- Chuyển Pháp Luân
và Tứ Diệu Ðế
- Maha Thongkham và Huỳnh Văn Niệm soạn
dịch
- dựa theo quyển "The Word of
the Buddha" của Hòa thượng Nyanatiloka
- Tái bản năm 1995 tại Sài Gòn
Phần I -
CHUYỂN PHÁP LUÂN (tiếp theo)
-ooOoo-
I-4
LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN CỦA KHỔ
Diệu Ðế thứ nhì
Diệu Ðế thứ nhất Ðức Phật dạy
về khổ mà Ngài đã giác ngộ. Xin ví như đức Thế Tôn dạy về loài hổ
rất hung dữ hằng ăn thịt người, Ngài sợ chúng sanh không biết hình
dáng hổ ra sao nên Ngài mới bắt về nhà nhốt trong chuồng cho chúng sanh
xem cho biết hình dáng sức mạnh và tiếng gầm của nó. Ý nói rằng: Ngài
dạy rất rõ về Khổ để chúng sanh đã nhận thức và kinh sợ khổ thật
chớ không phải sơ sơ như chúng ta hằng ngày.
Diệu Ðế thứ nhì là phương pháp
diệt Khổ, hay nói cho đúng là phương pháp chống lại hay giết hổ dữ,
vì vậy xin quí vị cố suy nghĩ bằng trí tuệ cho kỷ để hiểu rõ những
gì mà Ngài đã dạy. Ngài dạy rằng Diệu Ðế là Tập Đế này Ngài cố
tâm tìm kiếm hằng 20 A Tăng Kỳ và 100 ngàn kiếp mới gặp dưới cội Bồ
đề sau 6 năm khổ hạnh.
Diệu Ðế này là Tập Diệu Ðế
Tập Khổ Diệu Ðế nghĩa là
nguyên nhân phát sanh khổ. Ý nói nó là nguyên nhân làm cho chúng sanh phải
bị trầm luân trong biển khổ phải bị khổ đủ mọi phương diện.
Tóm sơ lược lời Phật dạy trong
bài Chuyển Pháp Luân: Idam kho pana bhikkhave dukkhasamudayo ariyasaccam yà yam
tanhà ponobbhavikà v.v... Nghĩa là: Này các thầy Tỳ Khưu, đây là nhân
sanh khổ thật sự là Ái dục. Ái dục là nhân sanh làm cho chúng sanh phải
sanh vào cảnh giới mới, khi ấy lại phải lẫn lộn với sự ham muốn
trong các đề mục (sự việc bên ngoài) là:
- Sự ưa muốn sanh trong cõi dục
- Sự ưa thích sanh vào cõi sắc
- Sự ưa thích sanh vào cõi vô sắc
Theo lời Phật dạy nên cho chúng ta
thấy rõ có 3 giai đoạn là:
1) Nguyên nhân sanh khổ là do nơi ở Ái dục
2) Giải rõ cho thấy Ái dục là sự ưa thích sanh vào 3 cõi là Dục giới,
Sắc giới và Vô sắc giới (thường gọi là Tam giới).
3) Phân giải tỉ mỉ về Ái dục.
Tôi (soạn giả) xin gom lại giải 3
điều là:
1) Nguyên nhân sanh khổ
2) Sự hành động của Ái dục
3) Ái dục
Nguyên nhân sanh khổ
Nói về Khổ vì các vị Giáo Chủ
khi xưa hay đồng thời với Ðức Phật giải thích một cách mù mờ. Nhưng
có thể tóm lại là: Các vị ấy dạy rằng: Phước tội do nơi một đấng
thiêng liêng ban cho và trừng phạt. Vậy người muốn các Ngài không trừng
phạt và ban cho hạnh phúc thì phải thừa hành theo lề lối của vị
thiêng liêng tồi cao ấy. Chung qui đều thuộc về thần giáo nghĩa là dạy
trong sự tin tưởng thần linh hộ trì giúp đở.
Sở dĩ mà đức Thế Tôn được
người thời ấy bỏ đạo của họ theo Ngài là vì đức Thế Tôn Giáo ngộ
được chánh Pháp là nhân sanh khổ và Ngài giải rõ nhân sanh khổ, và
nhân vật diệt khổ. Không có một Ðấng thiêng liêng nào cho phước và
hành tội chúng sanh mà tự chính chúng sanh làm cho mình khổ. Hiện nay là
thời kỳ nguyên tử rất có nhiều vật mà từ xưa chưa hề khám phá ra
được mà các nhà bác học khám phá ra được, nhưng những lời Phật dạy
vẫn còn là phương pháp duy nhất bất dịch mà trái lại các nhà bác học
vẫn hành theo.
