- Cuộc Ðời Ðức Xá
Lợi Phất (Sàrìputta)
- Soạn Giả: Nyanaponika Thera
Dịch Giả: Nguyễn Ðiều (1966)
PHẦN THỨ TƯ
PHÁP CỦA ÐẠI ÐỨC
SÀRÌPUTTA
Những kinh đã được Ðại Ðức
Sàrìputta thuyết ra bao gồm nhiều đề tài khác nhau có liên hệ với đời
sống phạm hạnh. Nó diễn tả từ những tư thức đơn giản đến những
điểm sâu xa trong giáo lý và sự thực hành Thiền Ðịnh của nhà Phật. Một
bảng kê khai những bài pháp ấy với sự trình bày tổng quát về mỗi đề
tài sẽ được đưa ra dưới đây. Vị trí sắp xếp của chúng trong Kinh Tạng
không chỉ rõ một hệ thống đạo sử nào để người Phật tử có thể
định được thời gian tính của nó.
Tuy nhiên, cũng có một số ít nội
dung các cuốn kinh nói về những biến cố đặc biệt đã xảy ra và được
ghi nhận trong thời gian đức Phật còn sinh tiền và đang lãnh đạo Giáo Hội.
Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta
trong Majjhima-Nikàya
PHÁP SỐ 3: NHỮNG KẺ THỪA HƯỞNG
PHÁP BẢO (DHAMMA DÀYÀDA)
Sau khi đức Phật đã thuyết về
"Kẻ thừa hưởng Pháp bảo và loại người đáng thừa hưởng của cải
trên đời", Ngài bèn vào tư thất an nghỉ. Ðại Ðức Sàrìputta liền
tiếp tục giảng giải cho chư Tỳ-khưu về đề tài "Làm thế nào để
kềm chế lấy mình và tại sao không kềm chế được?".
Sau thời pháp là lúc đức Bổn Sư
nhập định họ bèn theo cách đó để luyện tập cho tư tưởng mình trở
nên thuần thục và thanh tịnh hầu loại trừ những điều phóng tâm lẫn
chán nản. Kết quả là tâm họ đã trở nên trong sáng và ưa thích pháp
cô tịch. Lý do, Ngài đã nói rõ sự nguy hiểm của mười sáu Tùy phiền
não trong tâm và chỉ cho Tăng Chúng biết được con đường Trung đạo, con
đường có thể tận diệt tất cả các pháp xấu xa. Hay nói cách khác đó
là Bát Chánh Ðạo.
PHÁP SỐ 5: SỰ CHẤM DỨT TỘI LỖI.
Trong số bốn hạng người:
Kẻ gây tội và biết rằng đó là tội.
Kẻ có tội mà thành tâm ăn năn quyết lòng chừa bỏ.
Kẻ không làm tội và ghê sợ tội lỗi.
Kẻ không tội lỗi mà luôn luôn tinh tấn tiêu diệt những nguồn gốc gây
ra tội lỗi.
Nếu phạm tội mà biết rằng đó
là tội hoặc khi mình dễ duôi phạm nhằm tội lỗi rồi sau đó tự ăn
năn, vẫn còn có thể giác ngộ, hơn là làm tội mà không biết tội hay
có tội mà không ý thức được nó.
Ðại Ðức Sàrìputta đã giảng giải
rõ ràng tại sao Phật giáo lại phân tích như vậy. Trong bài pháp này,
Ngài còn chỉ rõ tầm quan trọng trong việc tự kiểm soát lấy tư tưởng
và làm sao tạo cho nó sự phát triển.
PHÁP SỐ 9: SAMMÀDITTHI SUTTA
Nói về Chánh Kiến (Sammàditthi) xin
xem cuốn "Chánh Kiến Trong Ðạo Phật".
