- PHẬT GIÁO TẠI VIỆT NAM
- Thích Nguyên Tạng
PHẦN B
ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO
TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI VIỆT
I. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO VỀ
MẶT TƯ TƯỞNG VÀ ĐẠO LÝ
1. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt tư tưởng.
2. Ảnh hưởng Phật giáo về mặt đạo lý.
II. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
VĂN HÓA VIỆT
1. Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tín ngưỡng
truyền thống.
2. Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tôn
giáo khác.
3. Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các tông
phái
4. Ảnh hưởng Phật giáo qua sự dung hòa với các quan hệ
chính trị xã hội.
5. Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống người bình
dân và giới trí thức.
III. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO QUA GỐC ĐỘ NHÂN VĂN
VÀ XÃ HỘI
1. Ảnh hưởng Phật giáo qua ngôn ngữ.
2. Ảnh hưởng Phật giáo qua ca dao và thơ ca
3. Ảnh hưởng Phật giáo qua các tác phẩm văn học.
4. Ảnh hưởng Phật giáo qua phong tục tập quán.
IV. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO QUA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ
THUẬT
1. Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật sân khấu.
2. Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ thuật tạo hình.
I. Ảnh hưởng Phật giáo
về mặt tư tưởng triết học và đạo lý:
Như đã trình bày ở phần A, ta thấy
rằng Đạo Phật đã du nhập vào Việt Nam từ những kỷ nguyên Tây lịch,
rồi tồn tại, phát triển và chan hòa với dân tộc này cho đến tận hôm
nay. Nếu thời gian là thước đo của chân lý thì với bề dày lịch sử
đó, Đạo Phật đã khẳng định chân giá trị của nó trên mãnh đất này.
Trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa chính trị đặt biệt là xét trên
khía cạnh hệ thống tư tưởng, thì Đạo Phật đã trực tiếp hoặc gián
tiếp góp phần hình thành một quan niệm sống và sinh hoạt cho con người
Việt Nam. Trong phần này sẽ tìm hiểu về tư tưởng, đạo lý của Phật
Giáo đã tác động đến con người Việt Nam như thế nào và người Việt
Nam đã tiếp thu những tư tưởng, đạo lý của Phật Giáo ra sao.
1.Về tư tưởng:
Tư tưởng hay đạo lý căn bản của
Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo
lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo, nguyên thủy cũng
như Đại Thừa đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt.
Đạo lý Duyên Khởi là một cái
nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện tại. Duyên khởi nghĩa là
sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những các sự kiện
thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những
hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng
theo luật duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại. Có 4 loại
duyên cần được phân biệt: thứ nhất là Nhân Duyên. Có thể gọi là điều
kiện gần gũi nhất, như hạt lúa là nhân duyên của cây lúa. Thứ hai là
Tăng Thượng Duyên tức là những điều kiện có tư liệu cho nhân duyên
ví như phân bón và nước là tăng thượng duyên cho hạt lúa. Thứ ba là Sở
Duyên Duyên tức là những điều kiện làm đối tượng nhận thức, thứ
tư là Đẳng Vô Gián Duyên tức là sự liên tục không gián đoạn, cần
thiết cho sự phát sinh trưởng thành và tồn tại.
Luật nhân quả cần được quán
sát và áp dụng theo nguyên tắc duyên sinh mới có thể gọi là luật nhân
quả của Đạo Phật, theo đạo lý duyên sinh, một nhân đơn độc không
bao giờ có khả năng sinh ra quả, và một nhân bao giờ cũng đóng vai trò
quả, cho một nhân khác. Về giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của
Đạo Phật đã được truyền vào nước ta rất sớm. Giáo lý này đương
nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với
người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn
ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm
của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn
ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều
ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã
in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ
hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi
sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt
đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Thậm chí trẻ con mười tuổi
cũng tự nhiên biết câu: "ác giả ác báo". Chúng phát biểu câu rất
đúng hoàn cảnh sự việc xảy ra cho đối phương, hay "chạy trời không
khỏi nắng". Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định
nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải
ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy
ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp
khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh
để chuyển hóa dần ác nghiệp kia. Nguyễn Du đã thể hiện ý này trong
truyện Kiều rằng:
Cho hay muôn sự tại trời
Trời kia đã bắt làm người có
thân
Bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh
cao
Hoặc:
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan
Nếu ta nắm vững nguyên tắc
nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp ngay
trong hiện kiếp. Cái đích của việc chuyển nghiệp, tái tạo cá nhân là
đến được trí tuệ tối hậu. Khởi đầu của việc chuyển nghiệp là bắt
đầu thay đổi hành nghiệp thiện và ác từ ba nghiệp Thân, Khẩu và Y của
chính mỗi cá nhân. Chứ không ngồi một chỗ tưởng tượng đến những kết
quả tốt đẹp sẽ đến với mìn. Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt
điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống
yên vui cho hiện tại và mai sau.
2.Về đạo lý:
Đạo lý ảnh hưởng nhất là giáo
lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của phật giáo đã ảnh hưởng và
thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của người Việt. Đều này ta thấy
rõ qua con người và tư tưởng của Nguyễn Trải (1380-1442), một nhà văn,
nhà chính trị, nhà tư tưởng việt Nam kiệt xuất, ông đã khéo vận dụng
đạo lý Từ Bi và biến nó thành đường lối chính trị nhân bản đem lại
thành công và rất nổi tiếng trong lịch sử nước Việt. Ông nói điều
đó trong Bình Ngô Đại Cáo rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Bằng cách:
Lấy đại nghĩa để thắng hung tàn
Đem chí nhân để thay cường bạo
Cho nên khi đại thắng quân xâm lược,
đối với tù binh nhà Minh, chúng ta không những không giết hại mà còn cấp
cho thuyền bè, lương thực để họ về nước.
Thần vũ chẳng giết hại
Thuận lòng trời ta mở đất hiều
sinh
Tinh thần thương người như thể
thương thân này đã biến thành ca dao tục ngữ rất phổ biến trong quần
chúng Việt Nam như "lá lành đùm lá rách", hay
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải
thương nhau cùng
Đó là những câu ca dao, tục ngữ
mà bất cứ người Việt Nam nào cũng điều thấm nhuần và thuộc nằm
lòng, nói lên lòng nhân ái vị tha của dân tộc Việt Nam.
Ngoài đạo lý Từ Bi, người Việt
còn chịu ảnh hưởng sâu sắc một đạo lý khác của đạo phật là đạo
lý Tứ Ân, gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân chúng sanh.
Đạo lý này được xây dựng theo một trình tự phù hợp với bước phát
triển của tâm lý về tình cảm của dân tộc Việt. Tình thương ở mọi
người bắt đầu từ thân đến xa, từ tình thương cha mẹ, họ hàng lan dần
đến tình thương trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào
quê hương đất nước và mở rộng đến quê hương cao cả đối với cuộc
sống của nhân loại trên vũ trụ này. Đặc biệt trong đạo lý tứ ân,
ta thấy ân cha mẹ là nổi bật và ảnh hưởng rất sâu đậm trong tình cảm
và đạo lý của người Việt. Vì đạo phật rất chú trọng đến hiếu hạnh,
và được Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này trong nhiều kinh khác
nhau như Kinh Báo Phụ Mẫu Ân, kinh Thai Cốt, kinh Hiếu Tử, kinh Đại Tập,
kinh Nhẫn Nhục, kinh Vu Lan.. nhắc đến công lao dưỡng dục của cha mẹ,
Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn công ơn nuôi dưỡng
lớn lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng
tốt điều thiện không gì hơn hiếu, cùng tốt điều ác không gì hơn bất
hiếu". Bởi Phật Giáo đặc biệt chú trọng chữ hiếu như thế nên
thích hợp với nếp sống đạo lý truyền thống của dân tộc Việt.
Nhìn chung, đạo lý hiếu ân
trong ý nghĩa mở rộng có cùng một đối tượng thực hiện là nhắm vào
người thân, cha mẹ, đất nước, nhân dân , chúng sanh, vũ trụ, đó là
môi trường sống của chúng sanh gồm cả mặt tâm linh nữa. Đạo lý Tứ
Ân còn có chung cái động cơ thúc đẩy là Từ Bi, Hỷ Xã khiến cho ta sống
hài hòa với xã hội, với thiên nhiên để tiến đến hạnh phúc chân thực
và miên trường. Từ cơ sở tư tưởng triết học và đạo lý trên đã
giúp cho Phật Giáo Việt Nam hình thành được một bản sắc đặc thù rất
riêng biệt của nó tại Việt Nam, góp phần làm phong phú và đa dạng hóa
nền văn hóa tinh thần của dân tộc Việt.
