- PHẬT GIÁO TẠI VIỆT NAM
- Thích Nguyên Tạng
- Phần A
- TỔNG QUAN VỀ PHẬT
GIÁO VIỆT NAM
I. PHẬT GIÁO DU NHẬP VÀO VIỆT
NAM
1. Phật giáo du nhập qua con đường Hồ Tiêu.
2. Phật giáo du nhập qua con đường Đồng cỏ.
II. PHẬT
GIÁO VIỆT NAM PHÁT TRIỂN QUA CÁC THỜI ĐẠI
1. Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ V, thời
kỳ du nhập và hình thành Phật giáo Việt Nam.
2.
Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX,
thời
kỳ phát triển.
3.
Phật giáo Việt Nam trong thế kỷ X đến hết thế kỷ thứ XIII, thời
kỳ cực thịnh.
4. Phật
giáo Việt Nam trong thế kỷ XX, thời kỳ phục hưng.
III. NHỮNG
THÀNH QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Các con số thống kê mới nhất về tự viện, tăng ni Việt Nam.
I. PHẬT GIÁO DU NHẬP
VÀO VIỆT NAM:
Ngày nay, căn cứ các tài liệu (1) và các lập luận khoa học của nhiều học
giả, giới nghiên cứu hầu hết đều đồng ý rằng Đạo Phật đã được
truyền vào Việt Nam rất sớm, nhất là từ cuối thế kỷ thứ II đến đầu
thế kỷ thứ III Tây Lịch qua hai con đường Hồ Tiêu và Đồng Cỏ.
1. Phật Giáo du nhập qua con đường
Hồ Tiêu:
Con đường Hồ Tiêu (Chemi des epices) tức là đường biển, xuất phát từ
các hải cảng vùng Nam Ấn rồi qua ngã Srilanka, Indonesia, Việt Nam...lợi dụng
được luồng gió thổi định kỳ vào hai lần một năm phù hợp với hai
mùa mưa nắng ở khu vực Đông Nam Á, những thương nhân Ấn đã tới các
vùng này để buôn bán bằng những con thuyền buồm. Trong các chuyến đi viễn
dương này, các thương nhân thường cung thỉnh một hay hai vị tăng để cầu
nguyện cho thủy thủ đoàn và các vị tăng này nhờ đó mà đến truyền bá
Đạo Phật vào các dân tộc ở Đông Nam Á. Giao Châu tiêu biểu bấy giờ
là trung tâm Luy Lâu, là nơi tụ điểm nghỉ chân giao lưu của các thương
thuyền. Lịch sử chính thức xác nhận năm 240 trước Tây lịch, Mahoda-con
vua A dục (Asoka) đã đưa Đạo Phật vào Việt Nam (2). Tư liệu trong Lĩnh
Nam Chính Quái cho biết một dữ kiện chứng tỏ sự có mặt của Đạo Phật
vào đời Hùng Vương thứ 3 (triều đại thứ 18 Vua Hùng kể từ trước công
nguyên 2879-258). Đó là câu chuyện công chúa Tiên Dung, con gái vua Hùng Vương
thứ 3 lấy Đồng Tử. Chuyện kể rằng Đồng Tử và Tiên Dung lập phố
xá buôn bán giao thiệp với người nước ngoài. Một hôm Đồng Tử theo một
khách buôn ngoại quốc đến Quỳnh Viên và tại đây Đồng Tử đã gặp một
nhà sư Ấn Độ ở trong một túp lều. Nhờ đó mà Đồng Tử và Tiên Dung
đã biết đến Đạo Phật (3). Qua dữ kiện này ta thấy sự hiện diện của
Phật Giáo do các tăng sĩ Ấn Độ truyền vào Việt Nam khá lâu trước Tây
lịch.