PHÁP SỐ 28: MAHÀ HATTHIPÀDA PAMA
SUTTA
Ðó là bài pháp khá sâu sắc, nói
về "Sự so sánh những bước chân voi" (Hatthipàda) đã được nhắc
đến trong đoạn trước.
PHÁP SỐ 45: MAHÀ DEVALLA SUTTA
Bài pháp thuộc loại thâm thúy này
nhắc lại sự Minh Giảng của Ðại Ðức Sàrìputta trước một số câu hỏi
do Ðại Ðức Mahà Kotthika đặt ra. Ðại Ðức ấy cũng là một trong những
người đã đạt được Tuệ Phân Biệt.
Trưởng lão Sàrìputta đã tạo cho
cuộc đối đáp trở nên vô cùng tuyệt diệu với những câu hỏi sáng sủa
và những đoạn trả lời thâm thúy, sâu xa đã làm cho thính giả lẫn người
luận đạo chấp nhận một cách thích thú mọi khía cạnh trong chiều sâu
của trí tuệ. (Dĩ nhiên là bắt đầu bằng Chánh Kiến và kết thúc bằng
Chánh Ðịnh.)
PHÁP SỐ 69: GULISSÀNI SUTTA
Ðây là bài pháp thuyết cho ông
Gulissàni nói về phương diện trông nom cũng như thực hành Pháp bảo của
các Tăng sĩ trú ngụ trong rừng. Ðại Ðức Mahà Moggallàna (Mục Kiền
Liên) đã đặt nhiều câu hỏi để bàn luận. Ðức Trưởng lão còn xác
nhận rằng "Không phải riêng những Sa-môn ẩn tu trong rừng mà ngay cả
các Tăng sĩ ngụ trong những vùng phụ cận thành phố cũng phải thực hành
cùng một phận sự mà Pháp bảo đã dạy rõ".
PHÁP SỐ 79: DHÀNANJÀNI SUTTA
Ðại Ðức Sàrìputta giảng giải
cho ông Bà-la-môn Dhànanjàni nhiều phận sự khác nhau của một người cư
sĩ, là không phải chỉ lo sám hối những ý nghĩ hay hành động sai lầm.
Cũng không phải cứ lo làm sao tránh khỏi những hậu quả đau khổ của những
tội lỗi đã tạo từ trước sẽ đem đến trong tương lai.
Khi chưa lâm chung, còn nằm trên giường
bịnh được nghe bài pháp ấy, ông đã tỉnh ngộ trút hết những phiền
toái trong tâm, rồi một lòng tin nơi Ðại Ðức Sàrìputta, niệm tưởng đến
ân đức của những bậc Phạm Hạnh. (Như đã nói ở đoạn trướ).
PHÁP SỐ 114: ASEVITABBA SUTTA
Pháp nói về điều nên thực hành
hay chẳng nên thực hành (Sevitabba: Nên. Asevitabba: Chẳng nên).
Ðại Ðức Sàrìputta nghiên cứu kỹ
lưỡng những lời dạy tóm tắt của đức Phật về các pháp nên thực
hành, nên nuôi nấng hay phát triển. Và những pháp nào không nên thực
hành như thế. Pháp này được trình bày một cách có liên hệ với những
hành động, lời nói và ý nghĩ của con người luôn luôn bị ảnh hưởng
bởi những đối cảnh của Lục căn.
PHÁP SỐ 143: ANÀTHAPINDIKA SUTTA
Pháp thuyết cho ông bá hộ Cấp Cô
Ðộc (Anàthapindika): Ðại Ðức Sàrìputta đã đến bên giường bịnh để
giảng giải cho ông bá hộ Cấp Cô Ðộc nghe về sự gìn giữ tâm hồn,
không cho dính mắc vào những âu lo cố hữu.
