- Chuyển Pháp Luân
và Tứ Diệu Ðế
- Maha Thongkham và Huỳnh Văn Niệm soạn
dịch
- dựa theo quyển "The Word of
the Buddha" của Hòa thượng Nyanatiloka
- Tái bản năm 1995 tại Sài Gòn
Phần I - CHUYỂN PHÁP LUÂN
I-1
BỐ CÁO KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
DHAMMACAKKAPPVATTANASUTTÀRAMBHO
-ooOoo-
Anuttaram abhisambodhim sambujjhitvà tathàgato. Pathamam yamadesesi, dhammacakkam
anuttaram. Sammadeva pavattento loke appativattiyam.
Ðức Như Lai là Ðấng Giáo Chủ, đã chứng bậc Vô thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác, những pháp trong thế gian chẳng ai hành được, Ngài
có thể làm cho hành theo được rất chơn chánh.
Yathàkkhàtà ubho antà, patipattica majjhimà. Catùsvàriyasaccesu, visuddham
nànadassanam.
Ngài chuyển Pháp Luân lần đầu giảng giải về 2 pháp
thái quá, là pháp thấp thỏi, cùng con đường
Trung đạo và Trí tuệ hiểu thấy phân minh Tứ Diệu Ðế là trí tuệ
thanh bạch.
Desitam dhammaràjena. Sammàsambodhikittanam. Namena vissutam suttam.
Nay tôi tụng kinh Chuyển Pháp Luân
của đức Chánh Biến Tri, là bậc Pháp vương
đã diễn giải chắc chắn.
Dhammacakkappavattanam. Veyyàkakaranapàthena, sangìtantam bhanàmase.
Kinh ấy công bố về quả Chánh Biến Tri, mà các bậc A Xà
Lê đã hội họp kết lập, chỉnh đốn theo Phạn
ngữ (Pali) bằng văn thường, không lẫn lộn kệ ngôn.
-ooOoo-
I-2
KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
DHAMMACAKKAPPAVATTANASÙTRA
Evam me sutam.
Tôi (tên là A Nan Đa) được nghe lại
như vầy:
Ekam samayam bhagavà bàrànasiyam viharati isipatane migadàye.
Thưở đức Thế Tôn ngự tại rừng Hưu
(Isipatanamigadayavana) gần thành Bàrànasì.
Tatra kho bhagavà pancavaggiye bhikkhù àmantesi.
Ðức Thế Tôn một hôm gọi 5 thầy Tỳ Khưu, ngụ nơi ấy,
dạy rằng:
Dveme bhikkhave antà pabbajitena na sevitabhà.
Này các thầy Tỳ Khưu! Hai pháp thái quá, là pháp tu thấp
thỏi. Những bậc xuất gia, chẳng nên xu hướng theo, chẳng nên hành theo.
Katame dve?
Hai pháp thái quá ấy, thế nào?
Yo càyam kàmesu kàmasukhallikà nuyogo hìno, gammo.
Một là pháp làm cho thân tâm quyết luyến theo tình dục,
pháp hèn hạ.
Pothujjaniko, anariyo.
Pháp của kẻ thế, pháp của phàm nhơn, chẳng phải của bậc
cao nhơn.
Anatthasanhito.
Chẳng có lợi ích chi.
Yocàyam attakilamathànuyogo dukkho.
Hai là, pháp làm cho khổ khắc thân tâm, nhân làm cho thân
hình đau đớn
Anariyo.
Chẳng phải là pháp của bậc cao nhơn.
Anatthasanhito
Chẳng có lợi ích chi.
Ete kho bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimà patipatà. Tathàgatena.
Abhisamnuddhà cakkhukaranì nànakaranì upsamàya abhinnàya sambodhàya nibbànàya
samvattati.
Này các thầy Tỳ Khưu! Sự tu hành theo con đường giữa,
không thiên theo 2 con đường thái quá ấy, mà Như
Lai đã được đại ngộ, là pháp làm cho phát sanh, sự thấy biết
phân minh, sự an tịnh có trí tuệ, sự hiểu biết chơn chánh, sự dứt khổ.
Katamà casà bhikkhave majjhimà patipadà tathàgatena abhisambuddhà cakkhukatanì
nànakaranì upasamàyasambodhàya nibbàya samvattati.
Này các thầy Tỳ Khưu! Phép tu hànhh theo con đường giữa,
mà Như Lai đã được đại ngộ, là sự tu
hành cho pháp sanh trí tuệ nhãn, sự hiểu biết phân minh chính xác, sự an
tịnh có trí tuệ, sự hiểu biết chơn chánh, sự dứt khổ ấy là thế
nào?
Ayameva ariyo atthangiko maggo
Là Bát Chánh Ðạo, pháp như con đường có 8 chi cao thượng.
Seyyathidam?
Bát Chánh Ðạo ấy thế nào?
Sammàditthi, Sammàsankappo, Sammàvàcà, Sammàkammanto, Sama-àjìvo, Samàvàyamo,
Sammàsati, Sammàsamàdhi
Thấy hiểu chơn chánh, Suy nghĩ chơn chánh, Nói lời chơn chánh.
Nghề nghiệp chơn chánh, Nuôi mạng chơn chánh, Tinh tấn chơn chánh, Tư tưởng
chơn chánh, Ðịnh Tâm chơn chánh.
Ayamkho sà bhikkhave majjhimà patipadà tathàgatena abhisambuddhà cakkhukaranì
nànakaranì upasamàya abhnnàya sambodhàya nibbànàya samvattati.
Này các thầy Tỳ Khưu! Bát Chánh Ðạo là con đường giữa,
mà Như Lai đã đi và được đại ngộ, là sự
tu hành theo, cho đặng phát sanh tuệ nhãn, sự hiểu biết phân minh thật tướng,
tu cho đặng sự an tịnh, cho có trí tuệ, cho đặng
hiểu biết chơn chánh, cho đặng dứt khổ.
Idam kho pana bhikkhave dukkham ariyasaccam jàtipi dukkhà, jaràpi dukkhà, byâdhipi
dukkhà, maranampi dukkham, (soka parideva dukkhado ma nassupàyàsàpi dukkhà) appiyehi
sampayago sukkho, piyehi vippayogo dukhho, yampiccham na labhati, tam po dukkham.
