- Chuyển Pháp Luân
và Tứ Diệu Ðế
- Maha Thongkham và Huỳnh Văn Niệm soạn
dịch
- dựa theo quyển "The Word of
the Buddha" của Hòa thượng Nyanatiloka
- Tái bản năm 1995 tại Sài Gòn
Phần II - TỨ DIỆU
ĐẾ (tiếp theo)
-ooOoo-
II-4a
CHÁNH KIẾN (Samma
Ditthi)
HIỂU RÕ BỐN CHÂN LÝ CAO SIÊU
D.22 -
"Thế nào là Chánh kiến? - Là:
Hiểu rõ sự Khổ.
Hiểu rõ nguyên nhân sự Khổ.
Hiểu rõ sự diệt Khổ.
Hiểu rõ con đường đưa tới dứt Khổ.
"Ðó gọi là Chánh kiến (hiểu biết chơn chánh)
HIỂU RÕ TỘI PHƯỚC.
M.9 - "Giới tử hiểu rõ tội lỗi và nguồn
gốc của nó là thế nào, và hiểu rõ phước báu và nguồn gốc của nó
ra sao."
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Ðiều được xem như tội lỗi (Akusala) là những
hành động do thân, khẩu, ý, làm cho đời sống bị nhơ bẩn và đem lại
hậu quả khổ đau trong kiếp hiện tại và các kiếp tương lai.
M.9 - "Thế nào là tội lỗi? (Akusala)
(thuộc ác thân nghiệp - kàya kamma)
Sát hại sanh vật
Trộm cắp
Tà dâm.
(thuộc ác khẩu nghiệp - vacà kamma)
Nói dối
Nói lời đâm thọc
Nói lời hung dữ
Nói chuyện vô ích
(thuộc ác ý nghiệp - mano kamma)
Tham muốn xấu xa
Có ác tâm
Ý nghĩa lầm lạc
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Tư cách chú tâm hay cố ý (cetana) được gọi là
"nghiệp" (kamma). Nghiệp xem thấy được đều phát sanh do thân hay
khẩu. Còn những suy tưởng không biểu lộ ra ngoài đều do hành vi của ý
(ý nghiệp).
M.9 - "Đâu là nguồn gốc tội lỗi?
"Tham lam (lobha) là nguồn gốc của tội lỗi.
Sân hận (dosa) là nguồn gốc của tội lỗi. Si mê (Moha) là nguồn gốc của
tội lỗi."
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Những hành động tham lam và sân hận đều do si
mê và mù quáng mà ra. Lẽ đó si mê là cội rễ của cả tội lỗi.
AX. 147 - "Như Lai chia tội lỗi ra 3 loại:
Tội do tánh tham lam gây ra; Tội do tánh sân hận gây ra; Tội do tánh si mê
gây ra".
M.9 - "Còn thế nào là phước báu của
thiện nghiệp (kusala kamma)? Là:
(thiện thân nghiệp)
Tránh việc sát sanh hại vật.
Tránh sự trộm cắp
Tránh sự tà dâm
(thiện khẩu nghiệp)
Tránh sự nói dối
Tránh lời nói đâm thọc
Tránh lời nói hung dữ
Tránh lời nói vô ích
(thiện ý nghiệp)
Tránh sự tham lam xấu xa
Tránh có ác tâm
Tránh có ý nghĩ bất chánh
Sau đây là những phước báu:
Không tham lam (Alobha) làm cho phát tâm rộng lượng.
Không sân hận (Adosa) làm cho phát tâm từ bi.
Không si mê (Amoha) làm phát sanh trí tuệ"
HIỂU RÕ BA TƯỚNG
S.21 - "Kẻ nào thấu rõ tánh cách giả tạm
(vô thường), khốn quẩn (khổ não) và chẳng có thực ngã (vô ngã) của năm
uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, kẻ đó đã có Chánh kiến rồi vậy."
NHỮNG VẤN ÐỀ KHÔNG LỢI ÍCH
M.63 - "Nếu có kẻ nói rằng chỉ bằng
lòng tu theo Phật giáo chỉ khi nào đức Như Lai chịu giải thích cho biết
những điều sau đây:
Thế gian là trường tồn hay giả tạm?
