- Trưởng Lão Tăng Kệ
- 3
- Chương III
- Phẩm Ba Kệ
(CLXX) Anganika Bhàradvàja
(Thera. 29)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh gần núi Hy-mã-lạp-sơn, trong thành phố Ukkattha, trong gia đình
một Bà-la-môn phú cường và được đặt tên là Anganika Bhàradvàja.
Khi ngài được học xong giáo điển và nghệ thuật Vệ-đà, ngài hướng về
giải thoát. Trong khi bộ hành chỗ này chỗ khác, ngài gặp bậc Đạo Sư
khi bậc Đạo Sư đang du hành ở vùng quê, và với tâm tự tín thành, ngài
nghe bậc Đạo Sư thuyết giảng. Từ bỏ tà khổ hạnh, ngài xuất gia, tu tập
thiền quán, và sau một thời gian chứng được sáu thắng trí.
Sau khi sống tận hưởng vị ngọt
giải thoát, ngài với lòng thương đối với bà con, đến thăm và dạy họ
về quy y và giới luật. Rồi từ giã các bà con, ngài sống trong một ngôi
rừng gần làng Kundiya của dân tộc Kuru. Khi có việc đi đến Uggàyàman,
một số Bà-la-môn quen biết đến hỏi: 'Thưa Tôn giả Bhàradvàja, do
ngài thấy gì mà ngài từ bỏ giáo hội Bà-la-môn, và chấp nhận giáo hội
này?' Ngài nêu rõ, ngoài giáo hội đức Phật, không có giới thanh tịnh,
ngài nói:
219. Trong rừng ta thờ lửa,
Truyền thống không chơn chánh,
Không biết đường thanh tịnh,
Theo khổ hạnh bất tử.
220. Với lạc, ta được lạc,
Hãy xem pháp, tùy pháp,
Ba minh chứng đạt được,
Lời Phật dạy, làm xong.
221. Trước bà con Phạm chí,
Nay ta chính Phạm chí,
Ba minh, ta quán đảnh,
An ổn ta đạt được,
Thông hiểu đúng Chánh pháp,
Thuần thục lời Phật dạy.
Khi các Bà-la-môn ấy nghe ngài nói,
các vị ấy chấp nhận và từ bỏ rất là phấn khởi.
(CLXXI) Paccaya (Thera. 29)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh ở thành Rohi trong một gia đình hoàng tộc, và được đặt
tên là Paccaya. Thọ hưởng gia tài khi phụ thân mệnh chung, ngài
tuyên bố tổ chức một đàn bố thí rất lớn và một số đông người tụ
họp. Trong cuộc tụ họp này, bậc Đạo Sư ngồi trên một ngai vàng trong
một ngôi nhà trang hoàng châu báu. Đức Phật thuyết pháp, trong khi mọi người
ngắm, chiêm ngưỡng ngài. Phần lớn dân chúng hiểu lời đức Bổn Sư dạy,
nhưng ngài Paccaya đi xa hơn. Thúc đẩy bởi nghiệp duyên đời trước,
ngài từ bỏ tài sản và xuất gia như trước kia ngài đã phát nguyện dưới
thời đức Phật Kassapa, nay ngài đã phát nguyện, khi đã vào am tranh
tu hành, nếu chưa giải thoát thời không ra khỏi am này và cuối cùng thiền
quán được phát triển, trí tuệ được thuần thục, ngài chứng quả
A-la-hán. Để kỷ niệm thành quả này, ngài nói lên quả chứng của ngài,
ngang qua những bài kệ như sau:
222. Năm ngày ta xuất gia,
Hữu học, ý chưa đạt,
Ta trú hạnh viễn ly,
Tâm phát nguyện như sau:
223. Ta sẽ không ăn uống,
Không ra ngoài tinh xá,
Ta sẽ không nằm xuống,
Không nằm một bên hông,
Nếu mũi tên tham ái,
Chưa rút nhổ lên được.
224. Hạnh ta sống như vậy,
Hãy nhìn ta tinh cần,
Ba minh ta đạt được,
Lời Phật dạy làm xong.
(CLXXII) Bàkula (Thera. 29)
Ngài sanh ở Kosambi, trong một
gia đình có chức vụ, trước khi bậc Đạo Sư sanh ra, và ngài được đem
đi tắm ở sông Yamunà để được sức khỏe, và một con cá nuốt
ngài trong tay người vú. Con cá bị người câu cá bắt được và đem bán
cho vợ một vị chức sắc khác ở Ba-la-nại. Khi con cá bị mổ ra, đứa
con nít nhờ phước nghiệp đời trước, nên còn sống không bị thương tích.
