8 nguyên âm:
a uu i ii u uu e o
33 phụ âm chia thành 6 nhóm:
k kh g gh "n
c ch j jh ~n
.t .th .d .dh .n
t th d dh n
p ph b bh m
y r l v s h .l "m
Cách đọc nguyên âm:
a |
đọc là |
ă |
như há |
td: aniika |
(á ni ká) |
aa |
đọc là |
a |
như cha |
td: baalaa |
(ba la) |
i |
đọc là |
í |
như tí |
td: isi |
(í sí) |
ii |
đọc là |
i |
như nghi |
td: iihaa |
(i ha) |
u |
đọc là |
ú |
như tú |
td: udara |
(ú đá rá) |
uu |
đọc là |
u |
như du |
td: uukaa |
(u ka) |
e |
đọc là |
ê |
như đê |
td: eka |
(ê ká) |
o |
đọc là |
ô |
như tô |
td: okaara |
(ô ka rá) |
- Các nguyên âm aa, ii, uu, e, o
đọc dài
- Các nguyên âm có phụ âm đi sau đọc dài. Thí
dụ: sattha (sát thá) âm "sát" đọc dài, tunha (tun
há) âm "tun" đọc dài.
- Cách đọc phụ âm lưu ý: những phiên âm có gạch
nối là những "âm láy" khi phát âm đọc nhanh như "bờ"
trong "bờ-há"
(1) Nhóm âm họng:
k |
đọc là |
ká |
như ka ki |
td: kata |
(ká tá) |
kh |
đọc là |
kờ-há |
như khá |
td: khaya |
(khá dá) |
g |
đọc là |
gá |
như gỗ |
td: gati |
(gá tí) |
gh |
đọc là |
gờ-há |
----------- |
td: gha.tii |
(gờ-há ti) |
"n |
đọc là |
ngá |
như ung |
td: sa"nkaa |
(săng ka) |
(2) Nhóm nóc giọng:
c |
đọc là |
chá |
như cháu |
td: canda |
(chanh đá) |
ch |
đọc là |
chờ-há |
------------ |
td:chando |
(chờ-hanh đô) |
j |
đọc là |
dzá |
như dzu |
td: jaani |
(dza ní) |
jh |
đọc là |
dzờ-há |
----------- |
td: jhaana |
(dzờ-ha ná) |
~n |
đọc là |
nhá |
như nhà |
td: ~naa.na |
(nha ná) |
(3) Nhóm âm não (không có âm Việt tương
đương): Khi phát âm giống như nhóm âm răng nhưng cong lưỡi lại, dồn
hơi lên óc.
.t |
|
-------- |
|
td: .ta"nka |
(tăng ká) |
.th |
|
-------- |
|
td: .thaana |
(tha ná) |
.d |
|
-------- |
|
td: .daaka |
(đa ká) |
.dh |
|
-------- |
|
td: o.d.dha |
---------- |
.n |
|
-------- |
|
td: i.na |
(í ná) |
(4) Nhóm âm răng:
t |
đọc là |
tá |
như tú |
td: ta.ta |
(tá tá) |
th |
đọc là |
tờ-há |
như thứ |
td: thala |
(thá lá) |
d |
đọc là |
đá |
như đong |
td: dati |
(đá tí) |
dh |
đọc là |
đờ-há |
------------ |
td: dhana |
(đờ-há ná) |
n |
đọc là |
ná |
như non |
td: naga |
(ná gá) |
(5) Nhóm âm môi:
p |
đọc là |
pá |
như pa-pa |
td: pajaa |
(pá dza) |
ph |
đọc là |
pờ-há |
như phải |
td: phala |
(phá lá) |
b |
đọc là |
bá |
như báo |
td: baahaa |
(ba ha) |
bh |
đọc là |
bờ-há |
----------- |
td: bhaya |
(bờ-há dá) |
m |
đọc là |
má |
như mơ |
td: mana |
(má ná) |
(6) Các phụ âm không thuộc nhóm:
y |
đọc là |
dá |
như du |
td: yoni |
(dô ní) |
r |
đọc là |
rá |
như rõ |
td: rajani |
(rá dzá ní] |
l |
đọc là |
lá |
như lo |
td: laya |
(lá yá) |
.l |
đọc là |
------- |
---------- |
td: .liiyati |
|
v |
đọc là |
quá |
như qui |
td: vati |
(quá tí) |
s |
đọc là |
sá |
như sử |
td: sati |
(sá tí) |
h |
đọc là |
há |
như hổ |
td: hati |
(há tí) |
"m |
đọc là |
ăng |
như băng |
td: ta"m |
(tăng) |
Cách đọc vần ngược Paali:
k và g
trong vần ngược đọc như "c" trong "Nam Bắc"; td: agga
(ắc gá), sakka (sắc cá).
"n, .n, "m trong vần
ngược đọc như "ng" trong "ngang dọc"; td: sa"ngha (săng
gờ-há), ta.n.da (tănh đá), dhamma"m (đờ-ham măng).
c, j, .t, .d, t, d trong vần
ngược đọc như "t" ; trong chữ chén bát (giọng Bắc); td: satta
(sát tá)
~n trong vần ngược đọc
như "nh" trong "nhanh chóng" td: a~n~na (anh nhá).
n trong vần ngược đọc
như "n" trong "than đá" (giọng Bắc).
p, b trong vần ngược đọc
như "p" trong "áp đảo" thí dụ uppanna"m (úp pan
năng).
l, .l trong vần ngược đọc
"l" trong all của Anh ngữ. td: viruu.lha (quí run há).
s trong vần ngược đọc
"s" trong Texas (không có âm Việt tương đương)
y trong ey đọc như "ây"
trong "đông tây" ; td: aahuneyyo (a hú nây dô)
"n, "m chỉ đi với
nguyên âm trong vần ngược, tương đương với NG; td: ta"m [đọc
là tăng]
Một chữ thường thấy xuất xứ từ Bắc Phạn
là Brahma (phạm chí) đọc là "bờ-ram má"
Người học cần nhớ cách phiên âm để tự học
chỉ là tương đối nên học với thầy dạy là tốt nhất.