Một bài nghiên cứu của Ngô Đăng
Lợi, viện nghiên cứu khoa học Hải Phòng viết: "Vùng Đồ Sơn mà có
nhà nghiên cứu khẳng định chính là thành Nê Lê nơi có bảo tháp của
vua Asoka. Nếu quả vậy thì từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Đạo Phật
đã được trực tiếp truyền vào nước ta" (4). Và Thiền Uyển Tập
Anh cũng ghi nhận cuộc đàm luận giữa thiền sư Thông Biện và Thái Hậu
Phù Thánh Linh Nhân (Ỷ Lan) (khi bà hỏi về nguồn gốc Đạo Phật Việt
Nam vào dịp các cao tăng trong nước tập hợp tại chùa Khai Quốc (nay là
chùa Trấn Quốc - Hà Nội) vào ngày rằm tháng 2 năm 1096) Thông Biện dẫn
chứng lời pháp sư Đàm Thiên (542-607 TL) đối thoại với Tùy Cao Đế
(?-604 TL): "Một phương Giao Châu, đường sang Thiên Trúc, Phật pháp
lúc mới tới, thì Giang Đông (Trung Hoa) chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa
hơn 20 ngôi, độ tăng hơn 40 người, dịch kinh được 15 quyển, vì nó có
trước vậy, vào lúc ấy thì đã có Khâu Đà La, Ma Ha Kỳ Vực, Khương
Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó" (5). Ma Ha Kỳ vực, Khâu
Đà La (188 TL) người Ấn Độ hay Trung Á; Mâu Bác (165-170 TL) người Trung
Hoa; Khương Tăng Hội (200-247 TL) người Ấn Độ; Chi Cương Lương (?-264 TL)
người xứ Nhục Chi, theo sử chép đó là các vị sư có mặt sớm nhất
ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ thứ hai đến thế kỷ thứ ba. Có lẽ đây
chỉ là những vị được sử ghi lại tên tuổi, kỳ thực đây không phải
là phái đoàn truyền bá đầu tiên đến Việt Nam, vì từ thế kỷ thứ ba
trước Tây lịch đến thế kỷ thứ hai sau Tây Lịch chắn chắc đã có
nhiều tăng sĩ đặt chân đến hoằng Pháp tại Việt Nam, cho nên Pháp sư
Đàm Thiên chỉ dẫn phần giới hạn và căn cứ vào sự có mặt của tác
phẩm Lý hoặc Luận của Mâu Bác.
Qua nhiều tài liệu lịch sử và dựa
vào địa lý, thiên nhiên, cư dân, lịch sử có thể cho chúng ta một kết
luận chắn chắc rằng Đạo Phật đã được truyền trực tiếp vào Việt
Nam chứ không thông qua Trung Hoa bằng con đường Hồ Tiêu. Tuy nhiên, cũng có
nhiều cứ liệu lịch sử chứng minh rằng Đạo Phật đồng thời được
truyền vào Việt Nam qua con đường Đồng Cỏ.
2. Phật Giáo du nhập qua con đường
Đồng Cỏ:
Con đường Đồng Cỏ (Chemin des
Steppes) tức là đường bộ còn gọi là con đường tơ lụa (6) con đường
này nối liền Đông Tây, phát xuất từ vùng Đông Bắc Ấn Độ, Assam hoặc
phía Trung Á, một nhánh của đường tơ lụa đi từ Châu Âu qua các vùng
thảo nguyên và vùng sa mạc ở Trung Á tới Lạc Dương bằng phương tiện
lạc đà. Cũng có thể các thương nhân và tăng sĩ qua vùng Tây Tạng và
các triền sông Mekong, sông Hồng, sông Đà mà vào Việt Nam. Cuốn Lịch sử
Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất
phát từ Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và
theo sông Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn
nối liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con
sông Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông
Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do những
di dân Ấn Độ thành lập trước công nguyên. Rất có thể các tăng sĩ Ấn
Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi
từ đây vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An".
Những dữ kiện về con đường Hồ
Tiêu và con đường Đồng Cỏ có liên quan đến sự giao lưu của Việt Nam
tuy chưa nhiều chứng minh có những chứng tích mà lịch sử còn để lại,
dù lịch sử truyền miệng hay thành văn, theo lịch sử Phật Giáo Việt Nam
thì vào thế kỷ thứ II trước Tây lịch, vua Ấn Độ Asoka sau cuộc đại
hội kết tập kinh điển lần thứ ba, vua và trưởng lão Tissa Moggaliputta
đã gởi nhiều phái đoàn Như Lai sứ giả lên đường truyền bá chánh
pháp cho các nước thuộc vùng viễn đông, trong đó có đoàn của hai vị
cao tăng là Uttara và Sona được phái đến Suvana -Bhumi, xứ Kim Địa. Tuy có
nhiều ý kiến khác nhau về vùng Kim Địa nhưng ý kiến trong quyển lịch sử
Phật Giáo Thế Giới (7) thì cho rằng vùng Kim Địa này là bán đảo Đông
Dương từ Miến Điện kéo dài đến Việt Nam. Vấn đề này được sách Lịch
Sử Phật Giáo Việt Nam (sđđ) viết: "sử liệu Phật Giáo Miến Điện
chép rằng hai vị cao tăng đó (Uttara và Sona) đã đến Miến Điện truyền
giáo nhưng sử liệu Phật Giáo tại Thái Lan cũng ghi là hai cao tăng Uttara và
Sona có đến Thái Lan truyền giáo. Có học giả dựa vào một tài liệu
Trung Hoa nói rằng ở Giao Châu tại thành Nê Lê, có bảo tháp của vua
Asoka, và học giả đó xác định thành Nê Lê chính là Đồ Sơn hiện nay
(cách Hải Phòng khoảng 12km)".
