- Cuộc Ðời Ðức Xá
Lợi Phất (Sàrìputta)
- Soạn Giả: Nyanaponika Thera
Dịch Giả: Nguyễn Ðiều (1966)
- PHẦN THỨ HAI (B)
- SỰ ÐẠT TỚI MỤC ÐÍCH
Trong Theragàthà có hai bài kệ số
995 và 996 là những câu mà nhờ đó Ðại Ðức Sàrìputta khi nghe đã đắc
quả A-la-hán.
Ngài đã thuật lại rằng: "Có
một lần nọ, đức Phật thuyết pháp cho một vị Tỳ-khưu khác nghe, bần
đạo đã chú tâm theo dõi bài pháp ấy để tìm sự lợi ích thiết thực
cho mình. Kết quả thật vô cùng xứng đáng, vì nhờ nó bần đạo đã
thoát khỏi những dục tâm, bần đạo đã tẩy trừ được phiền não".
Trong hai bài kệ nối tiếp số 996
và 997 Ðại Ðức Sàrìputta đã nói lên rằng: "Ngài không gặp một
chút trở ngại nào trong việc phát triển năm sức mạnh phi thường (Abhinnà)".
Còn căn cứ theo kệ ngôn Iddhividha, trong kinh Patisamhbidà Magga thì khi ấy
Ngài đã đại tín thắng thức và nắm vững sự định tâm trong các bậc
Thiền. Sức thuần thục ấy gọi là Lực an trụ (Samàdhi Vipphàriddhi), nó
có khả năng hộ trì tâm lý khỏi những biến hiện tự nhiên và bất thần
của Nội ma lẫn Ngoại ma. Ðiều này được diễn tả do một mẫu chuyện
chép trong kinh như sau:
"Một lần nọ, khi Ðại Ðức
Sàrìputta đang hành đạo với Trưởng lão Mahà Moggallàna tại miền
Kapotakandarà. Lúc ấy Ngài đang tham thiền ngoài chỗ trống với cái đầu
vừa cạo. Khi đó có một hung thần xuất hiện và đánh lên đầu Ngài một
cái như trời giáng. Cú đánh thực là ác nghiệt. Nhưng ngay lúc bị đánh,
đức Sàrìputta đã hoàn toàn nhập định. Kết quả Ngài cũng chẳng hay biết
chi cả".
Câu chuyện này rút từ kinh Udàna,
cuốn số 15, đoạn 4. Kinh ấy còn tiếp tục câu chuyện như sau:
Ðại Ðức Mahà Moggallàna đã
trông thấy việc bất ngờ đó và lại gần Trưởng lão Sàrìputta hỏi xem
Ngài có làm sao không. Ðại Ðức hỏi:
- Này đạo huynh! Ngài có an tịnh
không? Và chẳng có việc gì làm rầy Ngài chứ?
- Tôi rất thoải mái, phỉ lạc,
này pháp đệ Mahà Moggallàna. Tôi tham thiền nhiều tiến triển lắm. Chỉ
khi xả thiền thì cái đầu của tôi làm trở ngại chút ít thôi.
Ðại Ðức Mahà Moggallàna liền
tán thán lên ngay nơi ấy:
- Này đạo huynh Sàrìputta! Thực
là kỳ diệu. Thật là một trạng thái kỳ lạ. Này đạo huynh Sàrìputta!
Sức mạnh thể xác và năng lực của Ngài thực là vô địch. Vì vừa đây
đạo huynh Sàrìputta. Có một hung thần đã giáng cho Ngài một cái đánh
trên đầu, và là một cú đánh đầy sức mạnh. Với một cái đánh như
thế, người ta có thể hạ nổi một con voi cao bảy tám do tuần. Hoặc giả
một người có thể dùng sức mạnh đó thì xẻ đôi được một quả núi.
Thế mà Ðại Ðức Sàrìputta chỉ nói: "Tôi cảm thấy phỉ lạc lắm
này đệ Mahà Moggallàna. Tôi tham thiền khá tiến hóa, chỉ có cái đầu tôi
làm trở ngại chút ít thôi".
Sau đó Ðại Ðức Sàrìputta trả lời:
- Ôi! Thực là tuyệt diệu, này đệ
Mahà Moggallàna! Thực là một kỳ lực, này đệ Mahà Moggallàna! Sự bén nhạy
thể chất và năng lực tinh thần của Ngài vĩ đại làm sao đến nỗi Ngài
có thể trông thấy một hung thần tức khắc. Về phần tôi, tôi đã không
trông thấy kịp như đôi mắt siêu tốc của Ngài.
Kinh Anupada (Trong Majjhima Nikàya No
III) còn chứa phần mô tả sự đạt được đạo quả của Ðại Ðức
Sàrìputta, do chính đức Thế Tôn thuyết. Trong đó đức Phật nói rằng:
"Ðại Ðức Sàrìputta ta đã thành công và thông hiểu chín bậc thiền,
nghĩa là bốn thể chất thiền và bốn siêu thể chất thiền (Jhàna) đồng
thời với sự Không thức và Không nghĩ".
Trong kinh Sàrìputta Samyutta, phần
Khandha Vagga, chính đức Trưởng lão đã xác nhận sự thật như thế khi nói
chuyện với Ðại Ðức Ànanda. Ngài phân tích:
"Xuyên qua các bậc Thánh mà
Ngài đã vững chắc tiến lên là nhờ những TUỆ DIỆT TƯ THỨC như":
Tôi chẳng bao giờ quan niệm là tôi đang tiến vào bậc thiền này hay vượt
khỏi bậc thiền kia, cho dù thực tế tôi đang tiến hành trong đó".