Thế gia hữu biên hay vô biên?
Sự sống và xác thân là một hay khác nhau?
Ðức Phật Toàn Giác còn hay mất sau khi tịch diệt?
Thì kẻ ấy phải chết trước khi được Ngài
ứng đáp. Cũng như người kia mang phải mũi tên có tẩm thuốc độc, được
thân bằng quyến thuộc lương y đến cứu chữa nhưng lại biện lẽ rằng:
'Tôi không thể nào chịu cho rút mũi tên ra trước khi được biết ai đã
bắn đã gây thương tích cho tôi. Tôi muốn biết thủ phạm thuộc giai cấp
nào? Thuộc hạng cao sang hay giai cấp nô lệ? Người đó tên gì? Con nhà
ai, hình vóc, lớn, nhỏ hay trung bình?... Chắc chắn kẻ đó phải chết trước
khi biết được những điều như thế".
SUP.592 - "Như vậy, kẻ nào muốn tìm sự
an vui cho chính bản thân phải mau rút mũi tên ra ... mũi tên đau đớn than
van sầu khổ".
M.36 - "Dù cho thế gian là trường cửu
hay tạm bợ, có giới hạn hay vô biên, một sự việc hiển nhiên là những
trạng thái: sanh trưởng, già nua, bệnh tật, khóc than, thất vọng, vẫn
luôn luôn tồn tại. Nhưng người đời có thể huỷ diệt các thảm hoạ
đó trong kiếp hiện tại nếu hành theo lời chỉ dạy của Như Lai".
NĂM SỢI DÂY TRÓI BUỘC (THẰNG THÚC).
M.2-54 - "Ví dụ có người thế, vì si mê
mù quáng, không biết trọng nể các bậc thánh nhân, chẳng chịu nghe lời
dạy bảo của các Ngài , không thông suốt Giáo lý cao thâm.... Tâm trí người
đó bị vô minh che lấp, thường có tâm ngã chấp, hay hoang mang ngờ vực,
lại vui thích với những tục lệ cúng kiến lễ bái, say mê tình dục, có
tư tưởng bất hảo, nhưng không biết làm cách nào để thoát ly ra khỏi
các điều xấu xa ấy."
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Ảo tuởng về "bản ngã" (Sakkàya-ditthi)
có thể thuyết minh như sau:
- Lý thuyết về tâm linh (Sassata-ditthi) căn cứ
nơi đức tin về tư cách "Trường tồn" cho rằng cái "Ta"
là một linh hồn có tánh cách thiêng liêng không tuỳ thuộc xác thân vật
chất và linh hồn đó tiếp tục tồn tại sau khi chết (Thường kiến)
- Lý thuyết "duy vật" (Uccheda ditthi) là
tin tưởng tánh cách huỷ diệt hoàn toàn, cho rằng Ta của kiếp sống hiện
tại sẽ biến tan cùng lúc với cái chết của xác thân vật chất (Ðoạn
Kiến).
NHẬN ÐỊNH SAI LẦM
M.2 - "Hạng thường nhân không nhận rõ
những gì đang chú trọng và không nên chú trọng. Họ để tâm luyến ái
các điều vô ích và bỏ rơi những việc hữu ích. Vì thiếu sáng suốt
nên họ nảy ra ý nghĩ như vầy:
Trước kia ta đã có sanh ra làm người không?
Nếu có, vậy thưở đó ta là thế nào?
Và đã có những biết chuyển gì?
Rồi sau này ta sẽ tái sanh nữa chăng?
Chừng đó ta sẽ ra thế nào? Số phận ra sao và sẽ có thay đổi gì
không?
Về kiếp hiện tại, họ cũng hoài nghi:
Ðây có phải thiệt là ta không?
Hiện nay ta là thế nào?
Con người từ đâu đến, rồi nó sẽ đi về đâu?"
SÁU CÁI HẦM TÀ KIẾN
"Bị chìm đắm trong sự nhận định thiếu
trí tuệ, hạng thường nhơn phải sa vào một trong sáu tà kiến. Họ quả
quyết như vậy và tin tưởng vào đó:
1) Hoặc ta có cái ngã (Ta)?
2) Hoặc ta không có cái ngã?
