- Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực
Chỉ Đề Cương III
- Pháp Sư Thích Từ Thông
CHƯƠNG THỨ MƯỜI
I - NHỮNG
NHẬN THỨC SAI LẦM THUỘC PHẠM VI HÀNH ẤM
A Nan ! Thiền giả tu tập tam
ma đề khi tưởng ấm đã hết thì những tư tưởng bình nhật của người
đó đã diệt hết; lúc ngủ, khi thức luôn luôn được giác chiếu rỗng lặng
như hư không trong sạch. Những mộng tưởng thô trọng không còn; Nhìn xem
cảnh vật, núi, sông, đất liền như một tấm gương trong sáng, đến đi
không vướng mắc, qua lại bặt dấu chân, chỉ còn một tánh tinh chân tịch
tĩnh. Căn nguyên của mọi hiện tượng sanh diệt từ đây phô bày trước
mắt. Bấy giờ thiền giả thấy rõ 12 loại chúng sanh trong thế giới mười
phương; dù chưa thấu suốt manh mối của mỗi chúng sanh, nhưng đã thấy
được cơ sở sanh diệt của các chủng loại như bóng dã mã nhấp nhóng
hiện ra như mờ như tỏ, chưa xác định rõ ràng. Đó là phạm vi hành ấm.
Chừng nào những hình bóng lăng
xăng như bóng dã mã kia được đứng lặng hoàn toàn như mặt nước ao thì
đó là biểu hiện hành ấm đã vượt qua rồi, thiền giả lúc bấy giờ từ
bỏ hết chúng sanh được.
A Nan ! Ông nên biết, thiền giả
có được sự hiểu biết đúng đắn, chánh tâm tỉnh trụ trong xa ma tha
tam ma bát đề thì mười loại thiên ma thuộc thức ấm kia không còn có cơ
hội khuấy phá được nữa. Nhưng trong lúc tư duy nghiên cứu nguồn gốc
sinh loại, nghiên cứu đến tột cùng, bấy giờ đầu mối sanh diệt chuyển
động lăng xăng u ẩn của sự vật hiện tượng kia, rồi móng tâm cân nhắc
so đo và cuối cùng chấp cho đó tánh bản nguyên của vạn pháp. Do đó, họ
sa vào chỗ nhận thức sai lầm, chủ trương: "Vô nhân luận" với
hai luận cứ sau.
Một là, theo sự thấy biết của họ
thì tất cả chúng sanh không có nguyên nhân, tự nó sanh ra kể từ tám
muôn kiếp trở lại đây mà thôi. Tùy theo dòng nghiệp báo, có thể chết
đây sanh kia xoay dần trong đó, ngoài tám muôn kiếp thì vạn vật "vô
nhân".
Hai là, họ cho rằng tất cả chúng
sanh không có nguyên nhân cuối cùng. Theo chỗ thấy biết của họ thì người
sanh người, chim sanh chim, quạ thì đen, hạc thì trắng, loài người đứng
thẳng sống, loài thú lưng nằm ngang, màu trắng của hạc không do tẩy,
màu đen của quạ không do nhuộm; suốt tám muôn kiếp vẫn không hề dời
đổi; đời nầy đời khác vẫn như vậy, xưa nay cứ theo qui luật cũ mà
lập đi lập lại. Do đó, họ cho rằng họ không hề thấy có gì là Bồ
đề, thì làm sao có vấn đề thành đạo Bồ đề, có chứng có ngộ. Quả
là mọi sự vật "Vô nhân".
Do những kiến chấp như thế bỏ mất
tánh chánh biến tri, lạc vào tà giáo ngoại đạo, đốt cháy hạt giống Bồ
đề. Đó là bọn ngoại đạo thứ nhất, chủ trương "VÔ NHÂN LUẬN".
A Nan ! Lại có hạng thiền giả trụ
trong tam ma đề, tâm đứng lặng rỗng rang, chuyên chú tìm xét nguồn gốc
các loại chúng sanh, họ thấy cái tánh chuyển động luôn luôn không ngừng,
bèn khởi sanh ý niệm chấp "thường", họ chủ trương cái thuyết
vạn vật "vĩnh viễn thường" của bốn luận cứ:
Một là: Tâm và cảnh vốn không
có nguồn gốc. Tuy nhiên tất cả thập phương chúng sanh, sanh ra và diệt
đi, sanh diệt diệt sanh trong vòng hai muôn kiếp thì không hề tan mất. Do
đó họ cho sinh loại là "thường".
Hai là: Họ thấy tứ đại là thường
còn, thập phương chúng sanh dù có sinh có diệt, tuy nhiên trong phạm vi thời
gian bốn muôn kiếp xoay dần sanh diệt nhưng bản thể không hề tan mất.
Vì vậy, họ chủ trương trong sinh loại là "thường".