Này các thầy Tỳ Khưu! Sanh, là sự hội hợp Ngũ Uẩn, là
nhân đem đến sự khổ. Lão là sự già cả
yếu đuối, cũng là nhân đem đến sự khổ, bịnh
là sự đau ốm, cũng là nhân đem đến sự khổ. Tử là sự tan rãn
Ngũ Uẩn, cũng là nhân đem đến sự khổ. U?t
ức, bực tức trong lòng, không bày tỏ ra được, cũng là nhân đem đến sự khổ. Không ưa mà hợp, cũng là nhân
đem đến sự khổ; ưa mà phải lìa, cũng là
nhân đem đến sự khổ.
Sankhittena pancuppàdànakkhandhà dukkhà.
Các sự thống khổ đầu hết có
sanh khổ ấy, gọi l à Khổ Diệu Ðế.
Idam kho pana bhikkhave dukkhasamudayam ariyasaccam yàyam tanhà ponobbhavikà
nandiràgasahagatà.
Này các thầy Tỳ Khưu! Sự thương muốn hằng tạo ra kiếp
thoát sanh mới, do bởi tình dục là mối ham muốn trong lòng, thường thường
ưa thích điều vui sướng theo các cảnh giới. Sự thương muốn ấy là thế
nào?
Tatra tatràbhinandinì seyyathi damkàmatanhà bhavatnhà vibhavatannhà.
Sự thương muốn ấy là:
- ca má tanh ha (kàmatanhà): Ái dục trần thế dục giới.
- phá qua tanh ha (bhavatanhà): Ái dục sanh trong sắc giới (vì thường kiến).
- quí phá quá tanh ha (vibhavatanhà): Ái dục sanh trong vô sắc giới (vì đoạn
kiến).
Có 3 sự thương muốn ấy gọi là Khổ Tập Diệu Đế.
Idam kho pana bhikkhave dukkhanirodhayam ariyasaccam yo tassàyeva tanhàya
asesaviràganirodho càgopatinis saggo mutti anàlayo.
Này các thầy Tỳ Khưu! Cách dứt khỏi sự thương muốn,
chẳng còn dư sót do nhờ Bát Chánh Ðạo. cách tránh khỏi Ái dục chẳng
còn dư xót, do nhờ Bát Chánh Ðạo ấy, gọi là Diệt Khổ Diệu Đế.
Idam kho pana bhikkhave dukkhanirodhagàminì patipadà ariyasaccam ayameva ariyo
atthangiko maggo seyyathìdam samàditthì sammàsankappo sammvàcà sammàkammanto
sammaààjìvo sammàvàyâmo sammàsati sammàsamàdhi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Bát Chánh Ðạo cao thượng ấy là
thế nào? Là: Hiểu biết chơn chánh, Suy nghĩ chơn chánh, Nói lời chơn chánh,
Nghề nghiệp chơn chánh, Nuôi mạng chơn chánh, Tinh tấn chơn chánh, Tư tưởng
chơn chánh, Ðịnh tâm chơn chánh.
Bát Chánh Ðạo ấy gọi là Diệt Khổ Đạo Diệu Ðế.
1. Idam dukkham ariyasaccan ti me bhikkhave pubhe ananussutesu dhammesu cakkhum
udapàpi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà udapàdi, àloko udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài
nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Đây là Khổ Diệu Đế như thế
.
2. Tam kho padidam dukkham ariyasaccam parinneyan ti me bhikkhave pubhe ananussutesu
dhammesu cakkhum udapàpi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà udapàdi, àloko
udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài
nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai chưa từng được nghe, được hiểu rằng Khổ Diệu Đế nầy, nên
ghi nhớ bằng Trí tuệ như thế .
3. Tam kho padidam dukkham ariyasaccam parinnatan ti me bhikkhave pubhe ananussutesu
dhammesu cakkhum udapàpi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà udapàdi, àloko
udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã
thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm
phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh
đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được nghe, được hiểu rằng Khổ Diệu Đế nầy, Như Lai đã
ghi nhớ được rồi như thế .
4. Idam dukkhasamudayam ariyasaccan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum
udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài
nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Ðây là Khổ Tập Diệu Ðế
như thế.
5. Tam kho panidam dukkhasamudayam ariyasaccam pahàtabban ti me bhikkhave pubbe
ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi,
àloko udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát
sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến
Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được nghe, được thấy, hiểu rằng: Khổ Tập Diệu Ð?
này phải dứt trừ như thế.
6. Tam kho panidam dukkhasamudayam ariyasaccam pahìnan ti me bhikkhave pubbe
ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi,
àloko udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài
nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được nghe, được thấy, được hiểu rằng: Khổ Tập Diệu Ð?
này Như Lai đã hành được phân minh như thế.
7. Idam dukkhanirodham ariyasaccan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum
udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài
nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như
Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được nghe, được hiểu rằng: Ðây là Khổ Diệt Diệu
Ðế như thế.
8. Tam kho panidam dukkhanirodham ariyasaccam sacchikàtabhan ti me bhikkhave pubbe
ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi,
àloko udapàdi
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài
nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được thấy, hiểu rằng: Khổ Diệt Diệu Ð? này, phải
hành cho phân minh như thế.
9. Tam kho panidam dukkhanirodham ariyasaccam sacchikàtan ti me bhikkhave pubbe
ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi,
àloko udapàdi
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài
nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được thấy, hiểu rằng: Khổ Diệt Diệu Ð? này, Như Lai
đã hành cho phân minh như thế.
10. Idam dukkhanirodhagàminì patipadà ariyasaccan ti me bhikkhave pubbe ananussutesu
dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi, vijjà upadàdi, àloko
udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã thấy rõ phát sanh, tuệ biết
rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài
nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được thấy, hiểu rằng: Ðây là Diệt Khổ Đạo Diệu Đế như thế.
11. Tam kho panidam dukkhanirodhagàminì patipadà ariyasaccam bhàvetabban ti me
bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi,
vijjà upadàdi, àloko udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã
thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm
phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh
đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được thấy, được hiểu rằng: Diệt Khổ Đạo Diệu Ð?
này, phải hành cho tăng tiến như thế.
12. Tam kho panidam dukkhanirodhagàminì patipadà ariyasaccam bhàvitan ti me
bhikkhave pubbe ananussutesu dhammesu cakkhum udapàdi, nànam udapàdi, pannà udapàdi,
vijjà upadàdi, àloko udapàdi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Tuệ đã
thấy rõ phát sanh, tuệ biết rõ đã phát sanh, tuệ biết không sai lầm
phát sanh, tuệ đoạn tuyệt hoài nghi phát sanh, tuệ diệt vô minh phát sanh
đến Như Lai rồi.
