- Thủ Lăng Nghiêm Kinh Trực
Chỉ Đề Cương III
- Pháp Sư Thích Từ Thông
CHƯƠNG THỨ CHÍN
I - TRỜI
SẮC GIỚI
A Nan ! Người nào giữ được thân
không làm việc dâm dục và không nhớ nghĩ, lòng ái nhiễm không sanh thì
đã vượt ra cõi Dục làm bạn bè với hàng Phạm hạnh, gọi đó là trời
Phạm chúng.
Người đã trừ được tập quán
ngũ dục, tâm ly dục hiện tiền vui vẻ thuận theo các luật nghi, có thể
thực hành Phạm đức gọi đó là trời Phạm phụ.
Thân tâm thanh tịnh, uy nghi không
thiếu, giới cấm trong sạch, có trí sáng suốt, thống lãnh Phạm chúng,
làm đại Phạm vương, gọi đó là trời Đại phạm.
Nầy A Nan ! Ba hạng người trời đó
khổ não không bức bách được; tuy không phải chơn chánh tu pháp tam ma đề
của đạo Phật, nhưng tâm có thanh tịnh, những đam mê sai phạm của Dục
giới không lay động được họ, gọi đó là hàng trời Sơ thiền.
A Nan ! Các hàng Phạm thiên khi thống
lãnh Phạm chúng lại tu tập Phạm hạnh được viên mãn làm cho tâm yên lặng
không động; do sự yên lặng thân tâm được sáng suốt, gọi đó là trời
Thiểu quang.
Hào quang sáng suốt thêm nhiều,
chói sáng vô lượng cõi làm cho các thế giới đó ánh hiện trong suốt như
ngọc lưu ly. Hạng người như thế gọi là trời Vô lượng quang.
Duy trì hào quang tồn tại vĩnh viễn,
biến thành phương tiện giáo hóa cho chư Thiên, và ứng dụng vô cùng. Hạng
người như thế gọi là trời Quang âm.
A Nan ! Ba hạng người trời, các thứ
lo buồn không bức bách được. Tuy chưa phải chơn chánh tu pháp tam ma đề
của đạo Phật, nhưng thân tâm có thanh tịnh, những sai lầm thô động đã
dẹp xuống được. Hạng người như thế gọi là hàng trời Nhị thiền.
Nầy A Nan ! Trời Nhị thiền phát
huy vận dụng hào quang trong việc giáo hóa làm tỏ rõ lẽ nhiệm mầu, tăng
trưởng hạnh tinh tiến, thể nhập với cái vui yên tĩnh, gọi đó là trời
Thiểu tịnh.
Cảnh thanh tịnh hiện tiền bao la
không bờ mé, thân tâm khinh an vui trong cái vui yên tĩnh, gọi đó là trời
Vô lượng tịnh.
Thế giới và thân tâm hoàn toàn
thanh tịnh; cảnh giới thù thắng hiện tiền vui trong cái vui hoàn toàn vắng
lặng, gọi đó là trời Biến tịnh.
A Nan ! Ba hạng người trời đó đầy
đủ công hạnh tùy thuận, thân tâm yên tĩnh được cái vui vô lượng; tuy
không phải chơn chánh tu pháp tam ma đề của đạo Phật, nhưng thân tâm
yên ổn sống trong hoan hỉ, gọi đó là hàng trời Tam thiền.
Lại nữa A Nan ! Từ trời tam thiền
đã hóa giải được những bức bách của thân tâm, hạn chế được nhiều
nguyên nhân khổ. Họ thường quán xét cái vui vẫn là vô thường tạm bợ.
Vì vậy họ phóng xả cả hai tâm vui khổ thô trọng, phúc đức thanh tịnh
được sanh ra, gọi đó là trời Phúc sanh.
Hạng người tâm phóng xả khá
tròn đầy, sự hiểu biết cao xa, thanh tịnh, không gì trở ngại. Họ có
thể tùy thuận chơn lý nhiệm mầu. Hạng người đó gọi là trời Phúc
ái.
A Nan ! Ông hãy chín chắn mà nhớ
ghi. Sau khi thành tựu quả Phúc ở cõi trời Phúc ái, từ đó có hai con
đường tẻ.
Một là dùng cái tâm sáng suốt
thanh tịnh vô lượng tiếp tục tu chứng, an trụ nơi phúc đức viên mãn
sáng suốt thì gọi đó là trời Quảng quả.
Hai là dùng cái tâm yếm thế chán
cả khổ vui, nghiền ngẫm, ôm ấp cái tâm phóng xả không ngừng, thân tâm
diệt tận dứt bặt ý nghĩ chận đứng tư duy trải năm trăm kiếp thọ mạng.
Hạng người nầy lấy sanh diệt làm nhơn tu cho nên không thể phát minh chơn
tánh bất sanh bất diệt. Vì vậy, nửa kiếp đầu họ quán diệt, nửa kiếp
sau không còn sức khống chế, họ trở lại sinh hoạt với ý thức tư duy,
người như thế gọi là người vô tưởng.
A Nan ! Bốn hạng người trời đó,
những thứ khổ vui của thế gian không lay động được, dù đó chưa phải
là chỗ bất động chơn thật của đạo Phật, nhưng họ vẫn có được cái
sở đắc ở nội tâm thanh tịnh, hạng người như thế gọi là trời Tứ
thiền.
A Nan ! Ngoài ra còn có năm hạng Trời
khác gọi là năm bậc Bất hoàn (ngũ bất hoàn thiên cũng gọi là ngũ Tịnh
cư thiên). Năm bậc nầy đã dứt hết tập khí chín phẩm tư hoặc ở cõi
Dục rồi, khổ vui thô trọng không còn, cảnh giới biệt lập, an trú nơi
tâm phóng xả, gọi đó là trời Vô phiền.
Phóng xả đến độ tự tại không
còn ý niệm năng xả, sở xả, người như vậy gọi đó là trời Vô nhiệt.
Thấy bằng cái thấy thanh tịnh, nhận
thấy thế giới mười phương đứng lặng, không còn những cấu nhiễm trầm
trọng trước trần cảnh, hạng nầy gọi là trời Thiện kiến.
Sự thấy biết thanh tịnh hiển hiện
hiện tiền và thường sử dụng cái tri kiến đó không còn ngăn ngại,
người như thế gọi là trời Thiện hiện.
Quán sát cùng tận các cực vi, thấu
triệt rốt ráo tánh của sắc pháp; tri kiến rộng sâu không bờ mé, hạng
người như thế gọi là trời Sắc cứu cánh.
A Nan ! Những bậc trời Bất hoàn
đó chỉ riêng có bốn vị Thiên vương của cõi Tứ thiền có kính nghe nhưng
không thấy biết. Cũng như hiện thời các Thánh đạo tràng ở nơi rừng sâu,
đồng rộng trên thế gian là những nơi trú trì của các vị A La Hán, nhưng
con người thô thiển thế gian không thể nào thấy được.
A Nan ! Mười tám loài trời đó,
tâm thường ở trong định, không bám víu trần cảnh; song chưa hết cái lụy
của hình hài; từ đấy trở về gọi là cõi trời Sắc.
II - TRỜI
VÔ SẮC GIỚI
Lại nữa, A Nan ! Ở đỉnh cao của
cõi Sắc có hai con đường tẻ:
Một là hạng người dựa trên tâm
phóng xả mà phát minh được trí tuệ. Trí tuệ sáng suốt nhận thức được
chân lý, kiến, tư hoặc bị triệt tiêu thì được xuất ly trần thế thành
A La Hớn lần đến Bồ tát thừa. Hạng người như thế gọi là Hồi tâm
Đại A La Hớn.