II. Ảnh hưởng Phật Giáo
qua quá trình hội nhập văn hóa Việt Nam
Phật Pháp là bất định pháp,
luôn luôn uyển chuyển theo hoàn cảnh và căn cơ của chúng sanh để hoàn
thành sứ mạng cứu khổ của mình. Với tinh thần nhập thế tùy duyên bất
biến mà Đạo Phật đã tạo cho mình một sức sống vô biên, vượt qua những
ngăn cách của địa lý, văn hóa, tôn giáo, ý thức hệ, thời gian ,không
gian…. Tinh thần tuỳ duyên là tự thay đổi với hoàn cảnh để có thể
tiếp độ chúng sanh, tính bất biến là giải thoát ra khỏi mọi đau khổ,
sinh tử luân hồi. Tuy nhiên Phật Giáo vẫn luôn luôn hòa nhập với tất cả
các truyền thống văn hóa tín ngưỡng của các nước trên thế giới. Khi
du nhập vào một quốc gia có một sắc thái sống riêng biệt, đặc thù,
như Trung Hoa, một quốc gia có nền tư tưởng đông phương khổng lồ, khi
Phật Giáo truyền vào thì nền văn minh này đã phát triển tới đỉnh cao
của nó, mà trong lịch sử triết học gọi là Bách Gia Chu Tử (15), hàng trăm
nhà tư tương đề xướng học thuyết của mình. Nếu lúc đó Trung Hoa có
10 nhà tư tưởng tiêu biểu như Âm Dương gia, Nhạc gia, Nho gia, Pháp gia,
Danh gia, Đạo Đức gia, Nông gia, Tiểu Thuyết gia ..thì Phật Giáo không dừng
lại cái bình bát đi khất thực, một tấm y vàng mà Phật Giáo đã đi vào
cuộc đời bằng mười tông phái như Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, Hoa
Nghiêm Tông, thành Thật Tông, Câu Xá Tông.. Phật Giáo với mười tông
phái này sánh vai với mười dòng tư tưởng của bản địa để đi vào cuộc
đời, không chỉ đến với những giới bình dân mà Phật Giáo còn đã đi
thẳng vào cung đình, vào với những vị nguyên thủ quốc gia (16). Ở Nhật
Bản thì sao? Nhật Bản là một quốc gia được xem là có nhều món ăn
tinh thần nhất trên thế giới. Không phải chỉ là khoái cảm cho vị
giác, cho thính giác mà nhất là cho cảm giác của tâm linh. Ở trong bối cảnh
đó, Phật Giáo đã nhanh chóng đi vào hoa, vào trà để rối cuối cùng
nâng nó lên thành một tôn giáo. trà đạo hay hoa đạo. Còn ở Việt Nam của
chúng ta thì như thế nào? Trong quá trình hội nhập văn hóa sự ảnh hưởng
của Phật Giáo đã tác động và đã tạo cho Phật Giáo Việt Nam có những
nét đặc thù sau đây:
1.Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự
dung hòa với các tín ngưỡng truyền thống:
Khi được truyền vào Việt Nam, Phật
Giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp
chặt chẽ với các tín ngưỡng này. Biểu tượng chùa Tứ Pháp (17) thực
ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên
Mây, Mưa, Sấm, Chớp và thờ Đá. Lối kiến trúc của chùa chiền Việt
Nam là tiền Phật hậu Thần cùng với việc thờ trong chùa các vị thần,
các vị thánh, các vị thành hoàng thổ địa và vị anh hùng dân tộc..
Chính vì tinh thần khai phóng này mà về sau phát sinh những hậu quả mê
tín dị đoan bên trong Phật Giáo như xin xăm, bói quẻ, cầu đồng.. các
nhà nghiên cứu nước ngoài rất ngạc nhiên khi thấy Phật Giáo Việt Nam
dung nạp dễ dàng các tín ngưỡng đa thần của bản địa trong khi các quốc
gia trong vùng thì không có (19). Có nên gạt bỏ loại hình tín ngưỡng truyền
thống này ra khỏi Phật Giáo không? Vẫn là một vấn đề rất tế nhị,
tuy nhiên, ta phải thừa nhận rằng tinh thần dung hòa và khai phóng của Phật
Giáo Việt Nam là một trong những nét đặc trưng đáng chú ý.
2. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự
dung hòa với các tôn giáo khác:
Đó là kết quả của sự phối hợp
và kết tinh của Đạo Phật với đạo Nho và đạo Lão, được các nhà
vua thời Lý công khai hóa và hợp pháp hóa. Chính vì đặc tính dung hòa và
điều hợp này mà Phật Giáo Việt Nam đã trở thành tín ngưởng truyền
thống của dân tộc Việt. Nó chẳng phải Phật giáo Ấn Độ hay Trung Hoa,
Tiểu Thừa hay Đại Thừa, mà nó là tất cả những khuynh hướng tâm linh
của người dân Việt. Nó thực ra là cái "Đồng Qui Nhi Thù Đồ",
cùng về một đích mà đường lối khác nhau, chính tinh thần khai phóng của
Phật Giáo Việt Nam đã kết tinh lấy Chân, Thiện, Mỹ làm cứu cánh để
thực hiện. Nho giáo thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Thiện, tức
là hành vi đạo đức để tới chỗ nhất quán với Mỹ và Chân. Đạo giáo
thực hiện cứu cánh ấy bằng con đường Mỹ, tức là tâm lý nghệ thuật
để tới chỗ nhất quán với Thiện và Chân. Phật giáo thực hiện cứu
cánh ấy bằng con đường trí tuệ giác ngộ để đạt tới chỗ nhất quán
Chân, Thiện, Mỹ. Đó là thực tại Tam Vi Nhất của tinh thần tam Giáo Việt
Nam. Trong nhiều thế kỷ hình ảnh tam giáo tổ sư với Phật Thích Ca ở giữa,
Lão Tử bên trái và Khổng Tử bên phái đã in sâu vào tâm thức của người
dân Việt.
3. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự
dung hòa giữa các tông phái Phật Giáo:
Đây là một nét đặc trưng rất
riêng biệt của Phật Giáo Việt Nam so với các quốc gia Phật Giáo láng giềng.
Chẳng hạn như Thái Lan, Tích Lan, Lào, Campuchia chỉ có Phật Giáo Nam Tông,
ở Tây Tạng, Trung Hoa, Nhật Bản, Mông Cổ thuần tuý chỉ có Phật Giáo Bắc
Tông. Nhưng ở Việt Nam thì lại dung hòa và điều hợp cả Nam Tông và Bắc
Tông. Chính vì tinh thần khế lý khế cơ của Phật Giáo cộng với tinh thần
khai phóng của Phật Giáo Việt Nam mới có được kết quả như vậy. Tuy
thiền tông chủ trương bất lập văn tự, song ở Việt Nam chính các vị
thiền sư xưa lẫn nay đã để lại rất nhiều trước tác có giá trị, đặc
biệt các thiền viện ở Việt nam điều tụng kinh gõ mõ như các tự viện
Tông Tịnh Độ. Dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi thì kết hợp với Mật Giáo,
có nhiều thiền sư phái này như ngài Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn
Minh Không điều nổi tiếng là giỏi phép thuật trong việc trừ tà, chữa
bệnh.
Điều đặc sắc ở đây là trong
khi khai triển Phật Giáo Việt Nam, các thiền sư Việt Nam đã không theo thiền
kiểu mẫu của các thiền sư Ấn Độ và Trung Hoa mà mở lấy một con đường
riêng, phù hợp với dân tộc. Và trong khi tiếp nhận với hai luồng ảnh hưởng
ấy, các thiền sư Việt Nam đã khéo léo điều chỉnh tính hai cực, Ấn Độ-Trung
Hoa: một bên thì quá ham chuộng sự bay bổng, thần bí, một bên quá thực
tiễn duy lý. Khi Phật Giáo vào Trung Hoa đã gây cho các nhà Phật học những
cuộc tranh luận sôi nổi về giáo pháp. Rồi suốt cả quá trình lịch sử
của nó là sự phái sinh ra những tôn giáo, là những cuộc đấu tranh tư
tưởng dữ dội, điển hình là cuộc đấu tranh giữa phái Thiền Nam Phương
của Huệ Năng với Thiền Phái Miền Bắc của Thần Tú vào thời kỳ sơ
đường. Còn ở Việt Nam thì khác, trên pháp đàn tư tưởng thời Lý cũng
như thời Trần, thời kỳ vàng son của Phật Giáo Việt Nam và các thời kỳ
sau này không có những mâu thuẩn đối lập mà tất cả điều quy về một
mục đích chính là tu hành giải thoát. Phải chăng sự thống nhất về ý
thức tư tưởng, dung hòa giữa các tông phái và đoàn kết dân tộc đã uốn
nắn Phật Giáo Việt Nam theo con đường dung hòa thống nhất đó?
4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua sự
dung hòa với các thế hệ chính trị xã hội:
Phật giáo tuy là một tôn giáo xuất
thế, nhưng Phật Giáo Việt Nam có chủ trương nhập thế, tinh thần nhập
thế sinh động này nổi bật nhất là các thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Trong
các thời này các vị cao tăng có học thức, có giới hạnh điều được
mời tham gia triều chính hoặc làm cố vấn trong những việc quan trọng của
quốc gia. Ta thấy có nhiều lý do khiến các thiền sư Việt Nam tham gia vào
chính sự, thứ nhất: họ là những người có học, có ý thức về quốc
gia, sống gần gũi nên thấu hiểu được nổi đau khổ của một dân tộc
bị nhiều cuộc đô hộ của ngoại bang. Thứ hai: các thiền sư không có
ý tranh ngôi vị ngoài đời nên được các vua tin tưởng và thứ ba: các
thiền sư không cố chấp vào thuyết trung quân (chỉ biết giúp vua mà
thôi) như các nho gia nên họ có thể cộng tác với bất cứ vị vua mào
đem lại hạnh phúc cho dân chúng. Thời vua Đinh Tiên Hoàng đã phong cho thiền
sư Ngô Chân Lưu làm Tăng Thống, thời Tiền Lê có ngài Vạn Hạnh, ngài Đỗ
Pháp Thuận, ngài Khuông Việt cũng tham gia triều chính. Trong đó đặc biệt
thiền sư Vạn Hạnh đã có công xây dựng triều đại nhà Lý khi đưa Lý
Công Uẩn lên làm vua, chấm dứt chế độ tàn bạo của Lê Long Đỉnh,
ông vua Ngọa Triều còn có biệt danh kẻ róc mía trên đầu sư. Thời nhà
Trần có các thiền sư Đa Bảo, thiền sư Viên Thông.. điều được các
vua tin dùng trong bàn bạc quốc sự như những cố vấn triều đình.
Đến thế kỷ 20, phật tử Việt
Nam rất hăng hái tham gia các hoạt động xã hội như cuộc vận động đòi
ân xá cho Phan Bội Châu. Đến thời Diệm, Thiệu (1959-1975) cũng thế, các
tăng sĩ và cư sĩ miền Nam tham gia tích cực cho phong trào đấu tranh đòi
hòa bình và độc lâp cho dân tộc, nổi bật là những cuộc đối thoại
chính trị giữa các tăng sĩ Phật Giáo và chính quyền. Đến cuối thế kỷ
20, ta thấy tinh thần nhập thế này cũng không ngừng phát huy, đó là sự
có mặt của các thiền sư Việt Nam (20) trong quốc hội của nước nhà.