Trong các pháp mà lúc đầu Như Lai
chưa từng được thấy, được hiểu rằng: Diệt Khổ Đạo Diệu Ð?
này, Như Lai đã hành cho tăng tiến rồi như thế.
Yàvakivanca me bhikkhave imesucatùsu ariyasaccesu evam tiparivattam dvàdasàkàram
yathàbhùtam nànadassanam na suvisuddham ahosi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Bao giờ tuệ biết rõ, thấy rõ
theo lẽ chánh, ba luân, mười hai thể vận chuyển trong Tứ Diệu Ðế ấy
chưa phát sanh trong sạch đến Như Lai.
(Ba luân là: Tuệ thấy rõ Diệu đế, Tuệ thấy rõ
"sự" trong Diệu Ðế. Tuệ thấy rõ "sự" trong Diệu Ðế
đã hành rồi, trong 3 luân ấy vận chuyển như bánh xe. Mỗi Diệu Ðế có
3 luân, bốn Diệu Ðế thành: 3x4=12 thể )
Neva tàvàham bhikhave sadevake loke samàrake sabramake sassamanabramaniyà pajàya
sadevamanussàya anuttaram sammàsambodhim abhisambuddho paccannàsim.
Này các thầy Tỳ Khưu! Trong khi Như Lai chưa có sự hiểu
biết cao siêu hơn trong các thế giới luôn cả cõi trời, cõi Ma Vương, cõi
Phạm Thiên, trong vòng nhất thiết, chúng sanh, luôn cả bậc Sa Môn và Bà
La Môn, thì Như Lai cũng chưa gọi mình là bậc chứng quả Chánh Biến Tri vậy.
Yato ca kho me bhikkhave imesu catùsuariyaccsu tiparivattam dvàdasàkàram
yathàbhùtam nànadassanam suvisuddham ahosi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Khi nào tuệ biết rõ, thấy rõ theo
lẽ chánh, có ba luân, mười hai thể theo trong Tứ Diệu Ðế ấy đã phát
sanh trong sạch đến Như Lai.
Athàham bhikkhave sadevake loke samàrake sabramake sassamanabràmaniyà pajàya
sadevamanussàya anuttaram sammàsambodhim abhisambuddho ti paccannàsim.
Này các thầy Tỳ Khưu!Thì Như Lai được gọi là bậc Vô
Thượng Chánh Biến Tri vì trong các thế giới luôn những cõi trời, cõi Ma
Vương, cõi Phạm Thiên, trong vòng nhất thiết chúng sanh, luôn cả bậc Sa
Môn và Bà La Môn, cùng chư nhơn và ngoài hạng người ra nữa, chẳng có sự
hiểu biết nào, cao siêu hơn sự hiểu biết của Như Lai.
Nananca pana me dassanam udapàdi akuppà me vimutti, ayamantimà jati natthi dàni
punabbhavoti.
Tuệ biết rõ, thấy rõ đã phát sanh cho nên Như Lai sự giải
thoát phiền não của Như Lai chẳng còn lay động
biến đổi nữa, kiếp này là kiếp chót, từ đây Như Lai chẳng còn
thọ sanh ra kiếp khác nữa
Idamavoca bhagavà attamanà panca vaggiỳa bhikkhù bhagavato bhàsitam abhinandunti.
Ðức Thế Tôn giải kinh "Chuyển Pháp Luân" rồi, năm
thầy Tỳ Khưu phát lòng hoan hỷ vô hạn.
Imasmimca pana veyyàkaranasmim bhannassa virajam vìtamalam dhamma cakkhum udapadi,
yamkinci samudayyadhammam sabbantamnirodhadhamman ti.
Trong khi đức Như Lai giảng giải về
kinh vô kệ nà y, thì pháp nhãn là đạo Tu đà
hườn, đạo diệt trừ bụi nhơ là tình dục, phát sanh đến Kiều
Trần Như, ngài đã biết rõ: Cái chi có tánh cách sanh tự nhiên, đều có
tánh cách diệt tự nhiên.
Pavattile ca bhagavatà dhammacakke bhummà devà sadamanussà vesum etam bhagavatà
bàrànàsiyam isipatane migadàya anuttaram dhamma – cakkam pavattitam appativattiyam
samanena và bràmanena và devenavà màrena và bramunà và kenaci và lokasmin ti.
Khi đức Như Lai giảng giải kinh
Pháp Luân vừa dứt, tất cả Chư Thiên ngự trên địa cầu bèn ca tụng rằng,
bánh xe pháp này là bánh xe vô thượng, những Sa Môn, Bà La Môn, Chư Thiên,
Ma Vương, Phạm Thiên hoặc một bậc nào trong thế giới đều không diễn giải được. Chỉ có đức Như Lai Ngài
đã diển giải rồi, trong rừng Isipatanamigadàyâ, gần thành
Bàrànasì.
Bhummànam devànam saddhamsutvà càtummahàràyikà devà saddama nussàvesum:
"etam bhagavatà bàrànasìyam isipatanamigadàyà anuttaram dhammacakkam pavattiyam
appativattiyam samanena và bràhmanena và devena và màrena và brahmunà vàkenaci và
lokasmin" ti.
Chư Thiên trong cõi Tứ Ðại Thiên Vương được nghe tiếng
ca tụng của chư thiên ngự trên địa cầu, rồi bèn đồng nhau ca tụng
theo lời ngợi khen ấy.
Càtummahàràjikànam devànam saddam sutvà tàvatimsà devà sadamanussà vesum.
Chư thiên trong cõi trời Ðạo Lợi được nghe tiếng của
chư thiên trong cõi trời Tứ Ðại Thiên Vương, rồi liền ca tụng y như thế
ấy.
Tàvatimsànam devànam saddam sutvà yâmà devà saddamanussàvesum.
Chư thiên trong cõi trời Dạ Ma được nghe tiếng của chư
thiên trong cõi trời Ðạo Lợi rồi cũng đều ca tụng lời ngợi khen ấy.
Yàmànam devànam saddam sutvà tusidà devà saddamanussàvesum.
Chư thiên trong cõi trời Ðâu Suất Ðà được nghe tiếng của
chư thiên trong cõi trời Dạ Ma, rồi cũng rập nhau ca tụng theo nữa.
Tusitànam devànam saddam sutvà nimmànaratì devà saddamanussàvesum.