Ba là: Họ cho tứ đại thường còn,
trong phạm vi bốn muôn kiếp, thập phương chúng sanh dù có sinh diệt, nhưng
bản thể thường còn không hề tan mất. Do vậy, họ chủ trương vạn vật
là "thường".
Bốn là: Họ xét tội bản lai của
sáu căn, của sự chấp thọ, của ý thức của mạt na thức, A lại da thức
tánh vẫn thường. Vì vậy, trong phạm vi tám muôn kiếp, tất cả chúng
sanh trong thập phương dù có sanh có diệt, nhưng bản thể vẫn thường. Vì
vậy, họ chủ trương vạn vật là "thường".
Do những chấp mắc sai lầm hạn hẹp
trong phạm vi thấy biết của họ, mà bỏ chánh biến tri, lạc vào ngoại
đạo, mai một tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ hai chủ
trương "Viên thường luận".
Lại có thiền giả trụ trong tam ma
đề, chánh tâm đứng lặng, tìm xét nguồn cội các loại chúng sanh và
cái tánh chuyển động kín nhiệm liên tục của sự vật, họ cân nhắc so
đo và sanh kiến chấp giữa mình và cái khác. Do kiến chấp sai lầm điên
đảo, họ chủ trương: "một phần thường, một phần vô thường"
qua bốn luận cứ!
Một là: Họ quán cái tâm của họ
là tâm nhiệm mầu sáng suốt đứng lặng cùng khắp mười phương thế giới;
họ cho đó là cái thần ngã là cái "ta" cứu kính. Do đó họ chấp
có cái ta nhiệm mầu sáng suốt đứng lặng cùng khắp mười phương không
lay động. Còn tất cả chúng sanh thì ở trong tâm ta tự sanh tự chết. Vậy
tâm tánh của "ta" là thường còn những bọn chúng sanh kia thì là
vô thường.
Hai là: Hạng thiền giả không quán
xét cái tâm mà chỉ quán xét cõi nước trong hằng sa quốc độ. Họ thấy
có chỗ bị thiên tai địa chấn hủy hoại, họ kết luận đó là tánh rốt
ráo vô thường; còn những chỗ không bị kiếp tai phá hoại thì họ bảo
đó rốt ráo thường.
Ba là: Hạng quán xét cái tâm, cho rằng
tâm mình tinh vi nhỏ nhiệm giống như vi trần lưu chuyển trong mười
phương mà không bị biến chất, lại có thể gá hợp với thân, sanh rồi
diệt, diệt lại sanh mà vẫn thường còn. Đó là tánh thường; còn sự sống
chết diệt sanh từ cái tánh ấy sanh ra thì gọi là vô thường.
Bốn là: Hạng thiền giả họ biết
được cái lúc tưởng ấm của họ hết và đồng thời họ cũng biết họ
còn đang ở trong phạm vi của hành ấm. Do đó họ chấp cho hành ấm là
tánh thường, còn sắc, thọ, tưởng ấm đã hết, họ cho đó vô thường.
Chủ trương "một phần thường,
một phần vô thường: như thế phát xuất từ hiểu biết hạn hẹp đối
với chân lý, cho nên sai lầm, vì cái nhận thức chân lý của họ chỉ
ngang tầm cỡ đó chưa vượt lên được nữa, họ lầm mất tánh Bồ đề.
Đó là hạng người đạo thứ ba, lập luận: "một phần thường, một
phần vô thường".
Lại có hạng thiền giả trong tam
ma đề nghiền ngẫm cội nguồn hiện tượng vạn hữu, bỗng sanh tâm chấp
mắc về phạm vi. Bằng vào sự hiểu biết của mình họ dựng lên thuyết:
Hữu biên vô biên luận, qua bốn luận cứ như sau:
Một là, Họ cho là cội gốc sanh tử
thì lưu chuyển tương tục không ngừng, rồi chấp quá khứ và vị lai là
hữu biên. Còn cái tâm chịu sự sanh tử tương tục là vô biên.
Hai là: Theo họ, trong tám muôn kiếp
trở lại, thấy có chúng sanh, còn trước tám muôn kiếp thì bằng bặc
không nghe thấy gì. Họ cho rằng chỗ không nghe thấy là vô biên; còn chỗ
có chúng sanh là hữu biên.
Ba là: Họ cho rằng họ có cái biết
cùng khắp, họ được tánh vô biên; các người khác sanh ra trong cái biết
của họ nên chỉ có tánh hữu biên.
Bốn là: Hạng thiền giả đã diệt
hết hành ấm, theo tri kiến của họ, thì thân của chúng sanh có một nửa
sanh, một nửa diệt, còn các hiện tượng sự vật của thế gian có một
nửa hữu biên, một nửa vô biên.
Do sự chấp, mắc sai lầm như thế
rơi vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ
tư chủ trương: Hữu biên vô biên luận.