3) Phải chăng, nhờ cái ngã mà ta tự biết mình?
4) Nhờ cái Ngã mà tự biết được trạng thái "Vô Ngã"?
5) Ðây là cái Ngã của ta, vì nó biết suy nghĩ, biết cảm xúc, biết thọ
lãnh quả báo của những nghiệp lành hay dữ.
6) Ðây là cái "Bản Ngã", nó thật trường cữu, bền bĩ vĩnh viễn,
không thay đổi và mãi mãi như vậy thôi".
M.22 - "Nếu cái Ngã (Ta) là thật tế, tất
nhiên phải có vật gì tuỳ thuộc vào nó., nhưng chẳng tìm đâu ra được
cái Ngã mà cũng không tìm được cái gì (có một thực thể) tuỳ thuộc
vào nó. Như vậy chẳng có chi phi lý bằng khi nói: "Ðây là thế gian.
Ðây là Ta. Sau khi chết ta sẽ tồn tại mãi mãi. Ta là trường tồn vĩnh cữu".
Ðó là những ý kiến thô sơ, là một đám rừng
ý kiến, một bả nhơ ý kiến, một trò hề ý kiến, một cái bẫy ý kiến.
Và khi bị sa vào cạm bẫy "Si Mê" thì con người thiếu khôn ngoan
không sao thoát ly ra khỏi những thảm hoạ: sanh, già, đau, chết, khỏi sầu
não khổ đau, khỏi thất vọng. Như Lai cho rằng người đó sẽ không
thoát khỏi những điều thống khổ."
LÝ LUẬN THÔNG MINH
M.2 - "Người giới tử nào có học thức,
thuộc gia đình cao quý, biết kính trọng các bậc hiền triết, biết nghe lời
dạy bảo của các Ngài là đã thuần thục trong Giáo lý cao siêu rồi vậy.
giới tử đó biết phân biệt những gì đáng chú trọng và những gì
không nên chú trọng, biết vật nào có giá trị và vật nào vô giá trị.
Người nhận xét sáng suốt thế nào là đường lối đưa tới dập tắt
nguồn đau khổ".
BƯỚC VÀO VÒNG THÁNH VỨC "SOTAPANNA" (Tu
Ðà Hườn)
"Khi biết nhận định đúng theo chân lý như
thế, người giới tử vất bỏ được ba sợi dây trói chặc là: ảo tưởng
về cái Ta (Ngã Chấp), nghi ngờ về chánh giáo (Hoài Nghi), tin tưởng dị
đoan cúng kiến lễ bái, tế lễ (Giới Cấm Thủ)".
M.2 - "Lúc gạt bỏ được 3 sợi dây
trói buộc đó, giới tử đã bước vào dòng nước (Nhập Lưu - Tu Ðà Hườn)
thoát khỏi tình trạng khốn quẩn và chắc chắn sẽ được Giác Ngộ".
DHP.178 - "Hơn cả việc thống trị thế
gian. Hơn cả các thú vui nơi cõi thiên đàng. Hơn cả nắm quyền hành trên
toàn vũ trụ, chẳng có chi an vui hạnh phúc bằng được nhập lưu Niết Bàn".
A.X - "Thật ra những kẻ nào có đức tin
không gì lay chuyển nỗi đối với Như Lai , những kẻ đó đã nhập lưu rồi
vậy (bước vào lãnh vực Thánh Nhơn)".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA (theo
Abhidhamma)
Có mười sợi dây trói chặt chúng sanh vào bánh
xe luân hồi (Sannojana):
1) Ảo tưởng về cái "Ta" (Sakkayà-ditthi
- ngã chấp)
2) Ngờ vực về chánh pháp (Vicikicchà - hoài nghi).
3) Ưa thích lễ bái cúng kiến (Silabbata Paràmàsa - Giới cấm thủ)
4) Ham muốn tình dục (Kàmaràga)
5) Ác tâm (Vyàpàda)
6) Muốn được sanh về cõi Sắc giới (Rùpa
Ràga)
7) Muốn được sanh về cõi trời Vô Sắc giới (Arùpa Ràga)
8) Cống cao ngã mạn (Màna)
9) Phóng tâm (Uddhacca)
10) Vô Minh (Avijjà)
Theo nghĩa Phạn ngữ Pali "Sotàpanna - Tu Ðà Hườn"
là "Người bước vào dòng nước ". Nghĩa là nhập vào lượng thuỷ
triều đưa tới Niết Bàn, người ấy đã thoát ra khỏi 3 sợi dây trói chặt
thứ nhất.