Và trong một dịp khác, Ngài đã diễn
tả cho Ðại Ðức Ànanda nghe về sự đạt được an trụ để phát triển
nội trí như thế nào. Nhất là làm sao để thoát khỏi sự lôi cuốn của
Tứ đại gồm đất, nước, lửa và gió. Thí dụ như Ngài nói "Hãy niệm
đất như đất mà không cần biết đất đó nằm trong Tứ đại. Và tương
tự như thế, đối với ba đại kia cũng vậy".
Theo đó, đối với bốn bậc thiền,
Lạc Trụ Siêu Thế (hay còn gọi là Lạc Trụ Vô Sắc), Ngài cũng không để
cho Lực Tri Giác xuất hiện.
Ðiều này mới nghe qua ta có cảm tưởng
như lúc ấy Ngài đã hoàn toàn biến thành một người Vô thức. Nhưng kỳ
thật Ngài vẫn còn một thức. Ðó là Thức hướng về Niết Bàn, thức
tách rời mọi sự ràng buộc từ bất cứ pháp thể nào (Bhava Nirodha).
Thái độ tách rời này đối với
các bậc Thiền là những công lực sẵn sàng để duy trì an tịnh trong trạng
thái trống rỗng (Sunnata Vihàra), mà Ðại Ðức Sàrìputta hằng nuôi dưỡng.
Chúng ta đọc trong Kinh Pindapàta
Pàrisuddhi, số 151 (thuộc bộ Majjhima Nikàya Trung A Hàm) thấy rằng: Có một
lần đức Phật đã khen ngợi về những nét tươi tỉnh của Ðại Ðức
Sàrìputta, và Ngài dạy Ðại Ðức hãy nói ra cho chư Tăng biết nhờ trạng
thái tư tưởng nào mà có được những nét tươi tỉnh này. Ðại Ðức
Sàrìputta vâng lời đáp:
- Ðệ tử thường tập tánh pháp bền
chịu trong sự trống rỗng".
Do đó đức Phật đã tán thán:
"Ðây chính là nơi cư trú của những hàng vĩ nhân".
Tiếp theo là Ðại Ðức Sàrìputta
đã mô tả pháp trạng ấy bằng chi tiết. Kinh Udàna còn ghi rõ "Chính
đức Thế Tôn đã ba lần trông thấy Ðại Ðức Sàrìputta khi ngồi thiền
phía ngoài tịnh xá đã ngâm những câu kệ (Udàna) để làm vững chắc cho
tâm con yên tĩnh".
Chúng ta hãy đọc lại và thử tưởng
tượng theo kinh Devadaha, trong SAMYUTTA Khandhaka No 2, một khung cảnh ngồi thiền
của Ðại Ðức Sàrìputta thật ngoạn mục như sau:
"Một lần nọ, đức Thế Tôn
ngụ trong nước Sakya, tại thành Devadaha, Ngài đã tìm thấy Ðại Ðức
Sàrìputta nhập sâu trong Thiền cảnh dưới một vòm cây Elagalà. Giống
cây này chỉ mọc ở chỗ nào luôn luôn có một dòng nước chảy qua. Người
ta đã làm cái vòm cây ấy bằng bốn cây trụ trên đó để bụi cây đan
nhau tạo thành một mái nhà. Bên dưới, mặt đất được trải cát bằng
phẳng và ở chính giữa có lót những viên gạch để ngồi. Thật là một
chỗ mát mẻ, yên lặng với những luồng gió nhẹ, trong sạch từ dưới
nước thổi lên.
Và đức Thế Tôn đã tán thán cái
khung cảnh ấy.
Còn nói về sự đạt được Tuệ
Phân Biệt (Patisambhidanàna) của Ngài, Ðại Ðức Sàrìputta đã diễn tả
trong kinh Anguttara Nikàya số 172 như sau:
"Này các đạo huynh. Sau khi bần
Tăng xuất gia được nửa tháng, bần Tăng đã trực nhận được ý nghĩa
của Pháp Thân, trong sáng của ngôn ngữ, an tịnh của ý thức do Tuệ Phân
Biệt từ thể phần chi tiết. Những điều này bần Tăng đã nhiều lần
đem trình bày cho chư huynh đệ và giảng giải cho quí vị hiểu một cách
tận tường về bản chất của nó. Nếu vị nào bị phân vân hoặc không
nắm vững trong khi bần Tăng đã tận lực thì chỉ có đức Bổn Sư là người
có khả năng làm sáng tỏ tất cả".
Căn cứ theo đó thì Ðại Ðức
Sàrìputta là người rất am tường về mọi trạng thái chứng đạt đạo
quả. Ngay cả trí tuệ là vấn đề phức tạp nhất mà Ðại Ðức
Sàrìputta cũng thông đạt, nên đức Phật đã nói:
- Nếu có một kẻ hằng nói về
mình rằng họ đã vững chắc và hoàn toàn trong đức hạnh, an trụ trong
thanh tịnh, giải thoát trong cao thượng thì người ấy chính là Sàrìputta,
một Sa-môn có thể nói được một cách trung thực.
Rồi Phật còn xác nhận:
- Nếu có một kẻ hằng nói về
mình rằng họ là đứa con thật sự của đức Thế Tôn thấu hiểu được
giáo lý của Ngài, thông suốt và thực hành được Pháp bảo, xứng đáng
làm người thừa tự Pháp bảo và không thừa hưởng những nguồn lợi ở
đời thì người đó chính là Sa-môn Sàrìputta mới có thể nói đúng.
- Này chư Tỳ-khưu! Ngoài Như Lai
ra, Sàrìputta sẽ là người có thể lăn được bánh xe tối thượng Pháp bảo
một cách đúng đắn gần giống như Như Lai đã lăn. (theo Majjhima Nikàya
III, Anupada Sutta).
ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA, NGƯỜI XỨNG
ÐÁNG LĂN BÁNH XE PHÁP BẢO
Những bài pháp của Ðại Ðức
Sàrìputta và những mô tả của đức Phật hay của các vị Tôn túc khác về
Ngài đã chứng tỏ Ðại Ðức Sàrìputta đóng một vai trò hàng đầu trong
việc chuyển lăn bánh xe pháp.
