- Chuyển Pháp Luân
và Tứ Diệu Ðế
- Maha Thongkham và Huỳnh Văn Niệm soạn
dịch
- dựa theo quyển "The Word of
the Buddha" của Hòa thượng Nyanatiloka
- Tái bản năm 1995 tại Sài Gòn
Phần II - TỨ
DIỆU ĐẾ (tiếp theo)
-ooOoo-
II-4h
CHÁNH ÐỊNH
(Sammà-samàdhi)
"Chánh Ðịnh là thế nào?
M. 44 - "Tư cách chú tâm và
một vật duy nhất, "Cittakaggata" (và chẳng nghĩ đến bất cứ việc
gì khác). Ðó là pháp định tâm".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
"Tư cách tịnh tâm toàn hảo "Sammà
samadhi" (Chánh Ðịnh) theo ý nghĩa rộng rãi, nó thuộc vào loại Ðịnh
tâm phát sanh trong mỗi tư tưởng về việc lành "kusalacitta" (thiện
tâm).
Tâm thiện có kèm theo:
- Tư tưởng chân chánh "Sammà sankappa"
(Chánh tư duy), trong bước thứ 2 của Bát Chánh Ðạo.
- Chánh tinh tấn "Sammà vàyàma" trong bước thứ 6.
- Chánh niệm "Sammà sati" trong bước thứ 7.
Trạng thái tịnh tâm bất chánh (xấu xa) thường
phát sanh do tư tưởng đê hèn dơ bẩn. Nó thuộc về lãnh vực của các
giác quan, chứ không phải Chánh Ðịnh.
Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) có nói về 2 trạng thái
của phàm Ðịnh:
- Kàmàvacara Kusala Jhàna (Thấm nhuần trong tư tưởng
tốt lành cao thượng).
- Kàmàvacara Akusala jhàna (Thấm nhuần trong tư tưởng xấu xa tội lỗi).
Cả 2 trạng thái đó đều thuộc lãnh vực của
lục căn.
Nếu được áp dụng riêng rẽ, danh từ Samàdhi
cũng có nghĩa "Chánh Ðịnh" (Sammà Samàdhi).
M.44 - Bốn Pháp niệm tưởng
căn bản "Tứ Niệm Xứ" là những đề mục tập trung tư tưởng
hay là tham thiền.
Bốn pháp tinh tấn cốt yếu,
"Chánh Tinh Tấn" (bước thứ 6), rất cần cho sự hành thiền.
Thực hành làm cho phát triển và
gieo trồng những Pháp kể trên được gọi là tư cách "tiến triển"
(Bhàvanà) trong pháp tu thiền định.
PHÁP ÐỊNH TÂM - GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC
NYANATILOKA
Có 2 mức độ tiến triển về tư cách Ðịnh
tâm chân chánh, hay là "Chánh Ðịnh" (Sammà samàdhi):
- Cận Ðịnh (Upacàra samàdhi) là trạng thái kề
cận Ðịnh Tâm(Jhàna) thứ I (Sơ Thiền) nhưng chưa nhập Ðịnh.
- Ðịnh tâm toàn hảo (Appanà samàdhi - Toàn định)
là thành tựu đầy đủ 4 bậc thiền.
Tuy nhiên đắc được tất cả 4 bậc Thiền đó
không phải là cần thiết để đạt 4 thánh quả, hay là "Bốn con đường
siêu thoát". Vì nói theo bản chất, những trạng thái Cận Ðịnh hay Nhập
Định đều có khả năng đưa tới mục đích của "Ðạo Xuất Thế
Gian" (Giải Thoát). Và Thiền Ðịnh cũng không thể tẩy trừ các ác
Pháp lâu dài đặng.
Bốn đạo quả thánh nhân chỉ thành đạt được
bằng Pháp "Minh Sát" (Vipassanà) hay là minh tâm kiến tánh. Nghĩa là
dùng trí tuệ soi sáng nội tâm để thấy rõ đúng theo chân lý những trạng
thái Vô thường (Aniccatà), Khổ não (Dukkhatà) và Vô Ngã (Anattatà) của tất
cả các pháp tạo ra đời sống.
