- Phần VI: Phẩm 25-6
-
-
-
- 360. "Lành thay, phòng hộ mắt !
- Lành thay, phòng hộ tai.
- Lành thay, phòng hộ mũi,
- Lành thay, phòng hộ lưỡi."
-
- 361. "Lành thay, phòng hộ thân !
- Lành thay, phòng hộ lời,
- Lành thay, phòng hộ ý.
- Lành thay, phòng tất cả.
- Tỷ kheo phòng tất cả.
- Thoát được mọi khổ đau."
-
- 362. "Người chế ngự tay chân,
- Chế ngự lời và đầu,
- Vui thích nội thiền định.
- Độc thân, biết vừa đủ,
- Thật xứng gọi tỷ kheo."
-
- 363. "Tỷ kheo chế ngự miệng,
- Vừa lời, không cống cao,
- Khi trình bày pháp nghĩa,
- Lời lẽ dịu ngọt ngào."
-
- 364. "Vị tỷ kheo thích pháp,
- Mến pháp, suy tư Pháp.
- Tâm tư niệm chánh Pháp,
- Không rời bỏ chánh Pháp."
-
- 365. "Không khinh điều mình được,
- Không ganh người khác được
- Tỷ kheo ganh tị người,
- Không sao chứng Thiền Định."
-
- 366. "Tỷ kheo dầu được ít,
- Không khinh điều mình được,
- Sống thanh tịnh không nhác,
- Chư thiên khen vị này."
-
- 367. "Hoàn toàn, đối danh sắc,
- Không chấp Ta, của Ta.
- Không chấp, không sầu não.
- Thật xứng danh Tỷ kheo."
-
- 368. "Tỷ kheo trú từ bi,
- Tín thành giáo Pháp Phật,
- Chứng cảnh giới tịch tỉnh.
- Các hạnh an tịnh lạc."
-
- 369. "Tỷ kheo, tát thuyền này,
- Thuyền không, nhẹ đi mau.
- Trừ tham, diệt sân hận,
- Tất chứng đạt Niết Bàn."
-
- 370. "Đoạn năm, từ bỏ năm
- Tụ tập năm tối thượng
- Tỷ kheo vượt năm ái
- Xứng danh "Vượt bộc lưu"
-
- 371. "Tỷ kheo, hãy tu thiền,
- Chớ buông lung phóng dật,
- Tâm chớ đắm say dục,
- Phóng dật, nuốt sắt nóng
- Bị đốt, chớ than khổ !"
-
- 372. "Không trí tuệ, không thiền,
- Không thiền, không trí tuệ.
- Người có thiền có tuệ,
- Nhất định gần Niết Bàn."
-
- 373. "Bước vào ngôi nhà trống,
- Tỷ kheo tâm an tịnh,
- Thọ hưởng vui siêu nhân
- Tịnh quán theo chánh pháp."
-
- 374. "Người luôn luôn chánh niệm,
- Sự sanh diệt các uẩn,
- Được hoan hỷ, hân hoan,
- Chỉ bậc bất tử biết."
-
- 375. "Đây Tỷ kheo có trí,
- Tụ tập pháp căn bản
- Hộ căn, biết vừa đủ,
- Giữ gìn căn bản giới,
- Thường gần gũi bạn lành,
- Sống thanh tịnh tinh cần."
-
- 376. "Giao thiệp khéo thân thiện,
- Cử chỉ mực đoan trang.
- Do vậy hưởng vui nhiều,
- Sẽ dứt mọi khổ đau."
-
- 377. "Như hoa Vassikà,
- Quăng bỏ cánh úa tàn,
- Cũng vậy vị Tỷ kheo,
- Hãy giải thoát tham sân."
-
- 378. "Thân tịnh, lời an tịnh,
- An tịnh, khéo thiền tịnh.
- Tỷ kheo bỏ thế vật,
- Xứng danh "bậc tịch tịnh".
-
- 379. "Tự mình chỉ trích mình,
- Tự mình dò xét mình,
- Tỷ kheo tự phòng hộ
- Chánh niệm, trú an lạc."
-
- 380. "Tự mình y chỉ mình,
- Tự mình đi đến mình,
- Vậy hãy tự điều phục,
- Như khách buôn ngựa hiền."
-
- 381. "Tỷ kheo nhiều hân hoan,
- Tịnh tín giáo pháp Phật,
- Chứng cảnh giới tịch tịnh,
- Các hạnh an tịnh lạc."
-
- 382. "Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ
- Siêng tu giáo pháp Phật,
- Soi sáng thế gian này,
- Như trăng thoát khỏi mây."
-
-
- 383. "Hỡi này Bà là môn,
- Hãy tinh tấn đoạn dòng,
- Từ bỏ các dục lạc,
- Biết được hành đoạn diệt,
- Người là bậc vô vi."
-
- 384. "Nhờ thường trú hai pháp
- Đến được bờ bên kia.
- Bà la môn có trí,
- Mọi kiết sử dứt sạch."
-
- 385. "Không bờ này, bờ kia
- Cả hai bờ không có,
- Lìa khổ, không trói buộc
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 386. "Tu thiền, trú ly trần
- Phận sự xong, vô lậu,
- Đạt được đích tối thượng,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 387. "Mặt trời sáng ban ngàn,
- Mặt trăng sáng ban đêm.
- Khí giới sáng Sát lỵ,
- Thiền định sáng Phạm chí.
- Còn hào quang đức Phật,
- Chói sáng cả ngày đêm."