Nhân sanh khổ mà đức Thế Tôn dạy
là pháp mới không thể đề cử và ngoài vị Chánh Ðẳng Chánh Giác không
ai hiểu thấu nổi. Nên khi Ngài thuyết Tứ Diệu Ðế gọi là Chuyển Pháp
Luân, tôi xin nói là khi Ngài thuyết xong thời pháp ấy, chính Ngài thay đổi
tất cả vạn vật nghĩa là Ngài lật rõ bộ mặt thật của vạn vật mà
Ma Vương cố che đậy từ vô lượng kiếp tới ngày ấy. Nên bài kinh ấy
gọi là xoay bánh xe Pháp (Chuyển Pháp Luân).
Thuyết nhân sanh khổ là Ái dục
là thuyết không ai cải được làm cho người thời xưa chỉ mới nay ai ai
cũng phải nhìn nhận và vâng giữ hành theo. Và cũng nhờ ấy mà Phật
giáo truyền bá rất sâu rộng và rất nhanh.
Tứ Diệu Ðế là 4 Pháp thật quí
báu mầu nhiệm và chân chánh là pháp chứng minh rằng: Phật Giáo không phải
là một tà thuyết, không phải là nhất thần giáo hay đa thần giáo mà là
một đạo giải thoát thật sự là nhờ biết rõ khổ, nhân sanh khổ và phương
pháp diệt khổ và Niết Bàn là nơi không còn khổ.
Nguyên nhân sanh khổ có rất nhiều
nhưng đức Thế Tôn không dạy những cái khổ đến sau, hay những cái khổ
không đầy đủ lý do để ch?ng minh rõ rệt, như nói khổ ấy do nơi một
đấng thiêng liêng hành phạt. Trái lại Ngài dạy rằng: Khổ não sanh lên
cũng đều do nơi ta. Ðây tôi xin đem lại một ví dụ nhỏ để quí vị dễ
chứng minh.
Anh A gây với vợ vì đi chơi bỏ phế việc gia
đình.
Anh B bị mất sở vì việc làm không chu đáo.
Anh C bị tù tội vì trộm cắp.
Trong 3 anh này bị khổ khác nhau nhưng
chung qui cũng vì Ái dục mà ra. Nếu những người ấy không làm quấy thì
đâu bị tai nạn như trên.
Người đời khổ vì sự thương,
muốn mà ra cả. Vậy đức Giác Ngộ dạy khổ sanh ra vì Ái dục.
Sự hành động của Ái dục
Ái dục ngụ ý chỉ sự thương yêu,
mong muốn ấy là nền tảng của Tâm người thế tục, ngoại trừ các bậc
Thánh Nhơn. Vì Ái dục là sự thương yêu mến tiếc,nên trong chú giải có
để câu hỏi rằng: ai cũng có Ái dục xấu xa hết chăng? Ðức Phật muốn
thuyết pháp độ đời vì thương chúng sanh, vậy Ðức Phật cũng còn Ái dục
chăng?
Khi quí vị bị hỏi như thế này,
nên nhớ đến một đoạn trong bài kinh Chuyển Pháp Luân, Ðức Phật có dạy:
Ái dục có 3 trạng thái cho ta thấy nó là phiền não để trả lời cho câu
hỏi ấy.
Ba trạng thái của Ái dục là:
- Ponobbhavikà: Nghĩa là tạo ra cảnh giới
mới cho kiếp lai sinh cho mình
- Nandiràgasagatà: Lẫn lộn với tham ái
- Tatrathàbhinandinì: Vui thích trong các đề mục của tham ái
Ba điều trên là 3 trạng thái của
ái dục. Ðức Thế Tôn thuyết pháp độ đời vì lòng từ bi dạy chúng
sanh bỏ 3 trạng thái nói trên của Ái dục để đi tới nơi yên lặng
hoàn toàn giải thoát. Nên chỉ sự hành động của Ngài không gọi là Ái
dục mà gọi là giải thoát.
Pháp của Ngài không khác gì chiếc
thuyền có đầy đủ tiện nghi ở giữa bể trầm luân. Chúng sanh là người
đang bị tầm luân trong bể khổ. Khi trông thấy chiếc thuyền như người
được nghe, được gặp Pháp bảo. Khi biết rằng chiếc thuyền ấy có đủ
tiện nghi và dành để cho ai là người muốn vượt qua khỏi bể trầm luân
thì cứ lên rồi lái vào bờ là nơi giải thoát.
Theo ví dụ trên thì sự muốn cho
chúng sanh khỏi luân hồi không gọi là lòng Ái dục được.
Ba điều Ái dục là:
- Kàmatanhà: Ái dục trong cõi dục
- Bhavatanhà: Ái dục trong cõi sắc.