Dưới đây là một bản thí dụ về cách phát
âm Phạn ngữ Pàli với phiên âm bài kinh "Dâng Hoa"
Puujemi buddha"m kusumenanena
Pu jê mí bút d-hăng kú sú mê nă nê nă
Pu~n~nena me tena ca hotu mokkha"m
Pun nhê nă mê tê nă chă hô tú mốc khăng
Puppha"m milaayaati yathaa ida"m me
Púp phăng mí la da tí dá tha í đăm mê
Kaayo tathaa yaati vinaasabhaava"m
Ka dô tă tha da tí quí na să pha quăng
[^]
Phụ Lục 2 - Các ngày lễ và ngày
giới
Các ngày lễ truyền thống
Phật Giáo
Ngày Phật Bảo (Visaakhapuujaa) nhằm
đúng rằm tháng Tư âm lịch. Kỷ niệm ba sự kiện trọng đại của đức
Phật Thích Ca Mâu Ni: đản sinh, thành đạo và viên tịch. Vì vậy còn được
gọi là Ðại Lễ Tam Hợp. Theo Phật giáo Bắc truyền chỉ kỷ niệm sự
kiện đản sinh nên gọi là Ngày Phật Ðản.
Ngày Pháp Bảo (Maaghapuujaa) nhằm Rằm
tháng Giêng âm lịch. Kỷ niệm ngày đức Phật thuyết kinh Giải Thoát
Giáo (Ovaadapaa.timokkha) về tôn chỉ của Giáo Pháp và tinh thần hoằng
pháp. Bài kinh được thuyết trong thánh hội gồm một ngàn hai trăm năm
mươi vị thánh nhân vô lậu. Cũng ngày Rằm tháng Giêng, Ðức Phật xác định
nền tảng của Giáo Pháp đã thiết lập vững vàng và Ngài sẽ viên tịch.
Ngày Tăng Bảo (Kathina) có thể tổ
chức bất cứ ngày nào trong vòng một tháng sau mùa kiết hạ của chư
Tăng, tức từ Rằm tháng Chín đến Rằm tháng Mười. Vì nghi thức chính của
Ðại Lễ là cúng dường và thọ nhận một lá y theo thể thức được qui
định bởi chính đức Phật nên Ðại Lễ nầy thường có tên Lễ Tăng Y
Kathina. Chư Tăng theo Phật Giáo Bắc Truyền nhập hạ từ Rằm tháng Tư đến
Rằm tháng Bảy.
Các ngày lễ văn hoá dân tộc
Ngày Tết Nguyên Ðán kéo dài nhiều
ngày đầu tháng Giêng âm lịch đánh dấu năm mới. Ðây là ngày lễ trọng
thể mang nhiều sinh hoạt văn hoá dân tộc. Nhiều người đi chùa lễ Phật
cầu phước đầu năm vì vậy ngày Nguyên Ðán trở thành một đại lễ hằng
năm tại các chùa.
Ngày Cha Mẹ. Cũng gọi là đại lễ
Vu Lan Báo Hiếu tổ chức vào Rằm tháng Bảy âm lịch. Ðại lễ mang ý nghĩa
ghi nhớ thâm ân sinh dưỡng và cầu phước cho cha mẹ hiện tiền cũng như
quá vãng. ảnh hưởng truyền thống Trung Hoa ngày lễ cũng là ngày cầu
siêu độ cho người quá vãng nên cũng được gọi là ngày Xá Tội Vong
Nhân.
Ngày Thiếu Nhi. Cũng gọi là Tết
Trung Thu nhằm Rằm tháng Tám âm lịch. Mặc dù bắt nguồn từ Trung Hoa ban
đầu không liên quan đến tuổi trẻ nhưng các sinh hoạt vui chơi như múa
lân, rước đèn, ca hát đã biến ngày nầy trở thành ngày của tuổi trẻ.
Các ngày kỷ niệm, tưởng
niệm, và các lễ khác
Ngày Quốc Tổ. Cũng gọi là Giỗ
Tổ Hùng Vương nhằm mùng Mười tháng Ba âm lịch đánh dấu triều đại
đầu tiên lập nên nước Việt.
Ngày Hiệp kỵ. Là ngày giỗ chung
chư vị tôn túc tiền bối dày công xây dựng và phát huy mối đạo tại
Việt Nam. Giáo Hội thường chọn Rằm Tháng Chạp để tổ chức lễ nầy.
Ngày Chu Niên. Mang tánh cách địa
phương kỷ niệm ngày thành lập ngôi chùa. Ðây là dịp tưởng lệ ghi công
những Phật tử hữu công và hun đúc đạo tình trong một ngôi chùa.
Ngày An Cư Kiết Hạ. Có tánh cách
nội bộ hàng xuất gia. Nhằm Rằm tháng Sáu âm lịch. Ngày lễ vốn được
qui định trong Tạng Luật (Vinayapitaka). Ðức Phật cũng cho phép người cư
sĩ tổ chức cúng dường y tắm mưa đến chư Tăng vào dịp lễ nầy. Ðây
cũng là thời gian người cư sĩ tu bát quan trai trường trọn ba tháng. Cũng
cần ghi nhận rằng Rằm tháng Sáu là ngày đức Phật chuyển Pháp Luân tại
Lộc Uyển.