Chúng ta thấy điều này đã được
chứng minh bằng hai thời pháp cổ điển trong kinh Sammàditthi No 9, thuộc bộ
Majjhima Nikàya (Trung A Hàm) và một phần trong kinh nói về "Sự so sánh
những bước chân voi".
Ðoạn nói về "Sự so sánh những
bước chân voi" này quả là một kiệt tác trị tâm bịnh một cách rất
khoa học. Nó bắt đầu bằng sự nhắc lại bốn Pháp Diệu Ðế. Tiếp
theo nó phân tích từng sự thực về mỗi hoạt động của Ngũ uẩn, của
bản chất con người, từ sự kết hợp thân thể tính đến sự kết hợp
ý thức tính. Nó còn nói rõ sự cấu tạo của Tứ Ðại mà mỗi đại
trong đó cái nào được gọi là Nội thể hay cái nào được gọi là Ngoại
thể. Những bộ phận và những động tác thân thể nào được ý thức chỉ
huy và những cái nào bị ngoại cảnh chi phối. Nó còn nói rõ cái mà người
ta gọi là bản ngã vốn chỉ là nội tâm bám chặt vào ngoại cảnh. Khi đã
nhận thức như vậy thì sẽ thấy rõ xác thân tứ đại hẳn là một ngoại
cảnh. Tuy cả hai nội tâm và ngoại cảnh đều có bản chất vô thường,
nhưng cái vô thường của nội tâm ta có thể dùng thiền định chỉ huy, còn
cái vô thường của ngoại cảnh ta chỉ biết có khổ.
Rồi bài pháp lại tiếp:
"Vô thường là một định luật,
không phải là nguyên nhân của khổ, chỉ vì sự bám chặt vào những sắc
thái vô thường mới là mầm móng của muôn điều khổ não. Sự bấn loạn
khi ý thức không bắt kịp hay không biết rõ mọi biến đổi của sắc thân
chính là khởi điểm của một chuỗi huân tập và làm nẩy sinh ra cái mà
ta gọi là bản ngã (tức Ngũ uẩn) đau khổ".
Khi một Sa-môn có được sự nhận
thức như thế rồi, đồng thời với sự thanh tịnh sáng suốt đã được
phát triển trong tâm, Sa-môn ấy khi đương đầu với những chướng ngại
như mất mát, chê trách hoặc thù hận, họ sẽ không khó chịu hay bấn loạn
tư tưởng. Trái lại, họ sẽ rất sáng suốt thấy rõ phiền não nổi lên
ở nơi nào liền diệt ngay tại nơi ấy. Chẳng hạn như phiền não nổi
lên ở nhãn căn thì diệt ngay nhĩ thức, phiền não nổi lên ở thiệt căn
thì diệt ngay thiệt thức, phiền não nổi lên ở thân căn thì diệt ngay
thân thức, phiền não nổi lên ở ý căn thì diệt ngay ở ý thức, phiền
não nổi lên ở tâm sơ định thì diệt ngay ở sơ định thức, phiền não
nổi lên ở tâm cận định thì diệt ngay ở cận định thức v.v...
Cứ như thế, Sa-môn trong Phật
giáo khi đã an tịnh và nhập lưu (kể từ đạo quả Tu Ðà Hườn) thì họ
chỉ tiến chứ không có thối. Dù trong khi tiến hóa, sắc thân tứ đại của
họ có bị đánh ngã, tâm trí họ cũng vẫn không bị tổn thương. Ðối với
họ, sau khi đã dẹp bỏ mọi phiền não, mọi vướng mắc, mọi câu chấp
rồi tâm trí chỉ còn một việc duy nhất là đề mục Thiền Ðịnh.
Những hạng Sa-môn này khi nghe được
Pháp bảo của chư Phật thì trạng thái an tịnh nơi họ liền trở nên
tinh khiết, trong suốt, ý niệm vô lượng liền lập tức phát sinh. Họ tưởng
nhớ đến đức Phật, đức Pháp và đức Tăng cùng một lúc tỏa ra tâm
đại xả trước vạn pháp vui cũng như khổ".
Còn đối với những ai chưa đạt
được quả Thánh, thời pháp tiếp:
"Khi hành giả hướng tới đức
Phật, đức Pháp và đức Tăng, sự bình thản của họ nếu không được
bền vững, họ cũng vẫn tiếp thụ kinh cảm để tinh tấn gầy dựng thanh
tịnh. Và sự tiếp thụ kinh cảm ấy chính là tia sáng hướng dẫn hành giả
trở về với đề mục cao thượng. Mặc khác, nếu sự an tịnh luôn luôn
bền vững hành giả chắc chắn sẽ tăng trưởng phỉ lạc. Và họ chỉ cần
kéo dài tình trạng phỉ lạc này để bước đến ngưỡng cửa Thánh nhân
không còn xa mấy".
Trên đây là tất cả những Yếu
pháp được coi như do Ðại Ðức Sàrìputta đã khám phá và thuyết ra. Phần
hậu luận dành cho phàm nhân được trình bày bằng cách so sánh toàn bộ một
con người với một ngôi nhà có năm cửa ván xung quanh và một cửa kính
chính giữa. Cửa ván thì khi đóng, che mắt được đạo tặc, song cửa kính
thì dù đóng hay mở, đạo tặc cũng nhìn thấy rõ bên trong. Cửa ván có
thể bị những ngoại vật ô uế làm hư mục, nhưng cửa kính chỉ bị
các vật ấy làm mờ đục mà thôi. Người chủ nhà khôn ngoan là người
chỉ mở cửa ván bên ngoài cho bạn lành bước vào và luôn luôn lau chùi cửa
kính bên trong cho thật trong sáng để thấy rõ mọi phía xung quanh hầu tìm
bắt ngoại tặc lẻn vô ẩn núp đâu đấy mà đuổi ra, không cho xâm nhập
tận trung tâm.
