-oOo-
Ái Dẫn Ðến Thủ
Do duyên ái, thủ khởi sanh. Tiếng Pàli: Upàdàna, là từ
ghép của Upa: Mạnh mẽ, hết sức, và Adàna: Nắm giữ, cầm lấy. Vì vậy,
nó có nghĩa là nắm giữ chắc hay sự khao khát mạnh mẽ, không rời. Thủ
có bốn loại:
1- Dục thủ.
2- Kiến thủ.
3- Giới cấm thủ.
4- Ngã ngữ thủ.
1. Dục Thủ
Các cảnh dục kích thích lòng ham muốn của tất cả chúng
sanh chưa thoát khỏi dục ái. Những cảnh này có năm: Sắc, thinh, hương, vị
và xúc.
Hình sắc là cảnh có tánh chất khả ái và hấp dẫn đối
với con mắt. Nó có vẻ đẹp tự nhiên hoặc xem ra đẹp đối với mắt
người xem. Cảnh sắc khả ái, dầu có thật hay chỉ bên ngoài, đều được
tìm thấy trong những người đàn ông, đàn bà và nơi hàng tiêu dùng. Ðó
là hình tướng của những nữ nhân làm hấp dẫn người nam và ngược lại.
Những vật mà những người nam và người nữ ưa thích là quần áo, đồ
trang sức, xe hơi v.v... Sự kích thích lòng ham muốn không chỉ ở nơi hình
tướng hoặc màu sắc. Người đàn ông và đàn bà thu hút lẫn nhau không
phải chỉ ở nơi nước da, mà cả toàn thân của phái khác, và hàng tiêu
dùng cũng làm cho người ta khởi lên lòng ham muốn như thế. Hình sắc hoặc
màu chỉ để giới thiệu vật ưa thích, cũng như tiếng kêu của con thú
giúp người thợ săn định hướng và tìm ra nó.
Âm thanh, một cảnh dục khác, được biểu lộ qua giọng nói
của người đàn ông hay đàn bà, lời ca hay tiếng nhạc. Một số âm thanh
và giọng nói quả thực ngọt ngào. Lại nữa, không chỉ âm thanh làm hấp
dẫn chúng ta, vì khi chúng ta nghe một âm thanh hay giọng nói nào đó, thì
toàn thể vật phát ra âm thanh hay lời nói đều trở thành đối tượng
tham ái của chúng ta.
Mùi cũng là một nguồn dục lạc, bao gồm tất cả các loại
hương thơm, mùi của các loại gia vị, bột thơm, nước hoa. Ðàn ông, đàn
bà thường xức những chất thơm vào người và vui thích chúng, và không
chỉ những mùi thơm mà toàn thể vật hay người phát ra mùi thơm cũng làm
hấp dẫn người ta.
Dục lạc, mà chúng ta có qua việc ăn uống, có nguồn gốc
ở đồ ăn và thức uống.
Vị ngon có thể là thực hoặc chỉ bề ngoài. Ðối với
loài heo, chó và những con thú khác thì rác rưởi, vật dơ, có thể là nguồn
dục lạc của chúng. Một số người rất thích đồ ăn cay hoặc kích
thích. Số khác thì thích các chất say. Dục lạc của họ chỉ có vỏ bên
ngoài hơn là có thực, vì người bình thường không hưởng cái hương vị
có hậu. Khoái lạc của việc ăn không phải nơi vật thực; Nó cũng tùy
thuộc vào việc sửa soạn món ăn và do người đàn ông hay đàn bà biến
chế chúng. Ðiều này có thể thấy ở người đàn ông thích ăn vật thực
do vợ nấu, dầu đối với người khác thì tài nấu nướng của nàng chẳng
kể vào đâu.
Một nguồn dục lạc khác là thân hay sự xúc chạm. Giường
nệm êm ái, y phục đúng mùa, thân của phái khác. Tất cả những thứ
này đều là đối tượng của sự xúc chạm, không chỉ tạo ra sự ưa thích
đối với sự xúc chạm mà ở toàn thân của người hay vật. Sự xúc chạm
mở đường cho sự tham luyến toàn thân vật xúc chạm.
Những Cơ Sở Của Dục Lạc
Như vậy, có những đối tượng là chúng sanh hoặc không
phải chúng sanh hình thành những nguồn dục lạc. Lại có những thứ như
vàng, bạc, vật trang sức, gạo, gia súc, xe cộ, nhà cửa, đất đai, người
hầu kẻ hạ. Người ta làm việc hằng ngày để kiếm về những nguồn dục
lạc này. Họ tầm cầu những thứ này cốt để có đồ ăn ngon, y phục
đẹp và nhà cửa tiện nghi, để xem biểu diễn v.v...
Dục ái thường dẫn đến dục thủ. Khi một người bắt
đầu hút thuốc, anh ta thích thói quen này, nhưng vì thói quen ấy càng ăn sâu
trong người nên anh ta trở thành con sâu nghiện. Như vậy, chúng ta sẽ vô
cùng thích một số cảnh nào đó và chúng ta cảm thấy không yên, nao nao,
nếu chúng ta không có được chúng. Bằng cách này, ái tiến đến thủ.
Thủ không thể sanh khởi nếu không có ái. Tiếng nhạc và
bài ca của người nước ngoài không hấp dẫn lỗ tai người Miến Ðiện
Ðiện và vì thế không gây sự say mê trong họ. Người Miến Ðiện Ðiện
không ăn thịt chó. Thịt chó có tánh chất ghê tởm đối với họ và vì
vậy thủ đối chó không hề có đối với họ.