Vợ vị chức sắc thương ngài như con đẻ, và khi bà nghe được câu chuyện
của ngài, và hỏi về cha mẹ. Vua trong nước quyết định cho ngài thuộc
quyền sở hữu của hai gia đình, và do vậy ngài được tên là Bàkula (hai
gia đình).
Sau một đời sống giàu sang, ngài
nghe đức Bổn Sư thuyết pháp, xuất gia khi tám mươi tuổi. Trong bảy ngày,
ngài chưa được giác ngộ, nhưng ngày thứ tám, ngài chứng được quả
A-la-hán, thông hiểu nghĩa, thông hiểu pháp.
Một hôm, khi ấn chứng vị trí tu
hành cho các vị đệ tử, bậc Đạo Sư ấn chứng cho ngài là vị đệ tử
có sức khỏe đệ nhất. Về sau, khi sắp sửa mệnh chung ngài nói lên
chánh trí của ngài giữa hội chúng Tỷ-kheo như sau:
225. Với ai những công việc
Cần phải làm từ trước,
Về sau, vị ấy mới
Có ý định muốn làm.
Vị ấy tự phá hoại
Căn cứ địa an lạc,
Về sau, chịu khổ đau
Trong nung nấu hối tiếc.
226. Hãy nói điều có làm,
Không nói điều không làm,
Bậc Hiền trí rõ biết,
Người chỉ nói, không làm.
227. Niết-bàn nhiệm màu lạc,
Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Không sầu muộn là tham,
Thật sự là an ổn,
Tại đấy, sự đau khổ,
Được đoạn diệt hoàn toàn.
(CLXXIII) Dhaniya (Thera. 29)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh ở Ràjagaha (Vương Xá) trong một gia đình thợ làm đồ gốm,
được đặt tên là Dhaniya, và tiếp tục làm nghề của ông cha.
Chính trong nhà của ngài, bậc Đạo Sư giảng cho Pakkusati kinh Dhàtuvibhangasutta.
Dhaniya nghe tin Pukkasati (đã thành bậc A-la-hán) mệnh chung đêm ấy.
Ngài nghĩ: 'Lời Phật dạy thật là sức mạnh lãnh đạo, chỉ có một đêm
đã đủ giải thoát một người khỏi sự đau khổ tái sanh'. Rồi ngài xuất
gia. Tuy vậy ngài vẫn tiếp tục nghề làm ngói lợp nhà. Bị đức Phật
quở vì đã là am tranh bằng gạch, ngài quyết định sống giữa các Tỷ-kheo,
và tại đấy chứng quả A-la-hán.
Về sau, nhân dịp giáo giới các Tỷ-kheo
tu tập khổ hạnh và xem hạnh mình cao hơn các người khác, ngài tuyên bố
chánh trí ngài như sau:
228. Nếu muốn mong đợi lạc
Trong đời sống Sa-môn,
Chớ khinh y chúng Tăng,
Chớ khinh Tăng ẩm thực.
Nếu muốn mong đợi lạc
Trong đời sống Sa-môn,
Hãy sử dụng trú xứ,
Như rắn và như chuột.
229. Nếu muốn mong đợi lạc
Trong đời sống Sa-môn,
Hãy biết tự bằng lòng
Với bất cứ việc gì,
Và hãy cương quyết tu,
Tu tập hạnh nhất pháp.
(CLXXIV) Con Của Màtanga (Thera.
30)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh ở Kosala, con một điền chủ tên Màtanga, và được gọi
là con của Màtanga. Ngài lớn lên trong biếng nhác, và khi ngài bị quần
chúng la rầy, ngài làm quen với các Tỷ-kheo, nhận thấy các Tỷ-kheo sống
thật hạnh phúc. Nhưng khi nghe bậc Đạo Sư thuyết pháp, ngài khởi lòng
tin và xin xuất gia. Thấy các Tỷ-kheo sử dụng thần thông, ngài muốn chứng
đạt thần thông. Và thực hành các thiền quán, ngài chứng được sáu thắng
trí.