Nói chung căn cứ theo các tư liệu
trên thì chúng ta có thể khẳng địng rằng Phật Giáo truyền vào Việt
Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch bằng những phương tiện hòa bình và
vì thế không một giọt máu nào đã chảy, không một giọt lệ nào rơi vì
sự truyền bá Đạo Phật vào Việt Nam.
II. PHẬT GIÁO VIỆT NAM
PHÁT TRIỂN QUA CÁC THỜI ĐẠI:
1. Phật Giáo Việt Nam từ thế kỷ
thứ II đến hết thế kỷ thứ V, thời kỳ du nhập và hình thành Phật
Giáo Việt Nam:
Không bao lâu khi Phật Giáo được
truyền vào đất Việt, nhờ sự nổ lực hoạt động truyền giáo của
các tăng sĩ Ấn Độ, tại Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ lúc bấy giờ
đã trở thành một trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong vùng. Tại đây, với
những sinh hoạt hoằng pháp của ngài Khâu Đà La (người Ấn Độ đến
Luy Lâu khoảng năm 168-169) đã xuất hiện một mô hình Phật Giáo Việt Nam
hóa đầu tiên qua hình tượng Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu (hình
tượng Phật Nữ). Một chứng liệu lịch sử quan trọng khẳng định Phật
Giáo Việt Nam đã bắt rễ sớm ở Giao Châu là sự việc ngài Mâu Bác
(sinh cuối thế kỷ thứ II) theo mẹ từ Trung Quốc sang Giao Châu khi ngài
còn rất trẻ, rồi lớn lên, tại đây ngài đã viết bài "Lý hoặc
Luận" và dịch một số kinh sách, chứng tỏ ngài đã học Phật giáo
tại Giao Châu và như thế Phật Giáo Giao Châu đã phát triển khá mạnh,
ít nhất là vào nữa đầu thế kỷ thứ III Tây Lịch.
Sang thế kỷ thứ III, có ba nhà
truyền giáo nước ngoài đến hoằng Pháp tại Giao Châu là các ngài Khương
Tăng Hội (gốc người Sogdiane, Khương Cư); ngài Chi Cương Lương Tiếp
(người xứ Nhục Chi) và ngài Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Độ).
Đến thế kỷ thứ V, có hai thiền
sư xuất hiện, là Đạt Ma Đề Bà (Oharmadeva,) và Huệ Thắng (người Việt).
Thiền sư Đạt Ma Đề Bà là người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế
kỷ thứ V để giảng dạy về phương pháp thiền học. Thiền sư Huệ Thắng
là người địa phương là một trong những học trò của ông.
Cũng do được truyền bá trực tiếp
từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ đầu kỷ nguyên Tây lịch, nên danh xưng
Buddha (Bậc Giác Ngộ) tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng
Việt là Bụt (Trung Hoa dịch là Phật). Điều này trùng hợp với danh từ
Bụt được xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích Việt Nam. Theo từ điển
Phật học Việt Nam, (Minh Châu và Minh Chi, Hà Nội 1991) có ghi: "Tiếng
Bụt phổ biến hơn trong văn học dân gian và là dấu hiệu chứng tỏ Đạo
Phật truyền vào nước ta sớm lắm". Phật Giáo ở Giao Châu lúc ấy
mang màu sắc Nam phương, nhưng trong con mắt của nền văn minh nông nghiệp,
người Việt Nam lại hình dung Đức Phật như là một vị thần toàn năng
có mặt ở khắp nơi, sẵn sàng xuất hiện để cứu độ mọi người.
2. Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ
thứ VI đến hết thế kỷ thứ IX, thời kỳ phát triển:
Bước sang thời kỳ này, Phật tử
Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc.
Không bao lâu sau đó, Phật Giáo Bắc phương (Trung Quốc) đã chiếm ưu thế
và đã thay đổi chổ đứng của Phật Giáo Nam Truyền vốn có từ trước.
Từ Buddha được dịch thành chữ Phật, và từ đây Phật dần dần thay thế
cho chữ Bụt và chữ Bụt chỉ còn giới hạn trong ca dao, tục ngữ, truyện
cổ tích mà thôi.