Tuy nhiên tuệ giác cứu cánh chỉ có thể thành
đạt trong giai đoạn "cận định" chớ không phải trong lúc nhập
định.
Hành giả nào không đắc Thiền định nhưng vẫn
đạt được một trong bốn thánh quả được gọi là
"Sukkhavipassaka", nghĩa là người có nhãn quang soi thấu tất cả,
hay là người đã dùng "Minh Sát tuệ" làm khô cạn phiền não.
Còn hành giả nào đã thực hành làm phát triển
các bậc Thiền mà đắc được trong bốn quả Thánh thì được gọi là
"Samaka Yànaka", nghĩa là người đã dùng pháp môn "Tịnh
Tâm" làm căn bản.
BỐN BẬC THIỀN (Jhàna)
M.141 - "Khi chẳng còn dính mắc
với sắc trần với các điều nhơ nhớp, hành giả bước vào bậc Ðịnh
tâm thứ nhất là Sơ Thiền. Người thấm nhuần an vui hạnh phúc, không
còn luyến ái".
M.43 - "An trú trong Sơ Thiền,
hành giả loại được 5 điều chướng ngại là: Tham dục, Sân hận, Hôn
trầm, Phóng tâm, Hoài nghi, và phát triển được 5 thiền chi: Tầm
(Vitakka), Sát (vicàra), Phỉ lạc (Piti), An vui (Sukkha) và Ðịnh (Cittekkagatà
samàdhi, Nhất tâm định).
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Vitakka (phối hợp sơ khởi các tư tưởng trừu
tượng) và Vicàra (Phối hợp tư tưởng liên tục). Những tư tưởng này
có tánh cách phụ thuộc so với Tâm.
Trong kinh Visudhi Magga (Con đường thanh tịnh),
Vitakka (Tầm) ví như vớ lấy cái ô và Vicàra (Sát) là việc lau chùi cái
ô.
M. 27 - "Tiếp theo đó, cái
tâm trở nên an tịnh và tư tưởng được thăng bằng, hành giả bước vào
tình trạng không còn Tầm (Vitakka) và nhập vào nhị Thiền, phát sanh do
tâm Định (samàdhi). Hành giả thấm nhuần sự Phỉ lạc (Piti) và An vui
(Sukkha).
Sau đó, cái tâm phỉ lạc tan biến,
hành giả an trú trong sự an Ðịnh nhưng còn biết mình. Người trắc nghiệm
trạng thái này mà bậc hiền triết thường hoan hô: "Hạnh phúc thay!
Khi con người được an trú trong sự thanh tịnh và ghi nhớ của tâm".
Chừng đó hành giả nhập vào Tam Thiền phát sanh với tâm Xả (upekkha), sự
An vui (Sukkha) và Ðịnh (Samàdhi).
M.27 - "Tiếp theo đó, sự biến
tan của các niềm vui khổ quá khứ, hành giả chẳng còn cảm thấy vui buồn
nào cả, người vượt qua khỏi ranh giới của những điều vui khổ và nhập
vào Tứ Thiền. Ðến đây, người chỉ còn lại tâm Niệm và tâm Xả."
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Bốn bậc Thiền Ðịnh (phàm Ðịnh) có thể
thành đạt bằng cách niệm hơi thở vô ra (anàpàna sati) và bốn bậc Thiền
cao thượng (nhất là Tứ thiền) thì do pháp "Tịnh tâm" (và niệm
tưởng).
CÁC BẬC THIỀN CAO THƯỢNG
VM.9 - Tham thiền về tâm từ
(metta bhàvanà), tham thiền về tâm bi mẫn (karuna bhàvanà), và tham thiền về
sự hỷ lạc (mudita bhàvanà) có thể đưa tới nhập định.
VM.6 - Tham thiền về bãi tha ma cũng
như về các vật ô trược (asubha bhàvanà) chỉ đưa tới sơ Thiền mà
thôi.
VM.6 - Niệm thân, niệm ân đức
Phật, ân đức Pháp, ân đức Tăng và niệm Giới thì chỉ đưa tới cận
định (upacàra samàdhi).
