- Cuộc Ðời Ðức Xá
Lợi Phất (Sàrìputta)
- Soạn Giả: Nyanaponika Thera
Dịch Giả: Nguyễn Ðiều (1966)
- PHẦN THỨ HAI (C)
- THÂN QUYẾN CỦA ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA
Như chúng ta đã biết, Ðại Ðức
Sàrìputta sinh trưởng trong một gia đình Bà-la-môn giáo (Brahmin) thuộc
làng Upatissa (còn gọi là Nàlaka) gần thành Ràjagaha (Vương Xá). Thân sinh
Ngài là ông Vaganta và thân mẫu Ngài là bà Sàrì. Ngài còn ba người em
trai tên là Cunda, Upasena, Revata và ba chị em gái là các nàng Càlà, Upacàlà
và Sìsupacàlà.
Cả sáu người này đều lần lượt
xuất gia và đắc quả A-la-hán.
Ông Cunda sau này có tên là
Samanuddesa có nghĩa là "Môn đồ non nớt" trong hàng chư Tăng, mặc
dù đã thụ Tỳ-khưu giới. Lúc ấy Tăng chúng gọi như thế là để phân
biệt ông với đức Trưởng lão Mahà Cunda.
Khi Ðại Ðức Sàrìputta tịch diệt,
Cunda là vị làm chủ táng, và cũng là người đi thông báo cho đức Phật
biết, đồng thời dâng cốt thể đến Phật vì đó là Thánh tích của một
vị Ðại tôn đồ.
Câu chuyện được ghi lại trong
kinh Cunda. Phần tóm lược của nó sẽ được trình bày thêm trong cuốn
sách này.
Ông Upasena sau được gọi là
Vagantaputta, hay "Con trai nhà Vaganta" (cũng như Ðại Ðức Sàrìputta
có nghĩa là con trai của bà Sàrì) đã được đức Phật khen ngợi như là
một trong những Tỳ-khưu gương mẫu, luôn luôn giữ một thói sống thanh tịnh
bằng pháp Tri túc (Samantap Pàsàdika). Theo bộ Salàyatana SAMYUTTA, chương 7,
kinh số 7 thuật lại thì ông ta đã tịch vì bị rắn cắn.
Revata là người em trai nhỏ tuổi
nhất, và chính mẹ ông đã muốn ngăn cản việc xuất gia bằng cách cưới
vợ cho ông khi ông còn là một thiếu niên. Nhưng ngay vào ngày đám cưới,
ông đã trông thấy bà nội của người vợ tương lai, một cụ già một
trăm hai mươi tuổi, tàn tạ với nét già yếu. Ông lập tức trở nên ghê
sợ cuộc sống ở đời, bèn lìa khỏi hôn lễ và trốn vào một ngôi
chùa để xin xuất gia.
Vào những năm sau, trên đường đến
thăm đức Phật, ông đã dừng chân tạm ngụ tại một khu rừng đầy cây
xiêm gai (Khadìvà vana) và trong thời gian nhập hạ ở đó, ông đắc quả
A-la-hán. Sau đó, người ta gọi ông là Ðại Ðức Revata Khàdìravaniya
(Ngài Revata trong rừng Xiêm gai). Ðức Phật đã xem Ngài như là người đứng
đầu những vị cư ngụ trong rừng ấy.
Còn ba người chị em gái của Ðại
Ðức Sàrìputta là Càlà, Upacàlà và Sisupacàlà, vì muốn noi gương những
người anh, cũng đã trở thành những Tỳ-khưu Ni sau khi họ đã lập gia đình.
Trong thời gian sống với chồng mỗi người đều có một đứa con trai, và
chúng được đặt tên có nghĩa là "theo chân người mẹ". Các cậu
ấy cũng lần lượt "theo chân" như thế. Ba người này lại được
Ðại Ðức Revata Khàdìravaniya cho xuất gia làm Sa Di. Hạnh kiểm tốt của
họ đã được Ðại Ðức Sàrìputta khen ngợi khi Ngài đến thăm thầy họ
bị bệnh. Ðiều này có ghi trong đoạn chú giải của kinh Theragàthà (Phần
V, kệ 42).