Lại có thiền giả trụ tam ma đề
trong lúc nghiền ngẫm cội gốc sanh diệt của hiện tượng vạn hữu, bỗng
sanh kiến giải sai lầm chấp mắc điên đảo. Họ dựng luận thuyết
"Bất tử càn loạn" với bốn luận cứ:
Một là: Hạng thiền giả trong lúc
quan sát về cội nguồn biến hóa, họ thấy: cái có dời đổi thì gọi
là biến; cái gì tương tục thì gọi là thường; chỗ thấy được thì gọi
là sanh; chỗ không thấy được gọi là diệt; chỗ tương tục gọi là
thêm; chỗ có tiếp giáp của sự tương tục gọi là bớt; chỉ sự vật
sanh ra gọi là có; chỗ tương đối không có gọi là không. Do kiến chấp
như vậy, cho nên có ai cầu pháp hỏi nghĩa lý về đạo, họ đáp: Ta nay cũng
sanh, cũng diệt; cũng có mà cũng không; cũng thêm và cũng bớt. Lúc nào cũng
nói lộn quanh khiến cho người nghe không sao hiểu được. Rồi lầm tưởng
là mình thấp thỏi còn vị ấy thuyết pháp quá "cao siêu" !
Hai là: Hạng thiền giả chuyên chú
xa ma tha tam ma bát đề, nhưng chưa rõ thấu chân lý "không"; Họ
cho rằng nhân cái không mà được chứng đạo, họ chỉ đáp bằng một chữ
"không". Ngoài tiếng không, họ chẳng biết gì nữa.
Ba là: Hạng thiền giả sai lầm về
chân lý "có". Họ cho tất cả đều có và do nhận biết vạn pháp
là có mà được chứng đạo. Vì vậy, nếu có ai hỏi đến đạo, họ chỉ
đáp một chữ "có". Ngoài chữ có, không còn nói được gì nữa.
Bốn là: Hạng thiền giả chấp ngoại
cảnh vừa có vừa không. Vì hoang mang trước cảnh, nên tâm cũng rối loạn.
Nếu có ai đến hỏi về đạo lý, họ đáp rằng: vạn vật "cũng có
tức là cũng không; trong cái cũng không, không phải là cũng có". Chúng
nói một cách rối loạn càn bậy không sao đúc kết được vấn đề. Do
những thứ chấp mắc rối loạn càn bậy như thế mà lạc vào ngoại đạo,
lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ năm, chủ trương lập
ra bốn thứ lý luận "Xà quần" gọi là: "Càn loạn bất tử
luận".
Lại có hạng thiền giả chuyên
chú Xa ma tha tam ma bát đề, chánh tâm đứng lặng trong lúc tư duy tìm xét
nguồn gốc các sinh loại, bỗng tâm chấp mắc khởi lên, chủ trương cho rằng
có dòng sanh diệt vô tận cho nên sau khi con người chết còn có cái tướng
diệt sanh vô tận. Họ mê chấp kiến giải sai lầm của mình: Sắc là ta;
ta là sắc; Sắc thuộc về ta; ta ở trong sắc. Đối với thọ, tưởng, hành
cũng theo lối lý luận như vậy thành ra 16 tướng. Dó chấp mắc như vậy,
lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ
sáu chủ trương "Ngũ ấm sau khi chết còn có tướng".
Lại có hạng thiền giả an trú
trong tam ma đề, đứng lặng vọng tưởng, tìm xét nguồn gốc sinh loại, bỗng
sa vào điên đảo khởi chấp: Sau khi chết không có tướng. Họ cho rằng
sau khi chết sắc chẳng còn tồn tại, thọ, tưởng không còn chỗ để tác
động gá nương. Vì vậy, sau khi chết không còn có tướng cho đến nhân
quả cũng không, Niết bàn cũng không, chỉ có danh tự, kiến chấp như vậy,
lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ
bảy lập luận: Sau khi chết không còn tướng.
Lại có hạng thiền giả sai lạc
vào tà chấp: cho rằng cái có và cái không tự nó đánh đổ nhau. Do vậy,
họ lập luận: Sau khi chết không phải có, không phải không. Kiến chấp
sai lầm đó khiến cho người tu thiền mờ tịt đường, sau rơi vào ngoại
đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Ấy gọi là loại ngoại đạo thứ tám lập
luận: Sau khi chết không phải có, không phải không.
Lại có hạng thiền giả tu tập
tam ma đề bỗng khởi sanh kiến chấp đoạn diệt. Họ cho rằng: hết thân
nầy là diệt; ngũ dục là diệt, hết khổ là diệt; tột vui là diệt, xả
hết là diệt; chấp xoay dần bảy cách đoạn diệt. Do kiến chấp sai lầm,
lạc vào ngoại đạo, lầm mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại đạo thứ
chín, lập luận: Sau khi chết là dứt hẳn.