Ngày Thiền Học. Ðể phát huy truyền
thống pháp hành. Thường được tổ chức theo điều kiện địa phương với
một khoá tu học tiêu biểu. Thời lượng có thể là một hay nhiều ngày.
Lịch trình kiểu mẫu các ngày lễ trong năm theo
thứ tự tháng dương lịch
Dương Lịch |
Ngày Lễ |
Âm Lịch |
Ghi chú |
Tháng 1 |
Ngày Hiệp Kỵ |
Rằm tháng Chạp |
|
Tháng 2 |
Tết Nguyên Ðán |
Ðầu tháng Giêng |
|
Tháng 3 |
Ngày Pháp Bảo |
Rằm tháng Giêng |
|
Tháng 4 |
Ngày Quốc Tổ |
Mùng Mười tháng Ba |
|
Tháng 5 |
Ngày Phật Bảo |
Rằm tháng Tư |
|
Tháng 6 |
|
|
|
Tháng 7 |
Ngày An Cư |
Rằm tháng Sáu |
|
Tháng 8 |
Ngày Cha Mẹ |
Rằm tháng Bảy |
|
Tháng 9 |
Ngày Nhi Ðồng |
Rằm tháng Tám |
|
Tháng 10 |
Ngày Tăng Bảo |
Rằm tháng Chín đến Rằm
tháng Mười |
|
|
Ngày Thiền học |
|
tùy duyên |
|
Ngày Chu niên |
|
tùy duyên |
Những điểm cần lưu ý
Ảnh hưởng truyền thống Phật Giáo Trung Hoa,
các chùa Việt Nam thường khai kinh cúng dường đại lễ từ ngày mùng Tám
cho đến ngày Rằm. Lâu ngày một số lớn Phật tử hiểu lầm rằng chính
lễ là ngày mùng Tám. Trên thực tế các đại lễ trong Ðạo Phật đều
nhằm ngày Rằm.
Tại các quốc gia Âu Mỹ, người Phật tử tổ
chức đại lễ theo "mùa" hơn là đúng ngày ghi trong lịch bởi vì
chỉ có thể tổ chức vào cuối tuần và tình trạng thiếu Tăng Ni cũng
khiến các ngày tổ chức lễ phải được linh động.
Những ngày lễ nêu trên đã được Hội Ðồng
Chưởng Quản Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam thông qua trong phiên
họp ngày 11-3-1997 tại Tự Viện Liên Hoa, Irving, Texas, Hoa Kỳ dưới sự chứng
minh của Hoà Thượng Tăng Thống và các thành viên trong Hội Ðồng.
Các Ngày Trai Giới
Ngày trai dịch từ phạn ngữ Uposatha
có nghĩa là lấy sự qui định hạn cuộc thời gian làm nền tảng tu tập.
Có những học giới mà người cư sĩ không thể hành trì trọn đời,tuy
nhiên nếu phát nguyện gìn giữ trong một thời gian ấn định chẳng những
có thể trong sạch mà còn hoan hỷ tinh tấn nhiều hơn. Yếu tố thời gian
đó được qui định bởi đức Phật và cần hiểu rõ khi thực hành trai
giới. Thông thường có sự hiểu lầm về chữ "Trai" hay đọc trại
là "chay" có nghĩa là ăn-lê-hoát nhưng chữ trai (uposatha) nguyên nghĩa
là thời gian tu tập tịnh giới (trai hựu tác thời).
Lịch Ấn Ðộ chia mỗi tháng thành hai tuần: thượng
tuần và hạ tuần. Thượng tuần là tuần trăng đầy kể từ mùng một đến
ngày Rằm; hạ tuần tính từ trăng tròn đến ba mươi.
Thời Phật trụ thế ngày trai gồm các ngày đầu,
giữa và cuối thượng tuần cũng như hạ tuần. Như vậy tổng cộng có 6
ngày: Mùng 1, mùng 8, 15, 16, 23 và 30 (tháng thiếu 29). Về sau các vị tôn
túc thêm hai ngày mùng 5 và 20.
Nếu tính như trên thì ngày sóc đúng mùng 1 và
ngày vọng đúng 16 (trăng tròn). Nhưng vì vài sự sai biệt (...) nên các
ngày sóc vọng và trai giới được qui định như sau: Mùng 5, mùng 8, 14, 15,
20, 23, 29, 30 âm lịch. Tháng thiếu: 28, 29.
[^]
Phụ lục 3 - Xuất xứ, Ý Nghĩa và
cách dùng các kinh văn
Hầu hết các kinh văn trong kinh tụng Phật giáo
Nguyên Thủy là Phật ngôn trích từ Tam Tạng Kinh Ðiển. Theo tinh thần tụng
niệm thì uy lực nhiệm mầu của sự gia trì dựa trên bốn yếu tố:
a) Lời Phật là lời linh diệu. Ðức Phật là bậc
đại bi đại đức. Những lời Ngài không phải chỉ đầy đủ nghĩa văn
mà còn chân xác, tương ứng với sự vận hành của thiên nhiên. Tôn giả
Ananda trùng tụng lời Phật thường với thoại đầu "Evam me sutam (tôi
nghe như vầy)." Dầu trong tông phái nào thì Phật ngôn là căn bản của
các kinh văn tụng niệm.
b) Chân ngôn là lời huyền nhiệm. Khi một sự
thật được nói lên có nhiều sức mạnh cả hai phương diện mật và hiển.
Trong kinh văn thường có câu: "Etena saccavaccena hotu me
jayama"ngala"m -- Nguyện nhờ chân ngôn nầy phát sanh điều cát tường".