"Skadàgàmi - Tư Ðà Hàm" là "Người
còn trở lại một lần" (trên cõi thế) đã diệt thêm 2 sợi dây trói
buộc thứ 4 và thứ 5 một cách tương đối thô thiển.
"Anàgàmin - A Na Hàm" là "Người không
còn trở lại nữa". Nghĩa là cắt đứt hoàn toàn 5 dây trói chặt đầu
tiên thuộc phạm vi cõi Dục giớ i(Kàma-Loka). Sau khi chết, người được
sanh về cõi trời Sắc giới (Rùpa-Loka) rồi đắc quả Niết Bàn luôn.
"Arahat - A La Hán" hay là "Thinh Văn Giác"
là người đã hoàn toàn cắt đứt mười dây trói chặt kể trên.
M.117 - "Như Lai cho biết Chánh kiến có
hai:
1) Chánh kiến thế gian (hiểu biết chơn chánh của
người tại gia)
2) Chánh kiến siêu thế gian (hiểu biết chơn chánh của bậc Sa Môn)
CHÁNH KIẾN THẾ GIAN
Hiểu biết rằng bố thí và cúng dường đến
những bậc có giới đức không phải là vô ích. Biết rằng nghiệp lành
hay nghiệp dữ sẽ đem lại quả vui hay quả Khổ chẳng sai.
Biết rằng kiếp hiện tại và kiếp vị lai có
thật. Cha mẹ và chúng sanh khác hằng được thụ hưởng phước báu nơi cõi
trời. Biết rằng trên thế gian có những bậc Sa Môn hay bậc đại hiền
giới đức trong sạch có thể giải thích đời sống hiện tại và những
kiếp vị lai.
Ðó là Chánh kiến thế gian (Lokiya Sammà ditthi).
CHÁNH KIẾN SIÊU THẾ GIAN
"Tuy cũng đạt được Chánh kiến về đạo
đức, các bậc thánh: Tu Ðà Hườn, Tu Ðà Hàm, A Na Hàm, A La Hán không hướng
sự hiểu biết của các Ngài về phương diện thế gian mà chỉ chú trọng
đến con đường siêu việt (Bát Chánh Ðạo).
Đó là "Chánh kiến siêu thế gian"
(Lokutta-ra Sammà ditthi) không còn nằm trong lãnh vực thế gian, ở ngoài thế
gian và đã hợp nhất với con đường siêu việt."
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Bát Chánh Ðạo cũng có 2:
- Bát Chánh Ðạo thế gian do hàng tại cư sĩ thực
hành (Puthujjana).
- Bát Chánh Ðạo siêu thế gian được dành riêng cho những bậc Sa Môn cao
quí (Ariya pugala).
M.47 - "Và khi biết rõ thế nào là
"Tà Kiến" Cũng như thế nào là "Chánh kiến" (bước một)
hành giả cố gắng trau dồi sự hiểu biết thêm đúng đắn, cố vượt khỏi
những điều tà vạy bằng "Chánh tinh tấn" (bước thứ 6) chú tâm
quan sát về sự hiểu biết chơn chánh bằng "Chánh niệm" (bước
thứ 7).
Như thế ba yếu tố có liên quan mật thiết với
nhau về "Chánh kiến" là: Hiểu biết chơn chánh, tinh tấn chơn chánh
và niệm tưởng chơn chánh".
ÐỨNG NGOÀI VÒNG LÝ LUẬN
M.72 - "Ðấng Toàn Giác không còn dính mắc
trong phạm vi của các lý thuyết.
Vì Ðấng trọn lành đã thấu rõ sắc tướng
("sắc uẩn") là gì, nó sanh và diệt như thế nào.
Ngài biết rõ sự cảm giác và tư cách sanh diệt của "thọ uẩn"
,
Ngài biết rõ sự chấp nhận tình cảm và tư cách sanh diệt của "tưởng
uẩn",
Ngài biết rõ phối hợp tư tưởng và tư cách sanh diệt của "hành uẩn",
Ngài biết rõ sự hoạt động của tư tưởng và tư cách sanh diệt của
"thức uẩn".