Lại có hạng thiền giả trong tam
ma đề chánh tâm đứng lặng, trong lúc tìm xét nguồn gốc sinh loại đến
chỗ u ẩn, bỗng sanh tâm chấp: "Sau nầy còn có". Dựa vào kiến
giải đó, họ chủ trương: Niết bàn luận có năm thứ:
Một, Dục giới là Niết bàn, vì
qua sự thấy biết của họ Dục giới vẫn có những sự trong sáng đáng
yêu và Dục giới là cơ sở chuyển sanh tử ra Niết bàn.
Hai, Sơ thiền là Niết bàn, vì cõi
Sơ thiền không còn ưu thọ.
Ba, Nhị thiền là Niết bàn, vì
cõi Nhị thiền không còn khổ thọ.
Bốn, Tam thiền là Niết bàn, vì
cõi Tam thiền rất vui đẹp.
Năm, Tứ thiền là Niết bàn, vì Tứ
thiền đã dứt hết khổ và vui. Họ cho rằng đạt đến cõi Tứ thiền
không còn sinh tử luân hồi.
Những cõi trời đó được quả báo
an lạc có mức độ, là phước báo hữu lậu, chưa phải là cảnh giới
thù thắng thanh tịnh của bậc Thánh hiền. Vì lầm chấp năm thứ Niết bàn
phi chân lý nên sa vào ngoại đạo, sai mất tánh Bồ đề. Đó là loại ngoại
đạo thứ mười, lập luận điên đảo, chấp trong ngũ ấm có năm thứ Niết
bàn.
A Nan ! Mười thứ hiểu biết điên
rồ trong Thiền na như vậy là do hành ấm và dụng công chuyển hóa giữa vọng
và chân giao tranh nhau mà sanh ra; chúng sanh mê muội không biết, gặp những
cảnh như vậy cho rằng mình được chứng đắc Thánh quả sanh tâm ngạo mạn,
khoác lác, khoe khoan với ý đồ mê hoặc, bịp bợm người mộ đạo để
hổng tom góp lợi dưỡng thỏa mãn hư danh. Hạng ngu si như thế chỉ gạt
được những người có tâm mộ đạo mà thiếu học đạo thôi. Với nhãn
quang của người trí tuệ tham cứu tinh thường tam tạng giáo điển, nghe
qua đã biết cửa địa ngục mở rộng để chờ đón bọn vô minh hắc ám
chỉ biết có lợi dưỡng nầy.
Sau Như Lai diệt độ, A Nan ! các
ông là những trưởng tử Như Lai phải truyền bá chánh pháp, khiến cho những
người ham mộ Bồ đề, Niết bàn hiểu rõ những sai trái nói trên. Có như
vậy mới thẳng tiến trên đường Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác mà
không sợ lạc lầm.
II - NHỮNG
NHẬN THỨC SAI LẦM THUỘC PHẠM VI THỨC ẤM
Phật bảo ! Nầy A Nan ! Người chuyên
tu xa ma tha tam ma bát đề, đến khi Hành ấm hết rồi thì những nguyên
nhân luân hồi từ nghiệp thô đến tế gần như bặc hẳn; với quả giải
thoát giác ngộ người nầy bước đến chẳng còn xa, ví như gà gáy canh năm,
nhìn về phương đông đã có hừng sáng ở chân trời. Ở giai đoạn nầy,
thiền giả sáu căn rỗng lặng không còn rong ruỗi trần cảnh, nội tâm
ngoại thân đều trong sáng, thể nhập tánh vô sở nhập. Thấu suốt nguồn
gốc của sinh loại. Thấy biết được tánh tổng quát của thế giới, chỉ
còn phần tinh vi u uẩn chưa tận tường. Đó là trạng thái của thiền giả
đang còn ở trong phạm vi của thức ấm.
Cho đến khi sáu căn viên dung, hổ
dụng, bấy giờ thân tâm và mười phương thế giới trong sáng như ngọc
lưu ly. Đó là hiện tượng biểu hiện của thiền giả đã hết thức ấm
và vượt qua mạng trược. Bấy giờ tìm xét lại nguồn gốc của mọi mê
lầm thì tất cả chỉ là vọng tưởng điên đảo như huyễn hóa chẳng
có gì.
A Nan ! Thiền giả hết thức ấm vượt
qua mạng trược, đã diệt được cái quan niệm sanh diệt nhưng chưa đạt
đến cái vui tịch diệt, lục căn của người nầy thông suốt, cái hiểu
biết của họ dung lặng rỗng thông cùng 10 loài chúng sanh trong mười
phương. Dựa trên sự hiểu biết rộng rãi bao quát đó, họ lập ra cái luận
thuyết gọi là "nhân chân thường" và chấp mắc nơi đó nên trở
thành bè bạn của Sa tỳ Ca la chấp có Minh đế, mê muội Bồ đề Phật,
bỏ mất chánh tri kiến. Đó là bọn ngoại đạo thứ nhất chủ trương: có
tâm năng đắc và có cái sở qui.