2. Kiến Thủ
Một loại thủ khác là kiến thủ. Ðó là sự bám chấp
theo tà kiến. Nó bao gồm tất cả tà kiến, không kể những tà kiến trong
loại thủ thứ ba và thứ tư. Bởi vậy mọi tà kiến đều được xem là
thủ. Ở đây, chúng ta sẽ mô tả chi tiết những tà kiến ăn sâu trong mọi
người.
Tà kiến thứ nhất cho rằng sự bố thí không phải là thiện
nghiệp mà chỉ là sự phung phí tiền bạc. Tà kiến này phủ nhận giá trị
và quả của thiện nghiệp. Thực ra nó chẳng có cơ sở nào cả. Hành động
bố thí khiến người cho hoan hỷ. Nó đem lại lợi ích về vật chất lẫn
tinh thần đến người thọ nhận và nó có thể giúp người ta vượt qua
cơn đói. Người cho được mọi người tôn trọng và biết đến. Sau khi
chết người ấy được sanh về thiên giới. Thật khó thuyết phục những
kẻ hoài nghi về quả báo ở đời sau nhưng các quả nghiệp thuộc thế giới
khác lại lọt vào tầm thấy của các vị A-la-hán và những vị thánh
khác qua năng lực thần thông của Ngài. Một trong những loại thần thông
này là thiên nhãn thông. Loại thần thông này có thể giúp người ta thấy
được những người bố thí đang hưởng hạnh phúc ở cõi chư thiên, hoặc
những người ác, không bố thí đang chịu khổ ở các đọa xứ. Các vị
hành giả, dầu chưa có thần thông nhưng đã tiến bộ nhiều về định,
cũng có thể nhìn thấy như vậy.
Loại tà kiến thứ hai cũng là sự phủ nhận những lợi
ích của sự bố thí ở phạm vi rộng lớn.
Loại tà kiến thứ ba phủ nhận kết quả lành của việc
tiếp khách, cho quà biếu vào ngày tết v.v... Quan điểm này chỉ về những
hành động bố thí nhỏ, thịnh hành ở Ấn Ðộ cổ xưa và nhóm ngoại đạo
xem những bố thí ấy là vô ích.
Quan điểm thứ tư phủ nhận kết quả của thiện nghiệp
hoặc ác nghiệp.
Ngay trong kiếp sống này, người ta cũng có thể thấy kết
quả của những việc làm của con người về mặt đạo đức. Còn nói về
quả nghiệp ở thế giới bên kia thì những người có thiên nhãn mới chứng
thực được điều ấy. Nhưng những người quá say mê dục lạc thì thích
buông thả theo tham muốn của họ. Họ biểu lộ sự bất bình đối với
những giá trị và ý tưởng về đạo đức, vì họ nghĩ rằng những điều
ấy là chướng ngại cho sự tiến bộ vật chất của họ. Bởi vậy, họ
đưa ra nhiều lập luận để phản đối nghiệp báo. Xét cho cùng thì tất
cả điều này là do lòng ham muốn dục lạc quá mức của họ.
Tà kiến thứ năm và thứ sáu phủ nhận công ơn của cha mẹ
đối với con cái. Tà kiến này chủ trương rằng việc có con của hai vợ
chồng chẳng qua là do sự thỏa mãn tình dục một cách ngẫu nhiên của họ,
rằng họ nuôi con cái như là bổn phận phải làm, và vì vậy chẳng có
lý do gì để con cái phải nhớ ơn cha mẹ. Cho nên những người theo tà kiến
này chủ trương rằng giúp đỡ cha mẹ chẳng phải là điều tốt, và bỏ
bê cha mẹ cũng chẳng phải là điều xấu. Thật là một quan kiến tệ hại.
Những người chấp theo tà kiến này sẽ không được con cái tôn trọng.
Tà kiến thứ bảy phủ nhận sự hiện hữu của thế giới
khác ngoài cõi người và cõi súc sanh. Nó cũng phủ nhận niềm tin rằng
con thú có thể tái sanh làm người.
Tà kiến thứ tám phủ nhận việc con người tái sanh vào
cõi chư thiên, súc sanh hoặc địa ngục. Nó chủ trương sự đoạn diệt
sau khi chết.
Tà kiến thứ chín phủ nhận sự hoá sanh. Nói cách khác,
nó phủ nhận sự hiện hữu của chư thiên, ngạ quỉ, A tu la v.v..., là những
kẻ xuất hiện với thân hình đầy đủ mà không qua trung gian của sự thọ
thai. Quan điểm này không thể biện hộ được, bởi vì những vị phi
nhân thiện hoặc ác cũng hiện ra cho người ta thấy. Có những người lên
đồng và những thầy bùa có thể triệu về những vị phi nhân, và những
vị chư thiên, phạm thiên đôi khi cũng hiện rõ trước mắt vị hành giả
tu minh sát.
Quan điểm cuối cùng là không có sa môn hay Bà la môn nào
nói về thế giới này và thế giới bên kia, và thực hành đúng với những
gì họ nói ra. Quan điểm này ám chỉ rằng không có người nào có thể
nói một cách độc lập về thế giới này và thế giới bên kia, dựa vào
kinh nghiệm phi thường thực có của vị ấy, rằng tất cả giáo lý của
họ chỉ là sự phỏng đoán và suy luận cho nên có tính chất huyền hoặc.