S.21 - "Các người nên cố gắng
làm phát triển pháp môn Thiền Ðịnh, vì kẻ nào có tâm an định mới
mong hiểu rõ mọi vật đúng theo chân lý. Mà những vật đó là gì? Ðó
là tư cách sanh diệt của năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
M.48 - "Như thế cần phải
hiểu rõ bằng trí tuệ năm uẩn tạo nên đời sống.
Si mê và tham dục cần phải loại
trừ bằng trí tuệ. Pháp môn định tâm (Samatha - an chỉ) và Minh Sát
(Vipassanà) phải được triệt để phát triển bằng trí tuệ".
S.56 - "Ðó là con đường
đi giữa (Trung đạo) do Ð?ng Toàn Giác đã khám phá và đem ra phổ biến để
đưa tới an tịnh, tới sự biết phân biệt (chánh, tà), tới Giác Ngộ...
tới Niết Bàn.
DHP.275 - "Và đi theo con đường
siêu việt đó, các ngươi sẽ chấm dứt được nguồn thống khổ".
NIẾT BÀN
A.IV. (198) - "Và tâm trí (của
bậc đã được Giác Ngộ) trở nên tự do, không còn tham dục, không còn
ngã chấp và đã thoát ly ra khỏi nơi tối tăm mờ ám (vô minh).
Người rất thích thú: "Ta đã
được giải thoát rồi!" Nhận định này phát sanh trong con người đã
Giác Ngộ.
Người hiểu rằng: "Ta sẽ không
còn tái sanh nữa. Ðời đạo đức đã vẹn toàn. Việc phải làm ta đã
làm xong và chẳng còn gì phải bận tâm trên thế gian này nữa".
M.26 - "Ta được tự do vĩnh
viễn.
Ta chỉ còn sanh ra trong kiếp này thôi.
Chẳng còn sự tái sanh nào lôi kéo được ta ".
M.140 - "Thật ra, đây là
trí tuệ tuyệt vời cao cả. Ta biết rằng nguồn khổ đã biến tan. Và đây
là sự an vui tuyết đối. Ta biết rằng đã dập tắt được sư tham dục,
si mê, oán hận."
BẬC THANH TỊNH (MUNI)
M.140 - "Nói rằng: Ta đây,
là một ý định vô ích. Không phải ta đây, là một ý nghĩ vô ích. Sẽ
có ta nữa, là một ý nghĩ vô ích." Những ý nghĩ đó, ví như một chứng
bệnh, một vết thương, một cái gai nhọn.
Khi nào tẩy trừ được những ý
nghĩ vu vơ không lợi ích, người trở thành bậc thanh tịnh "Muni"
(Giữ sự im lặng đối với những tư tưởng vô ích).
Và bậc thanh tịnh đó không còn
sanh trưởng nữa, không còn chết nữa, và chẳng còn tham muốn gì nữa. Nếu
chẳng tái sanh và bị già nua nữa, thì cái chết làm sao đến được? Mà
khỏi chết thì có gì phải sợ hải lo âu? Và nếu không còn sợ thì cần
gì phải tham muốn?".
MỤC ÐÍCH THẬT SỰ
M.29 - "Như thế, mục đích
của đời đạo đức không phải chỉ trông cậy vào vật tín thí, vào tiếng
tăm tham vọng, mà cũng không phải để thành đạt học thức cao thâm
thông suốt.
Chỉ có tư cách giải thoát hoàn
toàn tâm trí mớ là cuộc sống siêu nhân và đó là căn bản, đó là mục
đích".
M.51 - "Những bậc đại hiền,
những bậc Giác Ngộ thời quá khứ khuyến hoá hàng môn đệ với mục đích
đó. Hiện nay Như Lai dạy các giới tử cũng thế. Và trong tương lai các Bậc
Toàn Giác cũng hành động với đường lối đó".
D.22 - "Hỡi này các đệ tử!
Tuy nhiên sau khi Như Lai diệt độ, các ngươi có thể nghĩ rằng: "Giáo
Pháp của đức Thầy không còn nữa! Chúng ta mất vị Giáo Chủ rồi".