Riêng ba nàng Càlà, Upacàlà và
Sìsupacàlà là những Tỳ-khưu Ni được người đời tán tụng rằng họ
đã từng bị Ma vương (Màra) đến gần cám dỗ rồi không thành thì chất
vấn sỉ vả. Nhưng cả ba Tỳ-khưu Ni đã đối phó một cách rất tuyệt
diệu. Những chuyện này được ghi lại trong kệ ngôn Therìgàthà và kinh
Bhikhùnì SAMYUTTA.
Trái ngược với những nàng này,
bà mẹ của Ðại Ðức Sàrìputta lại là một người rất đố kỵ Phật
giáo, chỉ trung thành với đạo Bà-la-môn. Do đó bà đã thường xuyên phỉ
báng Tăng chúng. Trong chú giải kinh Dhammapàda, có một đoạn thuật lại rằng:
"Một lần nọ, khi Ðại Ðức
Sàrìputta còn ở trong làng cũ Nàlaka của Ngài với một số lớn chư Tỳ-khưu
theo tu học. Ngài bèn về nhà mẹ trong một dịp đi khất thực. Với Ngài
bà đã không thể từ chối, nên mời vào để lo dâng vật thực, nhưng
trong lúc làm như vậy, bà không ngớt tuôn ra những lời quá khích. Bà
nói:
- Ai lại đi ăn những đồ người
ta bố thí. Nhỡ khi ông không được những thứ cháo chua mà người ta cho,
chắc ông phải đi từ nhà này qua nhà khác mà kiếm những đồ còn lại
trên vá trên chén chứ!
Ði xin được chỉ có vậy mà ông
dám bỏ cả gia tài hàng tám chín trăm triệu để làm một ông thầy tu.
Ông đã làm cho tôi mắc cỡ với hàng xóm. Thôi, bây giờ ông hãy ăn đi.
Và khi bà cho những vật thực đến
các vị Tỳ-khưu khác cùng đến với con bà, bà cũng làm như thế, bà liền
bảo:
Lại mấy ông nữa. Mấy ông là những
kẻ đã theo cái nhóm bắt thằng con trai của tôi đi làm mọi. Thôi, ăn đi
các ông ơi.
Cứ như vậy, bà tiếp tục lăng nhục
chư Tăng. Nhưng Ðại Ðức Sàrìputta chẳng nói một lời Ngài nhận vật
thực rồi dùng và im lặng trở lại tịnh xá.
Ðức Phật biết được chuyện này
do Ðại Ðức Ràhula, người trước đó là một trong những vị Tỳ-khưu bị
bà lăng nhục, thuật lại. Còn tất cả Tăng Chúng khi được nghe chuyện
đó đều ngạc nhiên về sự nhẫn nại không tưởng tượng nổi của đức
Trưởng lão. Sau đó, đức Phật đã khen ngợi Ngài giữa Tăng chúng bằng
cách ngâm bài kệ:
"Kẻ đã trừ bỏ được sự nóng
giận là người có thể làm tròn phận sự của mình một cách chính đáng.
Kẻ biết giữ gìn những lời giáo huấn là người thoát khỏi dục vọng.
Kẻ biết tự chỉ huy lấy mình là biết tạo cho mình một kiếp sinh sau
cùng. Trong Pháp bảo giải thoát, Như Lai gọi kẻ ấy là một vị Phạm
Thiên (Brahma) vậy".
Nhưng đến khi cuộc đời của Ðại
Ðức Sàrìputta gần chấm dứt, chuyện lăng nhục ấy không còn nữa. Ngài
đã cảm hóa được người mẹ. Câu chuyện sẽ được kể sau này. Và mục
đích thuật lại chuyện ấy là cốt đưa chúng ta đến một sự suy gẫm về
những đặc tính tự thắng của một Trưởng lão vĩ đại. Ấy là ba đức
tính khiêm tốn, nhẫn nại và hỷ xả của Ngài.
LỬA SÂN HẬN ÐÃ HOÀN TOÀN DẬP TẮT
Nhắc lại vùng xung quanh Kỳ Viên tịnh
xá nơi đức Phật đang cư ngụ, có một nhóm rất nhiều người bàn tán với
nhau về những phẩm tính cao thượng của Ðại Ðức Sàrìputta. Họ nói rằng:
- Với một đức nhẫn nại như thế,
Sa-môn Sàrìputta đã trở nên bậc Vô Ngại. Dù khi có ai lừa dối hay đánh
đập Ngài. Ngài cũng không cảm thấy một ý nghĩ oán hận.