Tương tự như thế, một con người
có năm giác quan (Ngũ căn) ví như năm cửa ván bên ngoài, và ý căn ví như
cửa kính bên trong. Bạn xấu ví như đạo tặc, ngoại vật ô uế ví như
ác pháp. Bạn lành ví như giới đức. Việc lau chùi cửa kính ví như thiền
định. Sự trong sáng ví như thiện pháp. Và sau cùng, người chủ nhà ví
như con tâm.
Người thiện trí thức là người
không phải chỉ biết lo gìn giữ ngôi nhà cho được tốt đẹp trong khi nó
còn vững chắc, mà một cách thấy xa hơn, người ấy còn phải lo kết nạp
bạn lành chuẩn bị vật liệu để khi ngôi nhà cũ xiêu, sụp đổ, họ có
thể dựng lại một ngôi nhà mới khang trang hơn.
Tương tự như thế, bậc hữu học
là người luôn luôn cảnh giác Ngũ căn, ngăn ngừa Ngũ trần gìn giữ giới
đức và thanh lọc nội tâm cho được trong sạch. Cao thượng hơn nữa là
những hàng hữu học ấy tình nguyện xuất gia khép mình vào đời sống
Sa-môn để thường xuyên thực hành thiền định. Nếu giới luật là
khuôn thước để huấn luyện Ngũ căn, thì thiền định là phương pháp để
thuần thục ý thức.
Các Sa-môn khi đã vững chắc trong
thiền định rồi thì sự ham muốn, sự buồn rầu, sự ràng buộc chỉ là
những nhiễu nhương cố hữu của Ngũ uẩn. Loại trừ những phiền não
ấy bằng tâm vô lượng không cảm thấy vui sướng rằng mình đã tiêu diệt
được nó là đạt đến Thánh quả giải thoát.
Do đó, nội dung của bài pháp nói
trên đã diễn tả trọn vẹn bốn chân lý hằng có (Tứ Diệu Ðế). Trong
khi thuyết giảng bài pháp ấy, Ðại Ðức Sàrìputta đã khéo léo như một
nhạc trưởng kỳ tài, biết sử dụng nghệ thuật phối hợp âm thanh ở mức
độ toàn hảo nhất, khiến cho ban nhạc vang lên một cách uy nghiêm và
hùng tráng. Còn trong bài pháp kia, kinh Sammà Ditthi (nói về Chánh kiến), Ðại
Ðức Sàrìputta quả thật là một người cầm đuốc soi đường. Vì giữa
rừng sinh tử vô minh, ai muốn được giải thoát phải bước chân vào hẳn
Bát Chánh Ðạo của chư Phật, và cửa ngõ đầu tiên mà hành giả phải
đi xuyên qua là Chánh kiến, tức thấy hiểu chân chánh.
Ðề pháp này khi được Ðại Ðức
Sàrìputta phân tích đã trở thành một kiệt tác giáo lý. Ngài còn chứng
minh cho thính giả thấy rằng Chánh kiến là cái chìa khóa để mở cổng
đi vào Thánh đạo. Ai không có Chánh kiến là người ấy không có tất cả.
Theo Ngài Chánh kiến không phải chỉ
đơn giản là khả năng nhận thức đứng đắn, khách quan như quan niệm của
thế gian, mà một cách khác hẳn "Chánh kiến là thanh tịnh hiểu biết",
hay "không có một câu chấp nào hết trong khi nhận thức vấn đề'. Vì
câu chấp (tức thành kiến) thường rơi vào một trong hai trạng thái là
khách quan hay chủ quan, sẽ làm cho tâm trí của con người vẩn đục. Hoặc
nói một cách khác Chánh kiến trong Phật giáo không phải là nguyên nhân của
Chánh tín như nhiều người lầm tưởng, mà nó chính là thành quả của
Thiền định.
Mặt khác, nếu chúng ta chịu khó
đọc lại năm bộ A Hàm (Nikàya) (Năm bộ A Hàm ấy là: 1/ Trường A Hàm (Dìgha
Nikàya). 2/Trung A Hàm (Majjhima Nikàya). 3/Tạp A Hàm (SAMYUTTA
Nikàya). 4/Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya). 5/Tiểu A Hàm (Khuddaka
Nikàya).) của Tạng Kinh (Sutta Pitaka), chúng ta sẽ thấy Chánh kiến như một
đề tài chính, luôn luôn được nhắc đến.
Chú giải còn ghi rõ: Nói đến Chánh
kiến là nói đến Bát Chánh Ðạo. Hay nói đến Chánh kiến là nói đến Tứ
Diệu Ðế. Nơi nào có Chánh kiến là nơi đó có hạt giống thánh thiện
đã được gieo. Trong Tạng Kinh, Chánh kiến và Tứ Diệu Ðế được nhắc
đến ba mươi hai lần, và tất cả ba mươi hai lần ấy đều liên hệ đến
Thánh quả.
Một bài pháp khác của Ðại Ðức
Sàrìputta trong bộ Tăng Nhất A Hàm (Anguttara Nikàya Quyển I 63) là kinh Samma
Citta (Chánh Tâm) đã được thuyết cho chư Thiên và Thánh nhân từ Tư Ðà
Hàm trở lên nghe. Trong bài pháp này, Ðại Ðức Sàrìputta đã nói đến những
kiếp sau cùng của "vài hàng chúng sanh sắp bước chân ra khỏi rừng
sanh tử luân hồi".
Ðây là một bài pháp phân tích thật
rõ ràng về các Thiên cảnh, Siêu thức cảnh, Vô lượng thọ cảnh v.v... mà
Ðại Ðức Sàrìputta đã làm cho chư Thiên tụ hội nhiều vô số kể.