5. Ảnh hưởng Phật Giáo trong
đời sống người bình dân và giới trí thức Việt Nam:
Cũng như tất cả dân tộc nào
trên thế giới từ Đông sang Tây, từ Nam đến Bắc, lúc sơ khởi người
Việt Nam tín ngưỡng và tôn thờ tất cả những sức mạnh hữu hình hay
vô hình mà họ cho là có thể giúp đỡ họ hoặc làm hại đến họ như mây,
mưa, sấm, sét, lửa, gió.. Trong bối cảnh tín ngưỡng đa thần này, Phật
Giáo đã xuất hiện và nhanh chóng quá thân qua hình ảnh của bộ tượng Tứ
Pháp ở chùa Dâu, ngôi chùa Phật Giáo đầu tiên của Việt Nam ở Luy Lâu
(Hà Bắc ngày nay), đó là bộ tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi và Pháp
Điễn, một hình ảnh sống động và gần gũi với người dân nông thôn
trong việc cầu xin phước lộc, cầu đảo, cầu siêu, cầu xin tất cả荊 những gì mà cuộc
sống con người đòi hỏi. Người Phật tử trong thời kỳ sơ khai này quan
niệm rằng Phật là đấng cứu thế, có thể ban cho con người mọi điều
tốt lành.
Trong buổi đầu của Phật Giáo ở
Việt Nam mang dáng dấp của Phật Giáo Tiểu Thừa và Mật Giáo, vì vậy đã
dễ dàng gắn với phù chú, cầu xin phước lộc hơn là tôi luyện trí tuệ
và thiền định. Vả lại, tính đời trội hơn tính đạo, trong quần chúng
đa số là phụ nữ đến với Phật Giáo, đó là hạng người đau khổ nhất
trong xã hội cũ.
Đến thời nhà Lý, có nhiều thiền
sư từ Trung Quốc sang và thiết lập nhiều thiền phái, phong trào học và
tu phật phát triển mạnh ở trong giới trí thức, cung đình, đô thị, nhưng
trong giới bình dân vẫn tồn tại nhất định một Phật Giáo dân gian với
những ảnh hưởng cảm tính vốn có từ trước. Được vua triều Lý, Trần
ủng hộ, hoạt động của Phật Giáo có mặt ở khắp hang cùng ngõ hẻm,
làng nào cũng có chùa có tháp, người ta học chữ, học kinh, hội hè, biểu
diễn rối nước, họp chợ ngay ở trước chùa
Chùa làng đã từng một thời đóng
vai trò trung tâm văn hóa tinh thần của cộng đồng làng xã Việt Nam, chùa
không những là nơi giảng đạo cầu kinh, thờ cúng Phật mà còn là nơi hội
họp,. di dưỡng tinh thần, tham quan vãn cảnh. Bởi vì, kiến trúc của
chùa Việt Nam thường hòa hợp với cảnh trí thiên nhiên, tạo thành một
kiến trúc hài hòa với ngoại cảnh. Khung cảnh ấy phù hợp với những giờ
phút nghỉ ngơi sau giờ lao động nhọc nhằn và dinh dưỡng tinh thần của
tuổi già.
Đến thế kỷ mười lăm, Nho Giáo
thay chân Phật Giáo trong lãnh vực thượng tầng xã hội, Phật Giáo từ
giã cung đình nhưng vẫn vững vàng trong làng xã. Ngôi đình xuất hiện tiếp
thu một số kiến trúc và nghệ thuật Phật Giáo, đồng thời trở thành
trung tâm hành chính của làng xã⮍ Cửa chùa chỉ còn mở cửa cho đàn
bà, con gái kêu van,nguyện cầu khi chồng bị bắt phu, con bị bắt nợ, ốm
đau bệnh tật, mất mùa đói rét.. xin Phật gia hộ. Bồ Tát Quan Âm hay Phật
Bà được ưa chuộng hơn xưa. Nhờ vậy mà ngày nay chúng ta chiêm ngưỡng
được pho tượng Quan Âm nghìn tay nghìn mắt trong chùa Bút Tháp (tỉnh Hà
Bắc) tạc vào năm 1656. Tượng rất đẹp nhưng được tạo vào thời điểm
Phật Giáo không còn tôn sùng như quốc giáo nữa, chứng tỏ Phật Giáo đã
ăn sâu vào tâm tư và văn hóa nghê thuật dân gian.
Nhìn chung không khó khăn gì khi ta
phăng tìm dấu ấn Phật Giáo trong quan niệm dân gian và ta có thể phát hiện
rằng nếu không có sự hiện diện của Phật Giáo ở Việt Nam thì ta sẽ
mất đi hơn một nữa di tích và danh lam thắng cảnh mà hiện nay ta tự
hào, sẽ không có chùa Hương rộn ràng, nhộn nhịp sầm uất trong ngày trẩy
hội đầu xuân, không có chùa Tây Phương vời vợi, không có chùa Yên Tử
mây mù, không có chùa Keo bề thế, không có chùa Thiên Mụ soi mình trên
dòng sông Hương.Và cũng không có những chuyện dân gian đầy tính nhân bản
như truyện Từ Thức, truyện Tấm Cám, truyện Quan Âm Thị Kính…. Sẽ
không có những lễ hội tưng bừng như hội Lim, hội Chùa Hương…. và
trong tâm tư truyền thống cũng vắng tư tưởng bố thí vị tha, lòng hưởng
thiện và niềm tin vững chắc vào một tương lai sáng sủa, vắng tinh thần
lạc quan ngây thơ của người dân Việt.
Quả thật vậy, Đạo Phật đã có
mặt ảnh hưởng khắp mọi giai tầng trong ở xã hội Việt Nam, không những
trong giới bình dân mà còn ở trong giới trí thức nữa.
Phật Giáo thiền tông ở Việt Nam
phát triển mạnh và ảnh hưởng sâu rộng trong giới trí thức, cung đình
từ đinh (968-980), tiền Lê (980-1009) đến thời Lý (1010-1225) đã mang được
trong mình một tinh thần Việt Nam, đó là sự ra đời của một thiền phái
mới, phái Thảo Đường do Lý Thánh Tông một vị vua anh kiệt đứng đầu.
Nhưng thiền tông Việt Nam phát triển rực sáng nhất là ở giai đoạn nhà
Trần (1226-1400) với những tư tưởng vừa thăng trầm vừa phóng khoáng của
các thiền sư thời Trần đã được đúc kết trong các tác phẩm Khóa Hư
Lục của Trần Nhân Tông, Pháp Loa, Huyền Quang đã làm cho bình diện học
thuật Việt Nam lúc bấy giờ bổng bừng sáng hẳn lên. Đặc biệt sự xuất
hiện thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, do người Việt Nam sáng lập ra, thể hiện
được đầy đủ mọi đặc trưng, độc đáo của người Việt và nó đã
để lại dấu ấn đặc sắc trong lịch sử văn hóa Việt Nam cho tới ngày
nay.
Phật Giáo không những ảnh hưởng
trong đới sống của người bình dân và giới trí thức mà còn ảnh hưởng
qua gốc độ nhân văn và xã hội
III. Ảnh hưởng Phật Giáo
qua gốc độ nhân văn và xã hội :
Trong đời sống thường nhật
cũng như trong văn học Việt Nam ta thấy có nhiều từ ngữ chịu ảnh hưởng
ít nhiều của Phật Giáo được nhiều người dùng đến kể cả những
người ít học. Tuy nhiên không phải ai cũng biết những từ ngữ này được
phát xuất từ Phật Giáo, chẳng hạn như khi ta thấy ai bị hoạn nạn,
đau khổ tỏ lòng thương xót, người ta bảo "tội nghiệp quá".
Hai chữ tội nghiệp là từ ngữ chuyên môn của Phật Giáo. Theo Đạo Phật
tội nghiệp là tội của nghiệp, do nghiệp tạo ra từ trước, dẫn tới
tai nạn hay sự cố hiện nay, theo giáo lý nhà Phật thì không có một hiện
tượng hay sự cố tai nạn nào xảy ra là ngẫu nhiên hay tình cờ, mà chỉ
là kết quả tập thành của nhiều nguyên nhân tạo ra từ trước. Những
nguyên đó (theo đạo Phật gọi đó là nhân duyên) khi chín mùi, thì đem lại
kết quả. Mọi người điều nói tội nghiệp nhưng không phải nhiều người
biết được đó là một từ ngữ nói lên một chủ thuyết rất căn bản
của Phật :"thuyết nhân quả báo ứng" thuyết này cũng đi sâu
vào nhận thức dân gian với những cách như "ở hiền gặp lành, gieo
gió gặp bão" hay là câu thơ bình dân:
Người trồng cây hạnh người
chơi
Ta trồng cây đức để đời mai
sau
Hoặc khi muốn diễn tả một vật
gì đó quá nhiều, người ta dùng danh từ "hằng hà sa số". Nếu hỏi
hằng hà sa số là cái gì chắn chắn ít ai hiểu chính xác, họ chỉ biết
đó là nói rất nhiều, bởi khi xưa Đức Phật thường thuyết pháp gần lưu
vực sông Hằng (Gange) ở Ấn Độ, cho nên khi cần mô tả một con số rất
nhiều, ngài thí dụ như số cát sông Hằng. Hoặc khi có những tiếng ồn
náo, người ta bảo "om sòm bát nhã", do khi đến chùa vào những
ngày sám hối, chùa thưởng chuyển những hồi trống bát nhã, nhân đó mà
phát sanh ra cụm từ trên. Lại có những người rày đây mai đó, ít khi dừng
chân ở một chổ, khi người ta hỏi anh đi dâu mãi, họ trả lời tôi đi
"ta bà thế giới". Ta bà thế giới là thế giới của Đức Phật
Thích Ca giáo hóa, theo thế giới quan của phật giáo thì thế giới ta bà
to gấp mấy lần quả địa cầu này, hoặc khi các bà nẹ Việt Nam la mắng
các con hay quậy phá, các bà nói: "chúng bay là đồ lục tặc", tuy
nhiên họ không biết từ lục tăc này phát xuất từ đâu? Đó là từ nhà
phật, chỉ cho sáu thằng giặc: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp của
ngoại cảnh luông luôn quấy nhiễu ta. Một từ ngữ có sâu xa như vậy,
nhưng khi Phật Giáo truyền bá vào Việt Nam đã bị Việt Nam hóa trở
thành lời mắng của các bà mẹ Việt Nam. Thiền sư Toàn Nhật đời Tây Sơn
trong cuốn Tam Giáo Nguyên Lưu Ký, có phát biểu rằng:
Và như sáu giặc trong mình,
Chẳng nên để nó tung hoành khuấy
ta (21)
Còn nghiều từ ngữ khác như từ
bi, hỷ xã, giác ngộ, sám hối đã được người dân Việt Nam quen dùng như
tiếng mẹ đẻ mà không chút ngượng ngập lạ lùng. Sự ảnh hưởng phật
giáo không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó còn lan rộng, ăn sâu vào những
ca dao dân ca và thơ ca của người dân Việt Nam nữa.