Hỡi các đệ tử! Chớ nên nghĩ
như vậy. Chính Giáo Pháp (Dhamma) và Giới Luật (Vinaya) của Như Lai để lại
sẽ là thầy tổ các ngươi. Giáo Pháp sẽ là ánh sáng của các ngươi. Giáo
Pháp sẽ là nơi nương nhờ của các ngươi. Các ngươi chẳng nên tìm chỗ
nương nhờ nào khác.
Hỡi các đệ tử! Chánh Pháp Như
Lai truyền lại, các nguơi nên ráng bảo tồn cẩn thận, làm cho đời đạo
đức được tiếp tục chảy trôi suông sẻ, được kéo dài trong nhiều thế
hệ, để đem lại hạnh phúc cho nhiều người, đem lại nguồn an vui cho thế
gian, đem lại thanh bình hạnh phúc cho Chư Thiên và nhân loại".
-Hết-
PHỤ ĐÍNH
VỊ TRÍ CỦA PHÁP HÀNH "TỨ NIỆM
XỨ" TRONG PHẬT GIÁO
Lý thuyết "Tứ Diệu Ðế" ví như một kỳ quan
đã phô bày những kiến trúc và nghệ thuật phi thường suốt một thời
gian rồi bị lãng quên trong lòng đất. Lúc sau đó, nhờ trí óc khôn ngoan
và công phu đào xới của nhà khảo cổ mà nó được tái xuất trước sự
hân hoan chào đón của mọi người. Những Ð?ng Toàn Giác trong các thời đại
đều căn cứ theo Tứ Diệu Ðế để xây dựng Giáo lý.
Tứ Diệu Ðế cũng như nền móng của
một đền đài lộng lẫy nằm sâu dưới đất nhưng rắn chắc để nâng
đở hàng cột tinh anh là "Bát Chánh Ðạo". Tuy nhiên ngôi đền chỉ
thành hình với mái nóc tuyệt mỹ cao vọi hướng thẳng lên tận không
gian là "Tứ Niệm Xứ."
Ðức Phật gọi Bát Chánh Ðạo là
con đường siêu việt. Con đường ra khỏi thế gian, con đường Giác Ngộ,
con đường chấm dứt khổ đau, con đường đưa tới an vui tuyệt đối...
cho những ai quyết chí noi theo. Tứ Niệm Xứ (Sati Patthàna) hay là Chánh niệm
(Sammà Sàti) thuộc chi thứ 7 của Bát Chánh Ðạo và được sắp vào phần
"Ðịnh học". Chánh niệm là nòng cốt, là chúa tể gây ảnh hưởng
sâu rộng đến 6 chi đầu của con đường siêu việt.
Trong kinh Trường A Hàm (Dìgha
Nikàya), đức Thế Tôn có thuyết:
"Hởi này chư Tỳ Khưu! Phương
thức duy nhất để tiến tới tư cách hoàn toàn trong sạch, để vượt ra
khỏi sự ưa phiền, chấm dứt khổ sầu, để mở đường chân chánh đi
đến đạo quả Niết Bàn, phương thức đó là "Bốn Pháp Niệm Căn Bản"
(Tứ Niệm Xứ)."
Tu tưởng là quan trọng nhất trong
sự sanh hoạt con người. Vì nó là nguyên tố tạo nên nghiệp khiến chúng
sanh phải quay quần trong vòng sanh tử. Lẽ đó, niệm tưởng chân chánh là
con đường duy nhất để chấm dứt nguồn thống khổ.
Tứ Niệm Xứ được chia ra làm 2
phần:
- Niệm Thân thuộc về phần vật chất (Sắc).
- Niệm Thọ, niệm Tâm, niệm Pháp thuộc về phần tâm lý (Danh)
Ðức Phật sắp niệm Thân trước
hết là một thể thức rất qui củ để cho người hành đạo dễ bước lần
từ thấp lên cao. Niệm thân có tánh cách đơn giản hơn 3 pháp niệm tiếp
theo về tâm lý, nhưng đó là đường lối rất thực tế và trọng đại.
Bởi cơ thể là đề mục dính liền với bản ngã của con người. và nếu
không ghi nhớ được những gì ở cận bên mình thì rất khó bề nghĩ đến
chuyện xa vời. Theo tinh thần Phật Giáo, niệm Thân là nhằm mục đích để
khám phá mục đích giả tạm của 4 nguyên tố (Tứ Ðại) tạo thành cơ thể
con người, loại trừ ngã chấp hầu đi đến giải thoát.