Lại có thiền giả ở trong tam ma
đề, tâm tánh sáng suốt rỗng rang gần đến chỗ viên mãn, bỗng cảm thấy
cảnh đối tượng sở qui mà mình cần phải nương tựa. Rồi tự nghĩ rằng:
thân tâm mình từ chỗ kia sanh ra, thập phương hư không và thế giới đều
từ nơi thân của mình mà sanh ra, do vậy sa vào cái chấp "năng phi
năng", thành bạn bè với bọn Ma hê thủ la, hiện ra thân vô biên, mê
muội Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến, đó là loại ngoại đạo thứ
hai, lập cái "tâm năng vi" thành cái quả "năng sự" trái
ngược Bồ đề Niết bàn, sanh ra giống Đại mạn thiên, chấp có
"cái ta" khắp cùng pháp giới.
Lại có thiền giả, trong tam ma bát
đề chuyên chú bỗng thấy có chỗ "sở qui", rồi nghĩ thân tâm
mình từ chỗ kia sanh ra và cả thập phương hư không cũng từ chỗ kia sanh
ra; rồi nhận "cái chỗ kia" ấy là cái thể chân thường không
sanh diệt lại chấp cho là thường trú, chẳng những lầm tánh bất sanh
mà cũng lầm cả tánh sanh diệt; cho nên bị rơi vào cái chấp "thường
phi thường", thành bè bạn những kẻ chấp có Tự tại thiên, mê muội
Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ ba,
lập cái tâm nhân y thành cái quả vọng kế, trái với cái nhân Bồ đề
Niết bàn sanh ra giống điên đảo.
Lại có thiền giả, định tâm
trong sáng, an trú tam ma đề bỗng nảy sinh sự hiểu biết khắp cùng và
cho rằng: cỏ cây trong vũ trụ cũng vẫn là hữu tình, giống như con người
không khác. Rằng cỏ cây làm người, người làm cỏ cây; thế là bị rơi
vào cái chấp "tri vô tri" thành bè bạn với bọn Ba tra tiển ni chấp
tất cả đều có hay biết, mê muội Bồ đề Phật. Đó là bọn ngoại đạo
thứ tư, chấp cái tâm "viên tri", thành cái quả thố mậu, trái
tánh Niết bàn sanh ra giống Đảo tri.
Lại có thiền giả chuyên chú tam
ma đề, thân tâm thanh tịnh các căn có thể dùng thay thế cho nhau (lục căn
hỗ dụng) bỗng dưng phát sanh cái ánh sáng của hỏa đại, ưa thích cái
tánh thanh tịnh cái tánh sáng của hỏa đại, ưa thích cái tánh thanh tịnh
của thủy đại, yêu quí cái chu lưu của phong đại, nghiền ngẫm cái
thành tựu của địa đại rồi sùng phụng mỗi thứ, nhận tứ đại kia là
bản thân và cho đó là tánh thường trụ, rơi vào cái chấp "sinh vô
sinh", thành bè bạn của bọn Ca diếp ba và bọn Bà la môn đem hết thân
tâm thờ lửa, thờ nước để cầu ra khỏi sanh tử. Đó là hàng thiền giả
mê muội chánh tri kiến, lầm lạc đường Bồ đề, thuộc hàng ngoại đạo
thứ năm, lập cái nhân hư vọng cầu cái quả giả huyễn, đi ngược dòng
Niết bàn sanh ra giống điên hóa (điên đảo cái lý sinh hóa của hiện tượng
vạn pháp).
Lại có thiền giả tự trụ tam ma
đề tâm thanh tịnh rỗng thông bỗng khởi cái tâm chấp "trống rỗng"
phủ nhận sự biến hóa của vạn vật, lấy cái tánh đoạn diệt làm chỗ
nương tựa của mình; thế là sa vào cái chấp "Quy vô quy", thành
bè bạn với bọn chấp không trong vô tưởng thiên, mê muội Bồ đề Phật,
bỏ mất chánh tri kiến. Đó gọi là bọn ngoại đạo thứ sáu, chìm đắm
trong tâm hư vô, lập ra cái quả trống rỗng đi ngược dòng Niết bàn,
sinh giống đoạn diệt.
Lại có thiền giả trụ trong tam ma
đề tâm được đứng lặng sáng suốt, bỗng khởi lên ý niệm muốn củng
cố cái thân, làm cho cái thân trở thành chân tường bất hoại, ý niệm
phi chơn lý, khiến cho thiền giả rơi vào cái chấp "tham phi tham",
thành bè bạn của A tư đà, một vị Tiên tham vọng trường sanh, mê muội
Bồ đề Phật, bỏ mất chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ bảy
tham chấp cái mạng căn, lập cái nhân củng cố vọng thân để cầu cái
quả kéo dài lao khổ, trái tánh viên thông đi ngược đường Niết bàn,
sinh ra giống vọng điên.