Có một ông Bà-la-môn là người cố
chấp cái thiện kiến sai lạc của mình, đã hỏi:
- Ai là người không nóng giận đâu?
- Ðó là Ðại Ðức Sàrìputta.
Ông bèn xuyên tạc: "Ông ấy
không nóng giận bởi vì chẳng có ai khiêu thích ông ta. Và chính tôi rất
rành cách làm cho kẻ khác giận mình".
Một hôm, khi đi khất thực, Ðại
Ðức Sàrìputta đã vào trong thành phố, nơi ông Bà-la-môn có mặt. Lão
Bà-la-môn ác ý này liền tiến gần phía sau Ngài và bất thần đánh lên lưng
Ngài một cái như trời giáng. Ðại Ðức Sàrìputta vẫn tiếp tục chầm
chậm bước đi, mặt cũng không quay lại. Ngài chỉ thản nhiên nói:
"Cái gì vậy kìa?".
Ông Bà-la-môn vừa hổ thẹn vừa hối
hận, ông bèn quì mọp người xuống dưới chân đức Trưởng lão để tạ
tội. Ðại Ðức Sàrìputta tỏ vẻ ngạc nhiên, hiền từ hỏi: "Ông
làm như thế để chi vậy?".
Người Bà-la-môn ngượng ngập trả
lời:
"Thưa Ngài! Vì muốn thử lòng
nhẫn nhục của Ngài nên tôi đã đánh lén Ngài một cái rất tàn nhẫn.
Bây giờ tôi hiểu ra sự thật, xin Ngài tha lỗi cho tôi.
Rồi ông Bà-la-môn tiếp: "Bạch
Ngài. Nếu Ngài sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của tôi, tôi xin thỉnh Ngài từ
nay về sau chỉ đến khất thực trước nhà tôi để tôi được chuộc tội
bằng cách dâng cúng".
Trong khi yêu cầu như vậy, ông đã
cung kính nâng lấy bình bát của đức Trưởng lão. Ngài đã dịu dàng trao
bát lại cho ông và ra dấu bảo ông ta hãy đưa mình về nhà để dâng hiến
vật thực.
Nhưng những người khác khi thấy
ông ta xúc phạm một vị Ðại Sa-môn như vậy, họ trở nên tức giận,
tay cầm gậy gộc tập trung trước nhà ông Bà-la-môn với mục đích trừng
phạt lão già hung ác này.
Khi Ðại Ðức Sàrìputta nhận vật
thực xong bước ra và ông Bà-la-môn theo sau, hai tay bưng bình bát của
Ngài. Thấy vậy họ đồng la lên:
- Bạch Ngài! Xin Ngài hãy bảo ông
Bà-la-môn này quay lại.
Ðức Trưởng lão hỏi: "Này
các đạo hữu tại gia! Tại sao các người làm như vậy?".
Họ đồng trả lời: "Người này
đã vô lý đánh lén Ngài. Và chúng tôi đến đây cốt để trả lại cho
ông cái hành động bất nhân đó".
Ðức Trưởng lão mỉm cười nói:
"Cám ơn các đạo hữu đã có lòng che chở cho bần đạo, và những kẻ
bất bình trước mọi hành động bất thiện là những người tốt. Nhưng
này quí vị thiện tâm! Ông ấy đã đánh quí vị hay đánh bần đạo?".
Tất cả đều trả lời: "Bạch
Ngài! Chính Ngài bị đánh".
Nghe thế đức Trưởng lão bèn
tuyên bố: "Ðược rồi! Nếu chuyện đó xảy ra đến bần đạo thì
ông ta đã sám hối với bần đạo rồi. Bây giờ quí đạo hữu hãy vui vẻ
giải tán".
Sau khi đức Trưởng lão đã khuyên
nhủ đám người trở về xong, Ngài bèn cho phép ông Bà-la-môn quay vào, rồi
im lặng tìm đường trở về tịnh xá. Chuyện này xảy ra đúng vào lúc đức
Phật đang thuyết những câu Pháp Cú Kinh số 389 và 390 (Theo chú giải
Dhammapada). Những câu ấy đã nói lên sự giảng nghĩa của đức Phật về
bản chất của ông Bà-la-môn, tức là chỉ rõ tính thực thà hơn là nghiệp
thức do tái sinh. Ngoài ra, Phật cũng gián tiếp dạy rằng: "Chính tư
tưởng phân chia giai cấp đã khiến cho một số người có hành động ngông
cuồng như vậy".