Ngày nay, quan điểm này được lan rộng bởi những người
phỉ báng tôn giáo. Họ phủ nhận sự hiện hữu của chư Phật và chư vị
A-la-hán, là những bậc biết thế gian như thật qua sự tinh tấn của các
Ngài. Nhưng quan điểm này là thất sách, vì bằng lối suy luận ấy, người
ta có thể phủ nhận quan điểm này, bởi vì những người chấp theo quan
điểm này cũng không biết gì hơn về thế giới này hoặc thế giới bên
kia.
Còn về giáo pháp của Ðức Phật, nó dựa vào tuệ quán
phi thường. Do đó, giáo pháp đi đến hiện thực và bằng chứng khoa học.
Vào thời Ðức Phật, có một người đàn ông tên là Ajita, chuyên rao giảng
thuyết bất khả tri. Ông ta đả kích tất cả giáo lý mà không có sự thẩm
định phẩm chất, và vì thế, Ðức Phật và chư vị A-la-hán cũng là những
mục tiêu đả kích của ông ta.
Những Quan Ðiểm Ðúng
Tất cả mười tà kiến này đều có chung một ý, là phủ
nhận định luật nghiệp báo và phủ nhận nghiệp, tức là phủ nhận mọi
lợi ích phát sanh từ những hành động bố thí, công nhận cha mẹ và những
việc thiện khác cũng như khả năng chứng đắc quả Phật và quả
A-la-hán.
Mười quan điểm được nêu ra dưới đây dựa vào niềm
tin nghiệp báo hay sự báo ứng về mặt đạo đức.
(1): Quan điểm thứ nhất là bố thí có lợi ích. Người
cho tối thiểu cũng là người được người nhận thương mến và tôn trọng.
Họ sẽ tôn kính, khen ngợi và giúp đỡ khi người kia gặp rắc rối. Người
ấy chết với những cảnh tốt hiện ra lúc lâm chung, và sau khi chết, được
sanh về thiên giới hay trở lại làm người. Người ấy sớm được chứng
đắc đạo qu? và Niết-bàn. Các vị Bồ tát cũng bắt đầu con đường tu
tập bằng hành động bố thí mà tiến đến mục tiêu là Phật quả,
Duyên giác hoặc A-la-hán quả.
Quả của sự bố thí cũng có thể thấy trong sự thịnh vượng
về vật chất của một số người. Có một số người cũng buôn bán,
làm ruộng, nhưng kết quả gặt hái thì khác nhau. Một số người được
phát đạt, trong khi số khác thì không. Một số người thành công mà
không cần cố gắng nhiều, trong khi số khác, dầu cố gắng hết sức vẫn
không phát lên được. Những điều may mắn và không may mắn như vậy rõ
ràng là do sự bố thí và không bố thí trong kiếp trước.
(2) và (3): Người tin vào định luật nghiệp báo thì không
nghi ngờ khả năng cho quả của nghiệp trong việc bố thí nhiều hoặc ít,
như đãi khách, cho quà tặng v.v...
(4): Ba quan điểm chân chánh này đều mặc nhiên công nhận
định luật nghiệp báo hay nhân quả báo ứng. Một số người sống làm
những việc thiện hoặc những việc ác là sự thật của đời sống không
thể chối cãi được. Người mà sống làm những việc lành, vâng lời cha
mẹ và thầy cô thì có rất nhiều, người ấy được nhiều người giúp
đỡ và sẽ gặt hái thành công, và khi lớn lên trở thành một người có
giá trị, được phát đạt. Cũng thế, do thiện nghiệp trong kiếp sống
trước, người ta có thể sanh vào gia đình tốt và được khoẻ mạnh, có
của cải, sắc thân xinh đẹp và có bạn tốt.
Kết quả của ác nghiệp như bịnh hoạn, ốm yếu, nghèo
khó, tướng mạo xấu v.v... cũng được nhiều người biết đến.
(5) và (6): Tin vào nghiệp cũng hàm ý sự công nhận việc
tri ân sâu xa của chúng ta đối với cha mẹ. Cha mẹ cưu mang bảo dưỡng
con cái từ lúc còn nằm trong bào thai. Người mẹ đặc biệt bảo trọng sức
khoẻ, vật thực và sự đi đứng của bà để đứa con trong bụng khoẻ mạnh,
không hề hấn gì. Nếu bà là một Phật tử thuần thành, bà còn thọ trì
bát quan trai và thường niệm ân Ðức Phật, Pháp, Tăng, với hy vọng sẽ
có ảnh hưởng tốt đến tâm linh của đứa con. Sau khi sanh, cha mẹ phải
nuôi dưỡng và dạy dỗ, và đến khi đứa con trưởng thành, cha mẹ còn
chia gia tài để nó xây dựng đời sống tự lập. Vì những lý do này, nghĩa
vụ theo tiếng gọi lương tâm của chúng ta là phải kính dưỡng cha mẹ, và
đây là hành động tạo nghiệp lành sẽ đem lại nhiều lợi ích cho chúng
ta. Ðiều rõ ràng là người nào tôn kính cha mẹ thì sẽ được con cái
tôn kính lại mình; Còn người nào bất kính với cha mẹ, sau này con cái cũng
ngỗ nghịch với người ấy.