- Vibhavatanhà: Ái dục trong cõi vô sắc
Ái dục trong cõi dục nghĩa là người
còn ưa thích ham muốn sanh vào cõi dục là cõi còn có ngũ trần là sắc,
thinh, huơng, vị, xúc và tài tình, danh lợi.
Ái dục trong cõi sắc ý nói người
còn muốn sanh vào cõi sắc thân này, nhưng không ham mê ngũ trần, không có
tài tình, danh lợi.
Ái dục trong cõi vô sắc ý nói hạng
này không còn có sắc nhưng thọ, tuởng, hành, thức. Vẫn còn, nhưng không
ham mê gì cõi dục hay sắc. Nhưng lại còn ham muốn có cái vô sắc ấy, đây
thật là phiền não rất vi tế. Nếu không phải là vị Đại giác thì
không bao giờ tầm cho ra nguyên nhân để giải thoát khỏi luân hồi được.
Chung qui là khi còn ham muốn hay ưa
thích một điều gì là còn phiền não, còn luân hồi.
Phận sự của Tập Diệu Đế là
Ðức Thế Tôn dạy diệt bỏ nghĩa là càng ngày
càng bớt Ái dục dần dần xuống cho đến mức độ chót là không còn có
một tí nào, có nghĩa là khô cạn. Sự dứt bỏ Ái dục phạn ngữ gọi
là Pahàna. Nghĩa là diệt trừ, cũng có khi gọi là Pahànakicca nghĩa là phận
sự phải diệt trừ.
Nếu nói về Khổ đế người cần
biết rõ khổ là được. Nhưng nếu nói đến Tập đế cần có sự hành
nghĩa là làm thế nào dứt bỏ được khổ.
Vấn đề quan trọng là: phương pháp
hành trì để dứt bỏ được bằng cách nào? - Xin quí vị hãy xem phần Đạo
Diệu Ðế tiếp theo, đó là phương pháp diệt trừ khổ.
Phật ngôn:
Dukkhasamudayo ariyasaccam pahàtabbam: Diệu Ðế này
là Tập đế cần phải diệt trừ.
-ooOoo-
I-5
LUẬN VỀ SỰ KHỔ DIỆT
Diệt đế là dập tắt khổ. Theo
đây là Phật ngôn dạy trong bài kinh Chuyển Pháp Luân.
Idam kho pana bhikkhave dukkhanirodho ariyasaccamyo
tassàtanhàyayeva tanhàya asesaviraganidho càro patinissaggo mutti anàlayo
Này các thầy Tỳ Khưu! Ðây là sự diệt khổ
thật sự đó là diệt tắt hẳn dục, dứt bỏ không luyến tiếc, giải
thoát không mến thương.
Căn cứ theo Phật ngôn ta có thể
nhận định rõ rệt là sự diệt trừ Ái dục có nhiều tiếng tương tự
như nhau như dứt bỏ không luyến tiếc v.v... Ðể chứng minh rõ rệt là phải
dập tắt thật sự có ý nói những gì đã dập tắt xong rồi không còn
tái phát sanh nữa.
Nirodha nghĩa là diệt, ý nói rằng
tắt hẳn, nghĩa là hoàn toàn tắt hẳn không có một nguyên nhân hay một cơ
hội nào làm cho phát sanh lại được, ví những bởi Ái dục làm cho cháy
không còn nữa. Ðây chỉ rõ là Niết Bàn, vì vậy, thiết tưởng quí vị
cần hiểu qua Niết Bàn nhiều hơn.
Theo lời Phật dạy, có một phần
vô hình ngự trong thân này để nhận định sự vật bên ngoài, phần vô
hình ấy gọi là Tâm. Tâm này lại là vật hay vọng động và nhơ đục vì
phiền não ngự trị, mà cũng vì Tâm nhơ đục ấy làm cho chúng ta phải trầm
luân trong biển luân hồi để chịu khổ. Trong khi đang trầm luân chúng ta
không lo dập tắt những phiền não như là dầu trong cây đèn, trái lại
chúng ta lại châm thêm dầu càng ngày càng nhiều hơn. Ý tôi muốn nói
chúng ta không lo tu hành để diệt lần phiền não trái lại chúng ta lại tạo
thêm nhiều nghiệp chướng mà cũng vì vậy càng ngày càng đi xa bờ giải
thoát hơn.
Phật ngôn là phương pháp dập tắt
lửa trên ngọn đèn, mà cũng là phương pháp đập vỡ bình đèn luôn, ngọn
lửa của cây đèn ấy là Ái dục, còn cái bình đèn ấy là không khác
nào Tam Giới, khi người chỉ dập tắt ngọn lửa thôi không đập bể bình
đèn thì có ngày nào có đủ phương tiện nó lại cháy lại. Nên phải dập
tắt xong còn phải diệt trừ tận không cho nó dư xót chút nào nữa.