Hai là dựa trên tâm phóng xả,
thành tựu được "cái đạo phóng xả" đâm ra nhàm chán cái thân,
cho rằng thân là một thứ ngăn ngại và dụng công diệt tưởng triệt tiêu
cái ngăn ngại ấy vào hư không vô biên; hạng người như thế là trời
không xứ.
Các thứ chất ngại không còn bị
vướng mắc, nhưng chưa diệt được cái vô ngại. Họ còn bảo lưu A lại
da thức và một vi tế thức mạt ra. Hạng người như thế gọi đó là trời
Thức xứ.
YÙ niệm sắc không đã diệt, cái
niệm diệt cũng xả ly; chỉ còn ý niệm vắng lặng không còn gì nữa. Hạng
người như thế gọi đó là trời Vô sở hữu.
Thực tánh vốn bất động, lại dùng
ý niệm diệt mà diệt đến cùng. Cái không thể diệt hết, phát minh nhận
cho là hết. Vì vậy hình như hết mà không phải hết. Giống như còn mà
chẳng phải còn. Hạng người như thế gọi đó là trời Phi tưởng phi phi
tưởng xứ.
Hạng Phi tưởng phi phi tưởng xứ
nầy, ý muốn xét thấu cái không, nhưng không cùng tột được lý không. Nếu
dựa theo pháp tư duy của trời Bất hoàn để nhận thức lý không. Hạng
người như thế gọi là Bất hồi tâm độn A La Hớn.
Hạng khác, dựa trên tâm niệm yếm
thế phát huy cái vô tưởng của trời Vô tưởng và bọn ngoại đạo để
nghiền ngẫm, nhận xét lý không, đè nén tri thức hướng đến chỗ ngoan
không mà không biết trở về. Đó là hạng si mê lầm lạc, không nghe học
chánh pháp, rốt cuộc sẽ sa vào trong luân hồi lục đạo, khổ não ưu bi
không có ngày chấm dứt.
A Nan ! Các cõi trời đó, vốn là
những người phàm phu có tạo thiện nhơn cho nên họ hưởng sự báo đáp
bằng thiện quả như vậy. Đến khi sự báo đáp thiện quả ấy hết rồi
thì có thể trở lại luân hồi theo dòng nhân quả mới.
A Nan ! Các cõi trời tứ không nhân
tâm vắng lặng định tĩnh hiện tiền, không còn dính mắc với sắc pháp,
gọi đó là trời Vô sắc giới.
Tất cả người trời, không hiểu
được cái "diệu giác minh tâm". Vì chứa nhóm cái vọng mà vọng
sanh ra ba cõi, mà trong đó vọng có bảy loại chúng sanh, chủng tử loài
nào thì vọng kết hình hài tùy loại thọ báo.
III - BỐN
LOÀI A TU LA
A Nan ! Trong ba cõi Dục, Sắc và Vô
Sắc đó, còn có bốn loại A Tu La:
Có thể từ loại quỷ sanh. Loại A
Tu La nầy sanh ra từ loài quỷ, do có tâm bảo hộ chánh pháp của Phật mà
có được thần thông, du hành tự tại trong hư không. Loài nầy sanh từ trứng,
thuộc A Tu La trong loài quỷ.
Có thể từ loài trời sanh, hạng
người trời kém đức phải sa đọa vào cảnh giới ở gần mặt trời, mặt
trăng. Loại A Tu La nầy sanh từ thai, thuộc loại A Tu La trong loài người.
Có thể từ biến hóa sanh, loại A
Tu La nầy có sức mạnh đến chỗ không còn biết sợ ai. Nó có thể tranh
quyền với Phạm thiên, Đế thích và Tứ thiên vương kể cả chiến đấu
nhằm đạt mục đích cho mình. Loại A Tu La nầy do biến hóa mà sanh, thuộc
A Tu La trong loài Trời.
Có thể từ thấp khí sanh, loại A
Tu La nầy thấp kém, sanh trong lòng biển lớn, lặn trong vực sâu, ban ngày
có thể dạo đi trên hư không đêm thì ngủ dưới nước. Giống A Tu La nầy
do thấp khí sanh, thuộc A Tu La trong loài súc sanh.
IV - TU HÀNH CHỈ LÀ PHƯƠNG TIỆN
ĐỂ DIỆT VỌNG QUI CHƠN
Nầy A Nan ! Xét cho cùng, bảy loại:
Địa ngục, quỷ, súc sinh, người, tiên, A Tu La, Trời đều là những hiện
tướng hữu vi chìm đắm trong tối tăm vô an bất ổn. Tất cả chỉ là hư
vọng. Hư vọng thụ sanh, hư vọng theo nghiệp, hư vọng thọ khổ. Ở trong
tâm tánh mầu nhiệm, thanh tịnh, sáng suốt, tròn đầy của con người, tìm
mối manh gốc rễ của những khổ đau hư vọng đó, thì không sao có được.
Nó chuyển sanh, huyễn diệt như hoa đốm trong hư không. Nó chẳng dính
dáng gì với thể tánh tịnh minh vốn có của con người !
A Nan ! Những chúng sanh đó do không
nhận được tâm tánh bản lai của mình thanh tịnh. Chỉ vì "vọng"
mà tạo ra bất thiện nghiệp: Sát, đạo, dâm. Hạng tốt hơn thì ngược lại:
Bất sát, bất đạo, bất dâm. Có sát, đạo, dâm thì là quỉ, không sát,
đạo, dâm gọi là trời. Có, không thay nhau "vọng" hiện tướng luân
hồi tương tục.
Nếu khéo tu tập xa ma tha, tam ma
bát đề và thiền na thì tâm tánh nhiệm mầu, vắng lặng tròn sáng tự bản
dĩ lai; lúc đó tìm cái bất sát, bất đạo, bất dâm hãy còn không có,
thì sát, đạo, dâm không có môi trường sanh khởi.
A Nan ! Nếu không đoạn trừ được
ba nghiệp không lành của thân, khẩu, ý thì mỗi chúng sanh đều có phần
tội riêng mình. Từ những cái riêng tương tợ hợp thành cái đồng phận
chung tương tợ cho nên cảnh địa ngục khổ đau không phải là không có
chỗ nhất định. Tất cả đều là do vọng kiến của tự mình sanh ra, mà
vọng thì không chơn, không thể truy nguyên nguồn gốc được.
Người học đạo, muốn được Bồ
đề, Niết bàn điều cốt yếu là phải diệt trừ lậu hoặc, kiến tư hoặc,
trần sa hoặc, vô minh hoặc chưa hết, dù có được thần thông thì đó cũng
là những công dụng hữu vi của thế gian. Tập khí mê lầm chưa hết thì
rốt cuộc cũng lạc vào đường ma. Dù có ý trừ vọng nhưng càng chồng
chất vọng nhiều thêm. Như Lai gọi đó là hạng người đáng thương xót
!
*
* *
TRỰC CHỈ
Thấy có tam giới và luân hồi
trong thất thú chỉ vì một chữ vọng mà ra.
Tự tánh Bồ đề của con người vốn
không có vọng.