Nhìn Thấy Thế Giới Bên Kia
(7), (8) và (9): Những quan niệm chân chánh về sự hiện hữu
của thế giới này, thế giới vô hình và những chúng sanh như chư thiên,
là những kẻ sanh ra bằng sự vật chất hoá một cách tự phát (hoá sanh).
Những chánh kiến này cũng hàm chứa trong định luật nghiệp báo, vì
chính định luật này làm cho một chúng sanh, từ cõi thú hay cõi chư thiên,
tái sanh vào cõi người hay ngược lại, theo nghiệp của người ấy sau khi
chết. Ðiều này có thể chứng minh ở một số chừng mức nào đó, nhưng
người quan sát phải là người có thần thông, tuệ quán hoặc khả năng
suy xét hợp lý.
Qua sự thực hành thiền chỉ, hành giả có thể đạt được
khả năng nhớ lại những kiếp quá khứ, người ấy có thiên nhãn, có thể
nhìn thoáng qua mà thấy được hình tướng v.v... của một người đã chuyển
sinh sang một kiếp sống mới. Loại thần thông này xảy đến được với
hành giả tu thiền minh sát.
Người không tu thiền chỉ hoặc thiền quán thì phải dựa
vào khả năng suy luận của họ. Có một số người có thể nhớ lại kiếp
sống trước của mình. Theo văn học Phật giáo, họ là những người có
Jàtissaranàna-trí nhớ lại kiếp trước. Họ mô tả những kiếp trước của
họ ở cõi người, làm thú hoặc quỉ thần. Với óc suy nghĩ đúng đắn
thì những sự mô tả này cho thấy sự chuyển sanh sau khi chết, từ thế
giới này sang thế giới khác và ngược lại, cũng như sự hoá sanh của một
số chúng sanh.
Ở đây, chúng tôi muốn đưa ra một lối suy nghĩ về vấn
đề của kiếp sống tương lai mà những bậc trí tuệ đã suy nghĩ. Giả sử
có một người chấp nhận niềm tin vào nghiệp và đời sống sau khi chết,
trong khi một người khác thì phủ nhận niềm tin này. Người thứ hai sẽ
không làm các thiện nghiệp như bố thí, trì giới, kết quả là người
ấy không tránh khỏi việc làm điều ác, anh ta sẽ buông thả những ham muốn
của mình. Do đó, anh ta không có đức độ để mọi người kính mến. Nếu
điều anh ta không tin là có thật, như nghiệp báo và kiếp sau, thì anh ta
chắc chắn phải đọa vào khổ cảnh ngay sau khi chết, và anh ta phải chịu
khổ trải qua nhiều kiếp luân hồi.
Ngược lại, người tin vào nghiệp và kiếp sau sẽ không
làm điều ác, thích làm điều thiện, cho dù không có nghiệp hoặc kiếp sống
tương lai thì trong hiện tại anh ta cũng được tán dương và được nhiều
người biết về đạo đức của anh ta. Anh ta sẽ hoan hỷ vui sướng khi
nghĩ đến những việc làm của mình. Là một công nhân tốt, anh ta sẽ sống
một cuộc sống thanh bình. Ðây là những lợi ích chắc chắn sẽ phát
sanh đến người tin vào nghiệp trong kiếp sống hiện tại. và nếu thực
sự có kiếp sau, thì người ấy chắc chắn sẽ được hạnh phúc sau khi
chết. Như vậy, thật hợp lý để tin có kiếp sau. Ðây là cách suy nghĩ vững
chắc mà Ðức Phật đưa ra trong bài kinh Apannaka sutta (Thuần Chơn
kinh) của trung bộ kinh.
Ba-La-Mật Và Nghiệp
(10): Niềm tin vào Ðức Phật, chư vị A-la-hán hay những bậc
Thánh, là những bậc có thể quả quyết, bằng trí tuệ siêu phàm, về thế
giới này và thế giới bên kia, những bậc có tánh thánh thiện, làm cho
giáo lý của các Ngài đáng tin cậy hơn. Niềm tin như vậy mặc nhiên công
nhận niềm tin vào nghiệp, tin sự chứng đắc tâm linh của các vị
A-la-hán và Ðức Phật, một phần dựa vào Ba-la-mật của các Ngài mà
chính yếu thì không khác với nghiệp. Sự phát triển Ba-la-mật là một
cách tu tập. Cũng như một đứa bé học nhiều môn để trở thành người
có giáo dục tốt, cũng thế, vị Bồ tát phải tầm cầu trí tuệ và sự
tự tu ngõ hầu chứng đạt mục tiêu của mình.
Một số cha mẹ hay những người lớn tuổi trong gia đình
thường dẫn con cháu đi xem hát và chiếu bóng, trong khi số khác thì đem
con cái đến chùa và tịnh xá. Bằng cách này, con cái sẽ có được thói
quen tốt hoặc xấu, phát triển sự tham muốn dục lạc hoặc tiếp thu những
điều cao siêu của đời sống. Những thói quen tốt và sự rèn luyện tốt
có thể được xem là một loại Ba-la-mật. Một số con cái bẩm sinh đã
có tánh ưa thích đời sống tín ngưỡng, một số người nam và người nữ
có nhiều tịnh tín và tinh tấn trong việc thực hành minh sát. Sở thích
khác thường của đứa bé như vậy đối với tôn giáo hay sự ưa thích
khác thường về đời sống tâm linh của một người đều xuất phát từ
Ba-la-mật trong kiếp quá khứ.