2. Ảnh hưởng phật giáo qua ca dao
và thơ ca
ca dao dân ca là một thể loại văn
vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian, được lưu truyền từ đời này
sang đời khác. Không ai biết rõ xuất xứ cũa những lời ca hát đó ở đâu,
chỉ biết rằng nó thường được thể hiện dưới hình thức câu hát ru
em, những câu hò đối đáp giữa các chàng trai cô gái tuổi đôi mươi hay
để kết thúc mỗi câu chuyện cổ tích mà các cụ già kể cho con cháu
nghe mang tính chất khuyên răng dạy bảo. Ca dao dân ca phổ biến dưới dạng
thơ lục bát bao gồm nhiều đề tài khác nhau, tư tưởng đạo lý của phật
giáo cũng thường được ông cha ta đề cập đến trong ca dao dân ca dưới
đề tài này hay khía cạnh khác để nhắc nhở, khuyên răng dạy bảo, với
mục đích xây dựng một cuộc sống an vui phù hợp với truyền thống đạo
đức của dân tộc Việt Nam.
Sự ảnh hưởng của ngôi
chùa:
Có thể nói trong tâm hồn của mỗi
con người Việt Nam đều có chứa đựng ít nhiều triết lý nhà phật và
những hình ảnh về ngôi chùa, về phật, trải qua hàng ngàn năm gắn bó mật
thiết với làng xã Việt Nam:
Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt
Đất vua, chùa làng là một hình
ảnh gần gũi với dân, với làng, vơí nước như vậy, nếu ai xúc phạm
đến chùa, phật thì cũng có thể hiểu là xúc phạm đến đạo lý, đến
quốc gia. Trên tinh thần đó người dân Việt Nam quyết một lòng bảo vệ
ngôi chùa quê hương của mình:
Bao giờ cạn nước Đồng Nai
Nát chùa Thiên Mụ mới sai lời
nguyền
Ở đâu có chùa, có phật, ở đó
là thắng cảnh, là niềm tự hào của quê hương:
Tây Ninh có núi Bà Đen
Có sông Vàm Cỏ, có toà Cao Sơn
Ở cố đô huế:
Đông Ba, Gia Hội hai cầu
Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông
Ở thành cổ Thăng Long:
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem câu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn
(22)
Cũng như nhiều dân tộc khác, người
Việt có nhiều lễ hội, mà lễ hội chùa là chiếm tỷ lệ cao hơn hết:
Nhớ ngày mùng bảy tháng ba
Trở về hội Láng, trở ra hội Thầy
AṠngày mùng sáu tháng ba
Ăn cơm với cà đi hội của Chùa
Tây (Chùa Tây phương).
Dù ai đi đâu về đâu
Hể trông thấy tháp chùa Dâu thì về
Dù ai buôn bán trăm nghề
Nhớ ngày mồng tám thì về hội
Dâu
Dù cho cha mẹ đánh treo
Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm
Về sự ảnh hưởng của tiếng chuông
chùa:
Dân gian Việt Nam vốn có cách định
thời gian bằng đêm năm canh, ngày sáu khắc hoặc bằng tiếng gà, tiếng
chim nhưng thường khi lại là tiếng chuông, tiếng trống của chùa:
Gió đưa càng trúc la đà
Tiếng chuông linh Mụ canh gà thọ Xương
Trên chùa đã động tiếng chuông
Gà Thọ Xương đã gáy, chim trên
nguồn đã kêu
Hoặc: Chiều chiều bìm bịp giao
canh
Trống chùa đã đánh sao anh chưa vế
Về sự ảnh hưởng quan niệm hiếu
hạnh:
Là người Việt Nam không thể
không hiếu kính cha mẹ, niềm tri ơn và báo ơn ấy đã trở thành bản
tính tự nhiên, ăn sâu vào tâm khảm của người dân Việt. Tinh hoa và tinh
thần cao đẹp này không phải tự nhiên mà có, mà chính là nhờ ảnh hưởng
của cả một nền giáo dục, một tổ chức văn hóa từ ngàn xưa để lại,
tương xứng với tư tưởng và phong tục của dân tộc Việt. Trong tất cả
những ảnh hưởng, lớn nhất và sâu rộng nhất cũng vẫn là sự ảnh hưởng
của đạo phật, một tôn giáo, một nền giáo dục đã có mặt với dân tộc
từ buổi đầu của công nguyên, mà đạo phật là đạo hiếu, lời dạy của
phật về việc nhớ ơn và báo ơn cha mẹ là những cảm giác suy tư in đậm
trong lòng của người Việt, và đã thể hiện linh động và triền miên
ngang qua ca dao dân ca, mà chúng ta thấy tràn ngập khắp dân gian Việt Nam:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo
con
Hay Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín giữa ghi lòng con ơi
Mến cảnh chùa chiền, phật tượng,
nhưng hiếu hạnh của người con vẫn đặt lên trên vì công ơn trời biển
của cha mẹ trong suốt quá trình dưỡng dục sinh thành, biết bao nhọ nhằn,
gian khổ đối với con. Do đó:
Vô chùa thấy phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đành.
Cũng vì thương kính cha mẹ, nên người
con luôn luôn cầu nguyện phật trời gia hộ cho hai đấng từ thân:
Đêm đêm khấn nguyện phật trời
Cầu cho cha mẹ sống đời với con
Thực ra, hiếu tâm tức thị phật
tâm, hiếu hạnh vô phi phật hạnh, làm tròn bổn phận cùa người con đối
với cha mẹ chính là một trong những pháp tu của nhà phật:
Tu đâu mà bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu
Hoặc Đi về lập miếu thờ vua
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ
cha
Về sự ảnh hưởng quan niệm nhân
quả:
Người Việt Nam thường nhắn nhủ
nhau chớ có vì danh lợi phù hoa, làm ác hại người để rồi chuốc lấy
đau khổ. Hãy ăn ở cho lương thiện rồi thế nào cũng gặp điều tốt lành,
may mắn và hạnh phúc:
Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp đề dành kiếp
sau.
Các bậc cha mẹ lại càng tu nhân
tích đức cho con cháu về sau được nhờ:
Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho
con.
Ngang qua các câu ca dao của Việt
Nam về hình ảnh của ngôi chùa, về quan niệm hiếu hạnh, quan niệm nhân
quả, ta thấy sự ảnh hưởng của phật giáo đã ăn sâu vào đời sống của
dân tộc Việt Nam. Sự ảnh hưởng sâu sắc đó không thể hiện qua ca dao
bình dân mà còn chiếm nhiều trong loại hình thơ ca, văn vần, văn xuôi,
nói chung là văn chương bác học trong nền văn học Việt Nam.
3. Ảnh hưởng phật giáo qua
các tác phẩm văn học:
Bên cạnh ca dao bình dân, trong các
tác phẩm văn học của các nhà thơ, nhà văn chúng ta cũng thấy có nhiều
bài thơ, tác phẩm chịu ảnh hưởng nhiều hay ít của phật giáo. Ở đây
chúng ta không đề cập đến dòng văn học chính thống của phật giáo, tức
là tác phẩm do các thiền sư sáng tác trong quá trình tu tập của mình, mà
chỉ nói đến các thơ văn Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của triết lý
phật giáo mà thôi. Cái ảnh hưởng đó có ngay từ khi phật giáo du nhập
vào nước Việt, nghĩa là khi chữ Hán còn thịnh hành, nhưng để thấy rõ
ràng hơn, ta chỉ đề cập đến sự ảnh hưởng của phật giáo trong thơ
văn từ khi người Việt Nam đã viết chữ Nôm, chữ Việt thành thạo nghĩa
là bắt đầu thừ thế kỷ thứ 18 trở về sau.
Tác phẩm chữ nôm nổi tiếng trong
thế kỷ thứ mười tám là Cung Oán Ngâm Khúc của nhà thơ Việt Nam Nguyễn
Gia thiều (1741-1798), tác phẩm viết bằng thơ nôm. Thể song thất lục
bát, dài 356 câu, là khúc ngâm của người cung nữ bị vua ruồng bỏ, oán
than về thân phận mình. Nội dung tác phẩm chịu nhiều ảnh hưởng của
phật giáo, nhất là triết lý ba pháp ấn Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Khi diễn
tả thân phận con người vốn khổ đau và mang tính vô thường, ông viết:
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến
mê.
Theo cái nhìn của phật giáo, khi
mô tả nỗi khổ chúng sanh thường được dùng ẩn dụ như khỗ ải (bể
khổ). Cái khổ ấy từ đâu mà có, vốn từ chỗ lầm chấp, vô minh của
con người mà có, từ chỗ mê lầm ấy mà được hình dung bằng mê tân (bến
mê), Như thế danh từ bể khổ của phật giáo đã giúp ông Nguyễn Gia Thiều
diễn tả thấu đáo nỗi khổ đau của kiếp người, cái khổ đau ấy, cái
vô thường ấy không những chi phối ở con người mà còn ở cả cây cỏ,
hoa, lá, thế giới vô tình, tất cả chịu chung qui luật khắc nghiệt ấy:
Tiêu điều nhân sự đã xong
Sơn hà cũng ảo, côn trùng cũng hư
Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ
Quán tu phong đứng rũ tà huy
Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
Tuồng ải hóa đã bầy ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà dau
Trăm năm còn có gì đây
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh
rì
Con người và vạn vật đã vô thường
và đau khổ như thế, còn gì nữa để đắp chấp, chạy theo nó mà không
tìm một con đường giải thoát khỏi vòng lẫn quẩn ấy? Ta hãy nghe Ôn Như
Hầu đưa ra giải pháp cuối cùng và quyết định:
Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật
Mối thất tình quyết dứt cho xong,
Đa mang chi nữa đèo bồng,
Vui vì thế sự mà mong nhân tình.
