta chỉ là sự hình thành của những khái niệm như vậy nên gọi là ngã chấp pháp chấp; còn Bát nhã là tuệ giác siêu việt cái biết ấy nên gọi là không. Bất nhị pháp môn của kinh Duy ma là nói về tuệ giác này đây. Và câu chính văn trên đã mở đầu và làm căn bản cho danh tác Trung luận.

Câu chính văn tiếp theo có thể viết tắt như sau: Thế nên trong Không không 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, không 12 duyên sinh và sự diệt tận của 12 duyên sinh, không 4 đế, không quán trí, không thủ đắc, vì không thủ đắc gì cả. Câu này có nghĩa là trong sự soi sáng của thật tướng không thì không có các pháp qua sự thủ đắc theo những khái niệm đối kháng nhau: không có các pháp qua ngã chấp pháp chấp. Tại sao? câu vì không thủ đắc gì cả là nói lý do: vì thật tướng không là không thủ đắc theo những khái niệm ấy, là không ngã chấp pháp chấp.

Không quán trí là không có sự hiện quán, quán các pháp trên. Không thủ đắc là không có sự thu hoạch của sự hiện quán. Sự thu hoạch của hiện quán là các Thánh quả, nên Xuất xứ nói rõ: ... không quán trí, không thủ đắc: không Tu đà hoàn và tuệ giác Tu đà hoàn, không Tư đà hàm và tuệ giác Tư đà hàm, không A na hàm và tuệ giác A na hàm, không A la hán và tuệ giác A la hán, không Duyên giác và tuệ giác Duyên giác, không Phật đà và tuệ giác Phật đà.

Trọn đoạn chính văn đoạn 1 trên đây có thể viết tắt như sau: Các pháp là không, không là các pháp; Không ấy là không sinh diệt, dơ sạch, thêm bớt ... Thế nên nơi Không không 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, không 12 duyên sinh, không 4 đế, không quán trí, không thủ đắc, vì không thủ đắc gì cả.

Trọn đoạn chính văn này nên lược giải bằng sự ví dụ của Duy thức học: con rắn là thấy lầm sợi giây, biết đích là sợi giây thì không còn con rắn. Lại nên lược giải bằng lời Phật nói sau đây, trong kinh Pháp hoa: Như lai đúng như sự thật của 3 cõi mà thấy 3 cõi là không: không sinh không chết, không lui mất không hiện ra, không tồn tại không nhập diệt, không thật không giả, không như nhau không khác nhau. Không như chúng sinh 3 cõi nhìn thấy 3 cõi; 3 cõi như vậy Như lai nhìn thấy rõ ràng, không có lầm lẫn.

Đoạn 2: Nói Về Đại Dụng Của Bát Nhã

Bồ tát vì y theo Bát nhã ba la mật đa nên tâm không bị chướng ngại, vì không bị chướng ngại nên không khiếp sợ, siêu thoát mộng tưởng thác loạn, cứu cánh niết bàn. Phật đà cả ba thì gian vì y theo Bát nhã ba la mật đa nên được vô thượng bồ đề.

Có một việc nên nói trước khi lược giải đoạn này. Ấy là vị trí của câu dĩ vô sở đắc cố. Khuy cơ đại sư (83) đã đặt câu ấy vào cuối đoạn trên, nói câu ấy giải thích tất cả chữ vô ở trên nó (Chính 33/540). Nhìn vào chính văn, thấy cách sử dụng chữ Cố của ngài Huyền tráng thì không thể không đồng ý với Khuy cơ đại sư. Vì nếu đặt câu dĩ vô sở đắc cố vào đầu đoạn này thì hiểu và dịch chữ Cố sẽ rất bất ổn: Vì không thủ đắc nên vì bồ tát y theo Bát nhã nên tâm không bị chướng ngại, vì không bị chướng ngại nên không khiếp sợ ... Về ý nghĩa, nếu đặt câu dĩ vô sở đắc cố vào đầu đoạn này thì chỉ là lặp lại sự không thủ đắc mà thôi, không có ý nghĩa như đã giải thích. Nhưng ý nghĩa như đã giải thích thì rất quan trọng. Cũng có thể giải thích sự không thủ đắc sao cho thích hợp để, như một số bản dịch khác, đặt câu dĩ vô sở đắc cố vào đầu đoạn này, rồi phải chuyển văn mà dịch, như sau: vì không thủ đắc nên Bồ tát y theo Bát nhã thì tâm không bị chướng ngại ... (Lại vì không thủ đắc nên) Phật đà cả ba thì gian y theo Bát nhã thì được vô thượng bồ đề.