Thái tử Sĩ Ðạt Ta thành Phật do đã tu tập các pháp
Ba-la-mật như bố thí, trì giới, xuất gia, v.v... trong vô số kiếp, không
phải trong một kiếp mà có thể thành tựu được. Chính nhờ tiềm lực của
nghiệp tích lũy này hay Ba-la-mật khiến ý chí của Ngài được mạnh mẽ,
để rời bỏ gia đình và tất cả vinh hoa của đời sống đế vương, ngõ
hầu tầm cầu sự giác ngộ. Ngày nay, có một số người nói về cuộc đời
là vô thường, khổ v.v... Nhưng từ bỏ tất cả của cải và xuất gia
làm một vị sa môn thì không phải dễ, còn làm công việc từ bỏ như Bồ
tát thì không ai dám nghĩ đến.
Vị Bồ tát cũng tu tập những pháp Ba-la-mật khác để tầm
cầu trí tuệ v.v... Kết quả là trong kiếp cuối của Ngài, Ngài đã quán
xét và tự mình giác ngộ bản chất của đời sống, sự tùy thuộc duyên
khởi của nó v.v... Chính nhờ những pháp Ba-la-mật ấy mà cuối cùng Ngài
đã đạt đến sự giác ngộ tối thượng, và cũng những pháp Ba-la-mật
ấy giúp thành tựu quả vị Ðộc giác, Thinh văn giác. Như vậy, niềm tin
vào nghiệp giúp người có tâm đạo trở thành bậc A-la-hán, Phật Ðộc
giác hoặc Toàn giác, và người công nhận niềm tin ấy thì không nghi ngờ
trí tuệ phi thường của Ðức Phật và chư vị thánh Tăng.
Tóm lại, kiến thủ thường đồng nghĩa với sự phủ nhận
định luật nghiệp báo. Nó không được lan rộng trong thời Ðức Phật hoặc
cách đây một trăm năm, nhưng bây giờ nó đang bành trướng. Theo các bài
kinh thì các tà kiến thường xuất phát từ ái dục và do sự khao khát tăng
dần của con người đối với vật chất, chủ nghĩa hoài nghi về nghiệp
rất có thể sẽ trội hơn, và những người thiện cần phải đề phòng
nó.
Ngoài sự phủ nhận nghiệp, kiến thủ còn có nghĩa là sự
bám chấp mạnh mẽ vào tất cả tà kiến, tức là ngã kiến, đoạn kiến
v.v... Có hai tà kiến không được kể đến vì chúng thuộc về giới cấm
thủ và ngã ngữ thủ.
3. Giới Cấm Thủ (Sìlabbatupàdàna)
Giới cấm thủ là sự cố chấp theo những pháp hành sai lạc
mà sẽ không dẫn đến chấm dứt đau khổ. Ðó là quan điểm đồng hoá
những thói quen của bò, chó và những con thú khác với con đường dẫn đến
chấm dứt đau khổ. Nó được tìm thấy trong một số đạo sĩ thời Ðức
Phật. Giống như những con thú, họ sống trần truồng, ăn, đại tiện, tiểu
tiện và đi bằng hai chân và hai tay, ngủ trên đất. Họ tin rằng cách sống
như vậy giúp họ tẩy sạch tất cả ác nghiệp và ngăn chặn nghiệp mới,
nhờ đó, giúp họ chấm dứt đau khổ và được hạnh phúc trường cửu
sau khi chết.
Ðối với người Phật tử, loại tín ngưỡng này thật
khó tin, nhưng đối với một số người thì sự ưa thích của họ thật
ư là kỳ quặc, về quan kiến và khuynh hướng. Bởi vậy, có hai đạo sĩ
đi đến Ð?c Phật. Một người tên là Punna, anh ta sống như con bò. Một
người khác tên là Seniya, người này sống như con chó. Họ hỏi Ðức Thế
Tôn về những lợi ích có được trong sự thực hành của họ. Ðức Thế
Tôn do dự không muốn trả lời, nhưng họ khẩn khoản thỉnh cầu nhiều lần
nên Ngài đáp lại rằng người sống hoàn toàn như bò hoặc chó thì sau
khi chết sẽ tái sanh làm bò hoặc chó. Thật là lầm lạc khi tin rằng những
pháp hành như vậy sẽ dẫn đến cõi chư thiên. Và người chấp theo tà kiến
chắc chắn sẽ rơi vào địa ngục hoặc súc sanh. Rồi Ðức Phật tiếp tục
mô tả:
1- Những sự thực hành ác cho quả khổ.
2- Những sự thực hành thiện cho quả lành.
3- Sự thực hành có ác có thiện lẫn lộn.
4- Sự thực hành theo thánh đạo dẫn đến sự chấm dứt hoàn toàn cả
thiện nghiệp lẫn ác nghiệp.
Sau khi nghe qua thời pháp này, Punna trở thành đệ tử của
Ðức Phật. Seniya gia nhập vào tăng chúng và chứng đắc đạo quả A-la-hán
nhờ thực hành theo chánh pháp.
Chuyện Korakhattiya
Trong thời Ðức Phật, có một người đàn ông tên là
Korakhattiya. Anh ta sống như loài chó. Một hôm, Ðức Phật đi ngang qua anh
ta, theo hầu Ngài là một vị Tỳ khưu Licchavì, tên là Sunakkhatta.