Chư thiên trong cõi trời Hoá Lạc Thiên được nghe tiếng của
chư thiên trong cõi trời Ðâu Suất Ðà rồi đồng thinh ca tụng tiếp theo.
Nimnànaratìnam devànam saddam sutvà paranimmitavasavattì devà saddamanussàvesum.
Chư thiên trong cõi trời Tha Hoá Tự Tại, được nghe tiếng
của chư thiên trong cõi trời Hoá Lạc Thiên rồi đồng nhau ca tụng lời
ngợi khen ấy.
Paranimmitavasavattìnam devànam saddam sutvà brahmakàyikà devàsaddamanussavesum:
"etam bhagavatà bàrànasìyam ispatane migadàye anuttaram dhammacakkam pavattitam
appativattiyam samanena và bràhmanena và devena và màrena vàbràhmunà và kenaci
và lokasmin" ti.
Chư thiên trong hàng Phạm Thiên, được nghe tiếng của chư
thiên trong cõi trời Tha Hoá Tự Tại rồi, cũng lập lại lời ca tụng như
vầy: Chẳng có Pháp Luân nào cao siêu hơn Pháp Luân này, chư Sa Môn, Bà La
Môn, chư thiên, Ma Vương, Phạm Thiên hoặc một người nào trong các thế
giới cũng chẳng diễn giải được, chỉ có đức
Như Lai Ngài đã giảng giải rồi, trong
rừng Isipatanamigadayavana, gần thành Bàrànasì.
Itiha tena khanenatena layenatena muhuttena yâva brahmalokà dasasahssì lokadhàtu
sankampi sampakampi sampavedhi.
Tiếng ca tụng liên tiếp vang dội đến cõi Phạm Thiên chỉ
trong nháy mắt. Do sự truyền báo ca tụng mà cả 10.000 thế giới thảy đều rung động, luôn cả trên dưới và các phương.
Appamàno ulàro obhà loke pàturahosi atikkamma devànam devànubhàvanti.
Có cả hào quang rực rỡ vô cùng vô tận, cao siêu hơn tất
cả hoà quang của chư thiên, chiếu diệu trong thế giới.
Atha kho bhagavàimam udànam adànesi "annasi vata bho kondanno" annasi vata
kondanno ti".
Liền đó đức Như Lai là Ðấng
Giáo Chủ, bèn lên tiếng rằng: Kiều Trần Như đã được đại ngộ, A Nhã Kiều Trần Như đã được đại
ngộ.
Iti hitam àyasmato kondannassa annàsi kondanna tveva nànam ahosìti.
Từ đây A Nhã Kiều Trần Như được
gọi là đức Kiều Trần Như.
-ooOoo-
II-2
CHUYỂN PHÁP LUÂN
Sáng ngày 14 tháng 6 âm lịch năm Dậu, đức Thế Tôn ngự đi khất thực về thọ thực
xong. Ngài mới ngự đến vườn Lộc Giả để thuyết pháp để độ 5 vị
Kiều Trần Như. Ngài phải đi bộ 18 do tuần. Chư Phật lúc quá khứ, khi
ngự đi thuyết pháp lần đầu tiên đều dùng thần thông bay đi, chỉ có
đức Thế Tôn của chúng ta hiện tại ngự đi bộ, vì Ngài trông thấy
duyên lành của một người ngoại đạo tên
Upakàjivaka nên Ngài chỉ nghĩ rằng: "Nếu Như Lai dùng thần thông bay
đi thì người ngoại đạo này sẽ không gặp được
Như Lai để hỏi thăm và ca tụng Như Lai thì sau này sẽ không có
duyên lành để xuất gia đúng theo Giáo Pháp".
Khi Ngài đang ngự đi, hào
quang 6 màu sáng rỡ. Người ngoại đạo tên Upakà trông thấy tướng mạo
và hào quang của đức Thế Tôn lấy làm lạ, phân vân không biết chư thiên
hoặc chi chi nên kính cẩn đến gần lễ phép hỏi: "Này thầy, lục căn
của thầy thật thanh tịnh, trong người của thầy có hào quang 6 màu chiếu
sáng. Thầy tên chi? Xuất gia với ai? Ai là thầy của thầy?"
- Này Upakàjivakha, tâm của Như Lai không còn ham mê trong trần
cảnh, dứt bỏ tất cả các ác pháp, không còn Ái dục, chấp Ngũ Uẩn. Ta
là người cao cả hơn tất cả chúng sanh trong Tam
Giới, tự ta đắc quả vô thượng Chánh Ð?ng Chánh Giác, thì có ai
làm thầy Như Lai? Như Lai là đấng có 10 hồng danh mà chư thiên và Phạm
Thiên hằng ca tụng. Nay Như Lai ngự đến vườn Lộc
Giả chuyển Pháp Luân, đánh trống pháp cho chúng sanh thức tỉnh trong
giấc mộng vô minh, và thấy rõ các pháp.
Khi Upaka nghe vậy mới nghĩ rằng: "Thầy Sa Môn này nói
giọng rất thanh tao, lời nói dịu ngọt, thân hình thật đẹp", thầy
mới phát tâm trong sạch nói rằng: "Thật thầy là người có nhiều
công đức tự mình Giác Ngộ. Vậy thầy là người được tên là
Anantajina (có nghĩa là Thắng Hoá Ðến Nơi Cùng Tột). Thầy là người hơn
tất cả chúng sanh."
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm mầm tin nên
Ngài mới dạy thêm rằng: "Này Upakàjivakha, những người hết phiền não
trong thế gian này là người thắng hoá trong mọi nơi. Không còn một nhân
vật nào bằng Như Lai. Vì vậy Như Lai cũng đáng có tên là Anantajina như
ngươi đã tặng."
Thầy ngoại đạo ấy nghe thế liền
gật đầu tán thưởng và nói: "Thật đúng như vậy". Rồi bỏ
đi.
Chiều ngày rằm tháng 6 âm lịch năm
Dậu.
Năm thầy Kiều Trần Như tắm xong rồi đàm đạo với
nhau. Khi ấy lại nhớ đến đức Thế Tôn nói với nhau rằng: "Này
các bạn, sau khi chúng ta bỏ ra đi, không biết thầy Sa Môn Cồ Ðàm
ở nơi nào, giờ đây đang ngồi đâu, đang làm
gì, không biết Ngài có nghĩ nhớ đến chúng ta chăng?"