Khi tâm thành và ý kinh được hợp nhất thì lời kinh được xem là chân
ngôn.
c) Hiệu năng khai thị cũng là uy lực kinh. Ðức
Phật dạy quả nhập lưu cao quý hơn đế nghiệp chuyển luân vương. Người
tụng đọc kinh văn tâm được tịnh, trí được sáng thì đã nhận được
sự lợi lạc to lớn của sự tụng niệm.
d) Ðức tin trong sạch là hạt giống của thiện
pháp. Tụng niệm ân đức Tam Bảo là cách tăng trưởng niềm tin nhờ vậy
tâm hồn hướng thượng và sự tu học được vững tiến. Có thể nói đây
là lợi ích thiết thực mà sự tụng niệm mang lại.
Chính do bốn yếu tố trên, phần phụ lục nầy
được thêm vào nhằm giúp quí Phật tử tìm hiểu về xuất xứ, ý nghĩa
và duyên sự tụng đọc của các kinh văn.
Kinh Hạnh Phúc
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata) Tiểu Bộ
Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 46 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ: Mahama"ngala
Sutta.
Chữ Hạnh Phúc được dịch thoát từ phạn ngữ
ma"ngala có nghĩa là cát tường hay điềm lành. Một vị chư thiên
bạch hỏi Phật cái gì là dấu hiệu tốt lành nhất trong cuộc đời. Ðức
Phật trả lời bằng mười một bài kệ bao gồm ba mươi tám điều liên hệ
mọi lãnh vực tu thân, gia đình, xã hội... Vì đề cập đến cát tường
nên bài kinh rất thường được tụng trong các khoá lễ cầu phước. Những
lời dạy trong kinh trở thành kim chỉ nam cho đời sống người Phật tử.
Kinh Từ Bi
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata) Tiểu Bộ
Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 25 London 1984). Tựa kinh Phạn ngữ: Metta
Sutta.
Ðây là bài kinh đặc biệt nói về lòng từ. Ba
bài kệ đầu dạy về những đức tánh cần thiết cho người muốn phát
triển hạnh từ ái; đoạn thứ hai gồm 2 bài kệ nói về đối tượng của
từ tâm; phần kế, 2 bài kệ đề cập những bất thiện pháp có hại cho
lòng từ; tiếp theo là phương thức tu dưỡng; và bài kệ cuối cùng là quả
phúc của từ bi. Bài kinh nầy được đức Phật dạy cho các tỳ kheo trì
tụng nhằm mục đích hoá giải những quấy phá của phi nhơn khi các thầy
đang tu tập trong rừng. Vì được giảng trong duyên sự như vậy, bài kinh
thường được dùng để bảo vệ sự bình an đối với những quấy nhiễu
của chúng sanh khuất mặt. Tất nhiên nội dung bài kinh là một cẩm nang
cho người tu tập lòng từ.
Kinh Châu báu
Xuất xứ từ Kinh Tập (Sutta Nipaata) Tiểu Bộ
Kinh (Khuddaka Nikaaya) [PTS Sutta Nipaata P. 39 London 1984]. Tựa kinh Phạn ngữ: Ratana
Sutta.
Nguyên văn là Kinh Châu Báu nói về những giá trị
vượt bực ở đời. Ở đây Phật Pháp Tăng là những bảo vật trân quí
nhất. Không phải chỉ có lời tán thán mà là một trình bày khúc chiết
đặc tính của Tam Bảo. Qua đó người tu tập tìm thấy dấu ấn quan trọng
trong hành trình tâm linh của mình. Mười bài kệ trong số mười lăm đoạn
của bài kinh nói đến bản thể ưu việt của ba ngôi báu và liên hệ bất
khả ly của Phật Pháp Tăng. Cũng từ những đoạn nầy con đường tu tập
và quả vị giải thoát được trình bày một cách hàm xúc. Ðức Phật dạy
bài kinh nầy tại Vesalì nơi đang bị ba tai ách bệnh dịch, nạn đói, và
phi nhân hoành hành. Tôn giả Ananda học thuộc lòng bài kinh và trì niệm trọn
đêm suốt hành trình ba vòng thành Vesalii. Kết quả mọi tai ách đều được
giải trừ. Cả tánh lẫn dụng của bài kinh đều đặc thù nên Kinh Châu
Báu trở thành quan trọng nhất trong các bài kinh cầu an.
Kinh Chuyển Pháp Luân
Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm ( Mahavagga) thuộc
Luật Tạng (Vinaya pitaka) cũng tìm thấy trong Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta
Nikaaya) [PTS Kindred Saying V.420-431) Tựa kinh Phạn ngữ: Dhammacakkappavattana
Sutta.
Chuyển Pháp Luân nghĩa là chuyển quay bánh xe
Chánh Pháp. Gọi như vậy vì đây là bài pháp đầu tiên trong cuộc đời
hoằng đạo của đức Phật. Trong bài pháp lịch sử nầy, đức Thích Ca
Mâu Ni đã trình bày giáo lý Tứ Diệu Ðế, đồ hình của giáo pháp, để
giới thiệu con đường tu tập giác ngộ. Ngài Kiều Trần Như, bậc thánh
đệ tử đầu tiên của đức Phật, nhờ nghe kinh Chuyển Pháp Luân mà liễu
ngộ. Bài kinh tạo nên một niềm hoan lạc vô biên cho khắp hàng thiên
chúng. Ðiều đó tạo nên một giá trị truyền thống trong nghi lễ đạo
Phật. Bài kinh được dùng trong các khoá lễ cầu an.