Bây giờ lược giải đoạn chính văn trên. Trong đoạn ấy nói không bị chướng ngại, không khiếp sợ, siêu thoát mộng tưởng thác loạn vậy nên biết chướng ngại, khiếp sợ và mộng tưởng thác loạn ở đây, của Bồ tát, là gì? Chướng ngại (84) ở đây là phiền não chướng và sở tri chướng (85) , 2 trọng chướng này là chướng ngại cho 2 chuyển y là đại niết bàn và đại bồ đề. Phiền não chướng và sở tri chướng là ngã chấp pháp chấp: là sự thủ đắc những khái niệm đối kháng nhau. Chướng ngại như vậy tạo ra sự khiếp sợ và sự mộng tưởng thác loạn sau đây. Khiếp sợ (86) ở đây là như Tăng a hàm nói, chúng sinh sợ sự không đáng sợ là sợ vô ngã và vô ngã sở (Chính 2/16). Khiếp sợ mà như vậy thì không những bằng bản năng mà còn bằng chính nhận thức. Mộng tưởng thác loạn ở đây là ảo tưởng thác loạn, tưởng các hành phi thường lạc ngã tịnh là thường lạc ngã tịnh, tưởng niết bàn thường lạc ngã tịnh là phi thường lạc ngã tịnh. Mộng tưởng thác loạn còn là ảo tượng thác loạn, ấy là sự sinh tử phi thường lạc ngã tịnh, được có bởi chính ảo tưởng thác loạn. Lược giải mộng tưởng thác loạn như vậy là diễn tả cách giải thích của đại sư Khuy cơ (Chính 33/541) (87) . Chư bồ tát tu học Bát nhã thì sự chướng ngại 2 chuyển y là 2 trọng chướng, và sự khiếp sợ cùng sự mộng tưởng thác loạn của 2 trọng chướng ấy, đều bị hủy diệt. Cũng phải nói thêm rằng, tu học Bát nhã dầu chưa có sức, oai thần của Bát nhã vẫn chế ngự được những nguy khốn như đã được thấy chính trong sử truyện của ngài Huyền tráng (88) .

Trọn đoạn Bồ tát vì y theo ... được vô thượng bồ đề, có nghĩa các vị Bồ tát, tức các đức Phật vị lai, cũng y như các đức Phật quá khứ và hiện tại, do tu học Bát nhã, tiêu dung 2 trọng chướng mà thành đạt 2 chuyển y. Lời này vừa lược giải vừa lược dịch về đoạn chính văn này. Lời này còn để thấy đoạn chính văn này nói là nói như vậy, chứ không phải nói Bồ tát y theo Bát nhã thì chỉ được đại niết bàn, còn Phật đà y theo Bát nhã thì chỉ được đại bồ đề.

Mục 3: Nói Về Thần Chú Bát Nhã

Do đó mà biết Bát nhã ba la mật đa là bài chú rất thần diệu: bài chú rất sáng chói, bài chú tối thượng, bài chú tuyệt bậc mà đồng bậc, trừ được hết thảy khổ não, chắc thật, không hư ngụy. Nên tôi nói chú Bát nhã ba la mật đa. Ngài liền nói chú ấy: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.

Đoạn chính văn này, căn cứ bản Đối phiên và một số bản dịch khác, thấy ngài Huyền tráng đã chuyển văn mà dịch thần chú Bát nhã có 4 tên. Xin dịch lại như sau để thấy sự chuyển văn ấy: Thế nên phải biết bài chú vĩ đại Bát nhã ba la mật đa (là) bài chú rất sáng chói, bài chú tối thượng, bài chú tuyệt bậc mà đồng bậc.

Tuyệt bậc mà đồng bậc, chính văn là vô đẳng đẳng. Từ ngữ này tôn xưng Phật và pháp của Phật (như Bát nhã ở đây), và thường được dịch: không bậc nào (vô đẳng) sánh bằng (đẳng); hoặc sánh bằng (đẳng) với bậc không thể sánh bằng (vô đẳng), nói cách khác là đồng bậc với tuyệt bậc. Nhưng nói gì đi nữa, vô đẳng đẳng mà cắt nghĩa như vậy thì chỉ là nghĩa tối thượng, không có gì đặc thù cả. Bồ tát Thế thân, trong Thập địa kinh luận, cắt nghĩa như sau: Vô đẳng là Phật sánh với chúng sinh thì chúng sinh không đồng đẳng với Phật, còn Đẳng là Phật với chúng sinh thì pháp thân đồng đẳng. Tại sao không chỉ nói vô đẳng (mà còn nói đẳng)? Là vì biểu thị đồng đẳng chánh giác (pháp thân) (Chính 26/132). Như vậy Bát nhã cũng vừa là tuyệt bậc vì tuệ giác khác không thể sánh bằng, vừa là đồng bậc vì Bát nhã ai cũng có và có thể thực hiện. Bài chú Bát nhã cũng vậy; bài chú ấy vừa là tuyệt bậc vì bài chú khác không thể sánh bằng, vừa là đồng bậc vì bài chú ấy ai cũng có thể tu học.

Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha. Câu mật ngữ này, căn cứ sự giải thích của ngài Pháp tạng (Chính 33/555), có thể dịch như sau: Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, vượt qua bên kia hoàn toàn: vượt qua tuệ giác vô thượng. Mau chóng thành tựu như vậy!

Câu mật ngữ ở đây, với hiển ngữ ở trên, phối hợp với nhau làm cho Tâm kinh thành 1 bài chú Bát nhã, và rõ ràng Tâm kinh cốt nói Bát nhã là 1 bài chú tâm.

Tiết 3: Viết Tắt Lại Tâm Kinh

Tâm kinh có thể và cần phải viết tắt lại, như sau.