Nói vừa dứt lời thì đức Thế Tôn
cũng vừa ngự đến, hào quang sáng ngời, 5 ông trông thấy hào quang
sáng ngời rực rỡ lấy làm lạ và kinh sợ. Mỗi ông ngó một hướng coi
ánh sáng ấy từ đâu đến. Có một ông thấy trước
nên mới gọi các vị kia rằng: "Các bạn ơi, thầy Sa Môn Cồ
Ðàm đi tìm ta. Ngài đã bỏ sự hành đạo tinh tấn,
đi khất thực ăn, khác thường nhiều lắm, thì làm sao đắc quả vô
thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác được? Chắc ông ở một mình buồn nên
tìm đến chúng ta. Nếu ông ta thích nơi nào thì ngồi nơi ấy".
Tuy cả 5 vị đồng ý với nhau. Nhưng
khi đức Thế Tôn ngự đến thì các ông không thể ngồi yên được
vì oai đức của đức Thế Tôn, các ông lăng
xăng, ông thì tiếp bát, ông thì múc nước rửa chân. Ðức Thế Tôn
an vị xong, 5 thầy mới hỏi: "Này thầy Cồ Ðàm, thầy mạnh giỏi chớ?
Ði khất thực cũng được đầy đủ chớ?"
Khi nghe các vị ấy gọi tộc của Ngài như vậy. Ngài mới
dạy rằng: "Này các thầy, các thầy không nên gọi Như Lai như vậy, vì
Như Lai đã đắc quả vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác rồi. Vậy các thầy
hãy nghiêng tai thính pháp. Như Lai sẽ giải nơi vô sanh bất diệt là Niết
Bàn, các thầy hành theo lời của Như Lai thì sẽ được hưởng hương vị
của quả vô sanh bất diệt là đại Niết Bàn".
Mặc dầu đức Thế Tôn dạy như
thế, các thầy cũng vẫn gọi tộc của Ngà i. Ðức Thế Tôn mới dạy
rằng: "Này các thầy, các thầy hãy nhớ lại coi, từ trước tới nay.
Như Lai từng nói với các thầy như thế này bao giời chưa? Vậy các thầy
hãy lắng tai nghe thính pháp".
Khi ấy các thầy không dám gọi ngay tộc của Ngài nữa.
Nên Ngài bắt đầu thuyết pháp đầu tiên
là Chuyển Pháp Luân.
* * *
Nơi đây xin nhắc sơ lược về bà i
kinh Chuyển Pháp Luân. Quý vị muốn xem rõ xin xem trong quyển Kinh Tụng của
Ðại đức Hộ Tông dịch nguyên văn (xem phần I-1 ở trên).
Trong bài Chuyển Pháp Luân tóm lại Ðức Phật dạy: Không
nên hành theo 2 điều thái hoá, nên hành theo Trung đạo. Sau ấy là pháp Tứ
Diệu Ðế.
Nhân tiện đây tôi xin cống hiến
quí vị phép Tứ Diệu Ð ? theo Chú giải và Phật ngôn hầu quí vị
tiện bề nghiên cứu. Tôi có ý định giải pháp này từ lâu, nhưng chưa có
dịp.
Ðức Thế Tôn được gọi là bậc Chánh Ðẳng Chánh Giác
là nhờ nơi Ngài Giác Ngộ được Tứ Diệu Ðế. Và Tứ Diệu Ðế là
pháp mà ngoài ra đức đại Giác Ngộ không ai hiểu
thấu.
Ariyasacca là Phạn ngữ, ta dịch là Tứ Diệu Ðế. Trước
hết ta nên hiểu thêm về tiếng gọi Ariyasacca.
Ariya có nghĩa là cao quý hay thánh. Sacca có nghĩa
là thật. Ariyasacca có nghĩa là sự thật cao quí hay Diệu Đế, hay sự
cao quí của bậc Thánh Nhơn, vì Phàm Nhơn mà thông hiểu và thấu đáo các
pháp ấy tức nhiên không còn luân hồi nữa. Trở thành thánh. Tiếng nói
Ariyasacca thật cao quí ấy có 2 ý nghĩa là:
- Ariyasacca: thật cao quí mầu nhiệm. Ý nói sự thật của
4 pháp ấy thật là cao sâu mầu nhiệm. Người còn phiền não không bao giờ
nhận định được, nếu không phải là đấng Đại
giác thì không thể nào nhận định nổi.
- Ariyasacca: thật cao quí mầu nhiệm. Ý nói người thông đạt
được ý nghĩa cao sâu mầu nhiệm của 4 pháp ấy thì người ấy trở
nên bậc vĩ nhân cao quí tuyệt đối trong cõi Ta-bà này.
Xin giải thêm ý nghĩa của câu thứ nhất. Tứ Diệu Ðế
là sự thật cao quí nói về pháp có đầy đủ
nguyên nhân cao quí mầu nhiệm ví như kim cương có sự quí riêng của
nó, là phẩm chất đẹp quí có giá trị thật cao ai ai cũng ưa chuộng. Nó
không phải là vật mà có ngày kia phải thay đổi mầu sắc hay phẫm của
nó. Không phải như những vật khác vì thời gian mà làm giảm mất giá trị
vì nó củ.
Câu thứ nhì: câu này có một ít làm cho ta phân vân hoài
nghi vì nó làm cho người trở nên cao quí. Vì vậy tôi (soạn giả) xin đặt
ra câu hỏi và trả lời để làm rõ lý ra cho quí vị dễ hiểu hơn.
Vấn: Tại sao Tứ Diệu Ðế làm cho người trở nên cao
quí?
Ðáp: Ý câu này nói rằng: Khi nào người hiểu và thực
hành triệt để theo pháp Tứ Diệu Ðế, tâm của người ấy sẽ thay đổi
từ chỗ còn ham mê thích thú trong Tam Giới trở nên người không còn mến
tiếc ham muốn gì trong Tam Giới dầu là Ngũ Uẩn này.
Vấn: Ta chỉ biết rằng: Ðây Khổ, Tập, Diệt, Đạo, như
thế ta cũng trở thành cao quí sao?
Ðáp: Người hiểu đây là Khổ, Tập, Diệt, Đạo như ông
nói nhưng không thực hành theo, thì không có ích chi hết. Cũng như con két
biết nói tiếng người nhưng chính nó không rõ ý nghĩa, nếu có biết chăng
chỉ biết sơ sơ vậy thôi. Vì vậy không làm cho người ấy trở nên cao
quí.