Cảnh giới địa ngục cũng có thể
nói là có. Có nơi chốn, có hình phạt có đau khổ rõ ràng; nhưng rồi
cũng có thể nói là không có. Địa ngục có là nói với những người tạo
những vọng nghiệp qua thân, miệng, ý của mình. Cảnh giới trời thì ít
có người khái niệm và hình dung được chánh xác ở đâu. Theo khái niệm
phổ biến của đa số người hiểu một cách giản dị thì trời cách cõi
đất ta ở vừa cao và vừa xa, xa lắm. Đối với người có nhiều hiểu
biết thì người ta có thể chấp nhận có thể "xa". Nhưng
"cao" thì khuyên nên xét lại. Cảnh giới người trời có thể ở
xa cảnh giới của ta. Xa 100 năm, 1.000 năm hoặc hiện thời người ta cũng
có thể nói đến 6.000.000.000 năm ánh sáng… Dãy ngân hà được các nhà
Thiên văn học phát hiện mới nhất của thời đại, cách cảnh giới loài
người trên quả địa cầu là 6 tỉ năm ánh sáng. So với dãy ngân hà
trên dưới 3 tỉ ngôi sao, đã được phát hiện từ trước, vừa dài, vừa
rộng lớn gấp 6 lần. Đó là tri kiến là chuyện của các nhà khoa học,
thiên văn học chớ chưa phải của nhà Phật học. Nhà Phật học không
dùng đơn vị tốc độ ánh sáng ước độ rộng xa mà dùng cái từ "Hằng
hà sa số bất khả thuyết, bất khả thuyết vô lượng vô biên A tăng kỳ
thế giới. Thế giới ở trong cái không gian vô tận, thời gian vô cùng,
nhà Phật học nói vậy đó".
Thế giới nhiều như vậy, chẳng lẽ
chỉ dành riêng cho 28 cảnh giới của người, trời ở thôi sao ? Phí phạm
! Tất nhiên các loài người, trời có quyền sanh sống, hàng Thanh văn, Duyên
giác, Bồ tát, Phật có quyền sanh sống, có quyền hoạt động theo nghiệp
vụ của mình. Ngoài ra các loại chúng sanh khác cũng tùy nghiệp, tùy nguyện
của mình đều có quyền khai thác đất đai lập nghiệp để sanh sống. Vì
vậy, cho nên nói trời ở xa, hàng Thanh văn, Duyên giác ở xa, Bồ tát, Phật
vẫn có thể ở xa quả đất của con người thì không phải là chuyện
không có lý. Chẳng lẽ những "thiên thể" những "hành
tinh" "định tinh" nhiều "bất khả thuyết" như vậy, mà
bỏ hoang hết cả hay sao ? Chẳng lẽ chỉ có quả địa cầu bé tí nầy
sanh sống được thôi sao ?
Cho nên đối với nhà Phật học, với
cái hiểu biết cho rằng: Trời ở xa các bậc A La Hớn, Bồ tát, Phật ở
xa là sự hiểu biết đúng, sự hiểu biết phổ biến của những người
"đệ tử bình dân" chưa nếm được tí cái hương vị giải thoát
giác ngộ của đạo Phật.
Cái khó hiểu của đạo Phật và cũng
là cái kết quả lớn lao của người đệ tử Phật chơn chính, là phải
xác định bằng trí tuệ bằng sự thực chứng của bản thân, rằng:
chính ta là con người và cũng là trời, vừa là Thanh văn, La Hớn, vừa là
Duyên giác, vừa là Bồ tát và có thể vừa là Phật. Rồi cũng chính ta vừa
là người, vừa là súc sanh, vừa là ngạ quỷ, vừa ở địa ngục nữa. Tất
cả là ta, tất cả tùy thuộc nơi ta và tất cả của chính ta.
Hiểu như vậy là cái hiểu của
nhà Phật học; Nhà Phật học là nhà Phật học có thực chứng, nhà Phật
học có tư duy sâu, trí tuệ đạt đến ba la mật rồi vậy.
- V - TRÊN BƯỚC ĐƯỜNG TU
PHẢI CẢNH GIÁC
- CÁC HIỆN TƯƠÏNG KHUẤY
NHIỄU CỦA MA
Bấy giờ đức Thế Tôn bảo đại
chúng và ông A Nan rằng: các ông là Thanh văn, Duyên giác đã hồi tâm hướng
thượng về Vô thượng Diệu giác Bồ đề. Như lai đã chỉ dạy các ông
pháp tu chân chánh. Nhưng các ông còn chưa biết hết những ma sự phức tạp
trong lúc tu chỉ quán và thiền na. Nếu cảnh ma hiện ra mà không biết thì
chẳng những tu tập không đúng mà còn rơi vào tà kiến. Khi đã rơi vào
tà kiến thì sẽ bị ngũ ấm ma, thiên ma hoặc quỉ thần, ly mị vọng lượng
khuấy nhiễu mà không biết lầm cho là hiện tượng chứng đắc của mình.
Thế thì chẳng khác nhận giặc làm con, tai hại không lường trước được.
Bọn Vô văn tỳ khưu đắc định Tứ thiền, nói là chứng Thánh, đến khi
phước báo Chư Thiên hết, suy tướng hiện ra rốt cuộc vẫn thọ luân hồi,
vẫn sa vào địa ngục.
Giờ đây các ông hãy chín chắn
lóng nghe và khéo suy nghĩ Như Lai sẽ vì các ông mà nói.
Nầy A Nan ! Mười hai loại chúng
sanh trong thế gian hữu lậu, tâm thể vốn tròn đầy giác ngộ sáng suốt,
nhiệm mầu cùng với chư Phật trong mười phương không hai không khác. Chỉ
vì vọng tưởng mà các ông mê chân lý thành có sự lỗi lầm, si ái phát
sanh.
Trong lúc các ông tu thiền định thể
nhập tam ma đề tâm được thông suốt hợp với các vị La Hớn, Bồ tát
và chư Phật trong mười phương làm cho tất cả ma vương, quỷ thần, thiên
ma đều thấy chỗ ở của mình vô cớ chuyển rung như sắp đổ vỡ. Vì vậy
các thiên ma, quỷ thần, ly mị vọng lượng, yêu quái, ác tinh đến mà khuấy
nhiễu.
Các bọn ma tuy có giận dữ, nhưng
chúng chỉ là một bọn trần lao, tâm các ông trong diệu giác tịnh minh,
thì sự khuấy phá đó như gió thổi ánh sáng, như dao chém nước, như đánh
hư không, không hại được người tu chánh pháp. Khi nào chúng khuấy phá
được là do người chủ ngũ ấm, nội tâm sai lầm thì khách ma bên ngoài
mới nhiễu hại được. Ví như binh phù tướng ấn bị truất bãi tướt lột
hết rồi thì hiệu lệnh của vị Tể tướng chẳng ai nể sợ nữa.
VI - NHỮNG
HIỆN TƯỚNG THUỘC PHẠM VI SẮC ẤM
Phật bảo ! Nầy A Nan ! Trong lúc người
tu hành tĩnh tọa chỉ tức vọng niệm, vọng niệm lắng thì tâm ly niệm
được sáng ra; lúc bấy giờ động tĩnh không tương cang, sự nhớ quên dường
như một. Đó là lúc sắp đi sâu vào chánh quán. Trạng thái yên tĩnh của
tâm làm cho hành giả giống như người mắt tỏ trong chỗ tối tăm. Trí hiểu
biết được tịch tĩnh nhưng tâm chưa phát ra sáng suốt. Đó là hiện tướng
thuộc phạm vi sắc ấm.