Lẽ đó Ðấng Giác Ngộ đã dập tắt, đã lánh
xa, đã huỷ diệt, đã vứt bỏ và đứng ngoài vòng lý luận, thoát ly ra
khỏi sự ước đoán, sự khuynh tà ... chẳng còn tham danh vọng hảo huyền
cho cái "Ngã" và cái "Bản Ngã".
BA TRẠNG THÁI TUYỆT ÐỐI
A.III (134) - "Dù cho các Ðấng Toàn Giác
có xuất hiện trên thế gian hay không, một sự kiện tuyệt đối bất di bất
dịch, một quy luật cố định vẫn luôn luôn tồn tại là: "Tất cả
những vật cấu tạo do các nguyên nhân là giả tạm (Vô thường), là khốn
quẩn (Khổ não) và không có thực ngã (Vô ngã)".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Danh từ "Sankhàra" ám chỉ những gì có
một khởi điểm và một dứt điểm (sanh, diệt) mà chúng ta thường gọi
là vật phối hợp hay cấu tạo (hữu vi).
"Pháp Hành" (Sankhàra Dhamma) được áp dụng
trong tư cách phối hợp hay cấu tạo trên cả 2 phương diện vật chất và
tâm lý của đời sống (tạm bợ trên thế gian).
Tiếng "Dhamma" (Pháp) lại mang một ý nghĩa
sâu rộng bao quát hơn. Vì nó ám chỉ những gì không có khởi điểm và dứt
điểm (Vô sanh bất diệt), không phối hợp hay cấu tạo (Vô vi pháp),
"Asankhara dhamma". Chẳng hạn như không gian vũ trụ (Àkasa) và Niết
Bàn (Nibbàna).
Bởi thế, rất sai lầm khi cho rằng tất cả
các Pháp (Dhamma) đều là vô thường, biến đổi, vì "Niết Bàn
pháp" (Nibbàna dhamma) và không gian vũ trụ (Àkasa) đều trường tồn
vĩnh cữu không hề thay đổi. Cũng vì lẽ đó, phải nhìn nhận chẳng những
các "Pháp hành" (Sankhara dhamma) mà luôn cả những "Pháp vô sắc
tướng" (thuộc về tâm lý) cũng đều là vô ngã (không có thực thể).
S.X.VI (10) - "Trên thế gian này, các bậc
thánh nhân, kể luôn có Như Lai , chẳng có một ai công nhận rằng: Sắc,
Thọ, Tưởng, Hành, Thức là trường tồn bền bĩ mà không thay đổi, không
sao có những trạng thái như vậy".
A.I (15) - "Người có Chánh kiến chẳng thể
nào công nhận một vật gì là cái Ngã được".
BIỆN LUẬN VỀ CÁI "NGÃ"
D.15 - "Nếu có kẻ quả quyết rằng
"Cảm giác" (Thọ) là cái "Bản ngã" thì nên trả lời như
vầy:
Thọ có 3 loại: thọ vui, thọ khổ, thọ không
vui không khổ. Hỏi vậy người đó thọ cái nào là bản ngã?
Khi trắc nghiệm một trong 3 cái thọ đó thì 2
cái kia biến tan (ví dụ khi đang cảm giác vui thì 2 cái thọ: Khổ và
không vui không khổ chẳng xuất hiện). Như vậy, cả 3 cái thọ đó đều
là vô thường và tuỳ thuộc các nguyên nhân. Chúng cũng bị huỷ diệt,
hao mòn và dập tắt.
Bất cứ ai nghĩ rằng một trong ba cái thọ đó
là bản ngã đều bị lầm lạc, rồi sau cũng phải nhìn nhận rằng cái
mà họ gọi là bản ngã của kiếp hiện tại là vô thường, có vui khổ lẫn
lộn và cũng bị sanh diệt không sao tránh khỏi.
Nếu có kẻ khác nói "thọ" không phải
là cái ngã nhưng cái ngã của tôi (bản ngã) là thiêng liêng cao tột mà thọ
không thể nào tiếp xúc đặng, thì nên hỏi lại: "Vậy chớ tại nơi
nào không có thọ thì gọi là bản ngã được chăng?"