Kinh Vô ngã
Xuất xứ từ bộ Ðại Phẩm (Mahàvagga) thuộc
Luật Tạng (Vinaya pitaka I. 13-14) cũng tìm thấy trong Tăng Chi Bộ Kinh
Anguttara Nikaaya I. 57. Tựa kinh Phạn ngữ: Anattalakkha.na Sutta
Ðây là bài kinh dạy về lý vô ngã qua phương
pháp quán niệm năm uẩn: xác thân, cảm thọ, nhận thức, hành hoạt và
các giác quan. Kinh chia làm bốn đoạn chính. Ðoạn I nói về sự trạng vô
hộ vô chủ của năm uẩn. Ðoạn II dạy về sự liên hệ tự nhiên của
vô thường, khổ não và vô ngã. Ðoạn III xác định bản chất vô ngã của
tâm lý, vật lý trong mọi hình thái, không gian, thời gian. Ðoạn IV nói về
trình tự giải thoát của hành giả quán niệm vô ngã. Nguyên văn được
giảng từng uẩn riêng biệt thích hợp cho sự tu tập quán niệm. Bản dịch
gom chung năm uẩn tiện cho sự tụng đọc. Bài kinh được đức Phật thuyết
nhằm khai thị năm tỳ kheo Kiều Trần Như đến quả vị hoàn toàn giải
thoát nên thường được tụng trong các khoá lễ cầu siêu.
Kinh Ðáo bỉ ngạn
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của
Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Dasapaaramii.
Ðáo bỉ ngạn hay ba-la-mật là pháp hành của
các vị bồ tát trên đường hướng đến giác ngộ. Ðáo bỉ ngạn có nghĩa
là pháp đưa đến bờ kia nên còn gọi là Pháp Ðộ. Mười ba la mật là bố
thí, trì giới, xuất gia, trí tuệ, tinh tấn, nhẫn nại, chân thật, chí
nguyện, từ tâm và hành xả. Có ba bậc tu ba la mật: một là vì đại nguyện
tu tập hy sinh tất cả vật ngoại thân; hai là hy sinh tứ chi hoặc một phần
thân thể; ba là hy sinh mạng sống. Vì vậy mười pháp đáo bỉ ngạn được
tính là ba mươi. Bản dịch khai triển ý nghĩa từng pháp nhằm tác động
tín tâm tu tập. Theo truyền thống, bài kinh nầy lợi lạc cho kẻ hiện tiền
lẫn người quá vãng nên được dùng chung cho khoá lễ cầu an và cầu
siêu.
Kinh Phật lực
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của
Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Buddhajayama"ngalagaathà.
Kệ tụng đề cập tám trường hợp đức Phật
hoán chuyển nghịch cảnh. Những đối tượng cảm hoá gồm trời, người,
mãnh thú. Ðức Phật dùng nhiều phương tiện khác nhau từ thần thông, đức
độ cho đến tuệ giác. Ðây là những sự kiện tiêu biểu các chướng
duyên xảy ra trong quãng đời hoá đạo của đức Thế Tôn. Sự trì tụng
bài kinh không những mang lại năng lực nhiệm mầu mà còn là những bài học
soi sáng thái độ hành xử trước nghịch cảnh của người tu tập. Kinh nầy
được tụng đọc trong các khoá lễ cầu an, cầu tiêu tai.
Kinh Thắng hạnh
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của
Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Jayaparitta.
Nội dung kinh đề cập ý nghĩa của sự kiết
tường. Mở đầu là hình ảnh của đức Phật với sự thành tựu đạo
quả vô thượng mang lại những tốt lành cho quyến thuộc và tất cả
chúng sanh. Tiếp theo là Phật ngôn về thế nào là ngày tốt, giờ tốt
theo đạo lý thánh hiền. Bởi vì đề cập đến pháp kiết tường nên
bài kinh nầy thường được đặc biệt dùng để chú nguyện trong các
khoá lễ cầu an.
Kinh Lễ Chánh Giác Tông
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của
Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ: Sambuddhagaathaa
Là bài kinh lễ bái chư Phật. Bởi vì trong mười
phương ba đời có vô số Phật ra đời nên những con số được nêu ra
có tánh cách đặc trưng nói lên sự biến mãn của Phật giới. Những con
số nầy dựa theo thắng duyên gặp chư vị Thế Tôn của ba bậc đại bồ
tát trong suốt quá trình huân tu giác hạnh.
Bậc Trí Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi
hai mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua mười
hai ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua năm trăm ngàn
vị Phật.
Bậc Tấn Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi
bốn mươi tám vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải qua
hai mươi bốn ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải qua
một triệu vị Phật.
Bậc Tín Hạnh Ðại Bồ Tát được thọ ký bởi
một trăm lẻ chín vị Phật; trong thời kỳ phát nguyện bằng lời trải
qua bốn mươi tám ngàn vị Phật; khi còn mới khởi nguyện trong lòng trải
qua hai triệu vị Phật.
Có hai ý nghĩa chính của bài kinh: thứ nhất là
nói về truyền thống của chư Phật, thứ hai nói về quá trình tu tập
khó thể nghĩ bàn của các đấng chánh đẳng chánh giác. Vì hai ý nghĩa nầy
bài kinh trở thành quan trọng trong các thời khoá cầu an.
Kinh Bồ Ðề Phần
Xuất xứ từ Abhiddhammasangaha. Tựa kinh Phạn ngữ:
Bodhipakkhiyasangaha.
Nội dung kinh nói về ba mươi bảy pháp tu tập nằm
trong các thể tài căn bản pháp hành là tứ niệm xứ, tứ thần túc, tứ
chánh cần, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo. Ðức Phật
dạy rằng những vị đệ tử Phật về sau có thể có những quan niệm dị
biệt về giáo pháp nhưng ba mươi bảy pháp bồ đề là pháp tu nền tảng
chung của tất cả. Các nhà sớ giải cũng gọi đề tài nầy là bản đồ
tu Phật. Bài kinh nầy tụng trong thời khoá nhật hành, đại chúng và cầu
an.
Kinh Vô úy
Xuất xứ từ các bản kinh tụng truyền thống của
Phật Giáo Nguyên Thủy. Tựa kinh Phạn ngữ Abhayaparittagaathaa
.