Khi người thừa hành chính chắn
theo lời Phật dạy là người ấy có thể dập tắt và đập bể được cây
đèn tai hại ấy. Khi lửa tắt đèn bể thì người ấy trông thấy Niết
Bàn vậy.
Chỗ hay tiếng gọi Niết Bàn chủ
ý chỉ một nơi rất là hoàn toàn trong sạch. Theo Phật dạy Niết Bàn là
một nơi thật là hoàn toàn trong sạch của Tâm.
Xin ví như các nhà bác học về
nguyên phân tử phân chất ra đi từng giai đoạn thô thiển tới vi tế cho
tới khi không còn phân chất ra được nữa đó là nguyên tử. Chẳng những
chất này rất vi tế mà lại không có chất nào cấu tạo ra nó được.
Ðức Phật có thể tạm ví như một
nhà bác học không cần máy móc phòng thí nghiệm mà cũng chẳng cần phải
tốn kém của tiền để phân chất này ra chất nọ, mà hơn ấy, Ngài phân
chất được vật ấy là Tâm. Ðức Phật tìm thấy rằng: Tâm ta bị cấu
tạo do nhiều chất như Ái dục, tham ái, tam độc v.v... sau khi Ngài phân chất
ra được từng phần, Ngài đã bỏ cả những phiền não đến một độ không
còn một tí phiền não nào trong Tâm và không còn có gì cấu tạo Tâm được
nữa, vì Tâm ấy không còn nhơ bẩn. Vì tâm nhơ bẩn nên còn bị luân hồi.
Tâm còn luân hồi Phạn ngữ gọi là Sankhàtadhàtu nghĩa là còn chất
cấu tạo làm cho luân hồi . Asankhàtadhàtu là chất không bị các
pháp khác cấu tạo cho luân hồi, là chất không còn phân tách ra được nữa,
chất ấy ra ngoài phạm vi của sự hiểu biết của con người, người không
còn dùng tiếng gì để nói được cái chất ấy. Asankhàtadhàtu nghĩa
là không bị các vật khác cấu tạo cho luân hồi.
Asankhàtadhàtu là chất là người
không thể dùng lời diễn tả được hình thức, sự hành động v.v... Nó
thuộc về vật cần thấy bằng trí tuệ vì vậy nên chỉ có các bậc
Thánh Nhơn mới nhận thức được vì các Ngài tự đắc được do nơi trí
tuệ của Ngài.
Người nằm mơ mới thấy cảnh mình
thấy thôi, người ngoài ra không thể thấy được, cũng như người đã đắc
được thánh Pháp tự mình thấy chớ không thể làm cho người khác và biết
được những gì mà mình đã thấy.
Vậy xin ví dụ thêm như người bị
nặng, sau khi hết bịnh như người bịnh ấy biết trong mình của họ dễ
chịu như thế nào, người ngoài người bịnh như chúng ta thì không hiểu
biết gì được về cái an vui của sự hết bịnh của người ấy. Người
bịnh ấy ví như chúng ta cái bịnh hành hạ ta ví như phiền não. Khi ta hết
bịnh phải uống thuốc ấy chính là Pháp bảo, khi uống thuốc ấy là lúc
đang hành đạo. Khi đắc đến mục nào thì ta biết ta đắc đến bậc ấy
như người bịnh biết khi uống thuốc thấy trong mình bớt từ từ đến với
người ấy cho đến khi mạnh hẳn. Khi mạnh, người bịnh biết rằng ta mạnh.
Cũng như người hết phiền não tâm trong sach thì tự biết là an vui và hạnh
phúc như thế nào trong tâm của họ.
Trong bộ Udàna đoạn Pataligàmi-vagga
có dạy rằng:
Niết Bàn không phải là đất, nước, gió, lửa
v.v... không phải cõi này, cũng không phải cõi khác, không phải trên mặt
nhựt hay mặt nguyệt. Này các Tỳ Khưu, mà vật ấy (Niết Bàn) lại là vật
có thật sự.
Nói về Niết Bàn thiết tưởng
cũng nên nói đến cái 2 điều đặc biệt khác nhau là:
- Nói về đặc tánh của Niết Bàn
- Trạng thái của Niết Bàn
Ðặc tánh của Niết Bàn là:
Madanimmadano: Không còn say đắm (trần cảnh).
Pipasavinayo: Không còn khao khát (tất cả mọi việc)
Alayasamugghato: Không còn lưu luyến (Tam Giới)
Vattupacheto: Cắt đứt hết những gì còn luân hồi.
Tanhakkhayo: Khô hết Ái dục.
Virago: Không còn tham ái
Nirodho: diệt hay dập tắt (hẳn mọi việc)
Nibbanam: dập tắt hay gọi là Niết Bàn.