Lấy gió mát trăng thanh mà kết nghĩa,
Mượn hoa đàm, đuốc tuệ làm
duyên
Thoát trần một gót thiên nhiên
Cái thân ngoại vật là tiên trong
đời
Điểm qua một vài đoạn trong cung
oán ngân khúc, ta thấy Ôn Như Hầu đã dùng triết lý Tam Pháp Ấn để nhắc
nhở người đời. Tuy lời văn đượm màu tang thương và bi đát của con
người và cuộc đời, nhưng tất cả chúng ta phải thừa nhận rằng cung
oán ngâm khúc là tác phẩm đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc việt
đã sử dụng lối biểu diễn bằng cảm giác (23) mà trong đó tư tưởng
triết lý đạo phật đóng vai trò chủ đạo.
Qua thế kỷ thứ mười chín, với
thi hào Nguyễn Du (2765-1820) ta có được một án văn bất hủ là Truyện Kiều,
là một truyện thơ nôm viết bằng thể lục bát dựa theo tác phẩm Kim
Vân Truyện Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), gồm 3254 câu thơ. Đây
là một truyện thơ chịu nhiều ảnh hưởng của Phật Giáo, trong đó ta thấy
nổi bật nhất là thuyết về Khổ Đế, một phần quan trọng của giáo
lý Tứ Diệu Đế, kế đó là tinh thần về hiếu đạo và thuyết về
nhân quả và nghiệp báo. Điều đó có lý, vì lẽ chính Nguyễn Du đã tự
nhận mình là một phật tử và từng đọc Kinh Kim Cang Bát Nhã đến cả
ngàn lần.
Thật vậy, Đoạn Trường Tân Thanh
dường như chỉ là để chứng minh cho triết lý nhân quả của Phật Giáo.
Theo thuyết này, những điều họa phúc mà con người phải gánh chịu ở
kiếp này điều có nghiệp nhân ở kiếp trước, khi mới sinh ra ở đời
ta phải mang lấy cái nghiệp tức là cái kết quả của những vô minh ái dục
mà ta đã gây tạo từ trước, và cuộc đời của chúng ta sẽ hạnh phúc
hay đau khổ, tai họa hay may mắn đều tùy thuộc vào cái nghiệp thiện hay
ác, tốt hay xấu, nặng hay nhẹ mà chính mình đã gây tạo:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Thì đừng trách lẫn trời gần trời
xa
Nhưng theo Phật Giáo thì nghiệp
không phải là định nghiệp, là bất khả chuyển, cho nên ông mới tự
tin:
Sư rằng phúc họa đạo trời
Cội nguồn cũng bởi lòng người mà
ra
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan
Trong đoạn trường tân thanh nàng
Kiều phải mang một cái nghiệp rất nặng. Vì cái nghiệp ấy mà người
con gái đầu xanh chưa tội tình gì mới bước chân vào cuộc đời đã gặp
biết bao khổ luyﺠcha và em trai bị tù tội, mối tình đầu tan vỡ, và bắt
đầu từ đó nàng lăn lóc từ nơi này qua nơi khác, có khi tưởng ra khỏi
vòng nhưng rồi lại bị lôi cuốn đày đọa, mãi cho đến khi tự vẫn ở
sông Tiền Đường, Đạm Tiên mới cho biết rằng nàng đã qua khỏi bước
đoạn trường và sắp được sống một cuộc đời vui tươi sáng lạn:
Chị sao phận mỏng đức dầy,
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai?
Tâm thần đã thấu đến trời
Bán thân là hiếu, cứu người là
nhân.
Một niềm vì nước vì dân
Âm công cất một đồng cân đã
già.
Đoạn trường sổ rút tên ra
Đoạn trường thơ đã đem về trả
nhau
Còn duyên hưởng thụ về sau
Duyên xưa đầy đặn, phúc sau dồi
dào.
Qua ý tưởng phước đức, duyên
nghiệp trên của Đoạn Trường Tân Thanh ta thấy cụ Nguyễn Du rõ ràng đã
chịu ảnh hưởng sâu xa của Phật Giáo. Nàng Kiều bao nhiêu năm chìm nổi
điêu đứng vì một chữ nghiệp, cứ mỗi lần thất bại là một lần ý
nghĩa của chữ ấy càng rõ rệt thấm thía đối với thân phận của
nàng. Sự tin tưởng của nàng cũng là sự tin tưởng của Nguyễn Du, người
đã từng chịu đau khổ và bao phen thất bại nên thức tỉnh và tìm đường
trở về vớí Chánh pháp. Ngoài Đoạn Trường Tân Thanh, nguyễn du còn viết
văn tế thập Loại chúng sanh còn gọi là Kinh Chiêu Hồn, là một tác phẩm
cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm với triết lý Phật Giáo:
Kiếp phù sinh như bào như ảnh
Có chữ rằng: vạn cảnh giai không
Ai hay lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong
luân hồi.
Nếu ở đãu thế kỷ thứ mười
chín chúng ta có Nguyễn Du thì cuối thế kỷ thứ mười chín chúng ta có Mạnh
Chu Trinh (1862-1905) một nhà thơ VN người làng Phú Thị, huyện Khoái Châu,
tỉnh Hải Hưng, ông đậu tiến sĩ năm 1902. Là một người tài hoa về thơ,
giỏi và thích kiến trúc, ông đã từng vẽ kiểu và trùng tu chùa Thiên
Trù ở Hương Tích. Cũng trong thời gian (giữa những năm 1891-1892) xây dựng
chùa này mà ông đã sáng tác nhiều bài thơ độc đáo về phong cảnh Hương
Tích và tất nhiên thơ của ông cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần
của Phật Giáo, chẳng hạn như bài:"Hương Sơn Phong Cảnh":
Bầu trời cảnh Bụt thú Hương
Sơn
Ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây.
Đệ nhất động hỏi rằng đây
có phải?
Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái,
Lững lờ khe yến, cá nghe kinh.
Thoảng bên tai một tiếng chầy
kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc
mộng.
Thật vậy qua những bài thơ này,
ta thấy thơ của Chu Mạnh Trinh đã phản chiếu được lòng tin của ông đối
với giáo lý nhà Phật và qua cái nhìn ông một cảnh vật ở đó thật giải
thoát, an lạc, thanh vắng, và có thể nói cảnh vật Hương Sơn với ông trở
thành một cõi riêng của Phật trong đó không những người tín đồ mà
cho đến cả chim, cá, khe, động đều thấm nhuần được ánh sáng của
Chánh Pháp.
Qua đầu thế kỷ thứ hai mươi, chúng
ta có một nhà thơ đáng yêu, tuy không phải là tín đồ Phật Giáo, nhưng
thỉnh thoảng văn thơ của ông cũng đã ảnh hưởng ít nhiều từ ngôn ngữ,
tư tưởng nhà Phật, đó là thi sĩ Hàn Mạc Tử (1912-1940), xin đơn cử một
bài thơ của ông:
Thơ tôi thơm huyền dịu
Mọc lên Đạo Từ Bi
Khi xưa ta là chim Phượng Hoàng
Vỗ cánh bay chín tầng trời cao ngất
Bay từ Đao Lợi, đến trời Đâu
Suất
Họp tinh khí muôn năm thành Chánh
quả
Lời nguyện gẫm xanh như màu huyền
diệu
Não nề lòng viễn khách giữa lúc
mơ
Trời từ bi cảm động ứa sương
mờ
Sao gió lại bay hồn trong kẻ lá
Những chữ trời từ bi, chín từng
trời, Đao Lợi, Đâu Suất, thành chánh quả..đều là danh từ của nhà Phật.
Hay với J. Leiba (24) một nhà thơ trẻ Việt Nam đầu thế kỷ thứ 20 cũng
có những bài ảnh hưởng sâu đậm triết lý nhà Phật:
Phật giáo vô biên độ chúng sanh
Bè từ thả với kiếp lênh đênh
Trần ai đã đẫm muôn hồ lệ,
Xin độ trì đôi lứa tuổi xanh.
* * *
Con dẫu trần tâm đã sạch rồi
Lòng từ vương một chút không
thôi
Đoái trông lục hợp sinh tà lụy
Bao sợi dây oan buộc kiếp người.
Có thể nói J. Leiba là nhà thơ trẻ
nhất thời đó đã quay về với Đạo Phật để tìm lấy sự an lạc cho
tâm hồn cho những ngày cuối đời mình:
Phù thế đã nhiều duyên nghiệp
quá
Lệ lòng mong cạn chốn am không
Cửa thiền một đóng duyên trần dứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng
Và với Vũ Hoàng Chương (1916-1976)
nhà thơ nổi danh khác của Việt nam lại đi xa hơn, mượn ngay những giáo
lý của Phật như Nhân Quả, Luân Thường, khổ đau..để diễn tả nổi niềm
khao khát vượt ra khỏi bờ mê, để đến bến giác:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đá lở, nay sông cát bồi
Lang thang thừ độ luân hồi
U minh nẻo trước, xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu cửa chớp, bốn bề một
phương.
Điểm qua một số thơ văn Việt
nam có những ảnh hưởng của Phật Giáo như trên ta thấy tư tưởng, triết
học Phật Giáo đã để lại dấu ấn của mình sâu đậm trên diễn đàn
tư tưởng của Việt Nam. Không chỉ ảnh hưởng trên mặt văn chương xuất
bản mà Phật Giáo còn có mặt trong nhiều phong tục tập quán ở Việt
Nam.