Từ đấy, ngài chỉ trích biếng
nhác, tán thành sự tinh cần của ngài với những bài kệ như sau:
230. Ôi quá lạnh, quá nóng!©, đã quá trễ rồi!
Đây là lời kêu than,
Như vậy bỏ việc làm,
Thời sát-na quý báu
Lặng lẽ vượt trôi qua.
231. Ai nghĩ đến lạnh nóng,
Không hơn loài cỏ rác,
Làm bổn phận con người,
Không hại đến an lạc.
232. Cỏ dabba, ku-sa,
Loại cỏ gai đâm ngực,
Ta dùng ngực đẩy chúng,
Sống tăng trưởng viễn ly.
(CLXXV) Khujja Sobhita (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh ở Pàtaliputta trong một gia đình Bà-la-môn và được gọi là
Sobhita. Vì ngài hơi còm, ngài được gọi là Khujja Sobhita (còm
lưng). Khi đến tuổi trưởng thành, đức Bổn Sư vừa diệt độ, ngài
được Tôn giả Ananda độ cho xuất gia và chứng được sáu thắng
trí.
Trong kỳ kiết tập thứ nhất,
ngài được bảo mời Tôn giả Ananda đến dự đại hội. Lúc ấy,
các thiên nhân cử một thiên nhân đứng ở cửa hang để chận đứng các
hành vi thù nghịch của Ác ma, và khuyên Sobhita tuyên bố sự có mặt
của mình cho thiên nhân ấy, với những bài kệ như sau:
233. Giữa các vị Sa-môn,
Sống Pàtaliputta,
Những vị luận thuyết giỏi,
Những vị có nghe nhiều,
Có một vị tuổi lớn
Đứng ở tại cửa vào,
Tên là Sobhita,
Có tật, bị còm lưng.
Rồi vị thiên nhân tuyên bố cho
chúng Tỷ-kheo biết sự có mặt của Khujja Sobhita:
234. Giữa các vị Sa-môn,
Sống Pataliputta,
Những vị luận thuyết giỏi,
Những vị có nghe nhiều,
Có một vị tuổi lớn,
Đứng ở tại cửa vào,
Vị ấy đã đến đây,
Theo ngọn gió đưa đến.
Rồi chúng Tăng cho phép, vị Trưởng
lão đến trước chúng Tăng và nói lên chánh trí của mình.
235. Vị ấy khéo chiến đấu,
Vị ấy khéo tế tự,
Trên chiến trường chiến đấu,
Vị ấy đã chiến thắng,
Với Phạm hạnh tích lũy,
Vị ấy đạt an lạc.
(CLXXVI) Vàrana (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh ở Kosala, trong gia đình Bà-la-môn, được đặt tên là Vàrana.
Khi đến tuổi trưởng thành, vị ấy nghe một vị Trưởng lão thuyết
pháp trong một ngôi rừng, và với lòng tin, xuất gia. Một ngày kia đi đến
hầu hạ đức Phật, ngài chứng kiến một cuộc ấu đả trong gia đình
và có nhiều người bị giết. Hốt hoảng, bị dao động, ngài đi gấp đến
Thế Tôn và tường thuật sự việc. Thế Tôn thấy sự tiến bộ trong tâm
tư của ngài, nên nói lên bài kệ khích lệ ngài:
236. Ai ở đời, giữa người,
Làm hại chúng sanh khác,
Vị ấy tự hại mình
Đời này và đời sau.
237. Ai với tâm từ bi,
Thương tưởng mọi hữu tình,
Một người làm như vậy,
Gặt phước đức thật nhiều.
238. Hãy học tập khéo nói,
Hãy hầu hạ Sa-môn,
Sống một mình kín đáo,
Với tâm tư tịnh chỉ.
(CLXXVII) Passsika (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Kosala, thấy Thế Tôn thực
hiện thần thông song hành, khởi lòng tin, xuất gia. Ngài bị bệnh trong khi
học tập đời sống một ẩn sĩ, bà con săn sóc cho ngài và chữa ngài
lành bệnh, khi được lành bệnh, ngài phấn khởi nên tu học siêng năng
hơn và chứng được sáu thắng trí. Ngài bay trên hư không, đến thăm bà
con và quy y, thọ giới cho họ. Một số bà con nhờ ngài quy y và thọ giới,
khi mạng chung và được sanh lên các cõi trời. Khi Passika hầu hạ bậc
Đạo Sư, bậc Đạo Sư hỏi về sức khỏe bà con của ngài, Passika
trả lời như sau:
239. Đầu chỉ một mình ta,
Có lòng tin, sáng suốt,
Giữa các bà con ta,
Những người không lòng tin,
Thông hiểu được Chánh pháp,
Đầy đủ những giới đức,
Vì lợi ích hạnh phúc,
Cho các bà con ta.