Ngài hướng dẫn bịnh nhân lần lượt
từ căn thức một và dạy ông theo lối kiểm soát: "Này người thợ
sinh diệt. Ta không còn âu lo ở con mắt, không còn âu lo ở lỗ tai, không
còn âu lo ở cái lưỡi, không còn âu lo ở lỗ mũi, không còn âu lo ở
làn da xúc cảm nữa. Vì ngươi đã không bao giờ ngừng nghỉ việc tạo ra
xác thân ô uế này. Nó đã chứa trong đó sáu cái nguy hiểm mà giờ đây
ta đã biết rồi. Chúng đã được sáu đối tượng là hình sắc, âm
thanh, mùi thơm, vị ngọt và sự xúc tiếp vừa lòng nuôi nấng. Sáu sự cấu
hợp ấy đã tạo ra sáu cảm nhận đầy vô thường, đầy phiền não".
Ông cứ tiếp tục quán xét như vậy,
ghi nhớ theo thứ tự từ Lục thức, Lục nhập (hay còn gọi là Lục thọ),
rồi đến những biến thức trong Thiền tâm. Những hình thức gồm sự tan
rã từ một thế giới này sinh ra một thế giới khác. Và tất cả các cảnh
giới cũng thế. Nghĩa là thoát ly khỏi những màng lưới ràng buộc của
Danh và Sắc.
Tóm lại, chỉ có phép quán xét để
an tịnh thì mới nên thực hành cho thuần thục, thấm nhuần bởi khi một
người sắp chết, sự bắt đầu cho một kiếp sống tiếp theo chính là
ở chỗ tâm trí an trụ, các thức sẽ duyên theo đó mà tiến sinh.
Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta
trong Dìgha Nikàya
PHÁP SỐ 28: SAMPASÀ DANIYA SUTTA
Ân đức trọn lành là nguồn phát
sinh niềm tin tưởng. Ðại Ðức Sàrìputta đã ca ngợi một cách hùng hồn
ân đức của chư Phật trước sự hiện diện của đức Bổn Sư, khi đó
Ngài đang thuyết về những phẩm tính vô song (Anuttariya) của những bậc
Toàn Giác. Ðó là sự phát biểu đúng lúc để nói lên lòng tin tưởng tuyệt
đối của Ðại Ðức Sàrìputta đối với Ðức Phật. Ðây có thể xem như
một sự bổ túc cho bài pháp được đức Phật mệnh danh là "Tiếng Gầm
Con Sư Tử" (Sìhanada) của Ðại Ðức Sàrìputta. Nội dung của nó hoàn
toàn trùng hợp với phần đầu của một đoạn giảng giải về Giáo Lý
Giải Thoát đã được ghi trong kinh Mahà Parinibbàna.
PHÁP SỐ 33: SANGÌTI SUTTA
Ðây là một bài pháp do Ðại Ðức
Sàriputta nghe đức Phật thuyết rồi lập lại một cách thuộc lòng trong
kinh Sangìti Sutta.
PHÁP SỐ 39:
Một bài pháp gồm 10 chi, cắt nghĩa
rộng rãi, đã được nói một cách tóm tắt ở đoạn trước (Pháp này nằm
trong kinh Dasutara Sutta).
Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta
trong Anguttara Nikàya
Những số la mã sau đây là số đánh
trên các cuốn sách (Nipàta) và những "số thường" là số những
bài kinh. Sự phân chia các kinh phần trong Anguttara Nikàya chỉ danh số như vậy.
II. 37. SAMACITTA SUTTA
Pháp này nói về sự Nhập Lưu (Kể
từ Tu Ðà Hườn trở lên). Và các Thánh chỉ tái sinh lại một lần mà
thôi. Pháp ấy còn nêu rõ điều kiện tái sinh của chư Thánh A Na Hàm nữa.
III. 21
Pháp Phân Biệt những đấng Cao
Thượng (Aniya Puggala). Thân Biệt Chứng là hậu quả của Chánh kiến hoàn
toàn (Ditthipatto) và được giải thoát là nhờ Ðức tin vững chắc (Saddhà
Vimutto).