Bài kinh

Tinh túy của đại bát nhã.

Đại bồ tát Quan tự tại đã thâm nhập đại bát nhã, thấy các pháp là Không. Ngài nói, tôn giả Thu tử, các pháp là không, không là các pháp. Không ấy không sinh diệt, dơ sạch, thêm bớt ... Thế nên nơi Không không 5 uẩn, 12 xứ, 18 giới, không 12 duyên sinh và sự diệt tận của 12 duyên sinh, không 4 đế, không quán trí, không thủ đắc, vì không thủ đắc gì cả. Chư vị Bồ tát và chư vị Phật đà vì y theo bát nhã nên cứu cánh niết bàn và thành tựu bồ đề. Do đó mà biết bát nhã là thần chú vĩ đại - thần chú sáng chói, thần chú tối thượng, thần chú tuyệt bậc mà đồng bậc. Nên tôi nói thần chú bát nhã: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề, tát bà ha.


Ghi Chú

Ghi Chú (1)
Lẽ đáng trong mục lục dưới đây, 2 phần dịch âm đều tiêu đề Hoa văn. Nay dịch âm dịch nghĩa đều tiêu đề Việt văn là để cho dễ hiểu.
 
Ghi Chú (2)
Trong tất cả 2 phần dịch âm và dịch nghĩa của 2 thời công phu, những chữ tiêu đề và những chữ trong vòng đơn, đều không tụng.
 
Ghi Chú (3)
Sáu câu này phân theo Chính 19/135.
 
Ghi Chú (4)
Trong các phẩm thần chú, tôi xếp Đại bi và Bát nhã vào với thập chú. Làm như vậy đúng với câu "phúng tụng Lăng nghiêm chư phẩm chú" hơn là hiểu chư phẩm chú chỉ là chỉ cho thập chú.
 
Ghi Chú (5)
Thiện thiên nữ tức Cát thường thiên nữ hay Công đức thiên nữ. Có người đổi ra Thiện nữ thiên, tôi tìm mà chưa thấy lý do và xuất xứ.
 
Ghi Chú (6)
Tại sao gọi là thần chú Bát nhã, hãy coi lược giải Bát nhã.
 
Ghi Chú (7)
Có bản chép tạo, đọc tháo, nghĩa là phe phái, đồng nghĩa với chúng.
 
Ghi Chú (8)
Có bản đổi ra "tam môn", nhưng xét ra không chỉnh. Coi chú thích 32 .
 
Ghi Chú (9)
Nguyên bản Chư kinh nhật tụng thì đến đây cũng tán Phật bằng bài "A di đà phật thân kim sắc", rồi niệm hiệu Di đà, Quan âm, Thế chí và Hải chúng. Sau đó phát nguyện theo 10 hạnh nguyện Phổ hiền. Như vậy thì nhất quán hơn đối với mục đích cầu sinh Cực lạc. Nhưng nay vẫn y theo truyền thống, để nguyên đoạn tán Phật và niệm Phật như thường trì tụng, chỉ đoạn phát nguyện thì vẫn làm theo Chư kinh nhật tụng bằng cách tụng 10 hạnh nguyện Phổ hiền. Thực tế hiện nay công phu sáng đều trì tụng như vậy.
Ghi Chú (10)
Bài này có chuyển đổi vài chỗ cho thích hợp. Như thử, nguyên là ngã thử. Bổn tôn Cực lạc quốc, nguyên là Vô lượng quang phật sát. Bổn tôn: coi chú thích 35 .
 
Ghi Chú (11)
Có bản chép nhân là nguyên nhân, vì trùng âm với nhân là nhân từ ở trên, nên có lẽ không đúng, nhưng nghĩa thì chính xác hơn hẳn chữ chân.
 
Ghi Chú (12)
Bỏ 1 câu không thích hợp.
 
Ghi Chú (13)
Để ai muốn tụng thì thay vào đoạn 3 của mục 4 ở trên. Chú ý, trừ 4 câu đầu là thể văn chỉnh cú, còn trọn bài không phải thể văn ấy, nhưng tôi dùng sự xuống dòng phân câu là để biết mà tụng khi tụng theo điệu mỗi câu cách hở 1 tiếng. Những bài văn như bài này thường hay tụng theo điệu ấy, nhưng có người tụng cách hở không đúng, làm cho người nghe biết người tụng không hiểu văn ý. Lối xuống dòng này còn áp dụng vào nhiều bài và nhiều chỗ sau đây.
 
Ghi Chú (14)
Có bản chép chúng, đồng nghĩa với chư.
 
Ghi Chú (15)
Có bản chép tràng, có nghĩa nhưng nghĩa không giản dị bằng thường.
 
Ghi Chú (16)
Có bản chép Phật: rất sai. Coi lược giải Hồng danh
 
Ghi Chú (17)
Có bản chép Phước: sai. Coi lược giải Hồng danh.
 
Ghi Chú (18)
Nguyên là ngã pháp, lời tự xưng. Phải đổi ra Phật pháp mới thích hợp sự lý ở đây.
 
Ghi Chú (19)
Tất cả những chỗ để Phật tử, cô hồn, hữu tình, nay chỉ để Phật tử. Coi lược ghi Thí thực.
 