Niệm tưởng uy đức Tam Bảo để xua tan những
âu lo, sợ hãi là nội dung chính của bài kinh. Ở đâu có phước lành nơi
đó là chốn hội tụ của các vị thiện thần nhờ vậy tiêu trừ điều
bất tường. Cầu nguyện an lành cho tha nhân và xưng tán uy lực của chư
Phật toàn giác, độc giác và thánh chúng cũng là cách đem lại sự an lành
thanh thản, không sợ sệt. Kinh nầy đặc biệt tụng trong các khoá lễ cầu
an tiêu tai.
Kinh Quán Niệm
Xuất xứ từ Dhammapada và Sutta Nipàtà. Tựa kinh
dựa theo nội dung quán niệm.
Ðây là một sưu tập ngắn các Phật ngôn về
ba pháp ấn: vô thường, khổ, vô ngã. Sự suy niệm về thực tướng của
đời sống giúp khai thông những bế tắc do dính mắc, mê lầm tạo nên.
Ba đoạn đầu nói lên sự có mặt cùng khắp của vô thường, khổ, vô
ngã trong ba cõi; đoạn giữa dạy về sự chết và thái độ sáng suốt của
người hiểu đạo; ba bài cuối nói về con đường giải thoát xuyên qua sự
liễu ngộ thực trạng cuộc đời. Kinh nầy được tụng trong khoá lễ cầu
siêu và nghi thức nhật hành.
Kinh Duyên Sinh
Xuất xứ từ Mahasaccakasutta, Trung Bộ Kinh I.
M.I.237-251. Tựa kinh Phạn ngữ: Pa.ticcasamuppaada .
Nội dung là một trình bày cô đọng về mười
hai duyên sinh. Ðề tài nầy vừa trình bày tiến trình phức tạp tạo
thành sự hiện hữu của người, cõi, nghiệp vừa minh định cái nhìn của
giáo lý Phật đà không nằm ở những biên kiến hữu, vô, thường, đoạn.
Ðây là một trong những giáo lý thâm sâu nhất của Phật Pháp. Theo truyền
thống thì bài kinh nầy có uy lực phá tan kiến chấp và được tụng trong
khoá lễ cầu siêu.
Kinh Suy Niệm về Nghiệp
Phật ngôn sưu tập trong Tạng Kinh (Sutta Pitaka)
Gồm những lời Phật dạy chỉ rõ về luật
nhân quả và đời sống. Qua bài kinh nầy, giáo lý nghiệp báo không những
được minh định trên nhiều phương diện mà còn là đề mục thiết thực
để quán chiếu trong lời nói, hành động và tư tưởng hằng ngày. Với nội
dung chân xác, kinh nầy có thể dùng trong tất cả khoá lễ nhằm mục đích
soi sáng tâm ý, vun bồi phước hạnh.
Kinh Vạn Pháp Tổng Trì
Xuất xứ từ Bộ Pháp Tụ Dhammasangini, Tạng Diệu
Pháp.
Ðây là một trình bày hệ thống về bản thể
vạn pháp. Mỗi tiêu đề (màtikà) bao gồm trọn "biểu đồ pháp giới".
Những chiết trung nầy được dùng để trình bày lý duyên hệ (paccayo) như
những thành tố năng duyên và sở duyên. Theo sớ giải thì đây là bài
kinh có thắng lực vượt thoát mê đồ vãng sinh lạc cảnh. Chính vì vậy
Kinh Vạn Pháp Tổng Trì trở thành chánh kinh cho các khoá lễ cầu siêu bằng
Phạn ngữ.
Kinh Chúc Nguyện
Trích từ Kinh Tập (Sutta Nipaata), Kinh Tiểu Bộ
(Khuddaka Nikaaya)
Ðây là một bài kinh chú nguyện được dùng nhiều
nhất. Mục đích là phát huy công đức và hướng nguyện. Ba hình ảnh được
dùng làm biểu tướng cho sự gia trì là biển cả đón nhận nước của muôn
sông rạch chảy vào; ánh trăng tròn toả chiếu đêm rằm; và ngọc như ý
ma ni khiến mọi ước vọng thành tựu. Y cứ trên công đức đã làm và hướng
nguyện theo Phật ngôn chúc phúc sẽ mang lại phước lành đầy đủ. Bài
kinh được dùng trong tất cả khoá lễ.
Kinh Hồi Hướng Vong Linh
Trích Bộ Tiểu Tụng (Khuddakapaa.tha), Kinh Tiểu Bộ
(Khuddaka Nikaaya), tựa kinh Phạn ngữ: Tiroku.d.dasuttam
Nội dung bài kinh là Phật ngôn được thuyết dạy
trong một duyên sự cầu phước cho thân nhân quá vãng. Nhiều người sau
khi qua đời sanh làm ngạ quỷ vì bất thiện nghiệp. Những hương linh nầy
thường tìm đến nhà thân quyến mong đợi phước lành hồi hướng. Ðức
Phật dạy về sự tạo phước hợp đạo và làm thế nào hồi hướng đúng
cách. Kinh nầy được tụng trong lễ trai tăng và cầu siêu.
Kinh Ghi Ri Ma Nan Ða
Trích từ Kinh Tăng Chi Bộ (AnguttaraNikaaya), tựa
kinh phạn ngữ: Girimaananda.
Bài kinh dạy về mười phép nội quán vô thường,
vô ngã, bất tịnh, hệ lụy, đoạn tận, ly dục, tịch tịnh, vô trước,
yểm ly và hơi thở có công năng giúp hành giả thành tựu tuệ giác, khắc
phục bệnh căn. Ðức Phật truyền dạy mười pháp môn nầy cho tôn giả
Ghi Ri Ma Nan Ða khi vị nầy đang bị bệnh nặng. Nhờ nghe kinh tôn giả khỏi
bệnh. Do duyên sự như vậy nên kinh nầy đặc biệt trì tụng trong các
khoá lễ cầu tiêu tai thân bệnh.