Sở dĩ nói rằng: Làm cho người cao quí khi người ấy học
hiểu xong pháp Tứ Diệu Ðế rồi lại sáng triệt để thực hành theo bước
đầu tiên là làm cho người tuần tự dứt bỏ
phiền não cho đến khi hoàn toàn trong sạch Phiền Não, không còn khổ. Trí
tuệ thấy thật sự Khổ, nhân sanh Khổ, diệt được Khổ và đạo pháp
hành diệt tắt Khổ, hay là con đường đi đến
nơi không còn khổ nữa.
Người hiểu thấu rõ rệt như thế nghĩa là người thấy
bằng tuệ nhãn hay cũng gọi là pháp nhãn. Người ấy trở nên người cao
thượng vì người ấy không còn làm tội lỗi và còn trở thành luân hồi
nữa.
Sự hiểu biết Tứ Diệu Ðế một có định nghĩa rõ rệt,
người hiểu và thực hành đúng theo mới đắc đạo
được mới gọi là cao quí.
Hiểu như chúng ta không khác nào cái hiểu của trẻ con
còn bé chỉ biết vàng chớ không hiểu giá trị của vàng và không biết
dùng vàng để làm chi cho có ích.
Dưới đây là định luật của
người mà gọi là hiểu rõ Tứ Diệu Ðế:
Khổ, Tập, Diệt, Đạo, mỗi điều
chia làm 3 giai đoạn khác nhau mà người cần phải hiểu 3 giai đoạn nà y
gọi là Ba Luân. Ba luân nhân cho 4 điều khổ, tập,
diệt, đạo ra 12 điều gọi là 12 thể. Ðây là định luật mà người
hiểu Diệu Ðế thực sự đều hiểu rõ rệt.
Người hiểu Khổ có 3 luân là:
- Sự Khổ có thật.
- Nên biết có Khổ
- Khổ mà người ấy đã thấy rõ rồi
Người hiểu Tập có 3 luân:
- Ái dục là nhân làm cho sanh Khổ thật.
- Nên hiểu rõ mặt của Ái dục
- Ái dục là người đã thấy rõ rồi.
Người hiểu Diệt có 3 luân là:
- Diệt có thật.
- Nên hiểu rõ Diệt
- Diệt mà người đã hiểu rõ rồi
Người hiểu rõ Đạo có 3 luân là:
- Đạo có thật
- Nê n hiểu rõ Đạo
- Đạo mà người hiểu rõ, đầy đủ rồi.
Ðiều nên chú ý là: Sự hiểu rõ pháp Tứ Diệu Ðế có
khác hơn sự hiểu thường. Vì cái hiểu của pháp Tứ Diệu Ðế còn cần
phải hành theo chính chắn là diệt trừ phiền não, và biết rõ rằng:
Trong tâm không còn tí phiền não nào cả. Ví như người bịnh biết chính
mình đang thọ bịnh và biết:
- Đây là thuốc.
- Đây là thuốc chữa bịnh của ta đang bịnh.
- Ð ã uống thuốc ấy và nhờ thuốc ấy mà bịnh tình cũng đang thuyên
giảm từ từ, và chắc rằng sẽ đến nơi lành mạnh.
Người bịnh này ví như chúng sanh đầy phiền não đang bị đau khổ trong biển luân hồi, người này lại học
được pháp Tứ đế, hành theo pháp ấy, và cũng nhờ vậy mà từ diệt
được phiền não như người uống thuốc bịnh thuyên giảm lần lần, rồi
mạnh hẳn, nghĩa là giải thoát hẳn.
-ooOoo-
I-3
LUẬN VỀ KHỔ
T rong pháp Tứ Diệu Ðế pháp mà đức Đại giác đặt trước nhất là Khổ.
Khi vừa nghe tiếng Khổ thì không ai lấy làm lạ. Vì ai ai cũng đều có nếm qua mùi vị của khổ không
ít thì nhiều. Người sanh ra trong đời không ai không khổ mặc dầu là vị
trưởng giả hay nhà vua. Nếu ta hỏi lại ai ai cũng đều biết đời là khổ, thậm chí có người bảo: Khi
đứa trẻ sơ sanh khóc ra tiếng "khổ a, khổ a", nhưng người
ấy hiểu như thế nào có đắc được quả đạo
gì! Vì người ấy chỉ hiểu cái vỏ bên ngoài của khổ, hay biết
khổ mà không thực hành để diệt trừ khổ. Người
hiểu khổ như thế khác hơn cái hiểu bằng trí tuệ của đức Giác Ngộ
một trời một vực. Cái hiểu của con người là hiểu bằng thức
tánh. Còn cái hiểu của bậc Thánh Nhơn bằng tuệ. Chúng sanh biết khổ nhưng
chưa biết phương pháp tránh khổ hay diệt khổ. Trái lại càng làm nhiều
khổ. Cũng như người cầm ngọn đuốc chạy ngược gió bị lửa táp vào
mặt nóng la khóc, than van nhưng lại không bỏ ngọn
đuốc ấy vì sợ mất ánh sáng của ngọn đuốc ấy. Tôi xin ví như tài,
sắc, lợi, danh hay thất tình lục dục
Còn các bậc Thánh Nhơn nhất là Ðấng Giác Ngộ biết khổ,
biết nguyên nhân sanh khổ, và biết nguyên nhân diệt khổ.
Ví như 2 nhân vật người bị và bác sĩ. Người bịnh chỉ
biết rằng: Ta đang bịnh bị hành hạ, khổ sở, nhưng không biết làm sao
hết bịnh. Còn bác sĩ biết nguyên nhân phát sanh bịnh. Biết cách ngăn ngừa
sự ấy và hơn nữa có thuốc và biết cách trị dứt bịnh ấy nữa. Vì 2
sự hiểu biết khác nhau như thế ấy nên bác sĩ và người bịnh khác
nhau. Người bịnh lâm bịnh chỉ còn chờ chết và chưa hết phải chịu khổ
vì chứng bịnh ấy. Ðây chính là chúng sanh tuy biết khổ nhưng không có
phương pháp nào làm sao để giải thoát khổ.
Ðoạn trên nhắc cho quí vị thấy rằng: Sự hiểu biết của
chúng sanh, của Thánh Nhơn khác nhau chỗ biết bằng trí tuệ, và biết bằng
sự nhận thức của thức tánh. Vì chúng sanh biết khổ bằng thức tánh
nên không giải thoát được. Nhưng ví dụ tôi đem
lại đoạn trên để quí Ngài hiểu rõ thêm biết khổ hay hiểu khổ
có khác hơn sự Giác Ngộ không.