Ghi Chú (20)
Ấy là đổi chính văn "thí thực dữ Phật tử". Coi lược ghi Thí thực.
 
Ghi Chú (21)
Từ đây đến hết mục này vừa là hồi hướng của văn Thí thực, vừa là hồi hướng của cả thời công phu tối. Coi lược ghi Thí thực.
 
Ghi Chú (22)
Chính văn là Bổn sư hòa thượng: không chính xác.
 
Ghi Chú (23)
a. Có tất cả 4 bài, toàn là văn nguyện sinh Cực lạc. Phụ lục cả ra đây để tùy ý sử dụng mà tụng thay vào đoạn 3 trong mục 4 của công phu tối.
b. Bài Thập phương này gọi đúng tên là "bài kệ phát nguyện của Đại từ bồ tát".
 
Ghi Chú (24)
Bài Khể thủ này gọi đúng tên là "văn nguyện sinh Cực lạc mới định của Liên trì đại sư".
 
Ghi Chú (25)
Bài Tại hội này lúc nhỏ tôi được nghe mỉa mai chỗ 3 ngày 7 ngày. Nay thấy rất sát với sự nguyện sinh Cực lạc. Nguyên trong Chư kinh nhật tụng, bài này dài hơn. Ở đây trích từ Nhật tụng của Phật giáo Huế. Ở đó chỉ trích lấy đoạn chính.
 
Ghi Chú (26)
Bài Ngã kim này hầu hết văn ý là của đức Phổ hiền. Đối chiếu thì thấy tất cả văn nguyện sinh Cực lạc đều diễn rộng bài này và bài Thập phương mà thành.
 
Ghi Chú (27)
Pháp Tô tất đế là chú Chuẩn đề, đức Thất câu chi là ngài Chuẩn đề. Chú Chuẩn đề viên mãn hết thảy tâm nguyện nên gọi là Tô tất đế. Ngài Chuẩn đề là Thất câu chi phật mẫu nên gọi tắt là đức Thất câu chi.
 
Ghi Chú (28)
Là 3 đường dữ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
 
Ghi Chú (29)
Là 8 chỗ (và người, lúc) chướng nạn cho sự thấy Phật nghe Pháp. Cũng gọi là 8 chỗ không rảnh (vô hạ): không rảnh hở mà tu hành. Tám chỗ ấy, 1, 2, 3 là 3 đường dữ; 4 là làm người mà ở đại châu Bắc câu lô, sống quá sướng; 5 là trời Trường thọ, sống quá lâu; 6 là làm người mà đui điếc câm ngọng; 7 là làm người mà thế trí biện thông, thông minh biện bác theo trí thức thế gian; 8 là làm người mà sinh trước hay sau Phật xuất thế và nhằm chỗ hay lúc không có Phật pháp.
 
Ghi Chú (30)
Có 2 pháp số, 1 cho người xuất gia là cha mẹ, sư trưởng (Tam bảo), quốc gia và thí chủ (chúng sinh); 1 cho người tại gia là cha mẹ, chúng sinh, quốc gia và Tam bảo.
 
Ghi Chú (31)
Là cõi Dục: có dâm dục, cõi Sắc: có sắc chất, cõi Vô sắc: không sắc chất.
 
Ghi Chú (32)
Có nơi đổi ra "tam môn". Đổi như vậy nghe như hay và phải. Nhưng đổi ra tam môn thì phải với ý sau đây của bồ tát Long thọ mới đúng, "Tại gia bồ tát nếu vào chùa Phật, thì khi đến trước cửa nên xá mà nghĩ ... đây là chỗ ở của hành giả Không, chỗ ở của hành giả Vô tướng, chỗ ở của hành giả Vô nguyện" (Chính 26/61). Dầu vậy, đổi ra chữ tam môn thì không chỉnh đối với chữ đàn việt ở dưới. Sơn môn đối với đàn việt mới chỉnh. Sơn môn, nghĩa đen là cửa núi, chỉ cho chùa, cho chư tăng trong chùa: chư tăng tu hành thanh tịnh thì tín đồ qui y tăng phước.
 
Ghi Chú (33)
Coi lại chú thích 9 .
 
Ghi Chú (34)
Theo kinh Phạn võng, Phật từ bản thân phân hóa ra một ngàn thân; một ngàn thân này mỗi thân lại phân hóa ra một trăm ức thân nữa (Chính 24/997). Như vậy, nói "phân thân đến ngàn trăm ức" có nghĩa phân thân ra một ngàn và một ngàn lần trăm ức. Nhưng đó là mới nói Phật phân hóa thân Phật, chưa nói Phật phân hóa ra thân các loài và phân hóa ra cảnh vật. Về sự phân hóa này, phẩm 2 của kinh Địa tạng nói Phật hiện đủ thân hình, hiện ra cảnh sông núi, bình nguyên, ao hồ, suối giếng. Địa tạng thập luân kinh cũng nói "hiện những cảnh đẹp cho người vui thích" (Chính 13/722).
 
Ghi Chú (35)
Bổn tôn: đấng mình tôn làm gốc để trì niệm, tu hành theo.
 
Ghi Chú (36)
Bổn sư: vị thầy gốc của cả Phật giáo.
 