Trạng thái của Niết Bàn là:
Không còn bị pháp hành cấu tạo.
Niết Bàn còn có tên khác nữa theo
lời Phật dạy là:
Nìbbanam paraman sunnam, Niết Bàn thật trống
không, nghĩa là không còn một bợn nhơ nào của phiền não.
Nibbànamparaman sukham, Niết Bàn là nơi an vui
tuyệt đối.
Theo Phật dạy, người sanh ra là
mang theo một phận sự rất nặng nề là khổ, vì vậy nên trong bài kinh
Bhàra có dạy: Ngũ Uẩn thật là nặng, chúng sanh là người hằng mang đi
trong luân hồi dày vô tận xa xôi vô biên. Khi nhận thấy Ngũ Uẩn là khổ
và biết phương pháp để Ngũ Uẩn ấy xuống được rồi thì thật là an
vui, không còn nặng nề khổ sở, đó là Niết Bàn.
Theo câu Phật dạy trên để cho chúng
ta thấy rằng: Khi sanh ra làm người hay con vật là chúng ta mang theo một nặng
nề vô hạn là khổ, khi có thân này thì bận rộn không ngừng nghỉ theo
dính bên ta.
Hiện nay người thường hay tìm sự
vắng lặng để nghĩ ngơi như mỗi năm đi nghỉ mát nơi nào, cốt ý để
làm cho tâm hồn lắng xuống, hay ta có thể nhận thấy mang lấy thân này
phải khổ, muốn tạm để xuống trong ít ngày. Tuy làm thế nhưng người
cũng không an toàn nghỉ hay để tạm Ngũ Uẩn này xuống được. Có lắm
người cả đời cũng không có dịp may để tạm để phận sự ấy ít
ngày. Quí vị nghĩ coi ta chỉ tạm để xuống nghỉ tạm thời trong ít
ngày mà còn an vui hay phương chi ta lại để hẳn cái Ngũ Uẩn này xuống
thì an vui tới chừng nào.
Tôi ví dụ đây để quí vị thấy
cái an vui của Niết Bàn như thế nào. Chắc quí vị đã nhận định thấy
rõ cái khổ của sự mang lấy thân này và cái để cái thân nặng này xuống.
Ðến đây xin nhắc lại quí vị rằng:
Niết Bàn không phải là một đô thị có đầy đủ vui tươi sung sướng,
hay đủ tiện nghi cho quí vị vui chơi. Nhưng trái lại Niết Bàn là nơi dập
tắt những gì mà quí vị thấy của người có và của quí vị đang có.
Diệt Khổ đế là một của riêng
của Phật giáo. Ý tôi muốn nói rằng: Chỉ có đức Chánh Ðẳng Chánh
Giác mới tìm thấy diệt Khổ đế.
Chắc quí vị muốn hỏi: Vậy các
Tôn Giáo khác không có một Tôn Giáo nào có phương pháp diệt khổ hay sao?
Ðáp: Tông chỉ của các Tôn Giáo
trong vũ trụ này chung qui là diệt khổ, nhưng có phương pháp khác nhau. Chỉ
có Phật Giáo là có phương pháp hoàn toàn hơn hết mà từ ngàn xưa đến
hiện tại và đến vị lai ngoài ra vị Chánh Ðẳng Chánh Giác như Đức Phật
thì không ai tìm ra và hiểu rõ phương pháp diệt khổ hoàn toàn như Ngài
là Tứ Diệu Ðế
Ðể minh chứng cách diệt khổ của
Phật Giáo và các Tôn Giáo khác tôi xin so sánh cho quí vị nhận thức dễ
dàng.
PHẬT
GIÁO |
Tôn Giáo
khác |
Nhân
sanh Khổ |
Khổ sanh do Ái dục, nghĩa là ưa muốn ngũ trần, Lục dục.
Sự ưa muốn sanh lại có sắc thân (Sắc giới). Sự ưa muốn sanh lại
nhưng không muốn có sắc thân (Vô Sắc giới). |
Khổ sanh đến chúng sanh vì do nơi sự trừng phạt của
Ðấng Thiêng liêng tối cao vì người làm tội ác . |
Phương
pháp giải thoát Khổ |
Phật dạy: diệt tận phiền não là ái dục thì sẽ
không còn khổ. |
Dạy phải cầu Ðấng thiêng liêng có uy quyền tối cao
tha lỗi hay hành phạt; hoặc ban bố an vui hạnh phúc . |
Trạng thái
của sự giải thoát thật sự |
1) Không có
sự ưa thích gì trong tâm dầu rất vi tế.
2) Dứt bỏ các sự cố chấp.
3) Không luyến ái trong các cảnh giới
.
4) Thoát khỏi sự vui của Tam Giới
.