IV. 79
Ðại Ðức Sàrìputta bạch hỏi đức
Phật tại sao lòng can đảm của một số người lại bị chướng ngại pháp
đánh bại. Có một số người khác nhờ lòng can đảm ấy đã chiến thắng
được chướng ngại pháp, và những thành quả đôi khi còn vượt khỏi sự
mong muốn của họ. Ðức Phật trả lời rằng: "Sức mạnh chính trong
lòng can đảm là có Tâm đại lượng". Nếu thiếu đức tính đó thì
lòng can đảm không thể bền bỉ để vượt qua mọi ác pháp. Ðó là điều
mà chư Phật đã chỉ rõ và hằng được các hàng Ðạo sĩ hay Bà-la-môn
thực hành từ lâu.
IV. 156
Pháp này nói về bốn điều Thái
quá và bốn Trực giác tính. Bốn điều Thái quá thì làm nguyên nhân của
sự biến mất những trạng thái tinh thần lành mạnh. Còn bốn Trực giác
tính thì khiến cho hành giả biết được cách chắc chắn là họ sắp mất
thiện tâm. Ðức Thế Tôn gọi bốn điều Thái quá là pháp Hư Hỏng và bốn
Trực giác tính là nền tảng của Trí tuệ. Vậy bốn điều Thái quá ấy
là gì?
- Là tham quá độ. Oán giận quá độ.
Dối trá quá độ. Ngu dốt (hay Vô minh) quá độ. Người mắc phải bốn
điều thái quá ấy rồi thì khó đạt đến quả Giác Ngộ.
Ngược lại nếu một người có bốn
Trực giác tính thì khi những ác pháp như tham, sân, si, dối trá phát sinh họ
lập tức cảnh giác không để cho chúng lộng hành thái quá. Rồi từ đó
họ tinh tấn dũa mòn chúng lần lần để trở lại làm chủ được lý
trí và phát triển trí tuệ. Họ chắc chắn sẽ chứng quả Giải Thoát.
IV. 167
Nói về sự không dễ duôi, không lười
biếng và hạnh tinh tấn. Ðó là những pháp phát triển vững chắc trên
con đường Giải Thoát.
IX. 171
Ðại Ðức Sàrìputta phân tích về
một lời dạy tóm tắt của đức Phật bao gồm cả những trạng thái Chấp
ngã (Attabhàva) và đặt một câu hỏi bổ túc. Ðức Phật đã giảng giải
rành câu hỏi đó và được Ðại Ðức Sàrìputta tái thuyết lại trong
kinh Samacitta Sutta.
IX. 172
Ðại Ðức Sàrìputta nói rõ về sự
Ngài đã đạt đến bốn Tuệ phân biệt (Patisambhidàĩàna) hai tuần lễ
sau khi Ngài được xuất gia (Nghĩa là cùng lúc Ngài đắc quả A-la-hán).
Ngài công bố như vậy cốt để đức Phật xác nhận.
Phần Pháp luận với Ngài Mahà
Kotthika về những giới hạn của hai pháp có thể cắt nghĩa được là
pháp Ngoại Trần và pháp Nội Thức (Phassayatana). Sâu xa hơn nữa là nói về
thế gian có đặc tính phân tán và sau khi phân tán, hình thức của cõi người
sẽ biến thể ra sao. Theo đó, Ngũ trần dù nằm trong trạng thái vi tế...
(Tiểu thế giới) hay trong khung cảnh hoàn vũ (Ðại thế giới) đều luôn
luôn vô thường. Khi Ngũ trần vô thường thì Ngũ căn cũng không thể nào
vững bền được. Kết quả, Lục thức, nhất là Ý thức là những cái
hoàn toàn giả tạo. Ðại Ðức Sàrìputta nhắc lại lời Phật dạy:
"Ai có Chánh Kiến thì nhận thức được như thế và sẽ chắc chắn
giải thoát".