Ghi Chú (37)
Bồ tát vị có 50 là 10 tín, 10 trú, 10 hạnh, 10 hướng và 10 địa. Qua 40 bồ tát vị đầu, hết phân biệt ngã chấp, vào nhập tâm của sơ địa trong 10 địa, thì gian này gọi là vô số kiếp thứ nhất; từ trú tâm của sơ địa lên đến nhập tâm của bát địa trong 10 địa, hết câu sanh ngã chấp và phân biệt pháp chấp, thì gian này gọi là vô số kiếp thứ hai; từ trú tâm của bát địa lên đến nhập tâm của Phật địa, hết cả câu sanh pháp chấp, thì gian này gọi là vô số kiếp thứ ba.
 
Ghi Chú (38)
Cũng gọi là Kim luân vương hay Luân vương, là vị cao nhất trong các vị Chuyển luân thánh vương (kim luân vương, ngân luân vương, đồng luân vương, thiết luân vương). Nói vắn tắt, từ ngữ này nói về vị nguyên thủ trị vì bằng sự giáo hóa 10 thiện nghiệp.
 
Ghi Chú (39)
Nói rõ là ngồi kim cang tòa trong bồ đề tràng.
 
Ghi Chú (40)
Là thanh văn, duyên giác và bồ tát.
 
Ghi Chú (41)
Coi phần 4 của lược giải Di đà.
 
Ghi Chú (42)
Bốn loài là phân loại chúng sinh theo 4 cách sinh (nên chính văn gọi là tứ sinh) bằng trứng, bằng thai, bằng thấp khí và bằng biến hóa. Chín cõi (cửu hữu) cũng gọi là cửu chúng sinh cư, cửu cư, là 9 nơi chúng sinh thích cư trú: 1 là nhân loại và 6 tầng trời cõi Dục; 2, 3 và 4 là sơ thiền, nhị thiền và tam thiền của cõi Sắc; 5 là Vô tưởng thiên trong tứ thiền của cõi Sắc; 6, 7, 8 và 9 là 4 tầng trời cõi Vô sắc.
 
Ghi Chú (43)
 
Ghi Chú (44)
Cửa huyền Hoa tạng là nói về báo độ của Phật. Biển tánh Tỳ lô là nói về báo thân của Phật. Báo độ báo thân thì tự tha không cách biệt, nên bồ tát Thế thân nói, "Nhất tâm chuyên niệm, phát nguyện nguyện sinh Cực lạc thì nhập Hoa tạng thế giới" (Chính 26/233).
 
Ghi Chú (45)
Bốn quả: Tu đà hoàn (Dự lưu), Tư đà hàm (Nhất lai), A na hàm (Bất lai). A la hán ( cúng). Ba thừa: thanh văn thừa (cỗ xe Thanh văn), duyên giác thừa (cỗ xe Duyên giác), bồ tát thừa (cỗ xe Bồ tát).
 
Ghi Chú (46)
Chính văn là trước ngã đam nhân, đúng ra là chấp trước ngã nhân. Ngã là bản ngã, tự ngã, nhân là linh hồn, tái sinh. Nay dịch như đã dịch là để dễ hiểu, cũng như chính văn viết đã chuyển ý rồi.
 
Ghi Chú (47)
Chính văn là trung quốc, không viết hoa vì không phải là Tàu, mà là những xứ trung tâm, có Phật pháp, có văn hiến tốt. Trái lại thì gọi là biên địa.
 
Ghi Chú (48)
Là không bỏ chúng sinh trong các thế giới hệ; nhưng cũng có nghĩa không bỏ mất, không tách rời pháp giới tánh là bản thể thanh tịnh. Câu này theo nghĩa thứ nhất là không bỏ pháp giới nên khắp vào trần lao, theo nghĩa thứ hai là không bỏ pháp giới khi khắp vào trần lao.
 
Ghi Chú (49)
Thường hay nói Phật đạo, cũng có khi nói Chủng trí, nhưng toàn là nói về Phật trí hay Phật tuệ. Riêng chữ Phật đạo, có nghĩa là đường đi của Phật, là thành quả của Phật, là giáo pháp của Phật, nhưng nghĩa chính thức là tuệ giác của Phật: chữ Đạo là dịch nghĩa chữ Bồ đề, nên Phật đạo chính là Phật tuệ, chỉ cho vô thượng bồ đề của Phật.
 
Ghi Chú (50)
Là nói chủ thể (hữu tình) và khách thể (vô tình) đều thành Phật trí. Nghĩa là khách thể tùy thuộc chủ thể, chủ thể và khách thể chuyển thành thân và độ của Phật.
 
Ghi Chú (51)
Liên trì hải hội là thế giơi Cực lạc. Thế giới ấy chỗ nào cũng có hồ thất bảo, trong có hoa sen mà người Cực lạc sinh ra từ đó, nên gọi là Liên trì. Ở đó Phật với Thánh chúng đông như biển cả nên gọi là Liên trì hải hội.
 
Ghi Chú (52)
Đất ngọc và Ao sen đều chỉ quốc độ Cực lạc. Hàm thức: hữu tình, tức chúng sinh.
 