5) Không cần ai đến giải thoát
cho mình mà tự mình giải thoát . |
1) Muốn
được Ðấng thiêng liêng cứu khổ.
2) Cố tin có Ðấng thiêng liêng tối
cao của mình.
3) Xin sanh vào cõi thiên đàng
4) Còn muốn được hưởng an vui của
cõi thiên đàng
5) Cần có Ðấng thiêng liêng đến
tiếp độ cho linh hồn được ở bên Ngài mãi. |
Phận sự của Diệt Khổ Ðế.
Phận sự của Diệt Khổ Ðế, Phạn
ngữ gọi là SACCHIKARANA, nghĩa là phải làm cho phân minh rõ rệt; Ý nói tự
mình hành động cho đến nơi giải thoát, tự mình dập tắt hết dục vọng
ở lòng mình và tự mình biết rõ rằng mình đã giải thoát.
PHẬT NGÔN:
DUKKHANIRODHO ARIYASACAM SACCHIKÀTABBAM. Diệu đế gọi
là Diệt Khổ diệu đế này người cần phải hành cho phân minh, nhận định
rõ rệt bằng trí tuệ.
-ooOoo-
I.6
LUẬN VỀ CON ÐƯỜNG DIỆT KHỔ -
ÐẠO DIỆU ÐẾ
Ðạo Diệu Đế có nghĩa là hành
đến nơi diệt Khổ. Ðây là tiếng thường dùng trong Phật Giáo, nhưng nếu
dùng tiếng thông thường cho dễ nghe, dễ hiểu hơn có những tiếng thay thế
là:
1) MAJJHIMAPATIPADA: Trung đạo
2) KAMAGGA: Bát Chánh Ðạo
3) ARIYAMAGGA: Thánh đạo
Trước khi giải rõ xin quí vị học
qua câu Phật dạy:
IDAMKHO PANA BHIKKHAVE DUKKHANIRODHAGAMINÌP PATIPADA
ARIYASACAM AYAMEVA ARIYO ATTHANGIKOMAGGO SAYYATHÌDAM?
SAMMÀDITTHI, SAMMÀSANKAPPO, SAMMÀVÀCÀ,
SAMMÀKAMMANTO, SAMA-ÀJÌVO, SAMÀVÀYAMO, SAMMÀSATI, SAMMÀSAMÀDHI
Này các Thầy Tỳ Khưu! Đây là sự hành để dập
tắt khổ thật sự, là đạo có tám chi. Tám chi ấy là gì? Tám chi ấy
là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh
tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Theo lời Phật dạy trên thì chúng
ta nhận thấy rằng Diệu Ðế thứ tư là sự hành đúng theo con đường
đi đến nơi giải thoát có đầy đủ tám chi.
Diệu Ðế thứ tư này Phật dạy
hành theo Chánh Ðạo có tám yếu tố. Tôi (soạn giả) xin rút bài kinh khác
giải rõ Bát Chánh Ðạo lại trình bày trên đây hầu quí vị, vì trong
bài Chuyển Pháp Luân chỉ có đếm đủ tám chi thôi.
Sammàditthi (Chánh kiến)
Đây là Phật ngôn trong bài kinh
Maggavibhanga dạy rằng:
Kattamà ca bhikkhave samma bhikkhave ditthi yam kho
bhikkhave dukkhena nam.
Này các thầy Tỳ Khưu! Chánh kiến
là gì? Chánh kiến là: 1) Sự biết rõ khổ, 2) sự biết rõ nhân sanh khổ,
3) Sự biết rõ dập tắt khổ. Và 4) Sự biết nương pháp hành cho đến
nơi dập tắt khổ. Này các thầy Tỳ Khưu: sự hiểu biết như thế gọi là
Chánh kiến.
Sammàsankappa (Chánh tư duy)
KATAMÀ CA BHIKKHAVE samma SANKAPPO YÀ KHO bhikkhave
NEKKAMMASAKAPPO. ABHYÀPÀDASANKAAPPO AVIHIMÀSÀN – KAPPO.
Này các Tỳ Khưu, Chánh tư duy là
thế nào? Chánh tư duy là: 1) sự suy nghĩ thoát trần (xuất gia). 2) sự suy
nghĩ không cột oan trái. 3) sự suy nghĩ không làm hại người. Này các thầy
Tỳ Khưu, hành như thế này gọi là Chánh tư duy (suy nghĩ chơn chánh).
Sammàvaca (Chánh ngữ)
Katama ca bhikkhave bhikkhavesammàvaca yakho bhikkhave
veramanì pharusaya vacaya verrmanì. Samphappalapa veramanì ayam vuccati bhikkhave
samavaca.