Chừng nào trước mắt sáng tỏ, mười
phương rỗng rang không còn tối tăm nữa; đó là kết quả bước đầu thiền
giả loại hết sắc ấm và vượt qua kiếp trược.
Nầy A Nan ! trong lúc tư duy chân lý
tìm xét lẽ nhiệm mầu thân tâm như thể tách rời ra không gì ngăn ngại.
Đó là hiện tướng trong sáng của tự tánh tràn ra, là công dụng kết quả
của thiền giả tự nhiên. Thiền giả phải cảnh giác tự tâm đừng cho
đó là sự chứng đắc, càng không nên tự mãn rằng mình được quả Thánh
hiền.
Nếu không chấp thì đó cũng là cảnh
giới tốt, bằng tự mãn tự cao cho rằng mình chứng đắc quả vị Thánh
hiền thì tự mình lầm lạc rơi vào tà kiến.
Nầy A Nan ! Trong phạm vi sắc ấm
thiền giả còn phải đề cao cảnh giác với những hiện tượng như sau:
Khi thiền giả tu tập xa ma tha, tam
ma bát đề tâm đứng lặng và sáng suốt, bấy giờ chợt thấy mười
phương đại địa hóa thành vàng ròng. Tất cả mọi vật hóa thành Như
Lai, Phật. Lại thấy Phật Tỳ lô giá na ngồi trên đài Thiên quang có
hàng ngàn đức Phật vây quanh. Trăm ức cõi nước cùng vô số hoa sen đồng
thời hiện ra trang nghiêm đẹp đẽ…
Cũng do dụng công tư duy thâm hậu
đè nén vọng tâm thái quá bỗng nhiên thấy mười phương hư không thành sắc
thất bảo trang nghiêm, sự vật không ngăn ngại nhau ảnh hiện đủ sắc màu:
xanh, vàng, đỏ, trắng mỗi mỗi hiện ra.
Có lúc tâm đứng lặng, trí sáng
phát sanh, vào giữa đêm đen lại thấy mọi vật tỏ rõ như ban ngày và mọi
vật vẫn y nhiên không chút gì thay đổi. Đó là công dụng của tâm đứng
lặng phát sanh. Thiền giả không được vui mừng và cũng không chấp mắc…
Có lúc gán ép cái tâm đưa vào hội
nhập với hư không, tứ chi thân thể bỗng dưng như cây như cỏ: lửa đốt
không nóng, dao cắt không đau. Thậm chí có lúc lửa đốt không cháy; cắt
thịt như chẻ cây. Đó là hiện tượng trần tiêu, tứ đại tán. Thiền
giả không được vui mừng và không chấp chặt.
Lại cũng do công dụng tập trung tư
tưởng quán chiếu chơn tánh dồn ép thái quá, bỗng nhiên thấy mười
phương sông núi đại tòng lâm đều thành cõi Phật, đầy dẫy thất bảo,
chiếu sáng khắp cùng. Lại chư Phật Như Lai đông như số cát sông Hằng
đầy khắp cõi hư không, ngự trong lâu đài hoa lệ. Dưới thấy địa ngục,
trên có thiên cung thông đồng không ngăn ngại. Đó là những tư tưởng
ưa thích và chán ghét chứa nhóm lâu đời bị dồn ép bộc lộ hóa thành
ra thế. Thiền giả phải biết, không sanh tâm vui mừng dụng ý bảo thủ
chấp nê.
Lại cũng do tư duy sâu sắc dồn
nén cái tâm, bỗng dưng giữa đêm đen thấy rõ chợ búa, làng mạc, bà con
quyến thuộc phương xa tụ hợp hoặc nghe tiếng nói từ hư không vọng đến.
Đó cũng là hiện tượng dồn ép tâm thái quá mà ra. Thiền giả không được
vui mừng cũng đừng cho là điều chứng Thánh.
Cũng do sức tư duy nghiên cứu dồn
nén căng thẳng về mặt lý trí bỗng thấy vị thiện tri thức hiện đến
thân hình và dáng vẻ có thể đổi thay hoặc như trẻ, hoặc như giả, lúc
quắc thước phương phi, lúc như trầm ngâm tư lự… Có lúc lại biết
thuyết pháp, dạy đời làm cho nhiều người nghe và lầm tưởng là người
chứng đắc thánh quả. Thực chất đó là do tâm bị loài ly mị, thiên ma
ám hợp không phải chánh chơn của trí tuệ và giải thoát.
A Nan ! Phật dạy tiếp: Mười thứ
cảnh giới như thế có thể hiện ra trong lúc Thiền giả tu tập Xa ma tha,
tam ma bát đề. Tất cả đều do sắc ấm và công dụng dồn nén vọng tâm
mà sanh ra như vậy. Những người có chủng tánh ngoại đạo, chủng tánh
phàm phu không được học chánh pháp của Như Lai, trong lúc lập chí và gắng
sức tu hành lại gặp những cảnh như vậy họ sanh tâm vui mừng cho là đắc
đạo, là chứng Thánh quả. Rồi họ tiếp tục khư khư bảo thủ tự kềm
hãm thần thức mình trong những cảnh ấy, hy vọng hưởng lấy y cái thiền
vị do mình tu tập thành tựu.
A Nan ! Mười cảnh giới đó vẫn
là kết quả do công dụng của thiền na. Thiền giả biết, không chấp thủ,
không tự mãn ở đó, thì đó vẫn là cảnh giới tốt không có hại gì.
Nhưng nếu sanh tâm chấp thủ, tự mãn cho đó là kết quả cứu cánh mà
mình đã đạt đến, lại tự phong Thánh, phong thần thì mắc phải tội đại
vọng ngữ. Rốt cuộc rồi vẫn không ra khỏi luân hồi mà lại phải đọa
vào ngục vô gián !
Sau Như Lai diệt độ, các ông nương
theo lời dạy nầy truyền bá lại cho đời sau, đừng để thiền na, ly mị
vọng lượng được dịp khuấy phá người tu. Đó là cách giữ gìn chánh
pháp, che chở cho những chúng sanh phát tâm tu hành cầu vô thượng đạo.
VII - NHỮNG
HIỆN TƯỚNG THUỘC PHẠM VI THỌ ẤM
Phật bảo: A Nan ! Thiền giả tu pháp
xa ma tha tam ma bát đề hết sự trở ngại về sắc ấm rồi, chợt thấy tâm
Phật hiện vào tâm mình, tâm mình và tâm Phật như bóng hiện trong gương.
Sự giải thoát và trí tuệ dường như có được, nhưng cụ thể thì chưa
được phát huy công dụng - Giống như tâm trạng người bị mộc đè - Tay
chân y nguyên, thấy nghe không sai, nhưng tâm bị khách tà thành ra không cử
động được. Đó là trạng thái của thiền giả còn lệ thuộc trong phạm
vi Thọ ấm.
Khi mộc hết đè thì thân tâm
không hoàn toàn lệ thuộc nữa, người đó sẽ thấy biết mặt mình và
ở đi tự tại. Tự tâm nhận biết Phật tâm, Phật tâm không ngoài tự
tâm, cho nên Phật tâm không phải như bóng hiện trong gương, hiểu rõ như
thế, thì thiền giả mới hết sự trở ngại của thọ ấm đồng thời đã
vượt qua kiến trược.