Ðức Phật còn dạy tiếp:
- Ðừng để ai đánh đập kẻ lầm
lỗi ấy. Người có sự hổ thẹn là người sẽ nhận sự trừng phạt xứng
đáng nhất. Chính sự hổ thẹn sẽ làm cho ông bị cắn rứt còn hơn là
nhận lại trăm ngàn cái đánh.
- Thu phục được ông Bà-la-môn như
thế không phải là chuyện dễ. Người nào đã kềm giữ được tư tưởng
của mình khỏi những gì thương yêu trìu mến càng nhanh thì sự đau đớn
sẽ không dày vò thân xác được. Và như vậy sự bực tức trong nội tâm
cũng dần dần biến mất đi.
Tính hướng thiện của Ðại Ðức
Sàrìputta cũng vĩ đại như đức nhẫn nhục của Ngài. Ngài sẵn sàng ghi
nhận mọi sự khuyên bảo của bất cứ ai không những bằng sự thành thật
mà còn với lòng biết ơn nữa.
Trong chú giải kinh Devaputta SAMYUTTA
Susimo có một đoạn thuật rằng:
"Một lần nọ vì vô ý mà
chéo y nội của Ngài lệch đụng xuống đất. Một ông Sa Di bảy tuổi đã
trông thấy và chỉ cho Ngài. Ðại Ðức Sàrìputta liền bước sang một bên
và sửa lại y phục với một thái độ vâng lời và vui vẻ. Sau đó Ngài
tiến đến trước mắt vị Sa Di và đưa tay nói rằng:
- Giờ thì y phục của tôi đã chỉnh
tề rồi Sư ạ.
Ðể ám chỉ đức tính này, trong
kinh Vua Mi Lan Ðà Vấn Ðạo (Milinda Panhà Sutta) còn có mấy dòng kệ nói về
Ðại Ðức Sàrìputta như sau:
"Người nào dù chỉ là bảy tuổi,
nếu nhìn thấy hình thức dễ duôi trước tôi, và chỉ rõ cho tôi, tôi sẽ
sẵn sàng hoan hỷ nhận. Tôi luôn luôn mong mỏi được nhắc nhở một cách
ham thích và nhiệt thành. Tôi còn biết ơn những người ấy mãi mãi và
kính trọng họ như những ông thầy".
Có một lần đức Phật hiền từ
khiển trách Ðại Ðức Sàrìputta vì đã không tiếp độ một kẻ hữu duyên
đến nơi đến chốn. Ðó là câu chuyện liên quan đến người Bà-la-môn
tên Dhànanjàni. Ðại Ðức Sàrìputta ngẫu nhiên đến viếng nhằm lúc ông
này đang đau nặng và thoi thóp trên giường bịnh. Ðức Trưởng lão vì biết
những người Bà-la-môn hằng ngưỡng mộ cõi trời Phạm Thiên, nên Ngài
đã chỉ dẫn cho ông Bà-la-môn sắp chết ấy con đường đạt tới cõi trời
đó bằng những giới hạnh của chư Phạm Thiên.
Kết quả ông Bà-la-môn đã được
sinh lên cõi trời Phạm Thiên thực sự.
Nhưng khi Ðại Ðức Sàrìputta thăm
viếng xong trở về, đức Bổn Sư đã bèn dạy:
- Này Sàrìputta! Trong khi có nhiều
Pháp đẻ đạt được những quả vị cao hơn, sao ông không cống hiến mà
chỉ gieo vào tư tưởng của bịnh nhân chỉ có pháp lành tới cõi trời Phạm
Thiên rồi ông ra về?
Ðại Ðức Sàrìputta trả lời:
- Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử nghĩ:
"Vì những người Bà-la-môn này luôn luôn ngưỡng mộ cõi trời Phạm
Thiên, nên đệ tử đã không hướng dẫn cho ông Bà-la-môn Dhànanjàni ấy
con đường đạt tới cảnh Phạm Thiên là gì?".
Ðức Phật bảo:
- Nếu nghe được Pháp bảo cao hơn
thì ông ấy có thể đắc vào Thánh đạo. Nhưng bây giờ là quá muộn vì
Dhànanjàni đã chết và đã trở thành một trong những Phạm Thiên rồi.