Có một đoạn thuật lại rằng:
"Khi ấy rất đông chư Thiên từ quả Thánh thấp đã đắc lên quả
Thánh cao, và một số chư Thiên khác nhờ nghe Pháp mà bước được vào đạo
Thánh Lưu (tức Tu Ðà Hườn). Căn cứ theo kinh điển thì ấy là bài pháp
đưa đến kết quả đạt Thánh cao nhất trong đời Ðại Ðức
Sàrìputta".
Mặc dù đó chỉ là một bài pháp
tóm tắt, có vẻ như huyền hoặc, vì không có một chứng minh thực tế
nào, không có một chú giải thí dụ nào cho phàm nhân hiểu được, nhưng
nó là những Thánh ngôn mà các Ðại Thiền Sư từ xưa đến nay hằng tôn
tụng và trì chú.
Lịch sử Phật giáo Tích Lan cũng
chép:
"Thánh Tăng Mahinda, con trai Hoàng
đế Asoka (A Dục), khi truyền Phật giáo vô nước Tích Lan, một buổi chiều
nọ đã thuyết lại hai bài pháp Samma Citta và Mahà Vamsa (XIV-34ff.)".
Quốc Sử ấy còn nhấn mạnh:
"Khi nghe pháp có vô số chư Thiên và các hàng đại trí thức đã thấm
nhuần Pháp bảo".
Kết quả của hai bài pháp này sở
dĩ vĩ đại như vậy là vì Ðại Ðức Sàrìputta đã cung cấp một cách
rành mạch những sự gợi thức cho các hàng chư Thiên và đại trí thức về
những cảnh kế tiếp sau kiếp hiện hữu của họ. Chẳng hạn như có một
số chư Thiên khi đang phát triển để đắc lên những bực Thánh cao hơn,
thời gian cần thiết phải còn dài, mà tuổi thọ đang có lại ngắn ngủi,
nên họ đâm ra lo lắng cho tuổi trời của mình, và nhất là không muốn bị
tái sinh vào cõi Ngũ uẩn (người) như trường hợp lắm lúc đã xảy ra.
Bài pháp của đức Trưởng lão đã cắt nghĩa đến họ một cách đầy đủ
để cho họ có thể xét đoán nổi vị trí của mình, vì thói thường khi
còn ở ngoài Thánh đạo, muốn được tiến hóa, cần phải có một sự định
hướng giá trị mới có thể dắt dẫn hành giả tiến cao hơn được.
Kinh Sangiti và Dasuttara là hai bài
pháp khác nữa trong những bài pháp của Ðại Ðức Sàrìputta. Ðó là hai
phần sau cùng của bộ Digha Nikàya, một bộ kinh bao gồm những bài pháp
dài. Cả hai phần này có thể xem như là bảng mục lục của bộ Digha
Nikàya hay Trường A Hàm, vì nó liệt kê toàn những đề pháp được đánh
số từ một tới mười. Lý do của sự đánh số là để giúp trí nhớ
cho những người muốn nắm vững nội dung bộ kinh này. Về sau các Phật Học
Viện đã gọi bảng mục lục ấy là bảng kê khai Pháp Số, và toàn thể
học Tăng sẽ tùy theo trình độ mà phải học thuộc lòng những Pháp Số
ấy trước khi trở thành Giảng Sư để đăng đàn thuyết pháp.
Kinh Sangiti đã được Ðại Ðức
Sàrìputta nói ra dưới sự chứng minh của đức Phật. Do đó chúng ta có
thể kết luận rằng đức Bổn Sư đã hoàn toàn chuẩn y bảng danh mục
Pháp bảo do Ðại Ðức Sàrìputta thiết lập. Trong khi kinh Sangiti ghi lại
những Ðề Pháp có trật tự từ thấp tới cao, thì kinh Dasuttara nêu rõ
các chi của từng Ðề Pháp một. Như vậy hễ nói đến pháp số một là
Ðề Pháp ấy chỉ có một chi, và khi nói đến pháp số hai là Ðề Pháp
ấy có hai chi, pháp số ba có ba chi, pháp số bốn có bốn chi v.v...
Kỹ thuật chương mục hóa Pháp bảo
này trong Tạng Kinh của Ðại Ðức Sàrìputta rõ ràng là sự đóng góp sau
cùng của cuộc đời Ngài cho Phật giáo. Vì trước khi nhập diệt Ðại Ðức
Sàrìputta đã nghĩ: "Pháp bảo ví như một kho tàng châu báu. Muốn sử
dụng một cách đủ giá trị và có hiệu lực, toàn bộ châu báu ấy phải
được sắp xếp có hệ thống".
Hơn nữa, khi ấy lại nhắm vào
lúc Giáo chủ Nigantha Nàtaputta, một người cầm đầu tôn giáo cùng thời
với đức Phật, qua đời. Các đệ tử của ông ta đã chia rẽ và y cứ
theo những lời dạy hoàn toàn vô trật tự. Ðại Ðức Sàrìputta e sợ
nguy cơ ấy có thể xảy đến cho Phật giáo, nên đích thân tự làm công
tác này.
Mặt khác, ngay sau khi đức Bổn Sư
tịch diệt, hiển nhiên hơn câu chuyện của ông Nigantha Nàtaputta, còn có
câu chuyện của Giáo chủ Mahà Vìra (Ðạo lõa thể). Ðiều này đã chứng
minh rằng Ðại Ðức Sàrìputta đã có một cái nhìn thật xa. Bằng có là
trong các thời pháp sau cùng của Ngài, Ngài luôn luôn lập lại:
"Hỡi chư huynh đệ! Ðạo pháp
này phải được tất cả học thuộc lòng, hòa hợp với nhau mà không có
sự xích mích. Chỉ như thế, đời sống Tăng lữ mới duy trì vững bền
để phục vụ cho sự an vui và hạnh phúc của chư Thiên và Nhân loại".