Trong thời gian này, từ Trung Hoa có
ba tông phái được truyền vào Việt Nam, đó là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông
và Mật Tông.
a.Thiền Tông :
Là tông phái hay đúng hơn là một
pháp môn tu tập có từ thời Đức Phật Thích Ca tại Ấn Độ (trong hội
Linh Sơn) rồi truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt cho đến Tổ
thứ 28 Ấn Độ là Bồ Đề Đạt Ma (Bodhidharma). Đến năm 520 Tổ Bồ Đề
Đạt Ma, vốn là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời
thầy là Bát Nhã Đa La (Prajnatara), Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Hoa để hoằng
dương Phật pháp. Tại nơi ây, Thiền Tông đã được hình thành và nhanh
chóng hưng thịnh.
Thiền hay còn gọi là tĩnh lự, chủ
trương tập trung trí tuệ để tìm ra chân lý. Tu theo pháp môn này đòi hỏi
hành giả phải có nhiều công phu và khả năng trí tuệ, do vậy chỉ phổ
biến ở tầng lớp trí thức và giai cấp thượng lưu, và cũng chính nhờ
họ ghi chép lại mà chúng ta ngày nay mới biết được lịch sử Thiền Tông
ở Việt Nam.
Dòng thiền thứ nhất: được Tổ
Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) sáng lập. Ngài là người Nam Thiên Trúc, sang
Trung Hoa học đạo và được tổ thứ ba thiền tông Trung Hoa là Tổ Tăng Xán
khuyên nên "mau đi về phương nam mà tiếp xúc với thiên hạ, không
nên ở lâu tại đây". Ngài từ biệt và đến Việt Nam vào năm 580,
ở tại chùa Pháp Vân (nay là Thuận Thành Hà Bắc) để hoằng pháp và truyền
cho tổ thứ hai là ngài Pháp Hiền (người Việt Nam). Đây là dòng thiền
có tích cách dân tộc Việt Nam, vừa biểu lộ được sinh hoạt tâm linh
siêu việt của Phật Giáo vừa biểu lộ được đời sống thực tế và
đơn giản của quần chúng nghèo khổ Việt Nam. Dòng thiền này truyền được
19 thế hệ.
Dòng thiền thứ hai: là thiền phái
Vô Ngôn Thông, do thiền sư Vô Ngôn Thông người Trung Hoa sáng lập tại
chùa Kiến Sơ (Phù Đổng, Hà Bắc) vào năm 280. Người kế nghiệp ngài là
thiền sư Cảm Thành. Đây là thiền phái chịu ảnh hưởng Phật Giáo Trung
Hoa sâu đậm, tuy nhiên vẫn rất gần gũi với đời sống xã hội, hòa nhập
vào đời sống người dân trong khi vẫn duy trì được sinh hoạt tâm linh
độc lập của mình. Thiền phái này truyền được 17 thế hệ.
Dòng thiền thứ ba: là thiền phái
Thảo Đường, do thiền sư Thảo Đường (người Trung Hoa) sáng lập, ngài
vốn là tù binh bị bắt tại Chiêm Thành, được vua Lý Thánh Tông
(1054-1072) giải phóng khỏi kiếp sống tù đày và vua cho lập đạo tràng tại
chùa Khai Quốc ở ngay kinh thành Thăng Long (1069) đệ tử theo học rất đông,
trong đó có cả chính vua Lý Thánh Tông. Thiền phái này có khuynh hướng
thiền tông trí thức và văn chương, do đó không cắm rễ được trong quần
chúng mà chỉ ảnh hưởng được tới một số trí thức và vua quan có
khuynh hướng văn học. Dòng thiền này truyền được 6 đời.
Dòng thiền thứ tư: đó là thiền
phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông (1258-1368) khai sáng. Vua Trần Nhân Tông
học Phật qua sự hướng dẫn của Tuệ Trung Thượng Sĩ, một thiền sư
cư sĩ nổi tiếng đời Trần, sau khi xuất gia vào năm 1299 với đạo hiệu
là Trúc Lâm Đầu Đà, ngài đã lên tu ở núi Yên Tử (tỉnh Quãng Ninh) và
tại đây, ngài đã lập ra thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Việt Nam
đầu tiên, mang tính chất độc lập Việt Nam với sự kết hợp hài hòa của
Phật Giáo AᮭHoa. Lập ra thiền phái Trúc Lâm này, vua Trần Nhân Tông đã
thống nhất được các thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ Giáo
Hội Phật Giáo đời Trần về một mối.