Chúng ta tìm thấy câu chuyện này
trong kinh Dhànanjàni, thuộc bộ Majjhima Nikàya như một sự mô tả rất
thâm diệu về thật tính không ưa thích tái sinh của đức Phật, cho dù đó
là sự tái sinh trong cõi trời cao nhất.
Riêng ông Dhànanjàni, đức Phật xét
thấy nếu được tiếp độ đúng mức ông có thể đạt đến quả A Na Hàm
trước khi chết, nghĩa là chỉ tái sinh lại một lần nữa mà thôi.
Bàn về trường hợp ông Dhànaĩjàni,
đây không phải là điều sơ hở của Ðại Ðức Sàrìputta, mà vì lúc đó
đức Trưởng lão chưa đắc được pháp Quán Thế Tâm (Lokiya Abhinnà) như
đức Phật, nên Ngài đã không phân biệt được sự thật đó. Kết quả,
ông Bà-la-môn Dhànaĩjàni ấy phải tốn một thời gian vô lượng nữa
trong cõi trời Phạm Thiên, và sẽ phải sinh làm người trước khi ông đạt
được đạo quả cứu cánh.
(Còn trong kinh Tevijjà có thuật một
vài lần đức Phật đã tiếp độ một số người tới cõi Phạm Thiên
là bởi duyên năng của họ không thể tiến cao hơn được nữa, chứ không
phải đức Thế Tôn đã làm một việc giống như Ðại Ðức Sàrìputta).
Và Ðại Ðức Sàrìputta cũng đã
nhận một sự khiển trách hiền từ khác nữa của đức Phật lúc Ngài bạch
hỏi đức Bổn Sư tại sao có một số chư Phật trong quá khứ đã không
để cho giáo lý của các Ngài tồn tại lâu dài. Và Ðức Phật đã trả lời
rằng:
- Ðiều ấy là bởi những vị
Toàn Giác đó không thuyết nhiều Pháp bảo, không đặt ra nhiều Giới luật
cho các hàng đệ tử, cũng không tạo nên sự tuyên đọc Biệt Biệt Giải
Thoát Pháp (Pàtimokkha).
Ðại Ðức Sàrìputta lại bạch tiếp:
- Giờ đây chắc đức Thế Tôn có
nhiều thời gian hơn để ban bố những điều luật và tuyên hạnh chú đọc
Biệt Biệt Giải Thoát Pháp Pàtimokkha để cho đời sống của Giáo Hội sẽ
tồn tại lâu dài?
Ðức Phật bèn dạy:
- Này Sàrìputta! Việc đó hãy để
cho chính đức Tathàgata, bậc có trách nhiệm biết rõ về thời gian tính
ấy. Ðức Thế Tôn sẽ không chế định giáo điều cho các hàng đệ tử,
cũng không khuyên đọc Biệt Biệt Giải Thoát Pháp nữa khi nào không thấy
có những dấu hiệu hư hoại trong hàng Tăng lữ (Theo Pàràjika Pàli chương
mở đầu).
Ðiều quan tâm của vị Ðại đệ
tử ấy chính là Ngài mong mỏi cho Giáo pháp Giải thoát được bền vững
càng lâu càng tốt. Và đó cũng là điềm "Huyền Cơ Khả Mật" của
một vị Phật.
Bất cứ một đấng Toàn Giác nào
cũng vậy: Giáo pháp của Ngài luôn luôn có một tuổi thọ và tuổi thọ
ấy chỉ có đấng Toàn Giác thuyết ra nó rõ mà thôi. Ðức Phật ấy phải
biết trước thời mạt pháp, và Ngài sẽ không để lại bất cứ một lời
dạy nào khi trên thế gian không còn lấy một người có thiện tâm.
Rồi đức Thế Tôn giảng giải tiếp
cho Ðại Ðức Sàrìputta nghe:
- Vào thời mạt pháp đó, người hành
đạo cầu tiến sẽ vô cùng ít ỏi. Và vị Tỳ-khưu sau chót trong Tăng Già
của Như Lai sẽ là ông Sotàpàna. Do đó, thật là tội nghiệp nếu sau ông
Sotàpàna mà còn Phật ngôn để cho người đời đem ra chế giễu".