Ghi Chú (53)
Tam hiền là 30 bồ tát vị, dùng tợ giải mà dẹp chướng hoặc và gọi chung là hiền, đó là 10 trú 10 hạnh và 10 hướng. Thập địa là 10 bồ tát vị sau hết, dùng chân trí mà trừ chướng hoặc và gọi chung là thánh.
 
Ghi Chú (54)
Là thường hành bất phóng dật (không buông thả, tự chế ngự). Đây là lời cuối cùng của Phật, "Nếu tỷ kheo tự chế ngự thì thế gian này có A la hán" (Chính 1/25), "Như lai thương các người nên phu diễn diệu pháp. Các người cũng phải tự lo cho mình, ở chỗ trống vắng mà tư duy diệu pháp, đừng nhác. Bây giờ không nỗ lực thì sau này hối hận cũng vô ích" (Chính 1/60).
 
Ghi Chú (55)
Cũng có thể dịch: nguyện cùng những người niệm Phật như con, mọi sự cảm ứng theo lúc hiện ra.
 
Ghi Chú (56)
Tôi ngờ từ câu này sắp xuống không phải nguyên hữu. Ý nghĩa đúng nhưng đặt vào đây làm loảng và lạc ý.
 
Ghi Chú (57)
Nói đủ là 5 bộ phận gieo xuống sát đất (ngũ thể đầu địa, ngũ luân đầu địa) tức 2 khuỷu tay, 2 đầu gối và đỉnh đầu lạy xuống sát đất.
 
Ghi Chú (58)
Ba thứ thân thể là pháp thân, báo thân và ứng thân. Bốn thứ trí giác là thành sở tác trí, diệu quán sát trí, bình đẳng tánh trí và đại viên cảnh trí. Năm thứ con mắt là nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Sáu thứ thần thông là thiên nhãn, thiên nhĩ, tha tâm, túc mạng, thần túc và lậu tận. Tổng trì hay đại tổng trì môn là đà la ni môn, nói chung có 4 là pháp tổng trì, nghĩa tổng trì, chú tổng trì và nhẫn tổng trì. Tổng trì là giữ cho thiện không mất, ác không sinh, và bản chất là niệm, định và tuệ.
 
Ghi Chú (59)
Là nằm nghiêng bên phải, chân trái chồng lên chân phải và cả 2 đều duỗi thẳng, tay phải co lại đỡ dưới má bên phải, tay trái duỗi thẳng trên mình.
 
Ghi Chú (60)
Là thân bịnh khổ, tâm tham luyến, ý thác loạn.
 
 
Ghi Chú (61)
Nghĩa là 8 thứ gió sau đây không thổi động nổi: 1 và 2 là lợi suy, là được hay mất sự vừa ý; 3 và 4 là hủy dự, là khen hay chê sau lưng; 5 và 6 là xưng cơ, là khen hay chê trước mặt; 7 và 8 là khổ lạc, là khổ hay vui tâm ý.
 
Ghi Chú (62)
Trọn vẹn ở đây là dứt khoát, nên lời qui y còn có 3 câu: qui y Phật thì không theo thiên thần quỉ vật, qui y Pháp thì không theo ngoại đạo tà giáo, qui y Tăng không theo tổn hữu ác đảng.
 
Ghi Chú (63)
Là tham sân si.
 
Ghi Chú (64)
Coi lược giải Hồng danh đoạn 3 thứ 1.
 
Ghi Chú (65)
Coi lại chú thích 29. Đối với ngoại đạo, Trường thọ thiên là niết bàn, đối với chánh pháp, Trường thọ thiên là tai nạn.
 
 
Ghi Chú (66)
Không thể nào học như ngài Huyền tráng mà đến lúc này vẫn chưa biết Tâm kinh không qua bản dịch của ngài Chi khiêm thì cũng qua bản dịch của ngài La thập. Nói dị nhân truyền thọ có thể chỉ là giới thiệu và đề cao Tâm kinh, và đọc cho ngài học Phạn bản của Tâm kinh ấy. Nhưng Phạn bản mà ngài Huyền tráng dịch chắc chắn phải là bản mà ngài tìm ra khi đến học ở Ấn độ, bởi vì 1 bài kinh đã cứu độ cho ngài đến như sử truyện của ngài đã ghi thì không thể nào ngài không tìm cho ra Phạn bản, và việc tìm ấy chắc chắn không khó.
 
Ghi Chú (67)
Có 1 bài gọi là tựa của bản đối phiên Tâm kinh. Bài ấy cũng ghi ngài Huyền tráng được sự cứu độ như thế nào của đức Quan âm và của bài Tâm kinh do đức Quan âm tuyên thuyết, nhưng ghi không sát với sử truyện của ngài Huyền tráng, tình lý lại kém xa.
 