Nhìn chung thiền phái Trúc Lâm là một
dòng thiền tổng hợp được ba yều tố đặc thù của xã hội. Trúc Lâm
đại diện cho quý tộc, Pháp Loa đại diện cho nông dân và Huyền Quang đại
diện cho nho sĩ, tính cách quý tộc, nông dân và nho sĩ là thể hiện toàn
diện trong con người Trúc Lâm. Sự tổng hợp đó, đã tạo nên nét đặc
thù của thiền phái Trúc Lâm mà các thiền phái trước đó không có được,
kể từ đó đưa Đạo Phật đi vào xã hội với tinh thần nhập thế cụ
thể, giáo hội được tổ chức chặt chẽ, cũng cố tinh thần đạo pháp
và dân tộc xây dựng phồn vinh cho đất nuớc. Sau thời đại Lý Trần
các dòng thiền Việt Nam dường như lu mờ và tàn lụi hẳn, đến cuối thế
kỷ thứ XX, tiếp nối đạo mạch Việt Nam, thiền sư Thích thanh Từ đã
phục hưng nền thiền tông Việt Nam đó là thời điểm đầu những năm 70
tại tu viện Chơn Không (1970-1986) rồi đến Thường Viện Thường Chiếu
(1974-1994) và hiện nay là thiền viện Trúc Lâm ở Đà Lạt. Đây có thể
nói là một dòng thiền khác mang tính cách độc lập của người Việt
Nam. Thiền sư Thanh Từ đã không theo các dòng thiền nào truyền thống mà
chỉ tổng hợp chỗ thấy, chỗ ngộ và sự ứng dụng của ba thiền sư nổi
tiếng là thiền sư Huệ Khả (tổ thứ 2, Trung Hoa) thiền sư Huệ Năng (tổ
thứ 6, Trung Hoa) và thiền sư Trần Nhân Tông (sơ tổ Trúc Lâm, Việt Nam)
mà lập thành phương pháp tu tập cho thiền sinh Việt Nam trong thời hiện
đại.
b.Tịnh Độ Tông:
Khác với Thiền Tông, Tịnh Độ Tông
chủ trương phải dựa vào tha lực tức sự giúp đỡ từ bên ngoài. Thật
ra, Thiền hay Tịnh Độ cũng chỉ là những pháp môn tu tập thích hợp cho
nhiều đối tượng khác nhau do Đức Phật truyền giáo ra. Chính Đức Phật
Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến giác ngộ thì cần phải
giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Điều này gợi
cho tín đồ liên tưởng đến một cõi Niết Bàn cụ thể đó là cõi Tịnh
Độ hay thế giới Cực Lạc do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ. Sự giúp
đỡ đó còn cho thấy bản thân của người tín đồ cần thường xuyên
đi chùa dâng hương, cúng dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh
các điều ác và thường xuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà để đạt
đến nhất tâm bất loạn và muốn đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn
này, hành giả trong lúc niệm Phật phải hình dung, quán tưởng về thế giới
cực lạc để tâm mình hướng tới.
Nhờ cách thức tu tập đơn giản
như vậy nên Tịnh Độ Tông là tông phái phổ biến khắp đất nước Việt
Nam. Đâu đâu ta cũng gặp người dân tụng Kinh A Di Đà và niệm danh hiệu
của Đức Phật A Di Đà. Tượng Phật A Di Đà cũng thuộc loại tượng Phật
lâu đời và phổ biến ở Việt Nam. Điển hình là pho tượng Phật A Di Đà
bằng đá, cao gần 2m,thờ tại chùa Phật Tích, huyện Tiên Du, Tỉnh Bắc
Ninh, được tạo tác dưới triều Lý Thánh Tông năm 1057. Đây là một bằng
chứng đánh dấu sự ảnh hưởng Tịnh Độ Tông đầu tiên ở Việt Nam.
c.Mật tông:
Là một tông phái chủ trương sử
dụng hình ảnh cụ thể và những mật ngữ, mật chú để khai mở trí tuệ
giác ngộ. Tương truyền Mật Tông do Phật Đại Nhật chủ xướng và có
hai bộ kinh chính là Kinh Đại Nhật và Kinh Kim Cương. Mật tông truyền
vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mà nhanh chóng
hòa vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với các truyền thống như chẩn tế,
cầu đồng, dùng pháp thuật, yếm bùa trị tà ma và trị bệnh. Mật tông
không có dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự
thọ trì của từng chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông
phái này.