Chú giải còn cho biết rằng: Mục
đích của kinh Sangiti là đem đến sự ưa thích ở pháp hòa thuận
(Samaggisasa) trong giáo lý giải thoát bằng sự tiên đoán để di huấn đầy
đủ (Desanà Kusalatà).
Riêng Kinh Desuttara, Ðại Ðức
Sàrìputta đã mở đầu bằng câu:
"Dasuttaraô pavakkhàmi Dhammaô
nibbànappattiyà. Dukkhassantà kiriyàya sabba ganthapamoca raô...".
Nghĩa là: Bài pháp mang tên Dasuttara
mà bần Tăng sắp nói ra đây là một giáo lý để đạt đến Niết Bàn
và chấm dứt phiền não, cắt đứt sợi dây ràng buộc nô lệ".
Rồi trong đoạn sau, Ngài đã nhấn
mạnh: "Pháp bảo khi đã kết tập và ghi nhớ có hệ thống, sẽ được
truyền bá nguyên vẹn đủ chi tiết của nó. Ðây chính là lý do khiến bần
Tăng thuyết ra hai bài Yếu Lục ấy".
Trong cuốn sách này, chúng ta chỉ
có thể nhắc đến một vài "đóng góp độc đáo" vào kho tàng
Pháp bảo của Ðại Ðức Sàrìputta mà thôi, vì hãy còn rất nhiều những
bài pháp của Ngài nằm rải rác trong Tam Tạng kinh điển mà chúng ta không
có dịp bàn kỹ.
Một bảng tóm tắt về những bài
pháp khác của Ðại Ðức Sàrìputta đã thuyết, được trình bày ở phần
cuối cuốn sách này để giúp cho những ai muốn tra cứu có thêm một số
tài liệu.
Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu khả
năng Chú Giải (Atthakathà) của Ðại Ðức Sàrìputta trong Tam Tạng Pàli. Trước
hết hãy nói về quyển Niddesa, thuộc bộ Khuddaka Nikàya (Tiểu A Hàm). Ðây
là quyển Chú Giải duy nhất được lưu truyền kể từ thời đức Phật.
Kinh này chia làm hai phần là Mahà Niddesa (Ðại Chú Giải) và Cùla Niddesa
(Tiểu Chú Giải). Mahà Niddesa bàn về Atthaka Vagga ở trong kinh Nipàta. Còn
Cùla Niddesa thì dẫn giải đoạn Paràyana Vagga trong Khagga Visàna nằm ở phần
cuối kinh này.
Nhiều học giả khi nghiên cứu Phật
giáo đã xác nhận cuốn Niddesa là quyển sách xưa nhất. Có thể nó đã xuất
hiện vào thời kỳ đầu tiên có Tăng bảo trong giáo pháp của đức Phật
Thích Ca. Bằng chứng là trong kinh Udàna có ghi rõ sự thuộc nằm lòng đoạn
Atthaka Vagga của Ðại Ðức Sona. Kinh Anguttara Nikàya cũng ghi lại sự thuộc
nằm lòng đoạn Paràyana Vagga của một tín nữ là bà Nanda Màtà.
Vẫn biết kinh Phật là do chính đức
Phật thuyết ra, nhưng sự chú giải lại do các Ðại Sa-môn đảm nhận. Và
Ðại Ðức Sàrìputta là một Ðại môn đồ đã làm công tác đó trước
nhất. Nghĩa là Ngài đã làm ngay trong thời kỳ Phật giáo mới bắt đầu
có Tăng bảo.
Có ít nhất là năm trường hợp
trong kinh Nipàta, chính đức Phật đã tuyên dương công tác này của Ðại
Ðức Sàrìputta.
Cũng có vài thuyết cho rằng cuốn
Niddesa là do công lao của nhiều vị Ðại tông đồ của đức Phật hợp lại
mà thành. Tuy nhiên, căn cứ theo chú giải trong kinh Thera Gathà do Ðại Ðức
Bhadantà Cariva Dhammapàla biên soạn thì tác giả của kinh Niddesa là Ðại Ðức
Sàrìputta (Dhamma Enapati). Còn theo Giáo sư E. J. Thomas trong "Nguyên Sử Phật
giáo" thì hầu hết nội dung của Niddesa là đóng góp của Ðại Ðức
Sàrìputta.
Ngoài ra, Giáo sư E. J. Thomas còn viết:
"Nét đặc biệt nhất của kinh
Niddesa là gồm có một bảng kê khai đồng ngữ đã được bình giải rõ
ràng. Những giảng luận như thế không phải dùng để cắt nghĩa từng tiếng
hay từ đoạn riêng biệt, mà trái lại có thể áp dụng chung cho bất cứ
chỗ nào có một câu pháp tương tự. Do đó người ta có thể gọi nó là
một "Bình Luận Tự Ðiển". Những bình luận như thế rất hữu
ích trong việc nghiên cứu Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), nhất là để y cứ theo
thánh nghĩa hơn là cứ suy giải theo sức hiểu biết của mình".
Ðiều này chỉ cho chúng ta thấy rằng:
Một hệ thống học hỏi từ ngữ và ngôn lý trong Phật giáo đã được
thành hình tối cổ. Hệ thống này chỉ có một điểm bất tiện là không
có những qui tắc tự vựng như văn phạm ngày nay... Thay vào đó Niddesa lại
có một lối phân tích (Patisambhidà) khá đầy đủ, chẳng hạn như phân
tích Nghĩa lý (Attha), phân tích Ðiều kiện (Dhammà), phân tích Tự căn
(Nirutti), phân tích Ứng đối (Patibhàna) v.v... Riêng cách phân tích Tự căn
lại được chia ra làm bốn phần nhỏ đã rất thịnh hành trong thời gian
tiếng Pàli còn là một sinh ngữ.