Lại có hàng thiền giả trong tam ma
đề nghiền ngẫm tánh không của các hành pháp, bỗng khởi tâm muốn giữ
trần lao vì sợ trần lao tiêu hết. Bấy giờ thiền giả vận dụng đạo
lực hóa hiện tự thân ở Liên hoa cung, thất bảo huy hoàng, cực kỳ
tráng lệ; tai hóa hiện ra nhiều gái đẹp xinh để cùng vui hưởng thụ thỏa
mãn tâm buông lung. Sự đam mê đó khiến cho hành giả sa vào cái chấp
"chân vô chân", thành bè bạn của bọn Tra chỉ la mê muội Bồ đề
Phật, mất hết chánh tri kiến. Đó là loại ngoại đạo thứ tám, lập
cái nhân tà tu thành cái quả xí trần (sợ trần lao bị tiêu hết).
Lại có thiền giả an trú trong xa
ma tha tam ma thiền na tham cứu xét tột tánh không của các hành pháp nhưng
chưa đạt đến chỗ tịch diệt viên mãn, ở nơi thể viên minh nguồn gốc
của sinh mạng sanh ra ý niệm phân biệt cái thô, cái phần chân, phần ngụy
nghĩa là nhận rõ về khổ đế, đoạn trừ tập đế, cầu chứng diệt đế,
thực hành đạo đế. Khi chứng diệt đế rồi, không cầu tiến thêm và bằng
lòng cho đó là cái đích cứu cánh sở đắc của mình. Người khởi chấp
như vậy gọi là định tánh Thanh Văn, thành bè bạn của Vô văn tăng, vướng
phải bệnh tăng thượng mạn, mê muội Bồ đề Phật, mất hết chánh tri
kiến; đó là bọn thứ chín mong cầu cái tâm ứng nghiệm viên mãn thành
cái quả thú tịch diệt, trái với tánh viên thông, ngược lại đường Niết
bàn sinh ra hạng người triền không.
Lại có thiền giả ở trong xa ma
tha tam ma bát đề, rõ suốt được tánh không của các hành pháp, bấy giờ
ở trong tánh giác minh thanh tịnh, phát minh tánh thâm diệu rồi nhận đó
là Niết bàn, không có tâm cầu tiến, thế là sa vào hàng định tánh Bích
chi, thành bè bạn của hàng Duyên giác, Độc giác. Nếu trụ ở đây,
không phát tâm hướng thượng đại thừa thì mất đi chánh tri kiến, mê
muội Bồ đề Phật, trở thành bọn thứ mười họ thành tựu được giác
tâm vắng lặng lập ra cái quả trạm nhiên, trái với tánh viên thông, đi
ngược đường Niết bàn vô thượng sinh ra một hạng giác ngộ viên minh
nhưng không tiêu hóa được cái tánh viên minh sở qui.
A Nan ! Mười thứ thiền na như vậy,
người tu hành giữa lúc đang tinh tấn say mê bỗng có thể hóa điên cuồng
đãng trí, vì đam mê theo cái vọng kiến trong lúc dụng công. Những cảnh
giới, những cái thấy biết trong thiền na chưa phải là cảnh giới tối hậu
cần đạt đến. Thiền giả nhận thức sai lầm chỗ chưa đủ cho là đủ,
khởi tâm năng đắc, được cảnh sở chứng, tưởng đó là cảnh giới
Vô thượng Bồ đề, tự cao tự mãn cho rằng mình đã chứng Thánh quả, mắc
tội đại vọng ngữ. Khi nghiệp báo hết rồi phải sa vào địa ngục; còn
hàng Thanh văn, Duyên giác thì không tiến lên được nữa.
A Nan ! Sau Như Lai diệt độ, các
ông hãy trân trọng ghi nhớ lời dạy của Phật, đem những pháp môn Như
Lai dạy truyền bá, khiến cho chúng sanh đời sau những người phát tâm tu
Thiền na biết rõ những cảnh giới hư vọng hiện ra trong lúc tu thiền và
những tư duy lệch lạc, những chấp mắc sai lầm cho ngũ ấm ma vọng khởi.
Người tu tập thiền na phải luôn luôn đề cao cảnh giác mới tránh khỏi
các thứ ma tà kiến ấy nhiễu hại mà hoang phí một đời tu. Các ông phải
sáng suốt giữ gìn thân tâm, nắm giữ chánh tri kiến của Phật, từ lúc
ban đầu cho đến khi thành tựu, không dễ đi lạc vào các con đường tẻ
của ngoại đạo, do lầm chấp và đam mê theo vọng cảnh tà kiến bởi sự
"che phủ" của các ma ngũ ấm.