Phật Giáo Việt Nam từ thế
kỷ thứ X đến hết thế kỷ thứ XIII, thời kỳ cực thịnh
Đến thế kỷ thứ X thì Việt Nam
đã trải qua 1000 năm Bắc thuộc. Như ta đã thấy, Phật Giáo Việt Nam của
thế kỷ thứ V chỉ còn ghi lại hai thiền sư là Đạt Ma Đề Bà và Huệ
Thắng. Thế kỷ thứ VI ghi lại hai thiền sư Việt Nam: Quán Duyên và Pháp
Thiền. Chính trong thế kỷ này mà thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi đến Việt
Nam. Ba thế kỷ tiếp theo, thế kỷ VII, VIII và IX là ba thế kỷ thuộc nhà
Đường cai trị, đến thế kỷ thứ X thì Việt Nam mới bắt đầu giành
được quyền tự chủ. Chính trong thế kỷ này Đạo Phật mới thực sự
hưng thịnh và có những đóng góp tích cực cho đất nước. Năm 971 vua
Đinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Thiền
sư Ngô Chân Lưu thuộc thiền phái Vô Ngôn Thông, và ngài Khuông Việt Thái
Sư, chính thức tiếp nhận Phật Giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh
cho chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này vua Lê Đại Hành đã mời thiền
sư Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi làm
cố vấn chính sự. Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng
đã tiếp tục trợ giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp.
Phật Giáo Việt Nam trong thời kỳ
này phát triển tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Do ảnh hưởng tư tuởng
của vua Trần Nhân Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đầu thế kỷ thứ VIII,
ba thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường sát nhập tạo
thành một và đưa tới sự phát triển của thiền phái Trúc Lâm là thiền
phái duy nhất dưới đời Trần. Vì vậy đời Trần có thể gọi là thời
đại thống nhất của Phật Giáo các hệ phái trước đó. Tăng sĩ đời
Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị như các thiền
sư đời Lý, nhưng Phật Giáo là một yếu tố quan trọng để liên kết
nhân tâm. Tinh thần Phật Giáo đã kiến cho các nhà chính trị đời Trần
áp dụng những chính sách bình dân, thân dân và dân chủ. Phật Giáo trong
đời Trần là quốc giáo, mọi người dân trong xã hội điều hướng về
Phật Giáo. Nhà nho Lê Quát, học trò Chu Văn An, đã lấy làm tức giận vì
thấy toàn dân theo Phật : "Phật chỉ lấy điều họa phúc mà động lòng
người, sao mà sâu sa và bền chắc đến như vậy? Trên từ Vương Công, dưới
đến thứ dân, hễ làm việc gì thuộc về việc Phật, thì hết cả gia
tài cũng không tiếc. Nếu hôm nay đem tiền để làm chùa xây tháp thì hớn
hở, vui vẻ, như trong tay đã cầm được biên lai để ngày sau đi nhận số
tiền trả báo lại. Cho nên trong kinh thành ngoài đến Châu Phủ, đường cùng
ngõ hẻm, chẳng khiến đã theo, chẳng thề mà tin, hễ chổ nào có nhà
thì có chùa Phật; bỏ đi thì làm lại, hư đi thì sửa lại" (8).
Có rất nhiều chùa tháp qui mô to lớn
hoặc kiến trúc độc đáo đã được xây dựng trong thời Lý Trần như chùa
Phật Tích, chùa Đại Lãm, chùa Linh Xứng, chùa Một Cột, chùa Phổ Minh.
Khâm phục trước những thành tựu văn hóa của Phật Giáo Việt Nam thời
Lý Trần mà sách vỡ Trung Hoa truyền tụng nhiều về 4 công trình nghệ thuật
lớn mà họ gọi là An Nam Tứ Đại Khí (9). Đó là:
Tượng Phật Chùa Quỳnh Lâm: chùa
Quỳnh Lâm ở Đông Triều (Quảng Ninh) được xây dựng vào khoảng thế kỷ
XI, có pho tượng Di Lặc bằng đồng mà theo văn bia mà nay vẫn còn giữ
được trong chùa thì tượng cao 6 trượng (1 trượng bằng khoảng 4m) đặt
trong một tòa Phật điện cao 7 trượng. Đứng từ bến đò Đông Triều,
cách xa 10 dặm vẫn còn trong thấy nóc chánh điện.