Phương pháp luyện thân "Hatha
Yoga" bên Ấn Ðộ khác hơn pháp niệm Thân của Ðạo Phật, vì người
tín đồ của pháp môn này chú trọng về những tư cách phi thường hoặc
mong thành hoặc đạt phép lạ hơn là tìm đường giải thoát. Hành giả
Hatha Yoga có thể điều khiển cơ thể mình theo ý muốn, như nhịn ăn uống,
ngưng hơi thở, chận đứng huyết mạch, chuyển động gân cốt, chịu đựng
nổi tuyết giá hay sức nóng cháy da, giữ yên một oai nghi rất lâu, v.v...
SỰ LIÊN QUAN GIỮA CÁC HƠI THỞ VÀ
PHÁP HÀNH THIỀN ÐỊNH
Ðức Phật dạy hành giả hành
Pháp Tứ Niệm Xứ phải bắt đầu chú tâm vào hơi thở vô ra của mình.
Mà tại sao vậy? Vì trong hoạt động của cơ thể, sự hô hấp là thường
xuyên và liên tục dễ ghi nhớ hơn các cử động bất thường khác.
Về khía cạnh khoa học, thở là
điều cần thiết cho mỗi sanh vật. Sinh khí còn vô ra thì còn sự sống
và khi ngừng thở thì sự sống chấm dứt. Hơi thở nhẹ nhàng êm dịu
giúp hệ thống dẫn huyết hoạt động bình thường khiến con người được
khoẻ mạnh, minh mẫn, sống lâu, cũng như trong bộ máy cơ giới xăng nhớt
chạy đều.
Trong thời thượng cổ, thanh khí
trên không gian rất dồi dào và thuật hô hấp loài người tinh vi nên ít bệnh
hoạn và trường thọ. Những loài thú như rùa, rắn hay sanh vật khác
không đi kiếm ăn được khi bị hạn hán, tuyết băng, nhưng vẫn sống
được lâu ngày nhờ có bộ máy hô hấp đặt biệt của chúng.
Theo Hatha Yoga, nếu biết luyện hơi
thở cho đúng cách thì nó di chuyển trong khắp châu thân, thông qua bộ thần
kinh và thanh lọc những huyệt (chakra), tẩy trừ các độc tố (toxine) trong
máu, đem lại sức khoẻ và trí tuệ cho hành giả. Nên cần biết lối thở
bất thường của chúng ta hằng ngày không đủ năng lực để sa thải hoàn
toàn những độc tố đó. phương pháp Hatha Yoga có hơn 10 cách thở khác
nhau nhưng khác hơn về thể thức của Phật Giáo.
Ðức Phật dạy hành giả khi thở
vô ra dài vắn, mau chậm cần phải biết rõ. Hành giả cần phải nhận thức
tình trạng của tâm, xem coi nó xao động hay yên tĩnh. Vì nhịp độ của
trái tim tuỳ thuộc vào nơi thở mau hay chậm. Và khi khi biết rõ tình trạng
đó, hành giả phải điều chỉnh hơi thở lại cho vừa phải tuỳ theo bản
chất và khả năng hô hấp của mình có cảm giác dễ chịu và vui thích
trong khi thở chớ không phải chủ tâm vào hơi thở mau chậm, dài vắn rồi
cứ để cho bộ máy hô hấp tư do tiếp tục hoạt động không bình thường
như thế.
Việc chú tâm và sắp đặt hơi thở
cho điều hoà như vậy lâu năm chầy tháng trở thành thói quen, dường như
cơ động tự nhiên dù trong lúc hành giả đang tham thiền về một đề mục
nào hoặc hành pháp Minh Sát. Các vị thiên sư nói rằng hơi thở trong trường
hợp này ở về phía hậu tuyến để nâng đở hành giả cho mau kết quả.