IV. 175
Nói về sự cần thiết trong việc
kiểm soát được cả hai cảm thức: Cảm thức ngoại cảnh và cảm thức
nội tâm. Ðồng thời với khả năng suy luận một cách hợp lý
(Vijjàcarana) sẽ giúp cho hành giả chấm dứt được một số tà ý hay phiền
não.
IV. 179
Pháp đề cập về những động lực
hỗ trợ để đạt đến Niết Bàn, và những chướng ngại cản trở sự
tiến tới mục tiêu ấy.
V. 165
Nói về năm nguyên nhân tại sao người
đời thường chất vấn một vị Sa-môn với một ý nghĩ khinh thường rằng:
"Nếu ông ấy trả lời câu hỏi một cách đúng đắn thì tốt, bằng
không ta sẽ dạy lại cho ông ta cách giải đáp". Ðây chính là một ý
định tội lỗi do vô minh ngã mạn gây ra. Ác tính đó chỉ có ở hạng người
phàm tục chứ không bao giờ phát sinh trong tâm một vị Thánh hay Bồ Tát.
V. 167
Pháp nói về phương pháp để thanh
lọc các hàng Tăng lữ trong Giáo Hội.
VI. 14, 15
Nói về hai nguyên nhân hằng gây ra
hậu quả trong giờ phút lâm chung là trạng thái tâm tính êm dịu hay bức
rức. Ý nói cái chết diễn ra một cách bình thản hay đau khổ.
VII. 41
Ðại Ðức Sàrìputta giảng rằng một
Sa-môn khi đã có những sức mạnh siêu phàm. Nếu vị ấy vui mừng tán dương
sức mạnh đó vững chắc như tảng đá, tinh túy như một chất nước lấy
ra từ những đóa hoa, có sức thiêu đốt như lửa, bàng bạc mọi nơi như
không khí. Hoặc giả Sa-môn ấy, cứ xem thường nó, coi như không có gì cả
thì năng lực siêu phàm ấy vẫn có thể hỗ trợ hành giả một cách hữu
hiệu như nhau.
VII. 66
Nói về cử chỉ tôn kính lễ bái,
Ðại Ðức Sàrìputta thuyết: "Những hành vi này có thể giúp cho người
Phật tử quen đi một số động tác phạm hạnh. Nhất là thói quen ấy lại
hướng về đức Phật, đức Pháp và đức Tăng. Ngoài ra; cũng có thể hướng
về tư tưởng độ thế hay mong muốn lợi tha (Patisanthàra)".
IX. 6
Nói về phương pháp tìm hiểu tính
tình dân chúng của một địa phương xuyên qua y phục, vật thực, chỗ ở,
làng xóm, thành thị hay xứ sở v.v... Một Sa-môn trước khi truyền bá
giáo lý giải thoát vào một vùng mới cần phải hiểu rõ như thế. Nghĩa
là sứ giả của Như Lai khi ở trong một quốc độ nào phải thấy quốc
độ ấy thích hợp với mình.
IX. 11
Một tiếng "Gầm sư tử"
thứ hai của Ðại Ðức Sàrìputta được trình bày, trước sự chứng minh
của đức Phật ngay khi có một Tỳ-khưu cáo oan về Ngài. Khi ấy Ðại Ðức
Sàrìputta chỉ mỉm cười, rồi công bố cho mọi người biết những pháp
Giải Thoát khỏi sự oán giận là hai đặc tính không cố chấp trong bản
ngã và tâm chẳng bao giờ muốn làm hại kẻ khác của một số Ðại
Sa-môn.
IX. 13
Ðây là bài luận đạo của Ngài với
Ðại Ðức Mahà Kotthika về mục đích của đời sống Thánh Tăng.
IX. 14
Ðại Ðức Sàrìputta chất vấn Ðại
Ðức Sàmiddhi về những yếu pháp giải thoát, rồi cống hiến thêm một số
chứng minh của mình để bổ túc.