Này các thầy Tỳ Khưu! Chánh ngữ
là thế nào? Chánh ngữ là: 1) tác ý lánh xa sự nói dối. 2) tác ý lánh xa
sự nói lời đâm thọc. 3) tác ý lánh xa sự nói lời đê tiện. 4) tác ý
lánh xa sự nói lời vô ích. Này các thầy Tỳ Khưu! Sự nói như thế gọi
là Chánh ngữ (lời nói chơn chánh).
Sammàkammanta (Chánh nghiệp)
Katama ca bhikkhave v.v....
Này các thầy Tỳ Khưu! Chánh nghiệp
là thế nào? Chánh nghiệp là: 1) tác ý lánh xa sự sát sanh. 2) tác ý lánh
xa sự trộm cắp. 3) tác ý lánh xa sự tà dâm. Này các thầy Tỳ Khưu! Hành
như thế này gọi là Chánh nghiệp (sự làm chơn chánh).
Sammà àjivo (Chánh mạng)
Katamà ca bhikkhave v.v....
Này các thầy Tỳ Khưu! Chánh mạng
là thế nào? Chánh mạng là các thầy Tỳ Khưu bậc đệ tử thuộc hàng
thánh nhân trong Phật Giáo: 1) nuôi mạng chơn chánh. 2) không nuôi mạng
trái với đạo lý. 3) nuôi mang theo lẽ phải. Này các thầy Tỳ Khưu! Nuôi
mạng như thế gọi là Chánh mạng.
Riêng về người tại gia cư sĩ nuôi
mạng chơn chánh là không lường gạt lấy của kẻ khác, giết thú ăn, biết
là của bất nghĩa không nên lấy về dùng, mặc dầu của ấy là của rơi
rớt vô chủ.
Sammàvàyàma (Chánh tinh tấn)
Katamà ca bhikkhave v.v....
Này các thầy Tỳ Khưu! Thế nào gọi
là Chánh tinh tấn? Chánh tinh tấn là các thầy Tỳ Khưu trong Phật Giáo:
- Vun trồng sự thoả thích trong sự tinh tấn
không để cho tội lỗi phát sanh lên, không để cho tội chưa phát sanh lên
lại sanh lên trong tâm, cố gắng hết sức để giữa tâm cho vững chắc.
- Vun trồng sự thoả thích tinh tấn diệt trừ
các pháp đã sanh trong tâm rồi cho tiêu diệt và giữa tâm cho trong sạch.
- Vun trồng sư thoả thích tinh tấn cho thiện
pháp chưa sanh trong tâm làm cho phát sanh và giữ tâm cho vững chắc torng thiện
pháp.
- Vun trồng sự thoả thích tinh tấn làm cho các
thiện pháp đã có trong tâm hằng nảy nở tiến hoá thêm lên mải mãi và
làm cho tâm càng vững chắc trong thiện pháp.
Sammàsati (Chánh niệm)
Katamà ca bhikkhave v.v....
Này các thầy Tỳ Khưu! Thế nào gọi
là Chánh niệm? Chánh niệm là các thầy Tỳ Khưu trong Phật Giáo hằng suy
nghĩ thấy thân trong thân, có sự tinh tấn thiêu đốt phiền não, tự mình
biết lấy mình, có sự nhớ được mọi việc làm và sự hành động của
mình trong mọi sát na, diệt sự ưa muốn và ghét bỏ. Nhận thấy thọ
trong thọ ... uy nghĩ thấy tâm trong tâm ... suy nghĩ thấy pháp trong pháp...
Sammàsamàdhi (Chánh định)
Katamà ca bhikkhave v.v....
Này các thầy Tỳ Khưu! Thế nào gọi
là Chánh định? Chánh định là các thầy Tỳ Khưu trong Phật Giáo: 1) tâm
vắng lặng những sự việc bên ngoài. 2) vắng lặng dục tình. 3) vắng lặng
các ác pháp, nhập Sơ Thiền có Tầm, Sát, Hỉ, Lạc, An và Định.
Vì diệt được Tầm và Sát nên
nhâp Nhị Thiền nên làm cho tâm càng thêm trong sạch xa lánh trần nhiều hơn.
Ðây là nhân làm cho Tâm càng trong sạch làm cho Định càng dũng mãnh thêm
trong sạch hơn nhiều Hỉ, Lạc, An được thêm sự trong sạch vì oai lực của
Ðịnh.
Hơn ấy nữa, vì không cần Hỉ, Lạc
với tâm đã bình tĩnh có đủ trí nhớ và biết mình (chỉnh tâm) và tâm
đang hưởng sự an lạc do nơi oai lực của tâm xả. Trí nhớ và biết
mình là nhân mà các bậc thánh nhân hằng ngợi khen, người có tâm xả là
người có trí nhớ điều chỉnh tâm và hưởng an vui nên gọi là Tam Thiền.