Bài pháp đầu tiên của đức Đại
giác là bài DHAMMACAKKAPPAVATTANA SUTTA nghĩa là KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN.
Trong ấy đại khái như đã nói trên. Nơi đây
tôi xin giải thích pháp Tứ Diệu Ðế.
* * *
Trong Tứ Diệu Ðế hay pháp thứ nhất gọi là Khổ. Trong
cái khổ này có thể chia ra làm 2 phần là:
1) Sabhàvadukkha: Khổ có từ khi có ta và cái khổ này
là khổ theo dính bên ta không bao giờ xa ta. Mà hiện nay các bậc trí thức
hay chánh phủ đang diệt khổ ấy, nhưng chắc hẳn là không được. Khổ
ấy trong bài Chuyển Pháp Luân đức Thế Tôn có dạy rằng: Idam kho pana
bhikkhave dukkham ariyasaccam. Này các thầy Tỳ Khưu, đây là khổ thật sự
là:
Jatipi dukkhà : Sanh Khổ.
Jàràpi dukkhà: Lão Khổ
Maranampi dukkham: Tử Khổ.
2) Ðiều thứ nhì gọi là Pakinnakadukkha: Khổ phụ thuộc
hay có thể gọi là khổ đến sau là:
Soka: Buồn rầu thất vọng
Parideva: Than van.
Dukkha: Khổ Khổ
Domanassa: Uất ức, phiền phức.
Upàyàsàpi dukkhà: Tâm nóng nảy, xốn xang.
Ayampi sampayogo dukkho: Gặp những việc mà mình không ưa thích là khổ.
Piyehe vippayogo dukkho: Bị xa lìa những vật thương yên mến tiếc.
Yampiccham na lapati tampi dukkham: Sự yêu mến mà không được gần là
khổ.
Khổ tóm lại có một là:
Sankhitena pancupàdànakkhandhà dukkhà - Nói tóm lại, sự
chấp lấy Ngũ Uẩn này là Khổ.
Theo bài kinh Chuyển Pháp Luân cho ta thấy rằng: Ðức Thế
Tôn chia Khổ ra làm 2 phần là Khổ thật sự và Khổ mới đến sau này.
Khi dạy xong 2 Khổ ấy, Ngài còn lại tóm lại một lần nữa cho chúng ta
thấy rõ phiền não làm cho khổ nên Ngài dạy rằng: Chung qui là những
người còn chấp lấy Ngũ Uẩn nên khổ.
Nếu tôi giải tỷ mỷ của Khổ, tôi tin rằng chỉ choán lấy
giấy và làm cho quí vị chán đọc thôi, vì vậy tôi nên nói tóm lại là
khổ là nền tảng của đời sống là cái khổ thật sự. Còn những cái
khổ tới sau là những cái khổ khi mà người ta đã có thân này rồi.
Khổ đến sau có chỗ Phật gọi
là Akantudukkha, Khổ khách quan. Khổ này quí vị đã hiểu nhiều
xin miễn giải.
Khổ thật sự, nghĩa là khổ ấy theo dính liền với ta bắt
đầu từ khi ta thọ sanh vào lòng mẹ. Theo lời dạy trong bài kinh Chuyển
Pháp Luân thì khổ này có 3 là:
Jàti dukkha : Sanh Khổ
Jarà dukkha: Già Khổ
Marana dukkha: Tử Khổ.
Theo chúng ta thường nghe và biết rằng: Sanh, lão, bịnh, tử
là 4 cái khổ thật sự. Nhưng trong Phạn ngữ không kể khổ đau, vì khổ
đau là khổ đến khi sanh, hay khi trong lòng mẹ, nhưng khi đau phải do một
lý do nào chứ không phải như già và chết, vì già từng giờ phút của thời
gian qua. Còn đau lâu lâu mới đến một lần chứ
không phải từng giờ từng phút như già. Sau này chú giải mới nói
rõ thêm đau vào và vì quen miệng nên nói già, đau, chết. Chớ thật sự
trong bài Chuyển Pháp Luân thì không nói đến đau
là khổ thật sự.
Giải 3 cái Khổ thật sự:
JÀTI (SANH)
Sanh đây ý nói là bắt đầu sanh vào lòng mẹ. Xin nhắc
lại quí vị là khổ sanh đây chỉ là người sanh vào lòng mẹ chớ không
nói cái khổ của bà mẹ sanh. Sanh khổ ấy chia ra làm 3 thời kỳ:
- Khổ khi còn trong bụng mẹ
- Khổ khi sanh ra
- Khổ do nơi sanh, nghĩa là khi sanh có thân này là có già, đau, chết và những
cái khổ đến sau nữa.
Vạn vật trong vũ trụ này kể cả thân hình ta đều do nơi sự phối hợp của tứ đại. Nhưng những đồ
vật dùng lâu người ta gọi là cũ. Những thân hình ta dùng lâu là cũ
mà gọi là Già, mặc dầu là 2 tiếng phát âm khác nhau nhưng cũng một ý
nghĩa là tới chỗ hư hoại. vạn vật trong vũ trụ có khác nhau về hình
thể, màu sắc... Nhưng cùng chung một thể là già, cũ, rồi tiêu hoại.
Nên trong chú giải có câu hỏi: Thân hình ta đây bắt đầu già từ bao giờ?
Ðáp: Theo lời Phật dạy và người đời hiểu cái Già có
2 lối khác nhau là:
- Người đời thườ ng hiểu cái Già là khi bắt đầu vào 60, 70,
hay 80 tuổi mới gọi là già. Vì người đời khi ấy mới thấy rõ sự
thay đổi của hình dáng bên ngoài.
- Về phương diện đạo đức thì trái lại thân này thay đổi từng
sát na, nghĩa là một sát na qua thì thân này đã già rồi và vạn vật
trong đời và người đều thay đổi mà chính bản
thân của người cũng không biết sự thay đổi ấy, nên chỉ không
biết mình đã gìa. Chỉ có khác là cái Già thực hiện rõ rệt thôi.