A Nan ! Trong lúc tu xa ma tha tam ma
bát đề tâm rất sáng suốt và cũng do sự đè nén vọng tâm thái quá, bỗng
nhiên phát sanh lòng thương vô hạn. Thương tất cả mọi người, mọi loài,
cho đến muỗi mòng, kiến mối, xem như con đỏ của mình: có lúc còn khóc
than thảm thiết nước mắt nước mũi tuôn trào khi nhìn thấy các loại
côn trùng ăn nuốt cấu xé lẫn nhau. Đó có thể được coi là bình thường,
do dụng công đè nén quá độ. Biết thì không có lỗi gì. Giác tĩnh không
mê thì tự nó tiêu hết. Nếu không biết, lầm tưởng là mình chứng đắc
thì bị giống ma sầu bi xâm nhập tâm can, thấy người thì đau xót, thương
khóc muốn đem "bi tâm" ban bủa khắp trần gian. Đó là hiện tượng
lầm lạc mất chánh thọ sẽ bị chìm đắm trong luân hồi.
Lại nữa, A Nan ! Thiền giả hết sắc
ấm, bấy giờ thọ ấm tỏ rõ, những cảnh tốt đẹp hiện ra trước mắt.
Vì cảm kích quá độ, bỗng ở trong đó sanh lòng dũng mãnh vô hạn, ý
chí bằng như Phật. Họ cho rằng tam a tăng kỳ trong một niệm có thể vượt
qua. Đó là công dụng lấn lướt quá mức mà sanh ra như thế. Biết thì
không có lỗi gì. Không chấp thủ thì lần lần tự nó tiêu mất. Chấp thủ
cho là chứng đắc thì giống ma ngông cuồng xâm nhập tâm can, gặp ai khoe
nấy, ngã mạn cống cao, trên không còn thấy có Phật, dưới chẳng thấy
có người. Thế là lầm lạc sai mất chánh thọ, sẽ bị chìm đắm trong
luân hồi.
Lại có thiền giả tu tập thiền
định, thọ ấm được tỏ rõ, tiến lên không có chỗ chứng mới, lui về
mất sở đắc cũ, trí lực suy kém lơ lững trong chỗ lững lơ, không có
gì để nương tựa, bỗng dưng tâm sanh khô khát, lúc nào cũng thầm nhớ
không nguôi rồi cho như thế là cái đức tinh tấn. Đó là trạng thái
không trí tuệ của những kẻ tu hành lầm lạc. Biết thì hành giả không
có lỗi gì. Nếu đam mê chấp thủ thì có giống ma nhớ, ám nhập vào tâm
can, ngày đêm như nắm cái tâm treo vào một chỗ khắc khoải nhớ nhung. Hạng
tu hành như thế sai mất chánh thọ, sẽ chìm đắm trong biển luân hồi.
Có hạng thiền giả tu tập thiền
định sắc ấm hết, thọ ấm tỏ rõ. Sức tuệ quá nhiều, sức định thì
ít: Trí tuệ quá mạnh mẽ và sắc bén, bằng lòng với thắng tánh đó, rồi
tự ngờ mình là Phật Lô Xá Na. Đó là kết quả của sự dụng tâm mà
quên suy xét, nên đam mê tri kiến của mình. Biết thì hành giả chẳng có
lỗi gì. Nếu nhận đó là điều chứng Thánh quả thì bị giống ma hạ liệt
tri túc ám nhập tâm can. Hễ thấy người tự xưng mình được vô thượng
đệ nhất nghĩa đế. Hạng người như thế, sai mất chánh thọ sẽ bị
chìm đắm trong luân hồi lục đạo.
Lại có thiền giả chuyên tâm thiền
định. Sắc ấm tiêu rồi thọ ấm tỏ rõ, chỗ chứng mới chưa được, tâm
đắc cũ đã mất, tâm bỗng sanh lòng lo buồn vô hạn. Tự thấy mình như
ngồi giường sắt, như uống nước đồng sôi, chán nản không muốn sống,
mong cầu người khác giết mình để được giải thoát. Đó là hiện tượng
của sự tu hành sai lạc chánh pháp. Hành giả biết thì không có lỗi gì,
nếu đam mê cho là chứng Thánh thì có giống ma ưu phiền ám nhập tâm can,
tay cầm dao mác tự cắt thịt mình, thích được bỏ mạng. Đó là hiện tượng
tu thiền lầm lạc sai mất chánh thọ sẽ bị chìm đắm trong biển luân hồi.
Lại có trường hợp, hành giả định
tâm chuyên chú trong sáng chẳng có việc gì, bỗng dưng cái mừng vô hạn
sanh ra, không sao ngăn được. Đó là hiện tượng khinh an đến với thiền
gia, nhưng vì thiếu trí tuệ không đủ sức tự chế tâm mình. Nếu biết
thì hành giả chẳng có lỗi gì, còn ham mê cho là chứng Thánh thì có giống
ma thích vui mừng ám nhập vào tâm can, hễ thấy người thì cười. Đi ngoài
đường tự ca tự hát, tự múa và nói là mình được vô ngại tự tại
giải thoát. Đó là biểu hiện của sự tu hành lầm lạc, sai mất chánh thọ
sẽ bị chìm đắm trong biển luân hồi sanh tử ưu bi…
Lại có trường hợp thiền giả
đi sâu trong thiền định, bỗng nhiên lòng đại ngã mạn phát ra. Từ đó
thường biểu lộ các thứ: mạn, mạn quá mạn, tỵ liệt mạn, tăng thượng
mạn. Người nầy xem thường cả hàng Thanh văn, Duyên giác, bất kính cả
chư Phật. Nguyên do là thắng giải quá cao mà không đủ trí tuệ để kềm
chế. Hành giả biết thì không có lỗi gì, nếu mê chấp cho là chứng
Thánh thì bị giống ma đại ngã mạn ám nhập vào tâm can, không tin tam bảo,
phá hỏng kinh tượng. Đó là hiện tượng lầm lạc, sai mất chánh thọ sẽ
bị chìm đắm trong luân hồi.
Lại có trường hợp định tâm
sáng suốt, tỏ ngộ từng phần chân lý, được sức tùy thuận, tâm bỗng
sanh ra trạng thái khinh an vô lượng rồi cho rằng mình chứng Thánh. Đó
là nhân có trí tuệ mà có sự khinh an. Hành giả không chấp thì không có
lỗi, nếu mê chấp sẽ có giống ma khinh thanh ám nhập tâm can, sanh lòng tự
mãn không cầu tiến lên nữa, sai mất chánh thọ sẽ bị chìm đắm.
Lại có trường hợp tâm trụ thiền
định, tâm tỏ ngộ được tánh trong sáng và rỗng rang của vạn pháp. Bấy
giờ vô cớ bỗng dưng quay lại hướng về tánh đoạn diệt bác không
nhân quả, chủ trương ngoan không, chấp thủ lý không cho rằng vạn pháp
đoạn diệt. Hành giả biết thì không lỗi gì, mê thì có giống ma ngoan
không vào trong tim, gan chê bai người tu hành giữ giới, phá các luật nghi,
thích ở nhà cư sĩ, uống ăn thô tạp, làm hạnh bất chánh. Thậm chí ăn
đồ bất tịnh vì cho rằng tất cả đều không. Đó là hiện tượng lầm
lạc, sai mất chánh thọ sẽ bị chìm đắm…
Lại có trường hợp thiền giả chú
tâm trong định nghiền ngẫm về tánh trong sáng rỗng rang ghi sâu vào tâm
thức, bỗng nhiên tâm sanh lòng yêu vô hạn. Yêu quá phát điên, làm chuyện
tham dục. Đó là hiện tượng sắp được định sâu, nhưng không có tuệ
để tự chế nên sa vào ngũ dục. Hành giả tỉnh biết thì không có lỗi
gì, nếu mê chấp thì có giống ma ngũ dục ám hợp vào tâm can, rồi cho sự
dâm dục là Bồ đề, lại dạy các đệ tử bình đẳng làm việc dâm dục,
gọi những người hành dâm là những người nối giòng pháp tử. Khi ma
chán chường rời bỏ thân thể, không còn uy đức thì thầy trò sa vào lưới
pháp luật của quốc gia xã hội. Đó là hiện tượng sai lầm rời xa chánh
thọ sẽ bị chìm đắm luân hồi.