Ghi Chú (68)
Tu bồ đề là vị chuyên tu về Không. Ngài từng nói, các pháp sinh nhau, các pháp dựa nhau, các pháp động nhau, các pháp loạn nhau, các pháp trị nhau, tất cả toàn là Không, không ngã nhân, không nam nữ ... (Tăng, Chính 2/575). Ngài xét về Không mà được Phật khen là người lạy Phật trước hết (Tăng, Chính 2/708). Thế nhưng thực sự không phải chỉ ngài Tu bồ đề chuyên tu về Không. Ngài Xá lợi phất cũng là vị chuyên tu như vậy (Tăng, chính 2/773 và 795). Và kỳ lạ là ngài Câu hy la, cậu ngài Xá lợi phất, có biệt danh Trường trảo phạn chí. Nói về Không một cách biện chứng chính là ngài này (Tạp, Chính 2/81). Khi mới gặp Phật, ngài thưa con không chấp nhận mọi sự thấy biết, Phật hỏi liền, thế ông có chấp nhận cái không chấp nhận ấy không, ông nói không. Phật khen ngợi là đã rời bỏ, đã giải thoát ... Ngài Xá lợi phất lúc ấy thọ cụ túc giới mới được nửa tháng, đang quạt hầu Phật, nghe như thế mà được tâm giải thoát (Tạp, chính 2/249). Nên bồ tát Long thọ đã nói, chính Phật muốn thỏa mãn những người như Trường trảo phạn chí mà nói Bát nhã (Đại trí độ, Chính 30/61).
 
Ghi Chú (69)
Chính 33/524.
 
Ghi Chú (70)
Ngoài pháp số 6 ba la mật, còn có pháp số 10 ba la mật: ngoài 6 thứ còn thêm 4 thứ nữa, đó là phương tiện, nguyện, lực, trí, và toàn là chi tiết của Bát nhã phần hậu đắc (Nhiếp luận, Chính 31/146; Giải thâm mật, Chính 16/705).
 
Ghi Chú (71)
Nguyên ngữ là thử hữu cố bỉ hữu, thử sinh cố bỉ sinh, là chỉ nói sự tương quan của 12 duyên sinh, và 12 duyên sinh cốt nói có nghiệp và nghiệp báo mà không có tác giả. Nói 2 câu này câu thì nói tính cách không gian của duyên sinh, câu thì nói tính cách thì gian của duyên sinh, chỉ là cách nói suy diễn. Nếu nói 2 tính cách này thì 12 duyên sinh có tính cách thì gian nhiều hơn. Sau này, duyên sinh tiến lên nói 4 duyên (nhân duyên, tăng thượng duyên, sở duyên duyên, đẳng vô gián duyên). Tuy chỉ 4 duyên nhưng nói đủ hơn về các duyên và về các duyên của tất cả các pháp. Sau này nữa duyên sinh chỉ nói trùng trùng duyên sinh, nhưng nói đủ và rộng nhất về sự tương quan của tất cả các pháp.
 
Ghi Chú (72)
Hý luận, nghĩa đen là bàn chơi, ở đây chỉ cho những chủ thuyết phản ảnh những phạm trù đối kháng lẫn nhau.
 
Ghi Chú (72B)
Nói chính xác thì sắc uẩn là cảm giác khách quan hóa.
 
Ghi Chú (73)
Tưởng ở đây không phải tưởng trong tình tưởng của kinh Lăng nghiêm.
 
Ghi Chú (74)
Duy thức nói còn bao gồm bất tương ưng hành pháp.
 
Ghi Chú (75)
Tiểu thừa chưa biết ý xứ là đệ thất thức. Ở đó chỉ lấy cái "tiền niệm vô gián diệt" của chính ý thức mà làm ý căn. Duy thức bác bỏ, nói tiền niệm vô gián diệt là đẳng vô gián duyên, không phải là tăng thượng duyên, mà căn thì phải là tăng thượng duyên.
 
Ghi Chú (76)
Chưa tìm thấy giải thích. Dưới đây là tạm giải thích theo chữ nghĩa được suy luận riêng: Nhất tánh ngã chấp: chấp tự ngã là duy nhất và thực tại. Thọ giả ngã chấp: chấp tự ngã là chủ thể của sự hưởng chịu kết quả. Tác giả ngã chấp: chấp tự ngã là chủ thể của sự tạo tác hành vi.
 
Ghi Chú (77)
Nói bằng từ ngữ khác, hữu dư niết bàn là chân như do diệt tận tập đế mà hiển lộ, vô dư niết bàn là chân như do diệt tận khổ đế mà hiển lộ (Khuy cơ, Chính 33/541). Thế nhưng hữu dư niết bàn và vô dư niết bàn có lẽ vốn rất giản dị: diệt 5 hạ phần kiết, không còn trở lại đây nữa là hữu dư niết bàn, diệt hữu lậu, không còn thọ hậu hữu nữa là vô dư niết bàn (lược dịch Tăng, Chính 2/579).
 
Ghi Chú (78)
Nhiếp luận nói vô trú niết bàn bỏ tạp nhiễm mà không bỏ sinh tử (Chính 31/148).
 
Ghi Chú (79)
Phật học đại từ điển nói, chú tâm, chữ tâm ấy cũng như chữ tâm trong đầu đề Bát nhã tâm kinh, có nghĩa là tinh túy, cốt yếu: tinh túy cốt yếu của thần chú nên gọi là chú tâm.
 
Ghi Chú (80)
Một vài vị đệ tử của chính ngài Huyền tráng cho rằng Quan tự tại cũng có thể không viết hoa, không phải tên người, mà là từ ngữ gọi các vị đã thành tựu sự quan tự tại. Nhưng ý kiến này không có ai quan tâm.
 