240. Những bà con bị ta,
Vì thương họ trách móc,
Do bà con ái mộ,
Làm tốt đối Tỷ-kheo.
241. Khi họ bị mệnh chung,
Họ được lạc chư Thiên,
Các anh và mẹ ta,
Hoan hỷ điều họ muốn.
(CLXXVIII) Yasoja (Thera. 30)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh tại cửa thành ở Sàvatthi, trong một làng người đánh cá,
con vị chủ hộ năm trăm gia đình đánh cá và được gọi là Yasoja.
Đến tuổi trưởng thành, một hôm ngài đánh cá với những người con các
người đánh cá trên sông Aciravati, quăng lưới, ngài bắt được con
cá lớn có màu sắc vàng. Họ dâng con cá lên vua Pasenadi và vua nói
chỉ có đức Phật mới biết nguyên nhân, màu sắc của con cá. Đức Phật
dạy, tiền thân con cá là một ác Tỷ-kheo trong thời đức Phật Ca-diếp,
nay vẫn đang sống trong cõi địa ngục. Các chị của nó vẫn sống trong
địa ngục, Chỉ có anh nó là vị Trưởng lão, sống đời sống tốt đẹp,
và Thế Tôn thuyết pháp về kinh Kapila. Nghe xong, Yasoja cảm thấy
xúc động và xin xuất gia, và các bạn cũng xin xuất gia theo; họ đi đến
tinh xá Jetavana (Kỳ Viên) để yết kiến đức Phật, nhưng khi đến
họ làm quá ồn ào nên bị Thế Tôn đuổi đi. Bị đuổi, và sống trên
sông Vaggumudà, Yasoja như con người thuần thục, quyết tâm quyết
chí tu trì, không bao lâu chứng được sáu thắng trí. Rồi Thế Tôn cho gọi
Yasoja, và ngài vì tu khổ hạnh đặc biệt, nên ốm yếu, xấu xí. Thế
Tôn tán thán hạnh tu khắc khổ của ngài với những bài kệ như sau:
242. Một người đen, gầy mòn,
Yếu ốm đầy đường gân,
Tiết độ trong ăn uống,
Tâm tư không ưu não.
Yasoja được tán thán như vậy,
đề cao hạnh cô độc và dạy như sau:
243. Trong rừng núi rộng lớn,
Bị muỗi ruồi đốt cắn,
Như con voi lâm trận,
Ta chánh niệm chịu đựng.
244. Sống một, như Phạm thiên,
Sống hai, như chư Thiên,
Sống ba, như làng mạc,
Nhiều hơn, như ở chợ.
(CLXXIX) Satimattya (Thera. 31)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh ở nước Magadha (Ma-kiệt-đà) làm con một Bà-la-môn, ngài hội
đủ những điều kiện nhân duyên, xuất gia, sống với các Tỷ-kheo ở rừng,
và trải qua học hỏi tu hành, chứng được sáu thắng trí. Rồi ngài giảng
dạy các Tỷ-kheo, thuyết pháp cho nhiều tín đồ về quy y và các giới điều.
Có một gia đình, đặc biệt ngài giáo hóa và nuôi dưỡng lòng tin. Trong
gia đình này, ngài đặc biệt được chào đón, người con gái nhà này đẹp,
và thường cung kính cúng dường ngài ăn uống.
Một hôm, Màra muốn phá ngài
và làm ngài mất uy tín, giả dạng ngài và đi đến nắm tay cô con gái, nhưng
cô con gái biết là không phải nắm tay của loài Người, liền bỏ tay ra.
Nhưng người nhà thấy được và không còn tin tưởng ở ngài. Ngài không
biết gì, cảm thấy có sự đổi khác trong thái độ của gia đình ấy. Biết
rằng Màra đã ám hại, ngài nguyện sẽ làm tỏ rõ sự tình, người
gia chủ nghe ngài giải thích liền xin lỗi ngài và tự mình xin phục vụ
cho ngài. Ngài nói lên sự việc, trong những bài kệ sau đây:
245. Lòng tin trước ông có,
Nay không còn nơi ông,
Của ông vẫn của ông,
Ta không có ác hạnh.