-
- 388. "Dứt ác gọi Phạm chí,
- Tịnh hạnh gọi Sa môn,
- Tự mình xuất cấu uế,
- Nên gọi bậc xuất gia."
-
- 389. "Chớ có đập Phạm chí !
- Phạm chí chớ đập lại !
- Xấu thay đập Phạm chí
- Đập trả lại xấu hơn !"
-
- 390. "Đối vị Bà la môn,
- Đây không lợi ích nhỏ.
- Khi ý không ái luyến,
- Tâm hại được chận đứng,
- Chỉ khi ấy khổ diệt,"
-
- 391. "Với người thân miệng ý,
- Không làm các ác hạnh
- Ba nghiệp được phòng hộ,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 392. "Từ ai, biết chánh pháp
- Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
- Hãy kính lễ vị ấy,
- Như phạm chí thờ lửa."
-
- 393. "Được gọi Bà la môn,
- Không vì đầu bện tóc,
- Không chủng tộc, thọ sanh,
- Ai thật chân, chánh, tịnh,
- Mới gọi Bà la môn."
-
- 394. "Kẻ ngu, có ích gì
- Bện tóc với da dê,
- Nội tâm toàn phiền não,
- Ngoài mặt đánh bóng suông."
-
- 395. "Người mặc áo đống rác,
- Gầy ốm, lộ mạch gân,
- Độc thân thiền trong rừng.
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 396. "Ta không gọi Phạm Chí,
- Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
- Chỉ được gọi tên suông
- Nếu tâm còn phiền não.
- Không phiền não, chấp trước
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 397. "Đoạn hết các kiết sử,
- Không còn gì lo sợ
- Không đắm trước buộc ràng
- Ta gọi Bà la môn
-
- 398. "Bỏ đai da, bỏ cương
- Bỏ dây, đồ sở thuộc,
- Bỏ then chốt, sáng suốt,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 399. "Không ác ý, nhẫn chịu,
- Phỉ báng, đánh, phạt hình,
- Lấy nhẫn làm quân lực,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 400. "Không hận, hết bổn phận,
- Trì giới, không tham ái,
- Nhiếp phục, thân cuối cùng,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 401. "Như nước trên lá sen,
- Như hột cải đầu kim,
- Người không nhiễm ái dục,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 402. "Ai tự trên đời này,
- Giác khổ, diệt trừ khổ,
- Bỏ gánh nặng, giải thoát,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 403. "Người trí tuệ sâu xa,
- Khéo biết đạo, phi đạo
- Chứng đạt đích vô thượng,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 404. "Không liên hệ cả hai,
- Xuất gia và thế tục,
- Sống độc thân, ít dục,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 405. "Bỏ trượng, đối chúng sanh,
- Yếu kém hay kiên cường,
- Không giết, không bảo giết,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 406. "Thân thiện giữa thù địch
- Ôn hòa giữa hung hăng.
- Không nhiễm, giữa nhiễm trước,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 407. "Người bỏ rơi tham sân,
- Không mạn không ganh tị,
- Như hột cải đầu kim,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 408. "Nói lên lời ôn hòa,
- Lợi ích và chân thật,
- Không mất lòng một ai,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 409. "Ởi đời, vật dài, ngắn,
- Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
- Phàm không cho không lấy,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 410. "Người không có hy cầu,
- Đời này và đời sau,
- Không hy cầu, giải thoát,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 411. "Người không còn tham ái,
- Có trí, không nghi hoặc,
- Thể nhập vào bất tử,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 412. "Người sống ở đời này
- Không nhiễm cả thiện ác,
- Không sầu, sạch không bụi
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 413. "Như trăng, sạch không uế
- Sáng trong và tịnh lặng,
- Hữu ái, được đoạn tận,
- Ta gọi Bà là môn."
-
- 414. "Vượt đường nguy hiểm này,
- Nhiếp phục luân hồi, si,
- Đến bờ kia thiền định
- Không dục ái, không nghi,
- Không chấp trước, tịch tịnh,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 415. "Ai ở đời, đoạn dục,
- Bỏ nhà, sống xuất gia,
- Dục hữu được đoạn tận,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 416. "Ai ở đời đoạn ái
- Bỏ nhà, sống xuất gia,
- Ái hữu được đoạn tận,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 417. "Bỏ trói buộc loài người,
- Vượt trói buộc cõi trời.
- Giải thoát mọi buộc ràng,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 418. "Bỏ điều ưa, điều ghét,
- Mát lạnh, diệt sanh y
- Bậc anh hùng chiến thắng,
- Nhiếp phục mọi thế giới,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 419. "Ai hiểu rõ hoàn toàn
- Sanh tử các chúng sanh,
- Không nhiễm, khéo vượt qua,
- Sáng suốt chân giác ngộ,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 420. "Với ai, loài trời, người
- Cùng với Càn thát bà,
- Không biết chỗ thọ sanh
- Lậu tận bậc La hán.
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 421. "Ai quá, hiện, vị lai
- Không một sở hữu gì,
- Không sở hữu không nắm,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 422. "Bậc trâu chúa, thù thắng
- Bậc anh hùng, đại sĩ,
- Bậc chiến thắng, không nhiễm,
- Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
- Ta gọi Bà la môn."
-
- 423. "Ai biết được đời trước,
- Thấy thiên giới, đọa xứ,
- Đạt được sanh diệt tận
- Thắng trí, tự viên thành
- Bậc mâu ni đạo sĩ.
- Viên mãn mọi thành tựu
- Ta gọi Bà la môn."