Ngày nay, mặc dù tiếng Pàli không
được đàm thoại trong đời sống hằng ngày, nhưng các hệ thống phân
tích ấy vẫn giúp ích cho nhiều học giả muốn nghiên cứu Phật giáo
không ít.
Theo kinh điển chúng ta được biết
thì Ðại Ðức Sàrìputta đã đạt được bốn Tuệ phân biệt (Catu
Patisambhidà Ĩàna) hai tuần lễ sau khi xuất gia, nghĩa là lúc đạt được
đạo quả A-la-hán. Và căn cứ theo nghệ thuật phân tích văn pháp (Nirutti
Patisambhidà) trong Patisambhidà Magga thì chúng ta có thể tin rằng Ðại Ðức
Sàrìputta không những là tác giả của bộ Niddesa mà Ngài còn là tác giả
của Patisambhidà Magga nữa.Trong Mahà Niddesa, có một đoạn kinh mang tên
Sàrìputta (còn gọi là kinh Thera Panhà) được chú giải. Ðây là phần sau
cùng của Attaka Vagga. Mở đầu chú giải này là những kệ ngôn ca ngợi
ân đức của đức Bổn Sư và những câu hỏi đặt ra cho Ngài, nhưng Ngài
đã ủy thác cho Ðại Ðức Sàrìputta giải đáp. Riêng bài kệ mở đầu
trong kinh Mahà Niddesa là bài kệ tán dương oai lực của đức Phật sau khi
Ngài đã lên cõi trời Tavatiôsa nói về Vi Diệu Pháp (Abhidhammà) rồi trở
về.
Ngoài ra trong kinh Thera Panhà, mặc
dù mang tên Sàrìputta, nhưng cũng có nhiều chỗ ghi các câu hỏi của Ðại
Ðức Sàrìputta đặt ra và được đức Phật trả lời.
Nhiều học giả còn cho rằng kinh
Patisambhidà Magga là thiên khảo luận của Ðại Ðức Sàrìputta, vì họ nhận
thấy nội dung của nó hoàn toàn là khả năng phân tích và tầm tư tưởng
thâm sâu của vị Thánh Tăng uyên bác này.
Ở đoạn mở đầu, Patisambhidà
Magga trình bày những bài khái luận về bảy mươi hai thứ hiểu biết (Nàna)
và về những loại kiến thức sai lầm, mà xuyên qua đó chúng ta có thể
chiêm ngưỡng được cái trí tuệ vô song của Ðại Ðức Sàrìputta. Trong
bài kinh khai thuyết về sự hiểu biết cũng như trong những chương khác của
tác phẩm, người ta đã tìm thấy một số lớn những danh từ giáo lý xuất
hiện lần đầu tiên, và chỉ trong Patisambhidà Magga mà thôi. Tác phẩm cũng
chứa đựng những lời cắt nghĩa tỉ mỉ về các thuật ngữ và các giáo
thuyết đã được giới thiệu tóm tắt trong nhiều phần pháp và trong những
bộ xưa hơn nữa của Tam Tạng Kinh (Tipitaka Sutta).
Một học giả Cao Tăng Tích Lan, Ðại
Ðức Mahà Nàma người đã viết bài Saddhammappakàsini, chú giải cho tác phẩm,
đã không ngần ngại phát biểu:
- Nói đến Patisambhidà Magga là nói
đến Ðại Ðức Sàrìputta, vì trong đó nhân vật của Ngài được nhắc
đến hai lần: Lần thứ nhất (trong Iddhi Viddha Kathà) như là một bậc đã
làm chủ được phép tỏa rộng thanh tịnh (Samàdhivipphàra Iddhi). Lần thứ
hai (trong Mahà Pannà Kathà) Ngài như là bậc duy nhất hiểu thấu chiều sâu
trí tuệ của đức Phật (Solasa Pannà Niddesa)".
Cho nên, chúng ta cũng không lấy gì
làm ngạc nhiên khi đọc trong kinh Atthasàlini thấy ghi rằng: "Thuở ấy
đức Phật thuyết Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) trong vòng ba tháng ở cõi trời
Tàvatiôsa cho mẹ Ngài, Hoàng hậu Màyà, người đã được sanh làm chư Thiên
nơi cõi trời ấy nghe. Cứ mỗi ngày, khi trở về thế gian độ ngọ, Ngài
hằng thuyết lại cho Ðại Ðức Sàrìputta về các pháp thâm diệu vi tế.
Kinh Atthasàlini còn ghi rõ:
"Trí tuệ của đức Thế Tôn dồi
dào như nước trong lòng biển cả thì sức hiểu biết của Ðại Ðức
Sàrìputta nhiều như những lượn sóng. Hễ nước chảy đến đâu thì
sóng gợn đến đó. Nước bốc thành hơi thì sóng cũng biến thành hơi. Và
dưới sức nóng của ánh sáng mặt trời, người lữ hành mệt mỏi trên
sa mạc đã nhìn thấy hơi nước bằng những lượn sóng".
Có điều là Ðại Ðức Sàrìputta,
sau khi đã thấm nhuần Vi Diệu Pháp bảo của đức Phật rồi, chỉ đem
truyền lại cho chư huynh đệ và đệ tử những pháp mà Ngài nhận thấy cần
thiết, thực tế và hợp với trình độ hiểu biết của họ. Ngài cũng không
quên hệ thống hóa Vi Diệu Pháp ấy cho dễ học, dễ nhớ.
Nhiều học giả còn cho rằng: Tất
cả Vi Diệu Pháp đều bắt nguồn từ Ðại Ðức Sàrìputta và ngay cả bộ
sách vĩ đại Patthàna cũng là công trình của vị Ðại Thánh Tăng này.