4. Ảnh hưởng Phật Giáo qua phong tục,
tập quán :
Phong tục tập quán thể hiện đặc
sắc và tính đặc thù về văn hóa của mỗi dân tộc. Thông qua việc tìm
hiểu phong tục tập quán, người ta tìm lại được những giá trị văn hóa
mang bản chất truyền thống của các dân tộc. Đối với người Việt
Nam, những phong tục tập quán chịu ảnh hưởng phật giáo khá nhiều. Song
ở đây người viết chỉ đề cập đến những tập tục phổ biến trong
đời sống hằng ngày của người Việt.
* Ảۮh hưởng phật giáo qua tập
tục ăn chay, thờ phật, phóng sanh và bố thí:
Về ăn chay, hầu như tất cả người
Việt Nam đều chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa này. Ăn chay hay ăn lạt
xuất phát từ quan niệm từ bi của phật giáo. Vì khi đã trở về với phật
pháp, mỗi người phật tử phải thọ giới và trì giới, trong đó giới căn
bản là không sát sanh hại vật, mà trái lại phải thương yêu mọi loài.
Trong hành động lời nói và ý nghĩa, người phật tử phải thể hiện lòng
từ bi. Điều không thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống
máu chúng sanh. Để đạt được mục đích đó, người phật tử phải dùng
đến phương pháp ăn chay. Cố nhiên người xuất gia ăn chay trường,
còn phật tử tại gia còn nhiều trở ngại nên chỉ ăn chay kỳ. Thông
thường người Việt Nam, cả phật tử lẫn người không phải phật tử cũng
theo tục lệ đặc biệt này, họ ăn chay mỗi tháng hai ngày, là ngày mùng
một và ngày rằm mỗi tháng, có người ăn mỗi tháng bốn ngày là ngày
01, 14, 15 và 30, nếu tháng thiếu thì ăn chay ngày 29, có người ăn mỗi tháng
sáu ngày là những ngày mùng 8,14, 15, 23, 29 và 30 (nếu tháng thiếu thì ăn
chay ngày 28, 29), có người phát tâm ăn chay mỗi tháng mười ngày là ngày
1,8,14,15,18,23,24, 28 và 30 và mùng 1 (nếu tháng thiếu thì ăn vào ngày
27,28,29) cũng có nhiều người phát nguyện ăn chay suốt cả tháng (thường
là tháng bảy âm lịch) hoặc ba tháng (tháng giêng, tháng bảy và tháng mười)
hay cả năm, đôi khi có một số người đi phát nguyện ăn trường trai giống
như những người xuất gia.
Về mặt ăn uống, ăn chay rất phù
hợp với phong cách ăn uống Á Đông, chú trọng ăn ngũ cốc nhiều hơn thực
phẩm động vật, vả lại ăn chay giúp cho cơ thể được nhẹ nhàng, trí
óc được minh mẫn sáng suốt. Gần đây các bác sĩ Soteylo, và bác sĩ
Varia Kiplami cho biết trong các thứ thịt có nhiều chất độc, rất nguy hiểm
cho sức khoẻ con người. Và các nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất hợp
vệ sinh và không kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên nguời việt
nam dù không phải là Phật Tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh
hưởng sâu rộng trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay.
Ăn chay và thờ phật là việc đi
đôi với nhau của người Việt Nam. Việc thờ phật trong dân gian cũng có
nhiều điều thú vị. Người phật tử, người mộ đạo thờ phật đã đành,
nhiều người không phải là phật tử cũng dùng tượng phật hay tranh ảnh
có yếu tố phật giáo để chiêm ngưỡng và trang trí cho cảnh nhà thêm đẹp
và trang nghiêm. Theo quan niệm của nhóm người này, phật giáo là một
thành tựu về tư tưởng văn hóa của dân tộc và nhân loại.
Cũng xuất phát từ tinh thần từ
bi của đạo phật tục lệ bố thí và phóng sanh đã ăn sâu vào đời sống
sinh hoạt của quần chúng. Đến ngày rằm và mùng một, người Việt thường
hay mua chim, cá, rùa..để đem về chùa chú nguyện rồi đi phóng sanh. Người
Việt cũng thích làm phước bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó,
hoạn nạn, vào các ngày lễ hội lớn họ tập trung về chùa. Tuy nhiên,
trong xã hội hiện đại những biểu hiện mang tính chất hình thức trên
này càng bị thu hẹp. Thay vào đó mọi người tham gia vào những đợt cứu
trợ, tương tế cho các đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, hoàn cảng sống
gặp khó khăn đúng với truyền thống đạo lý của dân tộc lá làng đùm
lá rách.
b/ Ảnh hưởng Phật giáo qua tập tục
cúng rằm, mùng một và lễ chùa.
Theo đúng truyền thống tập tục
cúng rằm, mùng một là tập tục cúng sóc vọng, tức là ngày mặt trời mặt
trăng thông suốt nhau, cho nên thần thánh, tổ tiên có thể liên lạc,
thông thương với con người, sự cầu nguyện sẽ đạt tới sự cảm ứng
với các cõi giới khác và sự cảm thông sẽ được thiết lập là ngày
trong sạch để các vị tăng kiểm điểm hành vi của mình, gọi là ngày Bố
tát và ngày sám hối, người tín đồ về chùa để tham dự lễ sám hối,
cầu nguyện bỏ ác làm lành và sửa đổi thân tâm. Quan niệm ngày sóc vọng
là những ngày trưởng tịnh, sám hối, ăn chay là xuất phát từ ảnh hưởng
của Phật giáo Đại thừa. Ngoài việc đi chùa sám hối, ở nhà vào ngày
rằm và mùng một, họ sắm đèn, nhang, hương hoa để dâng cúng Tam Bảo
và tổ tiên Ông Bà, thể hiện lòng tôn kính, thương nhớ những người quá
cố và cụ thể hóa hành vi tu tâm dưỡng tánh của họ.
Bên cạnh việc đi chùa sám hối
vào ngày rằm, mùng một , người Việt Nam còn có tập tục khác là đi viếng
chùa, lễ Phật vào những ngày hội lớn như ngày rằm tháng giêng, rằm
tháng tư (Phật Đản) và rằm tháng bảy (lễ vu lan). Đây là một tập tục,
một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống người Việt. Tuy nhiên,
đi viếng chùa cũng tùy thuộc vào mục đích và quan niệm của mỗi người.
Cánh cửa chùa bao giờ cũng rộng mở đối với thập phương bá tánh, nhất
là các ngày hội lớn của Phật giáo, của dân gian (tết Nguyên Đán) hoặc
những ngày kỷ niệm lớn của lịch sử dân tộc, (giổ tổ Hùng Vương).
Vào những ngày này, đông đảo các tầng lớp nhân dân, các giới trong xã
hội đều qui tụ về đây. Trước cánh cửa thiền môn, những khuôn mặt
trang nghiêm, vẻ đẹp thanh thoát của hoa huệ, hoa cúc chen lẫn với hương
trầm quyện tỏa tạo nên bầu không khí ấm cúng, linh thiêng, thể hiện tấm
lòng thành kính của họ đối với Đức Phật và các bậc Thánh Hiền. Những
hình ảnh đó đã góp phần tạo nên bản sắc và nét đẹp văn hóa của
dân tộc Việt. Trong dòng người tấp nập, đông đảo đó không phải ai cũng
đến đây vì lý do tín ngưỡng thuần túy. Một số đông người chỉ
đơn giản muốn đi xem lễ hội hoặc thích chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa
chiền nhưng khi đã hội nhập vào bầu không khí trang nghiêm họ cũng thấy
mình trở nên đỉnh đạc và trầm tỉnh hơn, đây là cơ hội giúp họ
quay về với Đạo Phật.
c/ Ảnh hưởng Phật giáo qua nghi thức
ma chay, cưới hỏi :
Đây cũng là sinh hoạt thường xảy
ra trong đời sống người Việt. Về ma chay, theo phong tục của người Việt
Nam và Trung Hoa trước đây rất là phiền phức và hao tốn. Tuy nhiên nhờ
có sự dẫn dắt của chư tăng thì tang lễ diễn ra đơn giản và trang
nghiêm hơn. Khi trong gia đình (theo Đạo Phật) có người qua đời, thân quyến
đến chùa thỉnh chư tăng về nhà để giúp đỡ phần tang lễ (thường gọi
là làm ma chay). Thông thường các nghi thức trong tang lễ được diễn ra tuần
tự như sau : (1) Nghi thức nhập liệm người chết; (2) lễ phát tang; (3) lễ
tiến linh (cúng cơm); (4) khóa lễ kỳ siêu cho hương linh; (5) lễ cáo Triều
Tổ (cáo tổ tiên ông Bà trước giờ di quan); (6) lễ di quan và hạ huyệt;
(7) Đưa lư hương, long vị, hình vong về nhà hoặc chùa; (8) lễ an sàng;
(9) cúng thất (tụng kinh cầu siêu và cúng cơm cho hương linh trong bảy tuần
gồm 49 ngày, mỗi tuần cúng một lần); (10) lễ tiểu tường (giáp năm,
sau ngày hương linh mất một năm); (11) lễ đại tường (lễ xã tang, sau
ngày hương linh qua đời hai năm).
Ở những gia đình không theo Đạo
Phật nhưng do người quá cố hoặc gia chủ mến chuộng Đạo Phật nên họ
thỉnh chư tăng, ni đến tụng kinh cầu siêu cho hương linh và tổ chức
tang lễ giống như những tín đồ theo Đạo Phật. Nhìn chung, tập tục ma
chay tại Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm từ những nghi thức của Phật
giáo.
Việc cưới hỏi, tầm ảnh hưởng
của Phật giáo tỏ ra ít phức tạp hơn so với Thiên Chúa giáo, khổng
giáo hay Hồi giáo. Trước khi tiến tới hôn nhân, nhiều đôi bạn trẻ
theo tín ngưỡng Phật giáo, thường đến chùa khấn nguyện với chư Phật
phù hộ cho mối lương duyên của họ được thuận buồm xuôi gió. Đến
ngày cưới hỏi, họ được hướng dẫn về chùa để chư tăng làm lễ
"hằng thuận quy y" trước khi rước dâu. Đó là một lễ chúc
lành ngắn gọn và được chư tăng khuyên dạy một số nguyên tắc đạo
đức Phật giáo, để làm kim chỉ nam cho cuộc sống mới.