Tháp Bảo Thiên: gồm 12 tầng, cao
20 trượng do vua Lý Thánh Tông cho xây dựng vào năm 1057 trên khuôn viên
chùa Sùng Khánh ở phía Tây Hồ Lục Thủy (tức Hồ Gươm Hà Nội ngày
nay) bằng đá và gạch, riêng tầng thứ 12 đúc bằng đồng. Đây là đệ
nhất danh thắng đế đô một thời. Đến năm 1414 tháp bị quân Vương Thông
tàn phá, nền tháp còn lại to như quả đồi, có thời dùng làm nơi họp
chợ; đến năm 1791 dỡ ra lấy gạch xây thành còn thấy 4 pho tượng Kim
Cương trấn giữ 4 cửa và nhiều tượng chim thú khác. Thời Pháp bị phá
huỷ hoàn toàn để xây dựng nhà thờ lớn trên mảnh đất ấy.
Chuông Quy Điền: Năm 1101, vua Lý
Nhân Tông cho xuất hàng vạn cân đồng để đúc quả chuông này và dự định
treo nó tại khuôn viên chùa Diên Hựu (10) trong lầu chuông bằng đá xanh
cao 8 trượng. Nhưng chuông đúc xong to quá (đường kính 1,5 trượng (khoảng
6m) cao 3 trượng (khoảng 12 m), nặng đến vài vạn cân) không treo nổi lên
đành để ở ngoài ruộng.
Vạc Phổ Minh: đúc bằng đồng vào
thời vua Trần Nhân Tông (1279-1293) đặt tại chùa Phổ Minh (làng Tức Mặc,
Nam Hà). Vạc sâu 6 thước, rộng 10 thước nặng trên 7 tấn (11). Vạc to tới
mức có thể nấu được cả một con bò mộng, trẻ con có thể chạy nô
đùa trên thành miệng vạc. Đến nay vẫn còn 3 trụ đá kê chân vạc trước
sân chùa Phổ Minh.
Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ
XX, thời kỳ phục hưng:
Phật Giáo Việt Nam đã trải qua thời
cực thịnh nhất dưới hai triều đại Lý Trần, sang đến đời Hậu Lê rồi
Nguyễn Triều thì Phật Giáo phải nhường bước cho Nho giáo, lúc ấy đang
chiếm vai trò độc tôn.
Triều đại nhà Nguyễn truyền đến
đời vua Tự Đức thì mất chủ quyền, nước ta rơi vào vòng đô hộ của
Pháp. Phật Giáo Việt Nam vốn đã suy vi nay lại điêu tàn hơn. Trong bối cảnh
đó, Ky Tô giáo đã du nhập vào Việt Nam và dân tộc Việt Nam lại tiếp
nhận thêm một tôn giáo mới của phương Tây. Tuy tinh thần khai phóng dung
hợp của Phật Giáo suốt mấy thế kỷ qua không còn được thể hiện
trong chính sách quốc gia, văn hóa và xã hội vào thế kỷ XX nhưng Phật Giáo
vẫn là tôn giáo chính của dân tộc, đóng vai trò hòa giải giữa các thế
lực tranh chấp, góp phần xây dựng tinh thần dân tộc, bảo vệ nền độc
lập của quốc gia.
Vào khoảng những năm 1920-1930,
trong không khí tưng bừng của phong trào chấn hưng Phật Giáo trên thế giới,
đặt biệt ở Nhật Bản, Trung Hoa, Ấn Độ và Miến Điện, một số tăng
sĩ và cư sĩ đã phát động phong trào chấn hưng Phật Giáo tại Việt Nam,
từ đó đưa đến sự thành lập Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam tại miền
Bắc vào năm 1934 đặt trụ sở tại chùa Quán Sứ, và xuất bản tạp chí
Đuốc Tuệ. Ở miền Trung, Hội An Nam Phật Học cũng ra mắt tại chùa Từ
Đàm và cho xuất bản tạp chí Viên Âm vào 1934, đặt biệt hội đã mở
các Phật Học Viện cho tăng chúng tu học như phật học đường Báo Quốc
và Kim Sơn, Trúc Lâm và Tây Thiên. Ở Bình Định có hội Phật Học Bình
Định, ở Đà Nẵng có hội Phật Học Đà Thanh, ra tạp chí Tam Bảo. Tại
miền Nam, năm 1920, Hội Lục Hòa được thành lập để đoàn kết và vận
động phong trào chấn hưng Phật Giáo. Hội nghiên cứu Phật Học Nam Kỳ
ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn; xuất bản tạp chí Từ Bi Âm
(1932). Năm 1933 Liên Đoàn Học Xã ra đời. Năm 1034, hội Phật Học Lưỡng
Xuyên ra đời, xuất bản tạp chí Du Tân Phật học và mở Phật Học đường
Lưỡng Xuyên.