Về nghệ thuật sắp xếp và thừa
truyền lại Vi Diệu Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta, theo Attha sàlinì, chú
giải của đoạn Dhamma Sangani, thì Ngài đã tác văn những phần như sau:
1/ Ðoạn bốn mươi hai Song Liên Kệ
(Duka) trong Suttanta Màtikà sau Abhidhamma Màtikà. Cả hai phần này dẫn đầu
bảy cuốn Vi Diệu Pháp, và được giảng giải trong kinh Dhammasanganì.
2/ Kinh thứ tư và cũng là phần sau
cùng trong Dhammasanganì là Atthuddhàrakanda đã dùng đề cập về sự cương
yếu (hay tóm tắt).
3/ Ðặt ra cách giúp trí nhớ để
dễ học nằm lòng (Vàcana Magga).
4/ Ðánh số cho đoạn Patthàna trong
kinh Anupada (thuộc Majjhima Nikàya No III) vì đây là một phần kinh mà đức
Phật đã nói về các chiều biến thiện của Tâm thức thiền và những trạng
thái đồng sinh tâm mà chính Ðại Ðức Sàrìputta cũng đã từng trải qua
sau khi tiến lên khỏi mỗi giai đoạn của sự đạt thiền. Phương pháp đánh
số này là cả một nghệ thuật, vì nhờ đó mà người ta có thể rút ngắn
được những phép phân tích qua chi tiết có thể gây lầm lẫn trong ý thức
thiền định.
Kinh Dhamma Sanganì còn nhắc lại lời
khen ngợi của đức Phật:
- Ðại Ðức Sàrìputta quả thật
là một bậc am hiểu Pháp bảo rốt ráo. Ông ta không những đủ sức trả
lời một số câu hỏi của Như Lai trong vòng một ngày hay một ngày một
đêm một cách trong sáng, mà ông ta còn thừa sức để luận đạo với
Như Lai cả đến bảy ngày bảy đêm đem về tất cả mọi vấn đề.
- Này chư Tỳ-khưu. Có năm tuyệt
phẩm mà một trưởng tử của vị vua cai trị toàn thế giới có thể
lãnh đạo thiên hạ vững chắc như vua cha, không bị bất cứ một kẻ
thù nghịch nào làm đảo lộn.
- Vậy năm tuyệt phẩm ấy là gì?
Ðó là người kế vị bậc Thế giới vương biết rõ thế nào là nhân thế
nào là quả, thế nào là điều kiện thiên nhiên, thế nào là điều kiện
xã hội và thế nào là trình độ con người.
- Này chư Tỳ-khưu. Tương tự như
thế. Khi Sa-môn Sàrìputta tròn đủ năm tuyệt phẩm này rồi thì ông sẽ
có thể quay bánh xe tối thượng Pháp bảo một cách đúng đắn như Như
Lai đã từng lăn. Bánh xe này không thể bị làm đảo lộn bởi những kẻ
ngoại đạo, bởi chư Thiên hay Bà-la-môn giáo, cũng không bởi bất cứ kẻ
nào trên cõi đời này.
- Này chư Tỳ-khưu. Năm tuyệt phẩm
ấy là gì?
Là Sàrìputta trong vô lượng kiếp
trước đã gieo trồng hạnh trí tuệ, ý thức thế nào là lợi ích cao thượng
(Nhân), biết phương pháp giáo huấn (Quả), dùng những biện pháp đúng đắn
(Ðiều kiện thiên nhiên), hiểu rõ lúc nào hợp thời (Ðiều kiện xã hội),
và tùy theo đề tài hội họp (Trình độ) mà ông sẽ nói Pháp. (Anguttara
Nikàya V. 132).
Ngoài đức Phật ra, những vị Tôn
túc khác cũng đã tán dương khả năng của Ðại Ðức Sàrìputta. Chẳng hạn
như Ðại Ðức Sangìsa (về các kệ ngôn số I. 231-I. 233), Trưởng lão
Mahà Kassapa (theo các câu kệ số 1082-1086) và nhất là Tôn giả Mahà
Moggallàna (Mục Kiền Liên) khi nghe Ðại Ðức Sàrìputta thuyết xong bài
Pháp "Nói về sự vô tội", Ngài đã ngâm mấy câu sau đây để ca
ngợi công đức của bậc Thánh Tăng ấy:
"Này chư Tỳ-khưu huynh đệ. Thật
là kỳ diệu. Thính giác của tôi, khi nghe được Pháp bảo của đạo huynh
Sàrìputta thì nó tự nhiên thanh tịnh, ý tưởng tự nhiên no đủ"
(Theo Majjhima Nikàya No 5).
Nói tóm lại, đức hạnh và khả năng
của Ðại Ðức Sàrìputta đã vô cùng vĩ đại. Vĩ đại không những ngay
trong lúc đức Phật còn tại tiền, mà sự vĩ đại ấy cho mãi đến ba
trăm năm sau vẫn còn được các bậc Thánh nhân ca tụng. Chúng ta thử đọc
lại kinh Milinda Panhà (Mi Lan Ðà vấn đạo để xác nhận điều ấy là một
sự thực).
Kinh Milinda Panhà chép:
"Vua Mi Lan Ðà đã so sánh Ðại
Ðức Nàgàsena (Na Tiên) với Thánh Tăng Sàrìputta và nói: "Trong rừng
Pháp bảo của chư Phật, không có một nhân vật nào khác như Ngài để có
thể trả lời những câu hỏi của trẫm, ngoại trừ đức Trưởng lão
Sàrìputta, một vị đứng đầu về vạn pháp". Và uy tín vĩ đại đó
vẫn còn sống mãi cho đến ngày nay, tạo ra một sự khích lệ người đời
bởi những giáo lý đáng ôm ấp của một vị Ðại đệ tử Phật. Tiếng
vang ấy được bảo tồn phát triển lẫn tàng trữ trong một số những cuốn
sách quí nhất của Phật giáo.
Lời nói đầu
| Phần 1 | Phần 2a |
Phần 2b | Phần 2c |
Phần 3 | Phần 4 | Phần 5