ÐẠI ÐỨC SÀRÌPUTTA BỊ KHIỂN
TRÁCH VÌ NHÓM HỌC TRÒ
Theo Càtuma Sutta, tức kinh số 67
trong Majjhima Nikàya, thì có một lần đức Phật đã khéo léo khiển trách
Trưởng lão Sàrìputta như sau:
"Lúc ấy có một số đông Tỳ-khưu
mới nhập môn, là những đệ tử của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà
Moggallàna. Lần đầu tiên họ kéo đến để xin ra mắt đức Phật, nhưng
khi đến nơi lại chia ra làm nhiều nhóm nói lời nhảm nhí với những Tỳ-khưu
đang ngụ trong tịnh xá Càtuma.
Nghe có sự ồn ào, đức Phật liền
tập trung Tăng chúng để hỏi nguyên do. Ngài được biết đó là sự hỗn
loạn bởi những vị Tỳ-khưu mới đến gây ra. Trong kinh không nói rõ là
các vị Tỳ-khưu thăm viếng có mặt lúc Phật hỏi hay không. Nhưng chắc
chắn là họ phải có mặt, vì đức Phật đã nghiêm khắc thốt ra những
lời dạy như sau:
- Này các Tỳ-khưu! Các ông hãy đi
ngay. Như Lai muốn các ông ra khỏi chỗ này lập tức. Các ông không thể
đến gần một vị Phật bằng đức hạnh như vậy.
Bị quở phạt, có một số Tỳ-khưu
kinh sợ bỏ đi, còn một số chỉ có mặt trong đám chứ không gây ra sự
ồn ào đuợc phép ở lại.
Sau đó đức Phật nói với Ðại
Ðức Sàrìputta:
- Này Sàrìputta! Ông nghĩ như thế
nào khi Như Lai đuổi nhóm Tỳ-khưu ấy?
- Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử nghĩ:
"Ðức Thế Tôn muốn giữ mãi sự trang nghiêm thanh tịnh trong lúc
này". Do đó chúng đệ tử phải tôn trọng và vâng lời, rút lui một
cách có trật tự.
Ðức Phật dạy:
- Này Sàrìputta! Dừng lại! Ðừng
để cho những ý nghĩ như thế phát sanh trong ông nữa.
Và đức Phật quay sang Ðại Ðức
Mahà Moggallàna cũng hỏi một câu tương tự.
Ðại Ðức Mahà Moggallàna trả lời:
- Bạch đức Thế Tôn! Khi đức Thế
Tôn đuổi những vị Tỳ-khưu ấy đi, đệ tử nghĩ rằng: "Ðức Thế
Tôn vì muốn giữ lại sự trang nghiêm thanh tịnh để làm gương giải thoát
cho tất cả nhân loại". Do đó đệ tử và đạo huynh Sàrìputta giờ
đây phải trở về chăm lo Tăng chúng.
Ðức Thế Tôn nói:
- Này Mahà Moggallàna! Ðúng thế!
Ông trả lời đúng đấy! Việc cần thiết hoặc là chính Như Lai, hoặc là
Sàrìputta hoặc là Mahà Moggallàna phải đích thân khuyên giáo chúng Tăng.
Phần kết thúc, tuy bài kinh không
nêu rõ nhưng chắc chắn là hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna đã
trở về giáo huấn những học trò của mình một cách nghiêm khắc và kỹ
lưỡng.
ÐẠI ÐỨC SÀRIPUTTA BỊ VU CÁO
Có một lần đức Phật ngụ tại
Kỳ Viên tịnh xá cùng với đông đảo chúng Tăng, Ðại Ðức Sàrìputta
là nạn nhân của một sự kết tội sai lầm. Chuyện xảy ra như sau:
Lúc ấy là thời gian ra hạ, mùa mưa
cũng vừa chấm dứt. Chư Tăng phương xa đến nhập tại Kỳ Viên tịnh xá
đang lần lượt kiếu từ đức Phật và những vị Tôn túc để trở về.
Vì Tăng chúng quá đông nên khi tạm
biệt nhau, Ðại Ðức Sàrìputta đã thành thật tuyên bố một câu: "Bần
đạo chỉ quen nhớ những vị nào theo tên ám chỉ giới hạnh hơn là tên
của gia đình đặt cho họ".