Sunakkhatta trông thấy vị đạo sĩ đang di chuyển bằng bốn
chi và ăn vật thực ở trên đất mà không dùng đến hai tay. Lối sống của
vị đạo sĩ đã cho vị Tỳ khưu một cái nhìn về một bậc thánh thiểu
dục. Thực ra, lối sống của vị đạo sĩ là một loại giới cấm thủ
mà sẽ đưa ông ta xuống bốn khổ cảnh. Ðối với những người có nguyện
vọng và lý tưởng cao siêu thì điều ấy quả thật đáng ghê tởm. Nó hấp
dẫn Sunakkhatta chỉ vì vị ấy có sở thích và dục vọng thấp hèn. Về mặt
này, vị Tỳ khưu Licchavì là một ngoại lệ. Chẳng như bây giờ, lúc ấy
không có nhiều người thiên về tà kiến và những pháp hành sai lạc,
không phù hợp với giáo lý của Ðức Phật. Có lẽ đây là tàn tích của
những chấp thủ sai lại trong kiếp quá khứ của họ.
Ðức Phật biết được ý nghĩ của Sunakkhatta và nói rằng:
"Như vậy, ngươi xem vị đạo sĩ kia là bậc A-la-hán! Tại sao ngươi
không biết xấu hổ khi chính mình là một đệ tử của Ðức Phật?".
Rồi vị Tỳ khưu trách Ðức Phật là ganh tỵ với đạo quả A-la-hán của
vị đạo sĩ. Dĩ nhiên đây là lối phản bác của kẻ ngu si khi có ai nói
sự thật về vị thầy tà đạo của mình. Ðức Phật giải thích rằng mục
đích của Ngài là muốn đoạn trừ ảo kiến của vị Tỳ khưu mà chẳng
có lợi ích gì cho vị ấy cả. Rồi Ngài tiếp tục tiên đoán rằng sau bảy
ngày, vị đạo sĩ sẽ chết vì chứng bội thực và sẽ tái sanh xuống
cõi A tu la thấp nhất, thân của vị đạo sĩ sẽ bị quăng ở một bãi
tha ma nọ; Nếu vị Tỳ khưu đi đến đó và hỏi chỗ tái sanh của vị đạo
sĩ thì xác chết sẽ đứng dậy và nói rõ.
Ðức Phật tiên tri như vậy là để Sunakkhatta phục
hồi lại niềm tin nơi Ngài. Nhờ thực hành thiền chỉ, Sunakkhatta đã đắc
thiền và có thiên nhãn. Bằng thiên nhãn của mình, Sunakkhatta đã hỏi Ðức
Phật phương pháp để chứng đắc thiên nhĩ. Nhưng Ðức Thế Tôn khước
từ, không đáp ứng yêu cầu của vị ấy vì ác nghiệp của vị ấy đã
cản đường, và vị ấy cho rằng Ðức Thế Tôn không có thiên nhĩ. Tuy
nhiên, Sunakkhatta đã mất niềm tin nơi Ngài, vì vị ấy nghĩ rằng chính
do ganh tỵ khiến Ðức Thế Tôn từ chối yêu cầu của vị ấy. Bởi vậy,
Ðức Phật tiên tri về số phận của vị đạo sĩ là để làm xúc động
và phục hồi lại niềm tin cho Sunakkhatta.
Sunakkhatta báo tin cho vị đạo sĩ biết lời tiên tri
của Ðức Thế Tôn và bảo vị đạo sĩ đừng ăn quá nhiều. Vị đạo
sĩ nhịn đói trong sáu ngày, nhưng vào ngày thứ bảy, không thể cưỡng lại
cơn đói, vị đạo sĩ đã ăn hết vật thực do một tín đồ dâng cúng
và đã chết vì bội thực trong đêm ấy.
Những vị đạo sĩ khác kéo xác của ông ta đi quăng ở bất
cứ chỗ nào ngoài chỗ mà Ðức Phật đã tiên tri. Họ đi đến một bãi
tha ma nhưng thấy đó là nơi mà họ muốn tránh, vì chỗ ấy có loại cỏ
mà Ðức Phật đã tiên đoán. Họ ra sức kéo xác chết đi chỗ khác, nhưng
sợi dây leo đã vướng chắc vào và tất cả cố gắng của họ đều thất
bại. Bởi vậy, họ phải để lại xác chết ở đó.
Sunakkhatta nghe tin ấy, nhưng vẫn hy vọng sẽ chứng minh điều
tiên tri của Ðức Phật là sai. Vị ấy đi đến bãi tha ma và khi vỗ nhẹ
vào xác chết, vị ấy hỏi về chỗ ở của kẻ kia. Xác chết đứng dậy
và sau khi nói rằng vị ấy đang ở cõi Kalakamjita asura, thì ngã phịch xuống
đất trở lại. Asura là một loại ngạ quỉ có thân hình dị hợm, miệng
thì quá nhỏ đến nỗi không thể ăn hay uống bất cứ thứ gì.
Theo chú giải, chính nhờ thần thông của Ðức Phật mà vị
Asura kia mới nhập vào xác chết được. Việc làm cho xác chết ngồi dậy,
ngay cả một số thầy bùa cũng có thể làm được. Do đó việc xác chết
của vị đạo sĩ dậy được do năng lực thần thông của Ð?c Phật là chẳng
có gì đáng nghi ngờ.