IX. 16
Một đoạn trình bày về tính ngay
thẳng tự nhiên của Ðại Ðức Sàrìputta dù cho đối với những kẻ đối
lập cũng vậy. Ngài đã cải chính một câu nói của Ðề Bà Ðạt Ða
(Devadatta)... Vì Ngài cho rằng câu nói ấy có thể bị vị Tỳ-khưu đến
thuật lại với Ngài thêm bớt. Sau đó đức Trưởng lão đã thuyết cho vị
Tỳ-khưu ấy nghe về một tư tưởng vững chắc đã được phát triển đầy
đủ. Tư tưởng ấy không thể bị lung lay bởi bất cứ ác ý nào hết.
IX. 84
Ðề cập về Niết Bàn (Nibbàna), một
cứu cánh được diễn tả bằng những từ ngữ như Vô Sinh, Bất Diệt, Tịnh
Lạc, Chẳng Cấu Hợp, Không Ðiều Kiện v.v... Tất cả đều vượt khỏi
cảm thức của con người.
X. 7
Ðại Ðức Sàrìputta mô tả về những
trạng thức thiền định của Ngài. Cuối cùng bài mô tả ấy Ngài đã
nói rõ điểm hội tụ của những trạng thức ấy là Niết Bàn, là sự chấm
dứt sinh diệt.
X. 65
Bài pháp có tựa "Tái sinh là một
nỗi khổ và không tái sinh là một hạnh phúc".
X. 66
Nghe được giáo lý của đức Phật,
làm được lời Phật dạy là hạnh phúc. Không thỏa thích trong việc nghe
giáo lý và không thỏa thích trong sự thực hành Phật giáo là một điều
bất hạnh và thoái hóa.
X. 67. 68
Những nguyên nhân làm hăng hái hay
thối chí trong việc phát triển thiện tánh.
X. 90
Nói về mười sức mạnh để giải
thoát những ác pháp ngấm ngầm trong tâm mà một vị A-la-hán lúc còn phàm
đã nhờ nó mà đạt tới Thánh quả. Mười sức mạnh này chỉ hiển hiện
khi hành giả đã vững chắc trong Thiền Ðịnh, nhất là trong Minh Sát Tuệ.
Ðại Ðức Sàrìputta phân tích rõ: Sự thanh lọc nội tâm không phải chỉ
mang lại sự yên ổn, mà còn đạt được trạng thái trong sáng nữa.
Pháp của Ðại Ðức Sàrìputta
trong Samyutta Nikàya
Ðại Ðức Sàrìputta chỉ dẫn phương
pháp thoát khỏi vòng luân hồi bằng cách nói rõ trong sự sinh tử ấy khổ
não không phải chỉ phát sinh đơn phương từ nội tâm của một chúng
sinh, mà nó hằng phát sinh song song từ tâm của một chúng sanh khác hay từ
ngoại cảnh, ở đây ám chỉ sự ảnh hưởng tâm tánh giữa người này với
người kia và những khoái lạc Ngũ trần.
No 25
Bài pháp này cũng đồng nội dung với
số 24, nhưng có thêm hai chi tiết là sự vui và sự khổ (Sukha-Dukkha).
No 31
Nói về những điều kiện để kéo
dài kiếp sinh tồn. (Ý đề cập về những thể chất và vật thực).
No 32
Kàlàra Sutta: Khi được đức Phật
chất vấn, Ðại Ðức Sàrìputta đã bạch rằng: Tuệ phân biệt đã giúp
Ngài hiểu rõ sự đắc quả A-la-hán và cũng nhờ đó Ngài nhận thấy
nguyên nhân của sự Sanh đã bị tận diệt. Hành động trong hiện tại của
một vị A-la-hán (hay Phật) sẽ không có quả trong tương lai.