Các Như Lai trong mười phương đã
vận dụng trí tuệ ba la mật, khéo léo vượt qua mà thẳng tiến đến Vô
thượng chánh đẳng chánh giác. Chừng nào thức ấm hết rồi thì hiện tiền
sáu căn sẽ trở thành hỗ dụng, có thể thay thế cho nhau, bấy giờ hành
giả sẽ lên bậc kim cang. Càn tuệ Bồ tát. Cái tâm trong sáng tròn đầy
được tỏ rõ như mặt trăng dằn dặc ảnh hiện trong viên ngọc lưu ly toàn
bích. Rồi cứ thế mà vượt lên thứ bậc: thập tín, thập trụ, thập hạnh,
thập hồi hướng, tứ gia hạnh và thập địa kim cang đạo. Bấy giờ tánh
đẳng giác được tròn đầy vào bể Diệu Trang Nghiêm của Như Lai, viên
mãn đạo Bồ đề, về đến chỗ "VÔ SỞ ĐẮC".
*
* *
A Nan ! Những cảnh tướng hiện ra
trong lúc tu thiền na, những ý nghĩ rồi sanh khởi sự chấp mắc theo kiến
giả của mình lập ra những luận cứ chủ trương: Thần ngã, Minh đế,
đoạn, thường, có, không v.v… Tất cả đều gọi chung là "ma sự",
vì có tánh chướng ngại, khuấy phá, cản trở bước tiến của người tu
thiền. Chẳng những vậy, nó còn có thể chận đứng lại để rồi bằng
lòng với cái tri kiến hạn hẹp, phi chân lý, thành người ngoại đạo hư
cháy hạt giống Bồ đề.
Chư Phật Thế Tôn trong quá khứ đã
nghiệm xét, phân biệt và đã giác ngộ, chiến thắng với các ma sự mà
thẳng tiến trên đường Bồ đề.
Sau Như Lai diệt độ. A Nan ! Các
ông phải hướng dẫn cho những người tu tập thiền na học hỏi Phật pháp,
nhận rõ các ma sự trong lúc tu chỉ quán thì ấm ma tự tiêu, thiên ma tự
biến, đại lực quỷ hoảng sợ chạy trốn, ly mị vọng lượng không sanh
ra được.
A Nan ! Bản giác vốn tròn sáng
không có tướng sanh tử vãng lai. Vọng thì không có nhân. Khi chưa ra khỏi
vọng, nhìn vạn pháp cho đó là nhân duyên sanh. Mê tánh nhân duyên thì gọi
là tự nhiên có. Nhân duyên đều là những so đo của vọng tưởng. Bản
nhân của ngũ ấm cũng là vọng tưởng như vậy.
A Nan ! Thân thể của ông cũng nhân
cái tưởng của cha mẹ mà sinh. Tâm của ông nếu không phải tưởng thì
không thể đến gá cái mạng vào trong tưởng. Như Lai đã từng nói: Tâm tưởng
vị chua, trong miệng nước bọt chảy ra, tâm tưởng leo cao trong lòng bàn
chân nghe ghê rợn. Dốc cao không có, vậy chua chưa đến, thân thể của
ông nếu không phải cùng loại với vọng tưởng thì làm sao nhân nghe nói
chua trong miệng nước bọt lại chảy ra ? Vậy nên biết rằng sắc thân hiện
tiền của ông gọi là vọng tưởng kiên cố thứ nhất.
Ngay nơi tâm tưởng tượng leo lên
cao, có thể khiến thân ông chịu sự ghê rợn, đó là nhân "cảm thọ"
mà sinh ra, khiến xúc động đến sắc thân - Nên biết rằng hiện nay hai
thứ "thọ", thọ sung sướng hoặc "thọ" ghê sợ, đang
rong ruổi nơi ông, đó là vọng tưởng "hư minh" thứ hai.
Do ý nghĩ sai khiến sắc thân ông,
nếu sắc thân không phải cùng loại thì làm sao sắc thân ông lại theo ý
nghĩ sai khiến thọ nhận các thứ hình tượng rồi sinh tâm chấp nhận những
hình tượng phù hợp với ý nghĩ ! Cái ý nghĩ lúc thức gọi là tưởng,
ý nghĩ lúc ngủ thì gọi là mộng. Những vọng tánh lay động mộng tưởng
của ông gọi là vọng tưởng hư dung thứ ba.
Sự chuyển hóa không ngừng thầm dời
đổi: móng tay ra, tóc dài, khí lực mòn, da mặt nhăn, ngày đêm biến đổi
mà không hay biết.
A Nan ! Nếu cái đó không phải là
ông thì làm sao thân ông lại thay đổi, nhưng nếu những thứ đó là ông
thì sao ông không hay biết ? Vậy các "hành" niệm niệm không dừng
của ông, gọi là vọng tưởng u ẩn thứ tư.