A Nan ! Mười thứ cảnh hiện ra
trong thiền định như vậy đều do thụ ấm và công dụng tác động giao
xen mà hiện ra như thế. Chúng sanh tham mê hiện tượng lạ không biết suy
xét tự cho rằng mình đã chứng lên quả Thánh, thành tội đại vọng ngữ
phải đọa tam đồ. Nếu có học hiểu kinh giáo tuân theo lời dạy bảo của
Như Lai. Khi gặp những cảnh như thế sanh ra phải tự nhủ lòng: đó là cảnh
vọng, không được sanh tâm ham hố, không được móng ý duy trì thì tự
nó tiêu tan, thiền giả chẳng có lỗi gì. Móng ý tham cầu, trăm người
như một lầm lạc đường tà tự chiêu khổ lụy không khỏi luân hồi. Sự
tu hành cần khổ, luống công còn chuốt vào mình tai ương, khổ não, mất
đi chánh thọ, sẽ bị luân hồi khó có ngày ra.
VIII - CÁC
HIỆN TƯƠ.NG THUỘC PHẠM VI TƯỞNG ẤM
Phật bảo: Nầy A Nan ! Các
thiền giả tu xa ma tha, tam ma bát đề vượt qua thọ ấm, khi thọ ấm hết
rồi, dù chưa hết mê lầm, nhưng tâm có thể tách rời khỏi hình hài như
chim ra khỏi lồng. Từ đó tiến lên trải qua nhiều hạnh vị và được
"ý sanh thân". YÙ sanh thân có nghĩa là được tùy ý đi ở không
còn bị ngăn ngại. Đó là hiện tượng thuộc phạm vi Tưởng ấm.
Đến lúc hết động niệm, vọng
tưởng được tiêu, cái tâm giác minh như phủi hết bụi nhơ, dùng trí
sáng có thể soi rọi biết được đoạn đường sanh tử của mình trong
nhiều giai đoạn. Đó là hiện tượng của hành giả hết rồi tưởng ấm.
Nầy A Nan ! Thiền giả được vượt
qua thọ ấm, định tâm tăng tiến sáng suốt và rỗng rang. Và trong khi tiếp
tục tu tập Tam ma đề bỗng nhiên tâm ham muốn cầu được công dụng thiện
xảo linh thiêng… Thừa dịp vọng tâm sơ hở nầy, thiên ma mượn xác một
người khác gá vào và tự khoe mình chứng đắc Niết bàn Phật, đến trước
thiền giả hay Phật thuyết pháp. Do uy lực của thiên ma, người nầy hiện
lúc trẻ, lúc già, lúc làm tỳ kheo, lúc làm Đế thích, lúc hiện phụ nữ,
lúc ở trong nhà tối hiện ánh hào quang. Thiền giả ngu mê kia lầm tưởng
là Bồ tát, nghe lời dạy bảo, kính cẩn tin theo, chánh tâm lay chuyển,
phá hủy luật nghi làm chuyện dâm dục. Người thiên ma ưa nói chuyện huyễn
hoặc để bịp đời như: thời cuộc biến đổi, đao binh sắp xảy ra, hồng
thủy sẽ đến, hỏa tai thiêu cả nhân gian… Đó là giống quái quỷ tuổi
già thành ma khuấy rối người tu hành. Khi ma chán rồi, bỏ không gá nữa
thì Thầy và đệ tử ngu si đều sa vào lưới luật pháp của quốc gia,
và kiếp kiếp xiêu lạc trong luân hồi.
Lại có người đang tu tập tam ma
đề bỗng dưng sanh tâm thích đi chơi: thả cho tư tưởng bay đi cảnh nầy
xứ nọ. Thừa dịp vọng tâm sơ hở của thiền giả, thiên ma gá vào thân
một người khác và tự khoe mình đã được Vô thượng Niết bàn, đến
trước thiền giả thích đi chơi kia, trải tòa thuyết pháp. Do uy lực của
thiên ma làm cho thiền giả và nhiều người nghe pháp tự thấy mình được
ngồi trên hoa sen báu, thân thể biến thân sắc vàng sáng chói. Cả thính
chúng cảm phục và được sự an vui chưa từng có. Thiền giả si mê kia tưởng
lầm đó là Bồ tát cung kính nghe tin theo lời dạy bảo, làm việc dâm dật,
hủy báng chánh pháp. Ma ưa nói: Phật nầy giáng thế chỗ kia. Phật kia độ
người chỗ nọ… Người nầy là Bồ tát hóa thân, người kia Thánh mẫu
xuống trần độ thế… Những người tu hành vô trí tin theo. Đó là loài
bạt quỷ tuổi già thành ma khuấy rối người tu hành. Khi ma chán rồi
không gá nữa thì Thầy và đệ tử đều sa vào lưới pháp luật của quốc
gia, tất nhiên sau đó luân hồi kiếp kiếp.
Lại có thiền giả trong khi tĩnh tọa
trong tam ma bát đề tâm được định tĩnh rồng rang, bỗng nhiên tâm sanh
ước vọng muốn cho tâm mình khế hợp chân lý tức thì có được sự ứng
hiện hiển linh. Thừa cơ hội sai trái của thiền giả, thiên ma cho tinh thần
gá vào một người khác, và tự xưng rằng mình đã được Vô thượng Niết
bàn, đến chỗ thiền giả hâm mộ khế hợp chơn lý trải tòa thuyết
pháp. Thân hình của tất cả mọi người không có gì thay đổi, nhưng trước
khi nghe pháp mọi người tự thấy được túc mệnh thông, hoặc tha tâm
thông, hoặc biết và nói những chuyện tốt, xấu, tai ương, hay phúc đức
của thế gian. Hoặc làm cho mọi người thấy cảnh chư Thiên, cảnh địa
ngục, hoặc cho mọi người vốn không học hành lại biết tụng kinh, nói
đạo lý… khiến cho ai cũng vui vẻ, kính phục nghe theo lời thuyết pháp xảo
ngụy của thiên ma. Thiền giả trong lúc si mê, lầm tưởng đó là Bồ
tát, cung kính tôn trọng và thay đổi lập trường bỏ mất chánh thọ, học
làm theo những điều tham dục mà miệng thì ưa nói chuyện Phật. Rằng Phật
ở cõi kia, Phật kia giáng trần xứ nọ. Phật nam, Phật nữ, Phật thiệt,
Phật giả chủ đích để bịp người tu hành. Đến khi ma chán rồi không
gá nữa thì lúc đó Thầy và bọn đệ tử lần lượt sa vào lưới pháp
luật của nhơn gian. Người tu hành biết không ham mê thì chẳng có lỗi
gì và hiện tượng ấy dần dần tự nó tiêu diệt, bằng không biết bị
rơi vào đường tà kiến lạc vào đường địa ngục luân hồi.