Nhờ phong trào chấn hưng Phật Giáo
này mà đội ngũ tăng ni được đào tạo qua nhiều trường lớp và phát
triển nhiều ở các tỉnh. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nhất là
hệ thống chùa phật học ở các thành thị. Nhiều ngôi chùa ở làng xã
được trùng tu và có chư tăng ni trụ trì. Bên cạnh đó, trong thời kỳ
này, có nhiều hệ phái, tôn phái phật giáo ra đời, như giáo phái Khất Sĩ
Việt Nam, Thiên Thai Giáo Quán Tông, Phật Giáo Hoa Tông ..Một yêu cầu thống
nhất Phật Giáo được đặt ta tại Huế, đưa đến việc thành lập Tổng
Hội Phật Giáo Việt Nam đặt trụ sở tại chùa Từ Đàm Huế, hội chủ
là Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, đây là một tổ chức thống nhất Phật
Giáo ba miền Nam, Trung, Bắc, đồng thời vạch ra một con đường dân tộc
nhân bản, hướng dẫn bước đi Phật Giáo vào môi trường tư tưởng và
văn hóa, tiếp tục xây dựng con người và xã hội Việt Nam. Điểm đặc
sắc của Phật Giáo Việt Nam trong thế kỷ XX là sự kết hợp của hai
giáo phái Nam Tông và Bắc Tông vào năm 1964 để thành lập Giáo Hội Phật
Giáo Việt Nam Thống Nhất. Giáo Hội này hoạt động cho đến năm 1981 thì
ngưng hoạt động trong nước, nhưng có văn phòng hai Viện Hóa Đạo đặt
tại tiểu bang California, Hoa Kỳ, hoạt động rất mạnh.
Đến tháng mười một năm một nghìn
chín trăm tám mốt, sau sáu năm đất nước thay đổi thể chế, một hội
nghị với 165 đại biểu của chín tổ chức giáo hội hệ phái cả nước
đã họp tại chùa Quán Sứ Hà Nội đưa đến việc thành lập Giáo Hội
Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng Thích Đức Nhuận làm pháp Chủ Hội Đồng
Chứng Minh Trung Ương, Hòa Thượng Thích Trí Thủ làm chủ tịch Hội Đồng
Trị Sự Trung Ương. Giáo hội đặt văn phòng I tại chùa Quán Sứ Hà Nội,
văn phỏng II tại chùa Xá Lợi (12) thành phố Hồ Chí Minh.
III. THỐNG KÊ MỘT SỐ THÀNH
QUẢ CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM:
Từ khi du nhập cho đến nay, Phật
Giáo Việt Nam đã trải qua bao thăng trầm, lúc thịnh lúc suy, có lúc thống
nhất, có lúc phân tán, do nhiều nguyên nhân khác nhau, từ đây Phật Giáo
Việt Nam đã được thống nhất từ Bắc chí Nam. Các hệ phái phật giáo
vẫn được bảo lưu, nét đặc trưng trong pháp môn tu hành vẫn được tôn
trọng, hệ thống chùa chiền, tăng ni đã được thống kê, quản lý thống
nhất. Theo số thống kê được công bố trong hội nghị thường niên của
Giáo Hội Phật giáo Việt Nam (13) thì số tự viện Phật Giáo và số tăng
ni mà giáo hội đã thống kê được (14) là 14.303 ngôi tự viện, trong đó
gồm 13.312 tự viện Bắc tông, 469 tự viện Nam tông nguyên thủy và Khmer,
142 tịnh xá khất sĩ, 95 tịnh thất và 185 niệm Phật đường. Về tăng ni
thì có 26.268 vị, có ba Học Viện Phật Giáo, một Trường cao đẳng chuyên
khoa phật học, 30 trường cơ bản phật học, một Trường đào tạo đội
ngũ giảng viên hoằng pháp. Ngoài ra giáo hội Phật giáo Việt Nam đã
thành lập được Viện Nghiên Cứu Phật Học tại thành phố Hồ Chí Minh
và phân viện nghiên cứu tại thủ đô Hà Nội. Và đặc biệt là hội đồng
phiên dịch và ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam cũng đã được thành lập,
tính đến nay hội đồng đã phiên dịch ấn hành 30 tập kinh được dịch
từ chữ Hán và chữ Pali, đây là một thành quả đáng kể của Phật
giáo Việt Nam. Vì đây là lần đầu trong lịch sử Phật giáo Việt Nam người
Phật tử trong xứ sở này có được một bộ đại tạng kinh bằng tiếng
Việt.
| Mục lục | Phần A | Phần B | Phần C |