Trong số đó có một vị Tỳ-khưu,
không ai biết tên gọi căn cứ theo giới hạnh của ông là gì hoặc tên của
gia đình đặt cho ông ra sao. Nhưng vì ông hằng mong muốn Ðại Ðức
Sàrìputta gọi ông bằng một cái tên ám chỉ ông là người Ðức Hạnh,
ít nhất cũng trong khi cáo từ nhau.
Tuy nhiên, giữa đám đông Tăng chúng,
Ðại Ðức Trưởng lão đã không cho ông ta sự phân biệt này. Và vị Tỳ-khưu
ấy đã trở nên bất mãn, ông bèn suy nghĩ: "Ngài không tiếp độ mình
như tiếp độ những vị khác?".
Rồi ông ta có mặc cảm Ðại Ðức
Sàrìputta đối xử bất công. Lúc ấy, nhân việc đức Trưởng lão đi
ngang, chéo y của Ngài bị gió phất quét nhẹ lên mình ông, khiến ông
càng bực tức hơn nữa. Ông liền đến gần đức Phật phàn nàn:
- Bạch đức Thế Tôn! Chắc Ðại
Ðức Sàrìputta đang hãnh diện mình là một Ðại đệ tử nên đã đánh
con một tát tay đến nỗi tai con gần như bị hỏng. Sau khi làm như vậy,
Ngài đã không tỏ ra vẻ người hối lỗi với con mà còn bỏ đi không đếm
xỉa gì đến con cả.
Ðức Phật bèn gọi Ðại Ðức
Sàrìputta vào và truyền lệnh đại hội Tăng chúng.
Trong khi chờ đợi, Ðại Ðức
Mahà Moggallàna và Ðại Ðức Ànanda dọ biết rõ có một sự cáo oan xảy
ra, vội gặp gỡ tất cả các nhóm Tỳ-khưu và nói lên rằng:
- Bạch chư huynh đệ! Xin các Ngài
hãy tới dự Tăng hội. Khi Ðại Ðức Sàrìputta đối diện trước đức Bổn
Sư rồi, Ngài chỉ thốt ra những sự thật. Sự thật ấy sẽ vang rền như
tiếng gầm của một con sư tử.
(Câu này dịch sát theo chữ Pàlì
là "Sìhanada" có nghĩa là một giọng nói tự nhiên lẫn trầm
hùng, đảm bảo chắc chắn ấy là sự thật).
Và đúng như điều vừa nói! Khi đức
Bổn Sư chất vấn Trưởng lão Sàrìputta, thay vì Ngài vạch rõ sự vu cáo,
Ngài lại nói:
- Bạch đức Thế Tôn! Khi một người
đã được vững chắc trong đạo quả, làm chủ được bản tâm rồi, người
ấy có thể nào làm đau đớn một đồng đạo của mình mà bỏ đi không
một lời sám hối?
- Bạch đức Thế Tôn! Ðệ tử của
đấng Siêu Xuất tam giới khi đã thuần thục trong Thánh đạo thì không
còn trạng thái sân hận hoặc thù nghịch nữa, trái lại chỉ có một phẩm
tính hỷ xả vô biên như quả đất. Ðại cầu này có bao giờ phản đối
bất cứ vật gì dù dơ hay sạch, dù đẹp hay xấu, dù thuận hay nghịch
mà thế gian vất lên mình nó đâu?
Mặt khác, đệ tử của đấng Toàn
Giác khi đã chứng quả Bất Lai (A-la-hán) thì tham dục không còn nữa, dù
chỉ vi tế trong một sát na thời gian hay trong một tế bào vật chất.
Theo chú giải kinh Sìhanada thì lúc
Ðại Ðức Sàrìputta thốt ra những lời như vậy, quả địa cầu đã rung
chuyển đến chín lần để xác minh sự thật. Và toàn thể đại hội đã
giải tán với tấm lòng kinh cảm. Riêng vị Tỳ-khưu vu khống thật vô
cùng hối hận. Ông xấu hổ quỳ mọp dưới chân đức Thế Tôn để xin
nhận tội nói xấu của mình.
Kế đó đức Phật liền khuyên:
- Này Sàrìputta. Hãy tha lỗi cho vị
Tỳ-khưu ngu dại này đi, kẻo không cái đầu của ông ấy sẽ vỡ làm bảy
miếng.