Lại có thiền giả trong khi tập
trung tư tưởng trong sáng chuyên chú trong tam ma đề, bỗng dưng tâm sanh
đam mê hiểu biết tận tường về căn nguyên của mọi sự vật hiện tượng.
Thiên ma nhờ dịp đó, cho tinh thần gá vào một người khác, tự nhiên
nói được kinh pháp và tự xưng rằng mình đã được Vô thượng Niết bàn
Phật. Rồi Thiên ma nầy đến chỗ thiền giả tham cầu hiểu biết ấy trải
tòa thuyết pháp. Do uy lực của thiên ma khiến cho mọi người ai nghe cũng
đều kính phục. Mọi người đồng ý theo lời dạy của ma rằng Bồ đề
Niết bàn, pháp thân Phật chỉ là cái thân xác hiện tiền, không có cái
gì khác. Cha sanh con, con sanh cháu, rồi cha con sanh nhau đời nầy sang đời
khác, không mất, đó là pháp thân thường trụ chớ không có cõi Phật,
cõi Bồ tát, cõi Trời nào khác. Những người tu hành si mê đem thân mạng
qui y nghe theo những điều đó, thay đổi lập trường, hủy bỏ chánh pháp
tu theo tà kiến rối loạn chánh thọ làm việc tham dục. Ma ưa thuyết giáo:
mắt, tai, mũi, lưỡi là tịnh độ, hai căn nam nữ là chỗ làm cho con người
được Bồ đề Niết bàn. Bọn ngu si vô trí đều tin những lời dạy ô uế
đó. Thực chất nó là Cổ độc quỷ và thắng ác quỷ, tuổi già thành ma
khuấy rối người tu hành. Khi ma khuấy chán rồi bỏ thân không gá nữa
thì thầy ma, trò ma đều sa vào lưới pháp luật của nhơn gian. Người đệ
tử Phật chơn chánh biết trước không đam mê theo thì cũng chẳng có lỗi
gì. Si mê theo nó thì lạc vào tà kiến sai mất chánh thọ bị đọa địa
ngục, luân hồi khó dứt !
Lại có thiền giả tâm được rỗng
rang, trong lúc tu tam ma đề bỗng dưng tâm ham thích nổi lên muốn biết việc
quá khứ, vị lai, nghiền ngẫm mọi hiện tượng mong được thầm cảm
linh ứng để thỏa mãn yêu cầu. Thiên ma thừa dịp đó cho tinh thần gá
vào một người khác, nói được kinh pháp và tự cho là mình đã được
Niết bàn Vô thượng. Ma đến trước thiền giả tham cầu linh ứng kia trải
tòa thuyết pháp, khiến cho thính chúng tự cảm thấy thân mình như được
trăm ngàn tuổi, tham ái tâm nổi dậy sanh lòng trọng kính ma và không thể
rời bỏ được; đem thân làm nô bộc, cúng dường tứ sự không biết mệt
mỏi. Mọi người bằng lòng tôn trọng đó là bậc tiên sư, sanh lòng ái
pháp dính như keo sơn và được cái chưa từng có. Thiền giả vô trí lại
lầm tưởng là Bồ tát hiện đến độ mình, gần gũi, nghe lời dạy bảo
sai quấy của ma, hủy phá luật nghi làm việc tham dục bỏ mất thanh tịnh,
sai lầm chánh thọ. Thực chất đó là giống lệ quỷ tuổi già thành ma
khuấy phá người tu. Khi ma khuấy chán rồi, rời bỏ thân người không gá
nữa, thì thầy và đệ tử ma đều bị sa vào lưới pháp luật của thế
gian. Người tu hành biết thì tự nó tiêu tan, bằng đam mê cho là chứng đắc
thì sai mất chánh thọ đọa vào địa ngục.
Lại có thiền giả định tâm đứng
lặng, tập chú tam ma đề, bỗng dưng tâm ưa thích chỗ vắng vẻ, muốn sự
khắc khổ, ham làm việc cần lao. Thừa dịp đó, thiên ma cho tinh thần gá
vào một người khác, nói được kinh pháp, và tự xưng mình đã được Vô
thượng Niết bàn. Ma đến trước thiền giả ham thích khắc khổ, trải
tòa thuyết pháp, làm cho thiền giả và nhiều người như tự biết nghiệp
cũ, biết về kiếp trước của mình. Ma chỉ người nầy kiếp trước là
cọp, người nọ kiếp trước là rắn, người kia kiếp trước là rùa…
Ma sai bảo mỗi người tự hiện tướng tựa hồ như thật, do đó mọi người
hết lòng kính phục nghe theo những lời dạy bảo xằng bậy của ma. Người
nào móng tâm trái ý nó, nó biết và dùng thể lực mà uy hiếp. Ma lại hiện
ra như người tu hành khắc khổ, tinh tấn trong việc cần lao, để chê bai
tỳ khưu, mắng nhiếc đồ chúng, phô bày việc xấu của người khác. Ma
thường nói chuyện họa phúc, hên xui, nói chuyện may rủi của gia đình người
đúng y chuyện nhà của ma vậy. Thực chất đó là giống Đại lực quỷ
tuổi già thành ma khuấy phá người tu hành, khi ma khuấy chán rồi, rời bỏ
thân người kia không gá nữa thì thầy ma, đệ tử ma đều sa vào lưới
pháp luật của thế gian. Người tu thiền biết thì ma tự tiêu tan, đam mê
ái nhiễm thì sa vào tà kiến luân hồi rồi vào địa ngục.
Lại nữa, có thiền giả tâm được
đứng lặng, trong lúc chuyên chú tam ma đề để tâm tìm hiểu muốn biết
về túc mạng. Thừa dịp đó Thiên ma gá vào một người nào đó, nói được
kinh pháp thông thạo và tự xưng đã chứng được Niết bàn. Ma đến trước
thiền giả và nhiễu, trải tòa thuyết pháp. Do thế lực của ma khiến cho
những người nghe pháp có được châu báu hoặc ma hiện thân thú vật, miệng
ngậm châu ngọc đem cho. Ma lại có thể chỉ chỗ nầy chôn châu báu, chỗ
nọ có vật quí chói sáng, khiến cho các người nghe pháp của nó được cái
chưa từng có. Ma chỉ ăn cây thuốc, không ăn cơm hoặc một ngày chỉ ăn
ít đậu, mè mà thân hình vẫn tốt đẹp; Vì vậy mọi người đều kính
phục, tuyệt đối nghe lời. Ma phỉ báng Tỳ khưu, mạt sát đồ chúng. Ma
lại chỉ nơi kia là chỗ của các Thánh, chỗ nọ của những người linh
hiển… Thâït chất đó là loại quỷ thần rừng núi, hoặc thổ địa thần
hoàng tuổi già thành ma khuấy phá người tu hành, xúi giục làm bậy hủy
phá luật nghi Phật dạy. Khi ma chán rồi, rời bỏ thân không gá nữa thì
thầy, trò đều sa vào lưới pháp luật của thế gian. Người tu thiền phải
biết để cảnh giác thì chúng tự tiêu tan, bằng ham mê thì bỏ mất
chánh thọ sai trái chánh kiến sa vào địa ngục.