Ðại Ðức Sàrìputta còn nói
"Tận diệt tức là sinh vĩnh cửu" (Khìnà Jàti). Sau đó, Ngài tiếp
tục đáp những câu hỏi sâu xa hơn của đức Phật về nguyên nhân và khởi
đầu của sự SANH, rồi đến sự TRƯỞNG THÀNH cùng những trạng thức
phát triển phụ thuộc khác dự phần vào việc lập thành những cảm nghĩ.
Ðức Trưởng lão đã tiết lộ:
Chính tuệ thấy rõ mọi vật đều Vô Thường một cách chắc chắn, không
nghi ngờ đã giúp Ngài ghê sợ các khoái lạc từ Ngũ trần (Nandi).
KHANDHA SAMYUTTA.
No 1
Ðại Ðức Sàrìputta cắt nghĩa tỉ
mỉ về lời nói sau đây của đức Phật: "Ta không thể cản được sự
đau đớn của xác thân, nhưng ta có thể sửa trị nổi những đau khổ của
linh hồn".
No 2
Bài pháp nói về sự huấn luyện của
Ðại Ðức Sàrìputta cho những Tỳ-khưu sắp đi hành đạo tại những vùng
biên giới xa xôi. Vì những Tỳ-khưu này sẽ phải đối phó với nhiều
câu hỏi do những kẻ ngoại đạo chất vấn. Cuối thời pháp Ngài đã
tóm lược: Làm thế nào để tẩy trừ được tất cả các tính tham, sân,
si trong Ngũ uẩn, đó chính là đề tài mà quí vị có thể giảng cho bất
cứ ai nghe về Giáo pháp của chư Phật.
No 122, 123
Nói về tầm quan trọng của sự hiểu
biết rằng "Ngũ uẩn chỉ là một khối giả tạo" Nếu một người
đang trau giồi giới hạnh mà ý thức được như vậy thì có thể đạt tới
Thánh Lưu. Còn một bậc đã nhập Thánh Lưu rồi mà lấy Vô thường, Khổ
não, Vô ngã làm đề mục thì từ bậc Thánh thấp họ sẽ tiến lên bậc
Thánh cao hơn. Riêng một vị A-la-hán mà có thói quen quán tưởng thường
xuyên như vậy thì vị A-la-hán ấy có thể đạt được trí tuệ viên
giác.
No 126
Bài pháp nói về sự ngu muội và sự
hiểu biết khi một người may mắn gặp được Pháp bảo của đức Phật.
SÀRÌPUTTA SAMYUTTA
No 1-9
Ðây là một loạt chín bài pháp đã
được Ðại Ðức Sàrìputta thuyết về sự phát triển đầy đủ trong chín
phẩm trật Thiền Ðịnh, nghĩa là từ nhất thiền đến trạng thái chấm
dứt mọi ý nghĩ, mọi cảm thức, Ngài còn bổ túc thêm: Trong khi tiến
hóa như vậy, hành giả phải coi chừng sự xuất hiện của Ngã Mạn. Vì
theo tâm ý phàm tình, khi một người đạt được bất cứ một phẩm hạnh
gì, kẻ ấy thường cho là quan trọng, và do đó cái TA lại được "Bổ
Dưỡng".
No 10
Một lần nọ, gần thành Ràjagaha
(Vương Xá). Sau khi đi khất thực, Ðại Ðức Sàrìputta đã ngọ thực gần
một trường thành. Lúc ấy có một nữ đạo sĩ tên là Sucimukhì tới gần
Ngài và hỏi:
- Thưa Ngài! Trong khi thọ thực
Ngài có bắt buộc phải quay mặt về một hướng hay một số hướng nào
cố định như những đạo sĩ (dĩ nhiên ngoài Phật Giáo) hay không?