Ðức Thế Tôn có dạy Già ấy có thể chia ra 3 phần là:
1) Appaticchannajarà: Già không hiện rõ. Nghĩa là người đời trông thấy đứa bé càng ngày càng lớn than
hình tráng kiện đó là nơi do sự thay đổi mọi vật trong châu thân chính
là già, nhưng đời thường cho đó là sự lớn của
con người, nhưng người đó biết đâu khi qua mỗi sát na là người đã già vì cái Già này không hiện ra rõ rệt
để người ngó thấy, nên ai ai cũng ưa thích và hãnh diện trong tuổi
này. Và đây cũng là 1 lý do chỉ cho ta thấy rằng người chưa thấy được
phép Tứ Diệu Ðế
Nếu quí vị tự ý và muốn biết thì hỏi các nhà nghiên cứu về vi
trùng học thì quí Ngài sẽ cho quí vị biết rằng những vi trùng và những
hạt máu trong châu thân ta đều thay đổi từng sát
na một. Còn Ðức Phật thì dạy các tế bào của ta thay đổi và chết
đi rồi những cái khác thay vào.
2) Parijina: Già làm cho thân này có phần
thay đổi đối với người có thể nhận thấy được. Ý nói, khi được
4 hay 5 hoặc 60 tuổi người thấy có thay đổi một vài bộ phận rõ
rệt làm cho ta thấy cái thay đổi ấy, chừng đó
mới chịu gọi là già. Có lắm người còn muốn giấu cái Già bằng
cách nhuộm tóc lại ....
3) Paripakka: Già khú, ý nói già đến đổi
không làm gì được. Chính bản thân mình cũng không kiểm soát được
mình, như tay run, chân không nhấc nổi để đi...
Người đời khi thấy người già khú ấy mới nhận
thức là Già Khổ. Vì người già tới độ ấy chỉ còn đợi tử thần đến đem đi chớ không còn làm gì
được nữa.
Hiện giờ, nếu ta nói đến già
thật là khó hiểu nổi, chỉ còn có hỏi các cụ thì mới biết cái Già
Khổ như thế nào. Riêng tôi mới 50 tuổi, chỉ thấy tóc bạc, ngoài ra chưa
thấy gì hơn, vì mắt cận thị từ lâu. Nhưng tôi thấy ngày kia không xa,
tôi không còn dùng thân tứ đại này vào đâu được,
nên chỉ hiện thời, tôi cố tiện tặn từng giờ phút một để làm
việc lợi ích cho mình ngày vị lai.
Già còn có thể chia ra làm 2 phần là:
1) Già làm giảm sức mạnh của cơ thể. ý nói chúng ta ai cũng có phận
sự rất nặng trên vai, mà càng lớn phận sự ấy càng chồng chất nặng
thêm lên mãi mãi. Như khi ta còn nhỏ học lớp nhỏ không khó lắm, càng lớn
càng học cao thì cái khó chồng thêm mãi. Ðến khi lớn lên phải sanh sống
không thể nhờ nơi cha mẹ gia đình mãi được,
thì phận sự càng nặng. Ta có những cái khổ nhất mà không thể tránh khỏi
là Già, Ðau, Chết, khi có vợ ta cũng có cái Già, Ðau, Chết như ta, đã một
thân mà còn nặng trĩu phương chi lại thêm một thân nữa như ta, mà có lẽ
còn nặng thêm nữa là nếu gặp bà vợ đòi thêm son, phấn, quần áo đẹp,
hay hột xoàn, vàng ròng v.v... thì quí vị có nặng tới độ nào. Khí có
thêm một đứa con thì cái lo thêm nữa, đến 2, 3,
4 đứa thì cái nặng càng gấp bội. Nhưng khổ nổi khi gánh càng nặng
tuổi thọ lại càng nhiều nghĩa là đã già và cộng thêm vào bịnh hoạn
thường đến với tuổi già.
Già làm giảm sức nơi đây ta có thể ví dụ như một chiếc xe hơn. khi
còn mới ít hư và đẹp, chạy nhanh mau. Nhưng khi dùng nhiều ngày chở quá
nặng hay chạy đằng xa, thì nólại hư mau. Khi đã
cũ rồi lại càng hư liền liền, như toàn thân này khi càng già càng bịnh
thường hơn.
2) Già đem sự bịnh hoạn lại. ý nói rằng: Khi cái Già đã đến thì
không bao giờ đưa hạnh phúc đến bao giờ, cái
mà nó đưa đến là sự bịnh hoạn, như mắt mờ, tai điếc răng r?ng
tóc bạc, tay chân run rẩy v.v...
Nếu có ai hỏi: Cái gì đem bịnh
hoạn đến cho ta? Tôi tin rằng quí Ngài sẽ không ngần ngại đáp rằng:
già đem bịnh hoạn đến cho ta.
MARANA (CHẾT)
Chết là gì? - Chết là sự bỏ xát thân này lại, và
không đem những gì theo được mặc dù là vật thương yêu nhất đời. Sau
khi thần thức ra khỏi thân này thì thân này từ từ thay đổi sình lên
và hôi thúi, đến cùng là tan rã còn lại một đống xương trắng.
Người đã chết thì không
còn hành động gì được, và không dùng vào đâu
được với cái xác thân hôi thúi ấy. Ðời người không khác nào
cây đèn có đủ dầu, tim, khi có lửa châm vào bắt cháy đến khi hết dầu lại tắt. Tuổi thọ con người ví dầu
trong đèn, ngày nào đó dầu phải cạn và tắt, người sống đây thọ
yểu không khác nào đèn có dầu nhiều ít vậy thôi
chớ có một điểm giống nhau là tắt. Khi người hết tuổi thọ không
thể sống thêm được dầu một phút, cũng như đèn
hết dầu cũng không thể cháy thêm được một giây nào. Khi ngọn đèn tắt
ta không tìm thấy ngọn lửa đã mất cũng như không thể tìm được cái sống
của người đã chết.
Sự khổ của chết không thể dùng lời mà tả cho được
vì mọi người chúng ta đều còn sống, phải chăng chỉ có người sắp chết
và đã chết mới nhận thấy cái khổ ấy. Khổ chết ta có thể kết luận
vắn tắt là: Làm mất cả sự an lạc của cả đời người. Sự an lạc
ấy là nhà cửa, của cải, thân quyến. Nhất là cái xác thân này.
Phận sự của Khổ đế
Khổ Diệu Ðế nhất này, Ðức Thế Tôn dạy phải biết
rõ khổ một cách vi tế như vị bác sĩ hiểu rõ căn bịnh, nguyên nhân
sanh bịnh và phương pháp trị tuyệt bịnh.
Phật ngôn
Dukkham ariyasaccam pariannyya - Khổ Diệu Ðế này người nên nhận thức
cho rõ ràng.
Mục lục | 1.1 | 1.2 |
2.1 | 2.2
| 2.3 | 2.4
|