Ðại Ðức Sàrìputta cung kính đáp
lời:
- Bạch đức Bổn Sư. Tự nhiên là
đệ tử đã tha thứ cho vị Tỳ-khưu này rồi.
Và với hai bàn tay chắp lại, đức
Trưởng lão tiếp: "Ngoài ra, đệ tử cũng xin Sư ấy tha lỗi cho đệ
tử nếu vì vô tình mà đệ tử làm bất cứ điều gì mích lòng".
Ðoạn cả hai được đức Phật xử
hòa.
Chư Tăng vô cùng thán phục. Họ đều
nói: "Ðại Ðức Sàrìputta quả thật là một tấm gương tốt. Ngài đã
tỏ ra thân mến đối với vị Tỳ-khưu vu khống kia. Hành động của Ngài
chính là một hành động đại xá. Lẽ ra ông ta phải tỏ vẻ hạ mình biết
lỗi trước Ngài mới phải, đằng này Ngài lại đưa hai tay với vẻ cung
kính xin lỗi ông ta nữa".
Nghe Tăng chúng bình phẩm, đức Phật
còn giải thích thêm:
- Này chư Tỳ-khưu! Ðối với ông
Sàrìputta thì việc nuôi dưỡng lòng sân hận và oán thù không thể nào
có được. Tâm hồn của Sa-môn Sàrìputta giống như quả đất vĩ đại
hay vững chắc như trụ thành môn và yên lặng như một hồ nước trong.
Rồi Ngài ngâm kệ:
"Chỉ có quả đất và những cột
trụ chống đỡ cửa thành trì mới là những vật không bao giờ biết sân
hận. Với một tâm hồn trong sáng như một bể nước yên lặng thì một
Sa-môn có giới đức như thế, vòng sinh tử luân hồi sẽ không còn xoay
tròn họ nữa".
Có một câu chuyện khác cũng nói về
đức tính này của Ðại Ðức Sàrìputta. Ngay trong thời gian Tăng Già mới
thành lập, một Tỳ-khưu tên Kolàlika, nhận thấy sự sốt sắng chăm lo tổ
chức Giáo Hội của hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna, sinh lòng
ganh tị và hiểu lầm hai vị Ðại đệ tử này có dụng ý gì đây, rồi
đến bạch với Ðức Thế Tôn về "những ham muốn tội lỗi của hai
vị ấy".
Ðức Bổn Sư liền khuyên dạy:
- Này Kolàlika! Ðừng nên nói như vậy.
Ông nên có những ý nghĩ thân thiện và tin tưởng nơi Ðại Ðức
Sàrìputta và Mahà Moggallàna thì hơn vì họ là những người có hạnh kiểm
rất tốt và đầy lòng từ bi".
Nhưng ông Tỳ-khưu lầm lạc không
vâng lời đức Phật. Ông cứ khăng khăng với sự kết tội sai lầm của
mình. Chẳng bao lâu sau khắp thân thể ông mọc đầy mụn nhọt, và cứ tiếp
tục như thế cho đến khi ông chết vì cái bịnh này.
Chuyện đó được khá nhiều chỗ
trong kinh nhắc đến. Chẳng hạn như trong các kinh Brahma SAMYUTTA No 10, kinh
Nipàta Mahà Vanga No 10, kinh Anguttara Nikàya V-170 và kinh Takkàriya Jàtaka No
481.
Chính sự so sánh về hai câu chuyện
vu cáo nói trên đã cho ta biết tầm quan trọng của tính ăn năn tội lỗi.
Không phải vấn đề hai Ðại Ðức Sàrìputta và Mahà Moggallàna chịu nhận
hay không chịu nhận sự sám hối của Tỳ-khưu Kolàlika, mà chính là
đương sự có thấy rõ ác tâm của mình hay không. Những lời sám hối của
ông ta nếu có đến các Ngài cũng sẽ chẳng làm thay đổi gì thái độ của
nhị vị Ðại đệ tử ấy, vì hai Trưởng lão này lúc nào cũng hỷ xả
cho vị Tỳ-khưu tội lỗi nói trên vì hai Ngài không muốn cho ông ta phải
nhận hậu quả của nghiệp ác.
Lời nói đầu
| Phần 1 | Phần 2a |
Phần 2b | Phần 2c |
Phần 3 | Phần 4 | Phần 5