Ngoài những phong tục của người
Việt Nam chịu ảnh hưởng Phật giáo đã được kể trên, chúng ta còn thấy
một số tập tục khác cũng tương đối phổ biến và có ít nhiều liên
quan đến Phật giáo mà chúng ta phải ghi nhận.
d/ Các phong tục tạp quán khác.
1/ Tập tục đốt vàng mã:
Đây là tập tục rất phổ biến
ở Việt Nam mà người Việt đã tiếp nhận từ Phật giáo Trung Quốc. Nhiều
người ngộ nhận rằng tập tục này xuất gia từ quan điểm nhân quả
luân hồi của Phật giáo, do đó nó đã tồn tại trong Phật giáo từ xưa
cho tới ngày nay. Nếu đời này ai ăn ở hiền lành, tu tâm dưỡng tánh
thì đời sau sẽ tái sinh trở lại làm người hạnh phúc, sung sướng giàu
sang hoặc vãng sanh về thế giới cực lạc. Còn nếu kiếp này ăn ở tệ
bạc, làm nhiều điều ác, sau khi chết sẽ bị đọa xuống địa ngục cõi
âm ti chịu nhiều đau khổ. Người nhiều tội lỗi hay không có ai thờ
cúng, cầu siêu thì ở nơi địa ngục bị oan ức, đói lạnh, không thể
siêu thoát được hoặc đầu thai được. Cho nên những người thân ở nơi
dương thế phải thờ cúng, tụng kinh cầu siêu để người thân của mình
dưới cõi âm ti bớt đi phần tội lỗi hoặc được ấm no mà thoát kiếp.
Sau khi cúng giỗ, ngày vọng người chết sẽ nhận được những vật dụng,
tiền bạc đã cúng và đốt đó. Trong các đồ mã và giấy tiền vàng bạc
để cúng thường có hình ảnh (Phật Di Lặc hay Bồ Tát Quan Âm) hoặc chữ
nghĩa (chú vãng sanh, chữ triện) có yếu tố của Phật giáo với ý đồ
mong sự cứu độ của Chư Phật đối với người đã khuất.
Ở đây xin nói rõ, tập tục đốt
vàng mã là một "hủ tục" mang tính mê tín dị đoan và vô lý, người
Phật tử chân chính không bao giờ chấp nhận. Chính trên thế gian này, đồng
tiền của nước này mang sang nước khác còn khó được chấp nhận, huống
hố từ nhơn gian, đốt gởi xuống âm phủ xài, là chuyện không có cơ sở
để tin cậy được. Theo Phật dạy chúng sanh tùy nghiệp thiện ác theo đó
mà thác sanh nơi cõi lành, cõi dữ. Thân nhân chúng ta chết cũng theo nghiệp
thiện ác mà thọ sanh vào sáu cõi chứ không ngồi chờ việc đốt vàng
mã của người thân, vừa trái với đạo lý, vừa phí tổn tiền bạc vô
ích. Theo Phật giáo thì có rất nhiều cách để thể hiện lòng thương và
lòng chung thủy của người sống đối với người chết bằng cách khi có
người sắp chết, thân quyến phải phát tâm bố thí, cúng dường, phóng
sanh và điều quan trọng là phải thông tin cho người đó biết việc làm của
gia đình mà hướng tâm đến con người thiện, nhờ đó mà họ sẽ thọ
sanh vào cảnh giới an lành.
2/ Tập tục coi ngày giờ :
Đây là một tập tục ăn sâu vào
tập quán của người Việt nói riêng và cả Châu Á nói chung. Mỗi khi sắp
làm một việc gì quan trọng như xây dựng nhà cửa, đám chết, đám cưới,
xuất hành đầu năm... người ta thường về chùa để nhờ các thầy coi
giúp giùm ngày nào tốt thì làm ngày nào xấu thì tránh. Thông thường người
ta hay tránh ba ngày: mùng 05, 14, 23, họ cho ba ngày này là xuôi xẻo, là bất
hạnh, cần phải tránh.
Theo cái nhìn của Phật giáo thì đây
cũng là một loại hình mê tín, người Phật tử không nên chạy theo. Đức
Phật dạy rằng với người làm điều lành, ngày nào cũng là ngày tốt với
người làm việc tốt, ngày nào cũng là ngày lành. Năm tháng đối với
người làm thiện đều là ngày tốt cả, gieo nhân thiện thì sẽ gặt quả
lành. Giáo lý nhân quả của Đạo Phật là cán cân công bằng với khổ
đau và hạnh phúc của con người chứ không phải là sự phân định của
hên xuôi.
3/ Tập tục cúng sao hạn :
Tập tục này rất phổ biến và
ăn sâu vào tập quán của người Việt và lại có sự tham gia của Phật
giáo. Nguyên nhân cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, sau truyền qua Việt Nam rồi
vào trong Phật giáo. Thời xưa ta có Tam giáo đồng nguyên; Phật, Lão và Khổng
giáo, đồng quy về mặt nguồn. Chủ trương như nhau, cùng một thiện chí
để đóng góp cho xã hội, phục hưng đạo đức, đưa đời sống của con
người đến ấm no hạnh phúc.
Trong bối cảnh Tam giáo đó, các thầy
Phật giáo phải linh động, phải tìm hiểu, học hỏi những cái lưu truyền
của đạo bạn để có một cái nhìn hòa đồng, cảm thông và nhất là để
kéo Phật tử trở về với bói quẻ, xem tướng, thì các thầy cũng cúng
sao, bói quẻm xin xăm, để cho người Phật tử quay về chùa, thay vì để
họ lạy thần linh thì lạy Phật tốt hơn. Bước thứ hai là giảng đạo
lý nhân quả, Bát chánh đạo, tạo chánh kiến cho người Phật tử xóa bỏ
tà kiến trước đây của họ. Trong phương tiện này đã có một số người
lạm dụng và dần dà nó trở thành một loại hình sinh hoạt của Phật
giáo. Hiểu rõ điều này, người Phật tử nên loại bỏ tập tục mê tín
này.
4/ Tập tục xin xăm, bỏi quẻ :
Xin xăm bói quẻ là một việc cầu
may. Cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, một loại hình sinh hoạt khá rầm rộ
tại các chùa, đình, miếu vào dịp đầu năm mới hoặc các ngày lễ lớn.
Các chùa làng có thờ Quan Thánh Đế Quân thường có đi đôi với việc
xin xăm. Người xin xăm trước hết đến lạy Phật rồi sang bàn thờ Quan
Thánh, khấn nguyện xin một quẻ xăm, rồi họ lắc ống xăm có 100 thẻ đê
lấy một thẻ rớt ra, sau đó họ cầm quẻ xăm đến nhờ thầy trù trì
giải đáp giùm vận mạng của mình. Mỗi thẻ ứng với một lá xăm có
ghi sẵn trong những điều tiên đoán về công việc làm ăn, học tập, hôn
nhân, gia đình... của mỗi người bốc được quẻ xăm đó. Đây là một
tập tục không lành mạnh do tin tưởng vào sự may rủi của số phận đã
được sắp đặt, an bài từ trước. Như sách xưa co câu "phước chí
tâm linh, hoa lai thần ám". Nghĩa là người gặp lúc phước đến thì
giở quẻ ra đều tốt, khi họa lại thi rút lá xăm nào cũng xấu. Thế là
tốt xấu tại mình, không phải tại xăm quẻ. Người Phật tử chân chính
cần phải loại bỏ những loại hình mê tín này.
Phong tục tập quán tại Việt Nam
trong quá trình tồn tại và phát triển đã chịu nhiều tác động của trào
lưu văn hóa khác nhau. Nhất là từ Trung Quốc. Trong đó Phật giáo đã dự
phần quan trọng trong việc định hình và duy trì không ít các tập tục
dân gian mà chúng ta thấy vẫn còn tồn tại cho tới ngày nay. Tuy nhiên,
không phải các tập tục có sự ảnh hưởng của Phật giáo là tốt tất
cả, mà trong đó có tập tục cần phải chắc lọc lại để phù hợp với
chánh pháp. Đó là nhiệm vụ nặng nề của các nhà truyền giáo trong thời
hiện đại. Bên cạnh sự ảnh hưởng trong các phong tục tập quán của
dân tộc. PG còn ảnh hưởng qua các loại hình nghệ thuật như, nghệ thuật
tạo hình, nghệ thuật sân khấu cải lương...
IV. ẢNH HƯỞNG PHẬT GIÁO
QUA CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT :
1/ Phật giáo thể hiện qua nghệ
thuật sân khấu (Hát bội, hát chèo, cải lương và kịch nói).
Nghệ thuật sân khấu cũng là một
loại hình văn hóa, nhất là các chủng loại này thuộc về di sân mang
tính bản sắc của văn hóa dân tộc song song với những phần đã nêu ra
ở trên. Tính triết lý "nhân quả báo ứng" của Phật giáo đóng
vai trò quan trọng trong các bài ca tuồng, vở diễn phù hợp với đạo lý
phương đông và nếp sống truyền thống của dân tộc.
Trước hết, loại hát chèo
xuất hiện ban đầu chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, thu hút
nhiều tinh hoa nghệ thuật dân gian như múa, hát và diễn các vở truyện
Nôm truyền thống. Đáng kể nhất là vở "Quan Âm Thị Kính" đã
đi vào dạng tuồng tiêu biểu chính thống khi nhắc đến môn nghệ thuật
này. Còn có các vở "Trương Viên", "Lưu Bình Dương Lễ",
"Kim Nhan", "Chu Mãi Thần"... đều mang tính thưởng thiện
phạt ác và các vở này gọi là tiêu biểu nên có tên gọi là "chèo cổ".