Kinh Tứ Niệm Xứ
Trích từ Kinh Trung Bộ (MajjhimaNikaaya), tựa kinh
Phạn ngữ Satipathana Sutta .
Ðây là bài kinh căn bản của thiền quán. Một
trình bày toàn diện bốn lãnh vực quán chiếu từ sắc thân, cảm thọ, trạng
thái của tâm và sự tương quan các pháp. Bài kinh cũng nêu rõ về phương
pháp quán và những thành tựu do sự tu tập nầy mang lại. Trong tất cả
pháp hành, tứ niệm xứ được đức Phật dạy là cốt tủy của thiền
định. Sự thọ trì kinh nầy trên cả hai phương diện tụng niệm và thực
hành được xem là ưu việt nhất trong tất cả pháp tu dưỡng. Bài kinh
được tụng trong khoá lễ nhật hành và cầu an.
Kinh Lễ Bái Sáu Phương
Trích đoạn từ kinh Si"ngalovada,
Trường Bộ Kinh (DighaNikaaya).
Bài kinh nầy đức Phật dạy cho gia chủ Singàla
về nghi lễ trong đạo lý của thánh nhân. Vị gia chủ nầy lễ bái sáu phương
theo tập tục. Ðức Phật dạy phép thờ phượng nằm ở sự quí kính và
tôn trọng. Sự quí kính chánh đáng nhất là làm tốt bổn phận. Sáu phương
đông, nam, tây, bắc, trên, dưới được hiểu như sáu cương vị quan hệ
với một người trong cuộc sống. Ðó là quan hệ cha mẹ con cái, vợ chồng,
thầy trò, bằng hữu, xuất gia tại gia, chủ tớ. Những tương quan nầy nếu
được lưu tâm và làm tốt thì là cốt tủy của lễ nghi. Ðức Phật đã
nêu lên một cách chi tiết về những gì đáng làm trong đời sống người
cư sĩ. Bài kinh được tụng trong các thời khoá nhật hành và đại chúng.
Kinh Sám Nguyện
Dựa theo tinh thần tu tập truyền thống
Nội dung chính là sám hối mười bất thiện
nghiệp từ thân khẩu ý và những khiếm khuyết trong hành xử hằng ngày.
Những tâm sám nầy không phải chỉ phản tỉnh những gì thuộc quá khứ
mà còn là những soi sáng mọi hành vi trong đời người. Cũng trong nội
dung kinh văn sám nguyện có cả một trình bày toàn diện thế nào là tinh
thần giới luật của một cư sĩ Phật tử. Bài kinh nầy là bài tụng căn
bản cho khoá lễ sám hối cũng có thể tụng trong nghi thức nhật hành.
Kinh Lễ Hồng Danh
Trích trong bản kinh tụng truyền thống của Phật
Giáo Nguyên Thủy.
Xưng tán hồng danh của hai mươi tám vị Phật.
Ðây là những bậc toàn giác đã thọ ký cho đức Phật tổ Thích Ca Mâu
Ni trong giai đoạn sau cùng của quá trình tu tập ba la mật hạnh. Kính lễ
các ngài là bày tỏ lòng qui ngưỡng đối với ân lành truyền đăng tục
mệnh của chư Phật. Nghi thức lễ bái nầy được trì tụng trong những
duyên sự đặc biệt làm tăng trưởng lòng tịnh tín và nghị lực tu tập.
Kệ Niệm Ân Phụ Mẫu và Kệ
Sám Hối Phụ Mẫu
Dựa theo tinh thần kinh Sonadanta, Kinh Bổn Sanh
(Jataka)
Là kệ tụng xưng tán ân đức cao dày của cha mẹ
và lời sám hối về lỗi lầm của con cái. Ðức Phật dạy bất hiếu là
trọng tội và hiếu hạnh là thắng hạnh. Sự tâm niệm về thâm ân cha mẹ
trong các thời khoá tụng niệm là một cảnh tỉnh tâm linh. Qua đó thể hiện
được tinh thần tri ân và báo ân của người tu tập.
Kệ Phật Sử
Y cứ theo Kinh Phật Bản Hạnh (Buddhacarita), Kinh
Tiểu Bộ.
Nội dung tóm lược cuộc đời đức Phật tổ
Thích Ca Mâu Ni. Ba thời kỳ được nêu rõ là thân thế và đời sống của
thái tử Siddhattha, quãng đời trước khi thành đạo và những năm hoá đạo.
Ðức Phật không những là hiện thân của những đức lành mà còn là một
nhân vật lịch sử với vô vàn cao đẹp. Cuộc sống và lời dạy của
Ngài không mảy may khác biệt. Bài kệ nầy được tụng trong các đại lễ
và các khoá tu.
Kệ Chiêm bái Xá lợi
Dựa vào Biên Niên Sử của Bộ Tiểu Phẩm, Tạng
Luật.
Xá lợi Phật là phần di cốt của đức bổn
sư Thích Ca Mâu Ni. Lịch sử Xá lợi gắn liền với lịch sử Ðạo Phật.
Xá lợi và cây Bồ Ðề là những linh thể biểu tượng cho đức Phật
được chính Ngài cho phép tứ chúng thờ tự. Bài kệ nầy ngoài ý nghĩa tôn
kính còn nêu rõ những giai đoạn lịch sử và các sắc dạng xá lợi. Bài
kệ được tụng trong những buổi lễ chiêm bái xá lợi Phật.