Ghi Chú (81)
Không thêm lên với không bớt đi: không khẳng định với không phủ định.
 
Ghi Chú (82)
Về 3 thì gian, thông thường nói quá khứ hiện tại vị lai, nhưng cách nói theo học lý thì vị lai hiện tại quá khứ: chưa có nhưng sẽ có là vị lai, có rồi mà đang còn là hiện tại, đang còn rồi mất đi là quá khứ, và đó là nói một giai đoạn, của bất cứ pháp gì. Rồi sự mất đi của giai đoạn này chính là sự sẽ có của giai đoạn kế tiếp, và các pháp cứ như thế mà diễn tiến
 
Ghi Chú (83)
Ngài là đệ tử đắc truyền của ngài Huyền tráng, giải thích Tâm kinh bằng bản Tâm kinh u tán (Chính 33/523-552), mở đầu với lời này: Tôi y theo sự truyền dạy (cuả thầy tôi) trước đây mà tán dương tóm tắt đối với nghĩa lý trung đạo (Không) (Chính 33/523). Ngài phân chính văn Tâm kinh làm 3 phần. Trong 3 phần ấy, phần hai mở đầu từ câu "tôn giả Thu tử" và chấm dứt ở câu "vì không thủ đắc gì cả". Ý kiến ấy, đồng thời với ngài đã có người đồng ý, ví dụ như ngài Tuệ tịnh (Vạn 41/211B), sau ngài vẫn có người đồng ý, ví dụ như ngài Trí húc (Vạn 41/471A).
 
Ghi Chú (84)
Chướng ngại, chính văn là quái ngại. Chữ quái vốn viết bô mịch, rồi bộ thủ, trước khi viết bộ võng. Quái ngại là bị vướng mắc, bị xiết, bị ngăn cản, nên ngài Khuy cơ nói quái là chướng (Chính 33/541). Người Anh dịch là cái vỏ che đậy tư tưởng. Trước đây tôi đã dịch nhẹ nhàng là vướng mắc, nay chữa cho sát là chướng ngại.
 
Ghi Chú (85)
Nghiệp quả thiếu phước hay vô phước, làm cho sự tu hành bị bao nhiều trở lực, nhất là trở lực xuất từ chính bản thân, cũng là những chướng ngại chi tiết của 2 trọng chướng. Bao nhiêu tại nạn bình thường hay ngang trái cũng vậy.
 
Ghi Chú (86)
Khiếp sợ vô ngã vô ngã sở là gốc. Từ gốc này, nghĩa là từ chấp ngã và chấp ngã sở mà còn, như ngài Khuy cơ giải thích, sợ không có phương tiện để sống, sợ tiếng xấu, sợ chết, sợ đường dữ, sợ oai công chúng hay cá nhân (Chính 33/541).
 
Ghi Chú (87)
Sự chướng ngại, cùng 2 sự khiếp sợ và mộng tưởng thác loạn của sự chướng ngại, cũng có thể nói giản dị hơn, trong bước đầu tu học Bát nhã. Nhưng sự giản dị nào cũng chỉ là chi tiết của 2 trọng chướng. Còn 2 trọng chướng thì phải nói ở đây, vì ở đây nói Bồ tát tu học Bát nhã, nói chướng ngại của 2 chuyển y.
 
Ghi Chú (88)
Oai linh của Bát nhã, hãy tạm coi Đại bát nhã. Ở đó nói, do Vạn 41/468A-470A trích dẫn, và tôi trích yếu như sau: Thiện nam hay thiện nữ nào đối với Bát nhã mà hết lòng lắng nghe, tiếp nhận, ghi nhớ, học đọc, tụng thuộc, tinh tiến thực hành, tư duy đúng lý, sao chép, diễn giảng, truyền bá rộng rãi, thì ngay đời này không bị thuốc độc tác hại, khí giới tổn thương, không bị lửa cháy, nước chìm, cho đến không bị bốn trăm lẻ bốn loại bịnh làm cho chết yểu, trừ ra bị vì định nghiệp đời trước. Quan quyền hay giặc thù bức bách mà chí tâm tụng niệm Bát nhã thì đến chỗ họ, họ cũng không hành hung. Oai linh của bát nhã tự làm ra như vậy ... Tụng niệm Bát nhã thì ... không sa vào 3 đường dữ, trừ ra phát nguyện vào đó mà tác thành chúng sinh; sinh ra ở đâu cũng đủ các giác quan, cơ thể không bị mọi thứ khuyết tật, không bao giờ sinh vào những nhà nghèo nàn, hèn hạ, thợ thịt, kẻ chài, thợ săn, trộm cướp, cai ngục, dọn quét phân rác và xác chết, đao phủ thủ ... Sinh ra ở đâu cũng không làm ác ..., mà lại tác thành chúng sinh, trang hoàng thế giới ... Ở đâu cũng không bị tổn hại bởi loài người và loài khác.

Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 3-5-2000


Phần | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 |

 


Cập nhật: 3-6-2000

Trở về thư mục "Kinh điển"

Đầu trang