Thứ hai, hát bội ban đầu đi vào
nếp sống cung đình, khác với chèo cổ, nghệ thuật này trở nên một loại
hình giải trí cao cấp dành cho vua chúa và giới thượng lưu, một phía
khác là nó dành cho những ai có trình độ thưởng thức nghệ thuật,
tương đối thì mới có thể xem và cảm nhận được chủng loại độc đáo
này. Có thể nói xuyên suốt thế kỷ thứ 19 là thời đại hoàng kim của
nghệ thuật hát bội. Các vở "San Hậu"; "Tam Nữ Đồ
Vương"; "Diễn Võ Đình", "Nghiêu Sò Ốc Hến"... là những
vở mang tính chất dân tộc chính thống và chứa đựng toàn vẹn triết
lý "nhân quả báo ứng" và hướng thiện một cách cao đẹp.
Từ nhạc cổ, nhạc tài tử trở
thành hình thái "ca ra bộ", để từ đó trở thành nghệ thuật
sân khấu cải lương từ đầu những năm hai mươi (1922) của thế kỷ này
ở Nam Bộ. Có thể nói chưa có nghệ thuật dân tộc nào phát triển nhanh
chóng, có sức cuốn mạnh mẽ và dung nạp nhiều mãng dân ca như bộ môn cải
lương. Chính vì yếu tố phóng khoáng đó, cải lương dễ dàng tiến sâu
vào chân lý của Phật giáo, mở ra cánh cửa được sự tích Phật Thích
Ca và nhiều điển tích khác của Phật giáo vào gia sản nghệ thuật của
mình. Đây là một loại hình nghệ thuật được đông đảo bà con lao động
Việt Nam nhất là các vùng ngoại ô mến chuộng và ưa thích. Giáo lý
"nhân quả báo ứng, thưởng thiện phạt ác"... được các soạn
giả thể hiện các vở cải lương và đã được khán giả say mê thưởng
thức và đã đứng vững trên diễn đàn sân khấu trong suốt mấy chục năm
qua. Tiêu biểu như các vở "Thích Ca Đắc Đạo", "Quan Âm Thị
Kính", "Quan Âm Diệu Thiện", "Mục Liên Thanh Đề", đặc
biệt gần đây (đầu thập niên 90) có hai vở đáng chú ý là "Thoát
Vòng Tục Lụy" và 'Thái Tử A Xà Thế" của soạn giả Giác Đạo
Dương Kinh Thành, là hai vở tuồng chuyên chính đầu tiên của Phật giáo
Việt Nam, đã được trình diễn nhiều nơi và đã thực hiện băng video và
băng cassette phát hành rộng rãi trong và ngoài nước. Ngoài ra còn có các vở
chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng Phật giáo như các vở "Phạm
Công Cúc Hoa", "Tấm Cám", "Kim Vân Kiều"... do sự ảnh
hưởng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật giáo nên luôn luôn các tuồng cải
lương ở phần kết thúc đều có hậu. Nhà nghiên cứu Sơn Nam từng phát
biểu về điều này : "Nước ta từ xưa vẫn theo truyền thống Tam giáo,
nhất là nhờ ảnh hưởng văn hóa Phật giáo mà tiến lên, nhân vật trong
vở tuồng dù lố lăng (...) điều quan trọng là nhân vật chính, nhân vật
phụ ấy phải được giải quyết ở màn chót theo tinh thần bi trí, dũng,
theo luật nhân quả của Phật giáo (...). Phật giáo là phép màu dung hòa mọi
mâu thuẫn, chỉ nẻo cho con người thoát khỏi những cảnh ngộ éo le, khó
xử nhất. Nếu thoát khỏi luân lý ấy, cải lương sẽ là cái xác không hồn".
(25)
Sau cùng là kịch nói, đây là loại
hình nghệ thuật được du nhập từ phương Tây sau thế chiến thứ hai
(1938 - 1945), ban đầu chủ yếu biểu diễn các vở phóng tác từ các vở
tuồng của nước ngoài để phục vụ cho Thực Dân và Quan Lại thừa sai.
Sau thập niên 60, kịch nói mới có vị trí thật sự trong sân khấu Việt
Nam và được người dân hưởng ứng bằng các vở diễn do chính người
Việt Nam dàn dựng. Kịch nói chưa có đóng góp gì đáng kể cho Phật giáo
như các loại hình nghệ thuật khác. Tuy nhiên nội dung cũng hàm chứa nhiều
căn ban đạo đức dân tộc trong đó có ảnh hưởng Phật giáo.
Không chỉ trong nghệ thuật sân khấu,
diễn xuất người ta mới thấy sự yêu mến của đông đảo quần chúng
đối với Đạo Phật mà chúng ta còn thấy được điều này qua nghệ thuật
tạo hình.
2/ Ảnh hưởng Phật giáo qua nghệ
thuật tạo hình :
- Về kiến trúc : Khi Phật giáo
truyền vào Việt Nam, cố nhiên đã đem theo các kiểu kiến trúc chùa tháp,
lầu chuông gác trống theo mô hình kiến trúc của Ấn Độ, Miến Điện và
Trung Hoa. Tuy nhiên theo thời gian, tinh thần khai phóng của Phật giáo phối
hợp cung với lối tu duy tổng hợp của dân tộc Việt đã tạo ra một mô
hình kiến trúc rất riêng cho Phật giáo ở Việt Nam. Chùa tháp ở Việt
nam thường được xây dựng với lối kiến trúc đặc biệt, mái chùa bao
giờ cũng ẩn dấu sau lũy tre làng, dưới gốc cây đa hay ở một nơi có cảnh
trí thiên nhiên đẹp hoặc thanh vắng. Theo Nguyễ Quân và Phan Cẩm Thương
thì kiến trúc Chùa Tháp ở Việt Nam là "một quần thể kiến trúc có
quy mô không lớn, tương xứng với tầm vóc con người, phân bố lớp kiến
trúc theo một trục dọc kéo dài gây cảm giác đi sâu không cùng, đưa tự
nhiên xen kẻ trong các thành phần, chú trọng cảnh quan sông nước, vườn
chùa, làm cho công trình có tính chất cởi mở luôn lớn hơn khối thực thể
của nó". (26)
Theo mô hình kiến trúc theo kiểu chữ
"công" : bái đường và điện Phật được nối nhau bằng nhà
thiên hương; kiêu chữ "Đinh" : trước; kiểu chữ "Tam" : có
ba nếp nhà song song với nhau, hay kiểu "Nội công ngoại Quốc" :
phía trước là tiền đường và điện Phật, sau là mảnh sân hình vuông
trồng cây cảnh, đặt hòn non bộ, phía sau là nhà hậu tổ, hai bên là
nhà Đông và nhà Tây (27). Phật giáo để lại nhiều quần thể kiến trúc
độc đáo và danh lam thắng cảnh cho nước Việt, nhiều ngôi chùa nổi tiếng
như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây phương, chùa Hương, ở miền
Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo Quốc, và ở miền Nam có
các chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng...
- Về điêu khắc : Ngày nay có dịp
tham quan viện bảo tàng lớn ở Việt Nam, chúng ta sẽ thấy nhiều cốt tượng,
phù điêu của Phật giáo được trưng bày, đó không những là một niềm
tự hào của nền văn hóa dân tộc Việt mà còn là dấu vết chứng minh sự
ảnh hưởng của Phật giáo có mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu ta thấy
có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay (28). Chùa Hạ (Vĩnh
Phú, Bắc Việt, cao 3,2m), 16 pho tượng tổ gỗ của chùa Tây Phương (Hà
Tây, Bắc Việt), Bộ tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng
Nam Đà Nẵng), Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho), tượng Tuyết
Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây). Tượng Phật Thích Ca, cao 1,07m bằng đồng là
hiện vật Bảo tàng lịch sử TPHCM... là những tác phẩm nghệ thuật điêu
khắc độc đáo của Việt Nam còn có những công trình điêu khắc quy mô
và mang tính lịch sử như tượng "Phật Nhập Niết Bàn" dài 49m
ở núi Trá Cú, Phan Thiết được kiến tạo năm 1962, tượng Đức Phật Thích
Ca ngồi kiết già cao 11m tại Vũng Tàu, Khánh Thành ngày 10/3/963 ; tượng
"Kim thân Phật tổ" cao 24m ở chùa Long Sơn, TP. Nha Trang được thực
hiện vào năm 1964.
Và về hội họa : Mái chùa cổ
kính giữa núi non tĩnh mịch hay các lễ hội viếng chùa ngày đầu xuân hoặc
tư tưởng độc đáo của triết học, của thiền học Phật giáo luôn là
đề tài gây nhiều cảm hứng cho các nghệ nhân và họa sĩ Việt Nam. Nhiều
trang lụa, tranh màu nước, sơn dầu, sơn mài đề cập đến Phật giáo đã
được các họa sĩ, nghệ nhân lên tuổi ở Việt Nam thể hiện một cách
sống động và tinh tế qua các tác phẩm như "chùa Thầy" của Nguyễn
Gia Trí sáng tác năm 1938, "Lễ Chùa" của Nguyễn Siêu, "Bức Tăng"
của Đỗ Quang Em, "Đi Lễ Chùa" của Nguyên Khắc Vịnh. Đặc biệt
từ thập niên tám mươi trở lại đây, có "Thiền Quán", "Quan
Âm Thị Hiện"; "Bích Nhãn", "Rừng Thiền" của họa sĩ
Phượng Hồng, "Hồi Đầu Thị Ngạn" của Huỳnh Tuần Bá; "Nhất
Hoa Vạn Pháp" của Văn Quan...
Đến đây, chúng ta có thể kết luận
rằng những tư tưởng và hình ảnh của Phật giáo đã để lại những dấu
ấn sâu đậm trong phong tục tập quán, trong văn học và nghệ thuật của
người Việt Nam trong lịch sử và nó sẽ tiếp tục tỏa sáng cái tinh hoa
độc đáo của mình cho dân tộc Việt nói riêng và cả nhân loại nói
chung trong tương lai.
| Mục lục | Phần A | Phần B | Phần C |