Tinh thần chỉ có thể trở nên
trong sạch trong một xác thân được thanh lọc và khoẻ mạnh. Lẽ đó, Ðức
Phật sắp đề mục niệm hơi thở đứng đầu trong pháp niệm thân và đó
cũng là yếu tố tiền phong của pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Thọ thuộc về tâm lý nhưng có phần
giản dị hơn niệm Tâm và niệm Pháp. Khi hành giả có mức độ cao về tập
trung tư tưởng và ghi nhớ biết mình thì hành pháp niệm Thọ rất dễ
dàng.
Sau khi niệm Thọ hoàn tất, hành giả
vào được bên trong ngôi đền "Tứ Niệm Xứ" để quan sát cung
điện của hoàng thành. Từ đây phận sự của hành giả trở nên hết sức
khó khăn tế nhị vì người đã biết qua giai đoạt phức tạp của
"Minh Sát Tuệ" với 2 đề mục niệm Tâm và niệm Pháp. Người phải
dày công tu luyện, giới đức viên dung, căn duyên tròn đủ mới mong tới
được điện ngọc là Niết Bàn.
Nhờ thực hành pháp Tứ Niệm Xứ,
người tu Phật mới thấu rõ bản chất vô thường của Ngũ uẩn và tư cách
sanh diệt của chúng, để sau cùng phá vỡ sợi dây nhân duyên "Paticca
Samuppàda" (duyên sinh) và thoát khỏi vòng sanh tử.
Cái tinh hoa tuyệt diệu của Phật
Giáo như thứ cây ăn trái: những rễ bám sâu dưới đất là "Tứ Diệu
Ðế", cái thân cây hùng vĩ bên trên là "Bát Chánh Ðạo", và
cành lá trên ngọn cây đơm bông trổ trái là "Tứ Niệm Xứ."
SOẠN GIẢ HUỲNH VĂN NIỆM
-ooOoo-
PHẬT NGÔN
"Cố công hành đạo, giới đức
thầy Tỳ Khưu ngày thêm hoàn hảo. Các tật xấu được thanh lọc tẩy trừ,
giờ đây người đã sẳn sàng bước lên đường thánh vức, như nén vàng
ròng được người thợ khéo làm ra nhiều món nữ trang.
Thầy Tỳ Khưu tự do thong thả lướt
gió tung mây, không gì ngăn cản như chim hạc bay thẳng cánh tận trời cao.
Thầy Tỳ Khưu trở nên bình thản,
an tịnh, lạnh lùng trước những pháp thế gian huyền ảo.
Người không còn sợ hải lo âu như
đức vua Badhya hoan hô khi tham thiền dưới cội cây: "Hạnh phúc thay! Hạnh
phúc thay! Trước kia ngự tại hoàng cung, được quan quân che chở, tường
thành kiên cố, nhưng ta nào đâu yên giấc ... Hiện nay ta chẳng còn lo sợ
gì cả cho bản thân và cuộc sống. Bất cứ ở đâu ta cũng được bình
yên". -- MAJJHIMA NIKAYA
-oOo-
"Trước khi diệt xong các chướng
ngại, thầy Tỳ Khưu ví như người mắc nợ, mang bệnh, bị tù đầy, đi
lang thang trong vùng hẻo lánh...
Nhưng khi tẩy trừ được các điều
trở ngại đó thì người cũng như đã xong món nợ, được bình phục
thong thả ra khỏi nhà lao, chẳng còn gặp điều chi nguy hiểm.
Thầy Tỳ Khưu rất toại nguyện vừa
lòng, tâm tư tràn ngập nguồn hạnh phúc" -- DÌGHA NIKAYA.
"Hành pháp môn "Tứ Niệm Xứ",
người giới tử luôn luôn sống trong tình trạng "Minh Sát" về
thân thể, trắc nghiệm những tình cảm và quán xét các hiện tượng (pháp)
phát sanh.
Người thường xuyên dũng mãnh,
châm chú biết mình và gạt bỏ tất cả phiền muộn cả thế gian". --
DÌGHA NIKAYA
-oOo-
"Bậc Thanh tịnh (Muni) thản
nhiên không sân hận, khổ sầu, không tham vọng vì các pháp thế gian tương
phản (tốt, xấu, lớn, nhỏ, sang, hèn...) và đã thoát qua khỏi thảm họa
tử sanh, già nua, bệnh tật rồi vậy." -- ANGUTTARA NIKAYA-III
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4