Ðại Ðức Sàrìputta vui vẻ trả lời:
- Bần Tăng không hướng vào bất cứ
một hướng nào nhất định hết. Tất cả phương hướng đối với bần
Tăng đều như nhau. Một Sa-môn khi đã kiếm được vật thực bằng một cách
chân chánh rồi thì trước khi thọ hưởng chỉ nghĩ đến cha mẹ hoặc thầy
Tổ. Nếu biết những bậc ân nhân ấy ở phương nào thì Sa-môn có thể hướng
về phương ấy để cúng dường. Nhưng hành động đó không phải là một
ngưỡng vọng phương hướng, mà chỉ đơn giản là một phạm hạnh tri
ân.
Nữ đạo sĩ Sucimukhì nghe những lời
lẽ chân chánh ấy và nhìn thấy phong độ an tịnh của Ðại Ðức
Sàrìputta đã kinh cảm một cách sâu xa. Sau đó bà liền đi từ đường này
sang đường khác, phố nọ đến phố kia mà truyền rao lên rằng: "Những
Tu sĩ phái Sakya (Thích Ca) nuôi mạng rất chân chánh. Họ dùng những vật
thực mà không ai có thể chê trách được. Xin quí vị hảo tâm hãy cúng dường
cho họ".
(Nghệ thuật giảng đạo của Ðại
Ðức Sàrìputta trong bài này, theo Dìgha Nikàya 31, cũng có khả năng cảm hóa
như phương pháp cuả đức Phật trong kinh Sìgàlavàda).
SÀLÀYATANA SAMYUTTA
Nội dung bài pháp này có thể tóm
lược như sau: "Chính dục vọng trong những đắm say trần cảnh (Lục
trần) đã tạo nên vòng sinh tử luân hồi, chứ không phải do nơi Lục
căn và đối tượng của chúng là Lục trần".
JAMBUKHÀDAKA SAMYUTTA
Kinh gồm phần giải đáp đến một
số câu hỏi của người cháu Ðại Ðức Sàrìputta tên là Jambukhà Daka.
Ông ấy là một đạo sĩ thuộc phái Paribbàjaka. Nội dung có thể chia ra
làm hai phần:
No 1:
Giảng giải về đặc tính giải
thoát tuyệt đối của Niết Bàn.
No 2:
Phương pháp để chứng đạt được
phẩm A-la-hán, trình độ Thánh tâm đã tẩy trừ hết tham lam, sân hận,
và si mê.
No 3-16:
Ðại Ðức Sàrìputta trả lời những
câu hỏi về "Những kẻ truyền bá chân lý. Mục đích của đời sống
thanh tịnh và các Ðấng đã tìm được nơi an nghỉ vĩnh cửu". Nổi bật
nhất là Ngài đã làm cho thính giả chú ý và ghê tởm những cảm não và
si mê, những xấu xa nhơ bẩn mà bản tâm con người bị phủ kín. Rồi
Ngài nói đến các pháp mà người đời khó làm được trong giáo lý của
đức Phật.
INDRIYA SAMYUTTA
No 44.
Có một lần được đức Phật gạn
hỏi, Ðại Ðức Sàrìputta đã bạch rằng: "Chính nhờ sự không trông
cậy vào đấng Siêu Thoát và từ kinh nghiệm của bản thân, Ðại Ðức bỗng
hiểu được năm sức mạnh của tâm linh (Ngũ lực). Nghĩa là nhìn thấy
con đường dẫn đến chỗ bất tử".
No 48, 50
Phần pháp này đề cập trọn vẹn
về Ngũ lực (Pãnca Bala) và trình bày rất chi tiết do Ðại Ðức
Sàrìputta. Một chỗ khác trong kinh còn gọi "Ấy là con đường trí tuệ".
SOTÀPATTI SAMYUTTA
No 55.
Pháp nói về bốn yếu tố cần thiết
để nhập Thánh Lưu (Sotàpattiyamga).
Lời nói đầu
| Phần 1 | Phần 2a |
Phần 2b | Phần 2c |
Phần 3 | Phần 4 | Phần 5