Kệ Ba Pháp Ấn
Một trình bày các thực tướng vô thường, khổ,
vô ngã qua hiện thực đời sống. Với văn thể bình dị, bài kệ hướng
dẫn sự quán chiếu đối với mọi biến đổi, phiền lụy của thân tâm.
Kệ nầy được tụng trong các khoá tu học.
[^]
Phụ lục 4 - Nghi thức và Thờ phượng
I. Nghi Thức
Nghi thức các khoá lễ luôn luôn có 4 phần:
1. Tác bạch: Gồm cả phần niêm hương
cúng Tam Bảo. Phần tác bạch như một lời trình về duyên sự của buổi
lễ. Tiếp theo là bài thỉnh chư thiên. Ðây là khởi đầu của tất cả
khoá lễ
2. Lễ Tam Bảo: Là phần xưng tán
ba ngôi Tam Bảo. Tất cả các thời khoá đều có phần nầy dù đầy đủ
hay giản lược.
3. Phần kinh văn: Gồm những Phật
ngôn hay kệ tụng phù hợp với tinh thần của khoá lễ đã xướng trong lời
tác bạch. Phần nầy có thể linh động. Vị chủ lễ có thể chọn những
bài kinh thích hợp với thì giờ, hoàn cảnh và căn cơ của những người
tham dự khoá lễ.
4. Phần hoàn kinh: Là phần sau
cùng của mỗi khoá lễ với kinh Từ Bi Nguyện, Hồi hướng và Phục nguyện.
Chương I của quyển kinh nầy là các khoá lễ
được sắp sẵn với thời lượng và kinh văn cố định thích hợp cho những
khoá lễ đông người.
II. Thờ phượng
Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối
với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ
duyên thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Dưới đây là vài gợi ý.
Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ
phượng. Nên thường xuyên lau dọn bàn thờ. Những lễ phẩm cúng dường
nên tinh khiết như nhang, đèn, hoa, trái.
Nên thiết lập bàn thờ ở nơi trang trọng. Ðộ
cao của bàn thờ chừng ngang vai trở lên là thích hợp.
Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập
thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần.
Không nên xem thường yếu tố thẩm mỹ. Hình thức
trang nhã tạo nên sự hoan hỷ của mọi người trong gia đình.
III. Tinh thần của nghi lễ
Có mười hạnh lành mang lại phước báu mà đức
Phật gọi là Mười Phước Hạnh (pu~n~nakiriyuuvatthu). Sự
tụng niệm của người Phật tử dựa theo tinh thần của mười phước hạnh
nầy.
1. Bố thí. Danh từ nầy cần được
hiểu rộng theo kinh điển là bất cứ sự hy hiến nào dù là cho, tặng,
cúng. Cúng dường hương đăng hoa quả cũng được kể trong hạnh lành nầy.
2. Trì giới. Giới là quyết tâm
tránh những nghiệp bất thiện. Ngũ giới, bát quan trai giới là những luật
nghi được Phật dạy cho người cư sĩ. Nên tụng giới trong các thời
khoá. Nếu có chư Tăng thì xin thọ giới.
3. Thiền định. Có nhiều phương
pháp thiền định nhưng nói chung hướng tâm đúng cách, đúng đối tượng
là phương pháp chính. Niệm Phật, từ bi quán cũng là một trong những
phép tập thiền. Trong tất cả các thời khoá tụng niệm đều có cả hai
phần nầy.
4. Cung kính. Là giữ lòng kính quí
đối với những giá trị cao thượng. Lòng cung kính nuôi đức khiêm cung,
giảm lòng kiêu căng ngã chấp. Trong hình thức lễ bái lòng cung kính là
điều tối cần.
5. Phục vụ. Là lòng vị tha vì lợi
ích cho người khác. Ðối với người tu tập, tinh thần phục vụ là cách
hữu hiệu giảm thiểu thái độ vị kỷ, tự cô lập. Trong các khoá lễ tụng
niệm đều có ý nghĩa lợi tha qua các bài tác bạch cầu an, cầu siêu và
kỳ nguyện.
6. Thuyết pháp. Là sự chuyển đạt
những lời dạy có khả năng khai thị tri kiến. Hầu hết các kinh văn là
Phật ngôn. Tụng kinh là thuyết pháp cho mình và cho bất cứ ai có duyên
lành lắng nghe.
7. Thính Pháp. Là nghe, học lời Phật
dạy. Nghe pháp là tạo cơ hội cho tâm trí được suy tư trong điều kiện
khách quan. Tụng kinh có nghĩa là vừa thuyết pháp vừa thính pháp.
8. Hồi hướng phước. Là nguyện
lành hồi hướng công đức đến tha nhân. Hồi hướng phước không phải
chỉ tăng phần công đức mà còn thể hiện được tình cảm, bổn phận với
người thân. Trong tất cả các buổi tụng niệm đều kết thúc bằng lời
hồi hướng phước báu.
9. Tùy hỷ phước. Là cùng vui với
phước hạnh của người khác. Niềm vui nầy biểu lộ lòng rộng rãi
không ganh tỵ và cũng là thái độ quý trọng thiện pháp. Lời tùy hỷ
"Saadhu lành thay" được dùng rất phổ biến
tại các quốc gia Phật giáo.
10. Huân tu chánh trí. Là làm thế
nào cái nhìn được sáng suốt và chân chánh. Người tu tập nếu sống với
tà kiến là làm hỏng tất cả công phu. Tụng kinh có cả hai tác dụng định
tâm và khai thị.
Người có tín tâm chuyên trì tụng niệm lấy mười
phước hạnh kể trên làm tinh thần nghi lễ thì không bao giờ sợ lầm lạc
và càng hoan hỷ hơn với sự tu học của mình.
Mục
lục | I-A | I-B | II-A | II-B | II-C | II-D | III-A | III-B | IV-A
| IV-B | V | VI