Nếu có ai khác nữa nói: "Thọ không phải
là bản ngã mà thật ra nó cũng không phải là cái ngã thiêng liêng cao tột
mà thọ không sao tiếp xúc được, mà chính cái ngã riêng của tôi mời biết
cảm giác. Với người này thì nên trả lời: "Nếu thọ bị hoàn toàn
huỷ diệt và chẳng có cảm giác nào cả, như vậy có thể nào chấp nhận
trạng thái "vô cảm giác" là cái ngã được không?
Nói rằng tâm và đối tượng của tâm là tư
tưởng tạo ra cái ngã là không căn cứ vào đâu cả. Chỉ cần nhận định
2 trạng thái "sanh" và "diệt" của mọi vật cũng đủ chứng
minh rằng cái ngã cũng sanh ra rồi bị diệt'.
S.21 (7) - "Người kém học thức còn có
thể quan niệm cho rằng xác thân do 4 nguyên tố (Tứ Ðại) cấu tạo là bản
ngã. Vì dù sao xác thân đó cũng tồn tại được một năm, hai năm hoặc
ba, bốn năm hoặc lâu hơn nữa là trăm năm. Còn cái mà chúng ta gọi là
"tâm trí" thì luôn cả ngày lẫn đêm phát hiện rồi biến tan dưới
hình thức này hay dưới hình thức khác".
S.21 (5) - "Như thế, tuy có: Sắc, Thọ, Tưởng,
Hành, Thức trong mỗi cá nhân và ở bên ngoài, dù là có tinh vi hay thô thiển,
thanh cao hay hèn hạ, ở xa hay ở gần, (người ta) cũng phải dùng trí tuệ
để nhận định đúng theo chân lý "Ðây không phải là của ta, không
phải là ta và cũng không phải là bản ngã".
QUÁ KHỨ-HIỆN TẠI-VỊ LAI.
D.9 - "Nếu có người hỏi: "Trong quá
khứ anh có sanh ra hay không? Về tương lai anh có còn tái sanh nữa không? Giờ
đây phải thật anh đang hiện diện hay chẳng phải?"
Và nên trả lời như vầy: "Quả thật tôi
đã có sanh ra rồi. Không thể phủ nhận điều đó. Trong tương lai tôi sẽ
còn tái sanh nữa, không ai chối cãi đặng và giờ đây chính tôi đang hiện
diện tại chỗ này, chắc như vậy".
Về quá khứ, chỉ có kiếp sống khi đó là thực
tế còn kiếp vị lai và hiện tại thì không thực tế. Trong tương lai, chỉ
có kiếp đó là thực tế còn những kiếp quá khứ và hiện tại thì
không. giờ đây, kiếp hiện tại là thực tế còn những kiếp quá khứ
và vị lai thì không.
Thực ra kẻ nào thấu rõ sự liên quan của các
Nhân và Duyên (Patticca-Samuppàda), kẻ đó đã thấy rõ chơn lý. Cũng như
người ta vắt sữa con bò cái, sữa để lâu trở thành kem, thành bơ, thành
mỡ. Rồi đem đun sôi nó ra thành bọt mỡ. Nói về kiếp quá khứ cũng vậy.
Nó chỉ thực tế hồi thời kỳ đó và không thực đối với hiện tại và
vị lai.kiếp vị lai cũng thực tế sau này nhưng không thật đối với quá
khứ và hiện tại. Kiếp hiện tại chỉ thực tế lúc này nhưng đối với
quá khứ và vị lai thì không.
Ðó là những chuyện nhân gian mà thôi, là một
cách lý luận, một lề lối giải thích. Theo sự phỏng đoán, là những sự
việc tầm thường. Ðấng Toàn Giác cũng dùng những danh từ (trong các trường
hợp) nhưng không khi nào Ngài để bị sa vào cái bẫy ngôn ngữ".
S.42 - "Như thế, khi nào chưa thấu rõ năm
uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chưa thấu rõ tư cách sanh diệt của
chúng, người có thể nghĩ rằng: "Ðức Chánh Biến Tri sẽ còn tiếp tục
(tồn tại) sau khi nhập diệt. Hoặc giả Ngài sẽ không tiếp tục (mất
luôn), v.v..."