Lại có thiền giả tâm được đứng
lặng, chuyên chú tam ma đề bỗng dưng tâm ham mê biến hóa thần thông,
mong được thần lực linh hiển. Thừa dịp đó, thiên ma cho tinh thần gá
vào một người khác, nói được kinh pháp và tự xưng chứng được Vô thượng
Niết bàn. Ma đến chỗ thiền giả mong cầu thần thông biến hóa, trải
tòa thuyết pháp và tay cầm lửa đưa cao đốt trên đầu mọi người, thế
mà không ai thấy nóng. Ma lại hiện ngồi lơ lững trên hư không, hoặc hiện
đi trên mặt nước, hoặc vào trong bình, hoặc ở trong đáy, hoặc vượt
qua cửa sổ, hoặc đi thông suốt qua tường mà không chút ngăn ngại. Chỉ
trừ binh khí gươm đao thì chưa được tự tại. Ma tự xưng mình là Phật,
chịu Tỳ khưu lễ bái, chê bai thiền luật, mắng nhiếc đồ chúng, khuyến
khích sự hành dâm, bảo những sự ôm ấp hành lạc với nhau là truyền
pháp. Thực chất đó là giống Hải tinh, Sơn tinh, Phong tinh, Thổ tinh và
loài tinh mỵ của cây cỏ sống nhiều kiếp trong trời đất, hoặc do loài
Tiên đã chết lâu năm, hình hài không nát, loài quái quỷ gá vào. Bọn ấy
tuổi già thành ma khuấy rối người tu hành. Khi khuấy phá chán rồi, bỏ
thân người không gá nữa thì đệ tử ma, thầy ma đều sa vào lưới pháp
luật. Người tu hành biết thì chúng tự tiêu tan, đam mê thì sai mất
chánh thọ, đọa lạc địa ngục luân hồi vĩnh kiếp.
Lại có thiền giả định tâm đứng
lặng, chuyên trụ tam ma đề bỗng dưng tâm thích vào chỗ diệt tận,
nghiên cứu tánh biến hóa, tham muốn cái rỗng không sâu nhiệm. Thừa dịp
đó thiên ma cho tinh thần gá vào một người khác, nói được kinh pháp và
tự xưng mình được Vô thượng Niết bàn, đến chỗ thiền giả tham cầu
rỗng không ấy trải tòa thuyết pháp - Ở giữa chỗ đông đảo ma bỗng
biến mất thành không, từ không hiện ra có lúc hiện thân mình trong suốt
như lưu ly, có lúc dủi tay hiện ra mùi thơm chiên đàn, lúc đưa tay xuống
hiện ra mùi phẩn tiểu cứng chắc như đường phèn. Lúc thuyết pháp nói
không có nhân, không có quả, chết rồi là hết không có thân sau, khuyến
khích mọi người làm việc dâm dục. Và do uy lực của ma những người làm
việc dâm dục cũng được cái rỗng không chưa từng có. Thực chất đó
là những tinh khí nhật nguyệt bạc thực, vàng, đá, cỏ, cây, quy, phượng,
lân, hạc trải qua ngàn vạn năm không chết là các loài tinh trong các quốc
độ, đến lúc tuổi già thành ma khuấy rối người tu hành. Khi ma khuấy
chán rồi, rời bỏ thân người không gá nữa, thì thầy ma, trò ma tất cả
đều sa vào lưới pháp luật của nhân gian. Thiền giả tu hành, biết cảnh
giác thì tự nó tiêu mất, bằng đam mê theo chúng lạc vào tà khiến sai mất
chánh thọ đọa vào địa ngục vĩnh kiếp luân hồi.
Lại có thiền giả tâm được rỗng
rang đứng lặng, chuyên chú trong tam ma đề, bỗng nhiên sanh tâm ham sống,
thích gian khổ, muốn quan sát sự vật tinh vi mong cầu nhiều tuổi, vượt
ra cái sống phần đoạn cầu được thường trụ. Thừa dịp ấy, thiên ma
cho tinh thần gá vào một người khác, nói được kinh pháp, và tự xưng mình
chứng được Vô thượng Niết bàn. Đến trước thiền giả và chỗ đông
người, ma diễn trò huyễn hoặc, đến chỗ cách xa trăm dặm lấy một vật
làm tin rồi trở về trong giây lát. Hoặc ở trong một căn nhà, mà bảo người
đi thử, đi mãi đi hoài mà từ vách bên nầy không đến được phía vách
bên kia. Do vậy nhiều người tu hành, các thiền giả hết lòng cung kính
tin theo, cho đó là Phật sống hiện ở đời. Được nước, ma tuyên bố
thập thương chúng sanh là con đỏ của ta, ta sanh ra chư Phật, ta sanh ra thế
giới, ta là Phật đầu tiên tự sanh ra đời, không do tu hành đắc đạo.
Thực chất bọn nầy chính là ma trụ thế Tự tại thiên cùng loại với bọn
Giá văn trà, Tỳ xá đồng tử ở cõi Tứ thiên vương, thích cái rỗng
không chúng nó đến ăn tinh khí người tu hành. Bọn đó có thể hiện làm
gái đẹp khêu gợi rủ ren người tu hành làm việc dâm dục, hành sự theo
ma không lâu thì tâm can khô kiệt, tinh thần rối loạn, miệng nói lảm nhảm.
Những ai rơi vào đường cám dỗ của ma, cuối cùng thầy ma, trò ma đều
rơi vào lưới pháp luật của thế gian. Thiền giả biết cảnh giác thì ma
tự tiêu mất, bằng mê muội nghe theo sai mất chánh thọ trái đạo Bồ đề
sẽ đọa địa ngục vĩnh kiếp luân hồi.
A Nan ! Ông nên biết, mười thứ ma
ấy đời sau cách xa chánh pháp, chúng có thể hiện ra trong giới xuất gia
của đạo Phật, hoặc gá vào thân người thế gian, hoặc có thể tự hiện.
Dù với hình thức nào, chúng cũng tự xưng là đã chứng được Vô thượng
chánh biến tri giác. Các loại ma nầy đều khen ngợi sự dâm dục; thầy
ma cùng đệ tử ma dâm dục truyền nhau. Mê hoặc nhau thấm sâu tâm can lưu
luyến nhau, ít thì chín đời, nhiều thì trăm kiếp, khiến cho người tu hành
chân chánh trở thành quyến thuộc của ma, sau khi chết phải làm dân ma mất
hết chánh trí đọa vào địa ngục.
A Nan ! Ông hãy phát nguyện vào đời
ngũ trược, tung vải lòng đại bi dạy dỗ chúng sanh phát khởi lòng chánh
tín, tu theo chánh pháp để được Vô thượng chánh biến tri, xa lánh tà ma
ngoại đạo. Được vậy, là ông đã đền đáp ơn Phật. Mười thứ cảnh
giới như thế hiện ra trong thiền định đều do tưởng ấm che chướng mà
sanh ra, tác hợp với công dụng tu tam ma đề dồn nén vọng tâm hiện những
cảnh đó, chứ không phải là hiện tướng chứng quả hay thành Bồ tát,
thành Phật gì. Những người tu thiền không học, chưa nghe lời răn dạy của
Như Lai, phần nhiều bằng lòng khi gặp những cảnh giới như vậy và cho
là mình đã chứng đắc. Đó là sai lầm nguy hại lớn lao.
A Nan ! Sau Như Lai diệt độ ông
nên đem những lời dạy nầy của Như Lai truyền bảo cho chúng sanh hậu thế,
khiến cho hiểu rõ nghĩa đó, không để cho thiên ma có dịp khuấy rối. Đó
là cách che chở, hộ trì cho chúng sanh, cho những người phát tâm đi vào
con đường Vô thượng chánh tri giác.
Mục lục III | Tựa tập III | III-7 | III-8 | III-9 | III-10 | Phụ lục | Mục lục I | Mục lục II