Những Lối Thực Hành Khác Thuộc Giới Cấm Thủ
Ngoài lối sống bắt chước theo bò và chó, còn có những
cách thực hành khác mà có thể được xem là giới cấm thủ. Một số người
bắt chước theo lối sống của voi, ngựa, v.v... Nói cách khác họ thờ
cúng loài vật. Chú giải nêu ra những người chuyên thờ cúng, ám chỉ những
người Miến Ðiện thích thờ cúng nhiều loại Nat (bái vật). Sự thờ
cúng Nat trong những người Miến Ðiện không phải do động cơ của ước
muốn được thoát khỏi luân hồi. Nó xuất phát từ ước vọng cầu lợi
ở đây và bây giờ, và theo đúng nghĩa của từ, nó không rơi vào phạm
vi giới cấm thủ, chỉ là thủ đối với niềm tin mà sẽ khiến một số
người giết thú để tế thần Nats.
Cũng có tập tục thờ lửa, thờ rồng, thờ thần mặt trăng,
mặt trời, thờ thần linh v.v... Nếu mục đích của bất cứ loại thờ
cúng nào nhắm đến hạnh phúc và giải thoát sau khi chết, thì đó là giới
cấm thủ. Tóm lại, tất cả mọi đường lối thực hành mà ở ngoài Tứ-diệu-đế
và Bát chánh đạo thì được mang nhãn hiệu là giới cấm thủ, sự chấp
theo chúng như là con đường dẫn đến giải thoát cũng là giới cấm thủ.
Vị hành giả đã chứng đắc tối thiểu là tầng thánh Nhập
lưu, qua pháp quán danh sắc, thì biết rõ con đường chân chánh dẫn đến
Niết-bàn, và vì vậy vị ấy thoát khỏi giới cấm thủ. Vị ấy thực sự
biết con đường dẫn đến sự chấm dứt đau khổ chỉ nhờ pháp quán về
danh sắc và con đường Bát chánh đạo.
Ví dụ: Nếu qua kinh nghiệm mà bạn biết cách đi từ thiền
đường này đến chùa Shwedagon, bạn sẽ không bị người khác dẫn sai
đường, cũng thế vị hành giả đạt đến tầng thánh Nhập lưu, biết
con đường chân chánh dẫn đến Niết-bàn và vì vậy vị ấy không còn
mê mờ tin vào thượng đế, sự thờ cúng Nat hay khổ hạnh, cho đó là con
đường giải thoát.
Những người không biết con đường chân chánh thì không
thoát khỏi ảo tưởng như vậy. Họ có thể đã tiếp nhận ảo kiến từ
cha mẹ ngu dốt, thầy tổ hay bạn bè, hoặc do kiến thức căn bản còn
kém cỏi của họ, nên họ tin vào những cuốn sách đề cao những niềm
tin và pháp hành sai lạc. Kẻ phàm phu không biết con đường chân chánh dẫn
đến Niết-bàn và vì vậy người ấy sẽ phải mò mẫm đi từ ông thầy
này đến ông thầy khác, từ sự thực hành này đến sự thực hành khác,
trong chuỗi luân hồi của họ. Nếu người ấy mê theo ông thầy tà kiến
hoặc lối thực hành lầm lạc nào đó, người ấy sẽ chuốc lấy nhiều
đau khổ. Như vậy, những sự thực hành khổ hạnh chỉ đem lại đau đớn,
và sự giết thú để tế thần chắc chắn sẽ dẫn đến các khổ cảnh.
Do giới cấm thủ mà người ta tin rằng thiền hữu sắc và
thiền vô sắc là sự giải thoát hoàn toàn. Tóm lại, ngay cả sự toàn hảo
về giới hay sự chứng đắc thiền định hợp thế, dầu đáng khen ngợi,
nhưng nếu tách rời khỏi con đường minh sát của bậc thánh và được
xem là sự giải thoát rốt ráo thì cũng dẫn đến giới cấm thủ. Bài
kinh Udakasutta của bộ samyutta nikàya nói về ẩn sĩ Udaka, là người sau khi
đã chứng thiền vô sắc và được sanh về cõi vô sắc, đã công bố rằng
ông ta đã đoạn tận nguyên nhân của khổ. Ðây cũng là tà kiến của một
vị ẩn sĩ khác, tên là Alàra. Ảo kiến hay loại thủ này dẫn đến thiện
nghiệp và nhờ đó cho sự tái sanh ở cõi vô sắc.
Bởi vậy, trong bài pháp mà Ðức Phật thuyết đến phạm
thiên Baka, Ngài nói rằng: "Ta thấy những nguy hiểm trong sự
sanh, già v.v... mà vốn có trong ba cõi: dục, sắc và vô sắc. Ta thấy những
người tầm cầu Niết-bàn mà vẫn còn chấp hữu. Bởi vậy, ta không khen
ngợi bất cứ mọi hữu nào, ta đã khước từ mọi hữu ái".
Giống như hai vị đạo sĩ kia, những người không biết
giáo pháp của Ð?c Phật thì sẽ không bao giờ đạt đến mục tiêu của họ.