246. Vô thường và dao động,
Là lòng tin của ông,
Sự thấy là như vậy,
Là sự thấy của ta,
Có khi ông thương mến,
Rồi ông lại không ưa,
Vì sao bậc ẩn sĩ,
Chịu héo mòn ở đây?
247. Cơm nấu cho ẩn sĩ,
Ít ít từng gia đình,
Ta sẽ đi khất thực,
-ng chân ta còn mạnh.
(CLXXX) Upàli (Thera. 31)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài được sanh trong gia đình một người cạo tóc tên là Upàli. Khi
đến tuổi trưởng thàh, ngài xuất gia, theo gương của Anuruddha và năm
vị con cháu hoàng tộc, khi đức Phật ở tại rừng Anupiyà. Khi ngài
nhận một đề tài để thiền quán, ngài yêu cầu đức Phật đừng đưa
ngài đi sống ra ngoài khu rừng. Đức Phật dạy: ' Nếu Thầy sống trong rừng,
Thầy chỉ phát triển được một vấn đề, nhưng nếu Thầy sống với
Ta, Thầy sẽ trở thành thuần thục cả về kinh học và thiền quán'. Ngài
vâng theo lời bậc Đạo Sư khuyên tu thiền quán và sau một thời gian chứng
quả A-la-hán.
Tuy vậy, bậc Đạo Sư dạy cho ngài
cả Luật tạng. Về sau, khi Upàli được Thế Tôn khen vì Upàli
đã phán quyết trong ba trường hợp về Ajjuka, về Tỷ-kheo Kurukacchaka
và Kumàra-Kacapa, ngài được xem là vị hiểu biết Luật tạng.
Trong một ngày trai giới, khi ngài
đang đọc giới bổn Pàtimokkha, ngài giáo giới các Tỷ-kheo như sau:
248. Vì lòng tin ra đi,
Mới xuất gia, tân học,
Hãy sống với bạn lành,
Mạng thanh tịnh, không nhác.
249. Vì lòng tin, ra đi,
Mới xuất gia, tân học,
Tỷ-kheo trú giữa chúng,
Sáng suốt, học Luật tạng.
250. Vì lòng tin, ra đi,
Mới xuất gia, tân học,
Khéo biết việc nên làm,
Và việc không nên làm,
Hãy để vị ấy sống,
Không để cao tôn xưng.
(CLXXXI) Uttarapàla (Thera. 31)
Sanh trong thời đức Phật hiện tại,
ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn, ngài được đặt tên là Uttarapàla.
Ngài thấy Thế Tôn thực hiện thần thông song hành, khởi lòng tin, xuất
gia và chăm lo tu học. Một hôm, do nhớ nghĩ chuyện này chuyện khác, dục
vọng tấn công ngài, và sau một thời chiến đấu tư tưởng mãnh liệt,
ngài chận đứng các phiền não, và triển khai thiền quán, ngài chứng được
quả A-la-hán.
Suy tư đến chiến thắng, ngài rống
lên tiếng rống con sư tử:
251. Ta thật là hiền thiện,
Suy tư mục đích tốt,
Bỏ năm dục trưởng dưỡng,
Là thế giới si mê.
252. Sanh trong giới vức ma,
Bị tên mạnh xung kích,
Nhưng ta giải thoát được,
Cạm bẫy của Ma vương.
253. Mọi dục, ta đoạn tận,
Mọi sanh hữu, hủy hoại,
Đường sanh tử chấm dứt,
Nay không còn tái sanh.
(CLXXXII) Abhibhùta (Thera. 31)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh trong một gia đình Bà-la-môn ở Vetthapura, đặt tên là Abhibhùta,
và khi phụ thân mất, ngài thừa hưởng tài sản đất đai. Khi đức Phật
đến tại thành phố, trong dịp Thế Tôn du hành, Abhibhùta đến nghe
Thế Tôn thuyết pháp, và mai sáng mời Thế Tôn đến nhà. Thế Tôn cảm
ơn và dạy cho ngài Chánh pháp với nhiều chi tiết. Ngài khởi lòng tin, từ
bỏ gia sản, xuất gia và chứng quả A-la-hán.