HAI QUAN NIỆM CỰC ÐOAN
A III (61) - "Ðối với kẻ nào tin tưởng
rằng căn bản của đời sống (cái ngã) và xác thân là một, kẻ đó
không sao thành đạt được đạo quả thánh nhân. Trái lại kẻ nào cho rằng
cái ngã khác biệt vơí xác thân, kẻ đó cũng không đi đến đạo quả
bao giờ.
Ðấng Toàn Giác đã chánh hai lối cực đoan đó
và trọn con đường đi giữa (Trung đạo)". Và Ngài tuyên bố:
NHÂN QUẢ LIÊN QUAN (Paticca-Samupàda)
"Từ chỗ tối mê "Vô Minh" (Avijjà)
sanh ra sự hành vi tạo tác vô ý thức, "Hành" (Sankhàrà). Từ
"Hành" sanh ra sự biết mình nằm trong bụng mẹ, "Thức"
(Vinnàna). "Thức" gây ra sự phối hợp tinh thần và vật chất,
"danh sắc" (nama rùpa). Danh sắc tạo ra 6 căn, "Lục căn"
(Chalàyatana). Lục căn làm cho biết cảm giác khi đụng chạm (về thân xác
hoặc tâm lý), "Xúc" (Phasso). Xúc sanh ra cảm đặng, "Thọ"
(Vedanà). "Thọ" làm phát sanh ra sự khao khát, "Ái" (Tanhà).
"Ái" sanh ra sự quyết luyết bám giữ đời sống, "Thủ"
(upàdàna). "Thủ" phát động những diễn tiến về những hành vi tạo
nghiệp, "Hữu" (Kamma Bhava). Do "Hữu", có cái thai bào đi
"tái sanh" (Jàti). Và vì có "tái sanh" nên phải gánh lấy
những thảm hoạ: già nua, tử liệt (Jaràmarana) và sầu khổ, khóc than,
đau đớn, thất vọng.
Đó là chân lý cao siêu về nguồn gốc sự Khổ"
S.12 (6) - "Tuy nhiên, giới tử nào không
còn mù quáng (vô minh) và đạt Giác Ngộ, thì giới tử đó chẳng tạo
nghiệp nữa, bất cứ là tốt hay xấu, hoặc nghiệp đưa đến thế lực bất
bải miễn (không ai bị bải chức được như vua chúa hay trời Phạm
Thiên)".
A.III (61) - "Vì lẽ đó, khi vô minh bị dập
tắt thì hành biến tan. Không có hành thì thức cũng chẳng phát sanh. Không
có thức thì danh sắc cũng không có. Danh sắc bị diệt thì không có lục
căn. Không lục căn thì chẳng có xúc. Xúc không có thọ cũng không phát
sanh. Không thọ thì cũng chẳng có ái. Ái không có thì không có thủ. Thủ
không có thì chẳng có hữu và nếu hữu không có thì cũng chẳng có tái
sanh."
Và khi trường hợp tái sanh bị dập tắt, thì
những thảm hoạ già nua, tử biệt, sầu khổ, khóc than, đau đớn, thất vọng
cũng tiêu tan. Tư cách diệt tận nguồn đau khổ là thế ấy. Ðây là chân
lý cao siêu về sự diệt Khổ"
HIỆU LỰC CỦA NGHIỆP
M. 43 - "Thực ra vì chúng sanh bị vô minh
che lấp, bị sa vào bẫy Ái dục, đi tìm kiếm nơi nầy đến nơi khác,
nên mới phải bị tái sanh trong nhiều kiếp mới"
A. III - "Cái nghiệp phát sanh do lòng tham
lam, sân hận, si mê, cái nghiệp xuất hiện từ đó và nguồn gốc cội rễ
của nghiệp do đó mà ra.
Bất cứ chúng sanh xuất hiện tại đâu, cái
nghiệp sẽ chín mùi tại đó. Nơi nào nghiệp chín mùi thì chúng sanh phải
gặt hái quả báo, hoặc trong kiếp hiện tại, hoặc về cái kiếp
sau".