Dầu họ tầm cầu hạnh phúc trường cửu, họ vẫn đi theo con đường sai
lạc của giới cấm thủ và bị vướng trong cái khổ của kiếp sống
luân hồi. Bởi vậy, sự nỗ lực thực hành theo chánh pháp quả thật tối
quan trọng
4. Ngã Ngữ Thủ (Sự Bám Chấp Theo Bản Ngã Hay Linh Hồn)
Attavàdu-pàdàna (ngã ngữ thủ) là một từ ghép của hai chữ
Attavàda và upàdàna.
Attavàda là lý thuyết hay quan điểm về bản ngã linh
hồn và Attavàdupàdàna là sự chấp theo quan điểm rằng: Mỗi người là một
linh hồn đang sống.
Ngã ngữ thủ có hai loại: Sự chấp thủ thông thường và
sự chấp thủ có căn cội sâu đậm. Sự chấp thủ bình thường phổ biến
trong những người Phật tử thiếu trí, thì không có hại cho sự tiến bộ
trên con đường thánh đạo. Niềm tin ấy không mang tánh chất sâu đậm, vì
người Phật tử chấp nhận giáo lý của Ðức Phật, là giáo lý phủ nhận
linh hồn trường cửu và công nhận danh sắc như là thực tại duy nhất đằng
sau một chúng sanh. Những người Phật tử có trí ít chấp ngã hơn, vì họ
biết rằng sự thấy, nghe, v.v... chỉ bao gồm các căn (mắt, tai v.v...), các
cảnh tương ứng (sắc, thinh v.v...) và những trạng thái tương ứng của tâm
thức.
Nhưng hầu hết mọi người đều không hoàn toàn thoát khỏi
ngã kiến này. Ngay cả vị hành giả thực hành minh sát đôi khi cũng có chấp
ngã, và nó hầu như hấp dẫn mọi người chưa chứng đắc thánh đạo.
Thực ra, những người rao giảng lý thuyết về bản ngã đã
mô tả bản ngã hay linh hồn là chủ nhân của năm uẩn, là thực thể độc
lập, có sự tự ý và tự quyết định. Chính quan điểm về tự ngã mà
Ðức Phật đã đưa ra câu hỏi của Ngài trong cuộc đàm đạo với đạo
sĩ Saccaka. Ð?c Phật nói rằng: "ngươi cho rằng thân này là của ngươi.
Vậy ngươi có thể giữ cho nó tốt đẹp luôn luôn và thoát khỏi những
điều bất lạc không?" Saccaka đã phải trả lời bằng sự phủ
định. Sau khi Ð?c Phật hỏi thêm một câu nữa, Saccaka tự thú nhận
rằng thực ra anh ta không kiểm soát được uẩn nào cả.
Bởi vậy, các vị trưởng lão ngày xưa đã diễn dịch
câu Pàli "Rùpam anattà" là "Sắc thân không chịu sự
kiểm soát nào cả" v.v... Thực ra, đó là sự phủ nhận thuyết bản
ngã, là thuyết cho rằng bản ngã là một thực thể có sự kiểm soát. Mọi
người bình thường đều chấp theo quan điểm này và tin vào sự tự ý
(do ta). Có thể đoạn diệt hoàn toàn ngã kiến này bằng pháp hành minh
sát.
Những vị giáo chủ của thuyết bản ngã cũng nói rằng
cái ngã tồn tại thường hằng trong thân. Nói cách khác, nó có nghĩa là
cá tính phụ trợ để tồn tại trong suốt kiếp sống.
Lại nữa, người ta nói rằng cái ngã làm chủ mọi hành
động, tức là đồng hóa nó với hành uẩn. Ðó là ảo tưởng đẻ ra niềm
tin rằng: "Chính tôi thấy, nghe, v.v..."
Người ta cũng nói rằng cái ngã là thực thể sống, biết
cảm thọ; Rằng chính cái ngã (ta) được hạnh phúc hay không hạnh phúc.
Nói cách khác, họ cho cái ngã hay linh hồn là cảm thọ (vedanà).
Như vậy, dầu các ngã kiến sư vẫn khăng khăng cho rằng cái
ta chẳng có liên quan gì đến năm uẩn, họ vẫn tin nó là chủ nhân của
cái thân v.v... thường trú ở trong thân, có chủ quyền và cảm thọ. Và
vì vậy, kết quả là họ đồng hóa ngã với năm uẩn. Ngã kiến có gốc
rễ trong các uẩn và người ta có thể diệt trừ ngã kiến ấy chỉ khi
nào họ thấy rõ bản chất chân thực của các uẩn qua pháp quán.
Trong bốn loại thủ, loại thứ nhất-dục thủ-là hình thức
phát triển của ái. Ba loại kia chỉ khác về đối tượng của chúng.
Trên căn bản thì chúng đều có liên hệ đến các tà kiến, niềm tin vào
tính có hiệu quả của những sự thực hành ngoài Bát chánh đạo. Tất cả
tà kiến khởi sanh đều có liên quan đến ái.
Người ta chấp theo một niềm tin nào đó vì họ thích nó.
Như vậy, không nghi ngờ rằng cả bốn loại thủ đều xuất phát từ ái
và vì thế, điều ấy đúng với pháp Phật là: "Do ái, thủ khởi
sanh".
Trên thực tế, ái là nguyên nhân và thủ là kết quả. Ái
đối với dục lạc, ngã kiến hoặc những pháp hành không phù hợp với
thánh đạo hay những tà kiến khác, ái là nhân và ái này phát triển
thành dục thủ, ngã kiến thủ, v.v... Do đó, các thủ là quả.