Chỗ tinh minh đứng lặng không lay
động của ông gọi là thường còn, trong khi thân ông không ra ngoài những
sự thấy, nghe, hay, biết. Nếu "cái thường còn" đó, thật là
tánh tinh chân của ông thì lẽ ra nó sẽ không huân tập tiếp thu những
điều vọng và nếu vậy thì sau những năm về trước ông đã xem thấy một
vật lạ, trải qua nhiều năm không hề nghĩ đến, về sau tình cờ gặp lại
vật là đó thì nhớ lại rõ ràng ? Vậy nên biết rằng cái tánh tinh minh
đứng lặng đó, từng niệm, từng niệm chịu huân tập không thể tính lường
hết được. A Nan ! Nên biết cái tánh đứng lặng đó không phải thật,
như nước chảy gấp mà trông như đứng lặng vậy thôi, chớ không phải
không chảy. Nếu cái tánh đứng lặng của ông không phải vọng tưởng thì
đâu lại chịu để vọng tưởng huấn tập vào. Chừng nào mà sáu căn của
ông chưa được tự tại, hợp, ly dùng thay lẫn nhau thì cái vọng tưởng
đó không lúc nào diệt được. Vậy nên biết rằng cái tập khí quán xuyến,
điều khiển những điều thấy, nghe, hay, biết của ông, là cái vọng tưởng
điên đảo vi tế huyễn hóa rỗng trống thứ năm.
A Nan ! Năm ấm đó do năm thứ vọng
tưởng như thế mà tạo thành. Nay ông muốn biết giới hạn, sâu cạn thì
hãy ghi nhớ các tiêu chuẩn nhận thức như vầy:
Sắc và không là biên giới của sắc
ấm. Xúc và ly là biên giới của Thọ ấm. Nhớ và quên là biên giới của
Tưởng ấm. Diệt và sinh là biên giới của Hành ấm. Đứng lặng hợp với
đứng lặng là biên giới của Thức ấm.
Năm ấm ấy trùng điệp sanh khởi.
Sanh nhân thức ấm mà có. Diệt từ sắc ấm mà trừ. Lý thì ngộ liền,
nhân ngộ mà tất cả vọng tưởng đều tiêu. Sự không thể trừ liền,
theo thứ lớp mà diệt.
A Nan ! Như Lai đã chỉ cho ông về
cái gút của khăn kiếp ba la đã quá rõ ràng, ông còn hỏi lại chi nữa !
Tâm ông cần phải thông suốt cội gốc vọng tưởng đó. Rồi đem truyền
dạy cho người tu hành hậu thế khiến cho họ biết vọng tưởng là vọng
để sanh tâm nhàm chán, và biết có Niết bàn mà không lưu luyến ba cõi.
III - PHẦN
LƯU THÔNG
Phật bảo: A Nan ! Giả sử
có người đem thất bảo đầy ngập hư không cùng khắp mười phương dâng
cúng chư Phật nhiều như số vi trần, mà tâm không lúc nào xao lãng, ý
ông nghĩ thế nào ? Người đó do nhân duyên cúng dường Phật như thế,
phước đức có nhiều chăng ?
Ông A Nan thưa ! Bạch Thế Tôn ! Hư
không vô tận, trân bảo không cùng. Như lời Phật dạy, ngày xưa có chúng
sanh cúng Phật chỉ có bảy đồng tiền, vậy mà khi xả thân còn được
phước báo làm chuyển luân vương, huống nữa trân bảo vô lượng, cúng dường
chư Phật vô lượng khắp mười phương thì dùng trí mà suy nghĩ cùng tột,
ức kiếp không thể thấu được, vì phước đức ấy không có ngằn mé !
Phật bảo: A Nan ! Chư Phật Như Lai
lời nói không hư vọng, giả sử có người gây đủ các tội: Tứ trọng,
thập ác, giây lát phải trải qua địa ngục A tỳ phương nầy sang phương
khác cho đến cùng khắp các địa ngục vô gián trong mười phương, nhưng
nếu người đó cùng một niệm đem pháp môn nầy truyền bá cho người
chưa học trong đời sau thì tội chướng người đó liền được tiêu hết,
biến cái nhân phải chịu khổ ở địa ngục thành cái nhân sanh về cõi
an lạc. Niết bàn, được phúc vượt hơn người bố thí cúng dường trước
kia trăm ngàn lần, muôn ức vạn lần cho đến không thể dùng toán số so
sánh, không thể có ngữ ngôn nói hết được.
Đức Thế Tôn nói kinh nầy rồi,
các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, tất cả Trời, Người,
A tu la, các vị Bồ tát, Nhị thừa, Thánh Tiên, đồng tử và các đại lực
quỷ thần mới phát tâm, đều rất vui mừng lễ Phật mà lui.
Mục lục III | Tựa tập III | III-7 | III-8 | III-9 | III-10 | Phụ lục | Mục lục I | Mục lục II