NGHIỆP KHÔNG SANH QUẢ
M.43 - "Tuy nhiên, khi màn vô minh bị vẹt,
trí tuệ bừng sáng phá tan lòng tham dục, thì trường hợp tái sanh không
còn xảy ra nữa"
A.III (33) - "Những hành động không do
lòng tham lam, sân hận, si mê thúc đẩy, những hành động như vậy, ví như
cây thốt nốt bị nhỗ tận rễ lên khỏi đất không sao mọc lại được
nữa".
A.III - "Trong chiều hướng đó, có người
Chánh ngữ rằng Như Lai bày ra một lý thuyết về sự "Tiêu Diệt",
Như Lai truyền bá một Giáo lý có tánh cách tiêu diệt và dạy hàng môn đệ
học tập như thế"
Mà thật đúng như vậy! Như Lai hằng khuyến hoá
về cách tiêu diệt. Nghĩa là tiêu diệt tham lam, sân hận, si mê, tiêu diệt
những điều dữ và hành động xấu xa tội lỗi".
GIẢI THÍCH CỦA ÐẠI ÐỨC NYANATILOKA
Lý thuyết "nhân quả liên quan" (Paticca
Samuppàda) là một giáo huấn theo định luật về mỗi vật phát sanh do sự
phối hợp của tinh thần và vật chất (danh-sắc). Sự việc đã chứng
minh rằng tất cả những hiện tượng tâm lý và vật chất trên thế gian
huyền ảo này đều tuỳ thuộc vào sự hoạt động của các giác quan (Lục
căn) gây ra muôn ngàn thống khổ, chớ không phải những tình trạng may rủi
vu vơ mù quáng, mà là cuộc sống luôn luôn tuỳ thuộc vào những nguyên tố
"Nhân và Duyên". Ðây là điểm cốt yếu về Giáo lý của Ðức Phật
Thích Ca Gotama (mà không có một Tôn Giáo nào khác trên thế giới khám phá
ra được).
Như thế gạt bỏ các yếu tố đó (mười hai nhân
Duyên) thì những vật có liên quan tuỳ thuộc lẫn nhau chẳng còn lý do gì
để tồn tại.
Kết luận, lý thuyết "Paticca Samuppàda -
Duyên Sinh" rất cần thiết để làm sáng tỏ trong "Tứ Diệu Ðế,
chân lý thứ hai là nguyên nhân sự Khổ và chân lý thứ 3 là tư cách diệt
Khổ". Thuyết đó giải thích từ nền móng hạ tầng lên tận điểm
cao tột bằng hình thức của một triết lý nhận định sáng suốt. (Ðức
Phật khi còn là đức Bồ Tát phải mất 6 năm khổ hạnh để tìm ra manh mối
của sợi chuỗi 12 cái khoen Nhân Duyên đó). Nhìn vào bản lược đồ sau
đây, chúng ta có thể nhận định về sự liên quan tuỳ thuộc với nhau giữa
từng kiếp sống quá khứ, hiện tại và vị lai.
BẢN LƯỢC ÐỒ
Kiếp
quá khứ |
1. Vô Minh (nguồn gốc của
Tham, Sân, Si) |
Kàma
Bhava (
Diễn tiến của Nghiệp) |
2. Hành (hành động tạo
ra sự sống) |
Kiếp
hiện tại |
3. Thức (Sự biết mình) |
Uppatti
Bhava
(Diễn tiến đưa đến tái sanh) |
4. Danh-Sắc (Sự phối hợp
tinh thần và vật chất) |
5. Lục Căn |
6. Xúc (Ðụng chạm với
sắc trần) |
7. Thọ (Nhận lãnh tình
cảm) |
8. Ái (Tham dục) |
Kamma
Bhava
(Diễn tiến của Nghiệp) |
9. Thủ (bám chặt đời
sống) |
10. Hữu (Diễn tiến của
hành động) |
Kiếp
vị lai |
11. Sanh |
Uppatti
Bhava
(Diễn tiến đưa tới tái sanh) |
12. Tử |
(những chi tiết trên đây mô tả cái vòng lẩn
quẩn: Sanh tử, Tử sanh kéo dài triền miên vô cùng tận của chúng sanh)
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4