Trong khi thọ hưởng vị ngọt giải
thoát, các bà con, thân tín, quen biết đến than van với ngài và ngài đã từ
bỏ họ, không để lại một vị lãnh đạo. Và ngài thuyết pháp cho họ
nói lên lý do xuất gia của ngài:
254. Hãy nghe mọi bà con,
Những ai đã đến đây,
Ta thuyết pháp cho ông,
Tái sanh là đau khổ.
255. Hãy tinh cần, ra đi,
Chú tâm lời Phật dạy,
Đánh bại quân lực ma,
Như voi, nhà cỏ lau.
256. Ai trong Pháp Luật này,
Sẽ sống không phóng dật,
Từ bỏ dòng tái sanh,
Sẽ chấm dứt khổ đau.
(CLXXXIII) Gotama (Thera. 32)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh trong dòng họ Thích-ca và chỉ được biết tên là Gotama,
ngài khởi lòng tin khi đức Phật thăm viếng bà con, xuất gia, tu học thiền
quán và chứng được sáu thắng trí. Khi ngài đang hưởng lạc giải thoát,
bà con ngài hỏi ngài vì sao lại từ bỏ bà con đi xuất gia, ngài liền giải
thích những khổ đau, ngài gặp khi phải sanh tử liên tục và hạnh phúc
Niết-bàn ngài đã chứng được . Ngài nói:
257. Ta tái sanh địa ngục,
Liên tục dến ngạ quỷ,
Ta sống trải nhiều ngày,
Trong đau khổ bàng sanh.
258. Và sống vui làm Người,
Thỉnh thoảng sanh cõi Trời,
Trú Giới sắc, Vô sắc,
Phi tưởng, Phi phi tưởng.
259. Ta khéo biết sanh hữu,
Không cốt tủy, duyên thành,
Dao động thường biến chuyển,
Tác thành tự ngã ta,
Ta đạt được tịnh tịch,
Chánh niệm tâm an trú.
(CLXXXIV) Harita (Thera. 32)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài sanh ở Sàvatthi, trong một gia đình Bà-la-môn. Vì tự kiêu sanh
trong giai cấp cao, ngài quen gọi các người khác là hạ sanh. Khi khởi lòng
tin xuất gia, vì thói quen, ngài vẫn giữ tật xấu ấy. Nhưng một ngày
kia, sau khi nghe bậc Đạo Sư thuyết giảng, ngài ôn lại tâm tư của mình
và ngài thấy lo ngại vì lòng tự kiêu của mình. Đoạn tận kiêu mạn ấy,
ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Sau đó sống trong an lạc
giải thoát, ngài chứng minh chánh trí của mình trong những bài kệ giảng
dạy các Tỷ-kheo:
260. Với ai, những công việc,
Cần phải làm từ trước,
Về sau, vị ấy mới
Có ý định muốn làm.
Vị ấy, tự phá hoại,
Căn cứ địa an lạc,
Về sau chịu khổ đau
Trong nung nấu hối tiếc.
261. Hãy nói điều có làm,
Không nói điều không làm,
Bậc Hiền trí rõ biết,
Người chỉ nói, không làm.
262. Niết-bàn khéo an lạc,
Bậc Chánh giác thuyết giảng,
Không sầu muộn, ly tham,
Thật sự, là an ổn,
Tại đấy, nỗi đau khổ,
Được đoạn diệt hoàn toàn.
(CLXXXV) Vimala (Thera. 32)
Trong thời đức Phật hiện tại,
ngài được sanh ở Ba-la-nại trong một gia đình Bà-la-môn. Ngài xuất gia dưới
sự hướng dẫn của Trưởng lão Amitta, và nhờ sự hướng dẫn này,
ngài phát triển thiền quán và chứng quả A-la-hán. Rồi ngài giảng dạy
cho một Tỷ-kheo là bạn của ngài như sau:
263. Hãy tránh xa bạn ác,
Giao thiệp bậc thượng nhân,
Vâng theo lời khuyến giáo,
Hܦ#7899;ng đến lạc bất động.
264. Như leo trên ván nhỏ,
Giữa biển lớn bị chìm,
(Xem kệ 147 - 148)
265. Cũng vậy đến kẻ nhác,
Người hạnh tốt cũng chìm,
Do vậy, hãy bỏ nó,
Kẻ làm biếng, làm nhác.
266. Hãy sống gần bậc Thánh,
Bậc viễn ly tinh cần,
Thiền định, thường tinh tấn,
Bậc Hiền trí sáng suốt.