Khi đã diệt được khổ và lạc,
những sự vui buồn đã có từ xưa đều bị dập tắt được do nơi Tứ
Thiền. Không còn vui mà cũng không có khổ chỉ có trí nhớ để ở trong Xả.
Này các thầy Tỳ Khưu! Sự để tâm
như thế gọi là Chánh định.
Trên đây tôi dịch sát nghĩa theo
Phật ngôn chắc quí vị đã hiểu rõ rồi xin khỏi giải thêm.
-ooOoo-
I-7
LUẬN GIẢI TRUNG ÐẠO
Phàm đã làm đệ tử Phật thì
không ai không hiểu Trung đạo. Vì Trung đạo là con đường đi tới giải
thoát của chư Phật. Người muốn giải thoát ngoại trừ ra đường Trung
đạo thì không còn con đường nào khác hơn. Vì chỉ có một đường duy
nhất đi đến Niết Bàn mà thôi.
Tại sao gọi là Trung đạo?
Tưởng nên nhắc lại rằng: Trước
khi có Phật Giáo tại Trung Ấn Ðộ hay gọi là cõi Diêm Phù Đề có rất
nhiều Tôn Giáo khác nhau, phần nhiều các giáo phái ấy đều dạy người
hành khổ hạnh. Vì người đời ấy tin rằng: hành khổ hạnh mới làm cho
các Ðấng thần linh hay Ðấng thiêng liêng cảm động ban ân huệ, hay là
khi hành khổ hạnh như thế mới diệt được phiền não trong lòng.
Theo lời Ðức Phật dạy gọi hạnh
ấy là thái quá. Có chia ra 2 điều thái quá là:
- Kamasukhallikanuyoga: Nghĩa là người hành
đạo nhưng còn lẫn với sự hành lạc trong ngũ trần, lục dục gọi là
hành đạo quá dùng.
- Attakilamatthànuyoga: hành làm cho thân này
quá khổ cực gọi là thái quá hay cũng gọi là khổ hạnh.
Hai phương pháp kể trên, khi chưa thành đạo, Bồ
Tát Sĩ Ðạt Ta phải bỏ ra 6 năm để hành. Nhưng không đem lại kết quả
nào xứng đáng theo ý muốn của Ngài, nên Ngài lại hành theo Trung đạo.
Sau khi thành đạo, bài Pháp đầu
tiên là Chuyển Pháp Luân, Ngài dạy rằng:
Dvmebhikkhave antàpabbaji tena nasevitabbà: Này
các thầy Tỳ Khưu! Hai phái thái quá mà các bậc xuất gia không nên xu hướng
theo, không nên hành theo. Hai Pháp thái quá ấy là gì?
Một là Pháp làm cho tâm quyến luyến theo tình dục.
Pháp hèn hạ, Pháp của kẻ thế gian, Pháp của phàm nhân chẳng lợi ích
chi.
Hai là Pháp khổ hạnh làm cho thân hình tiều tụy
cực khổ chẳng phải là Pháp của một cao nhân, cũng chẳng có lợi ích
chi.
Này các thầy Tỳ Khưu! Sự tu hành theo Trung đạo
không nên thiên theo 2 điều thái quá ấy.
Bát Chánh Ðạo có thể tóm lại
là Tam Học:
Tuệ: Chánh kiến, Chánh tư duy
Giới: Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng
Định: Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định
Phận sự của Tứ Diệu Ðế
Phận sự của Tứ Diệu Ðế là sự
cố gắng hành đúng theo Bát Chánh Ðạo. Người hành phải hành một lúc
đúng theo tám chi của đạo và cũng phải trong sạch bằng nhau trong một lúc,
không thể thiếu xót một chi nào trong một của tám điều ấy. Nghĩa là
không dư không thiếu.
Tôi xin ví dụ, như trong một thang
thuốc có tám vị, phải dùng đúng theo phân lượng và khia sắc thuốc cũng
phải còn là bao nhiêu không thể nhiều hơn hay ít hơn được. Ðây cũng
như sự hành đạo phải hành đúng theo Bát Chánh Ðạo, có tám chi không thể
thiếu sót mặc dầu một chi của một điều nào trong Bát Chánh Ðạo.
Ðây là Phật ngôn dạy:
Dukkhannyrodhagàminì patipadà ariyasaccam bhàvetabbam.
Diệu Ðế là đạo đế nghĩa là sự hành theo đạo cho đến diệt tận
phiền não và Khổ, hành giả nên hành theo.
Có nhiều người hỏi tôi (soạn giả):
Thời kỳ này còn có đạo quả chăng? Có người đắc đạo quả và Niết
Bàn không?
Ðáp: Phật dạy phương pháp hành
để đắc Niết Bàn là Bát Chánh Ðạo. Nếu Bát Chánh Ðạo còn thì đạo
quả còn. Còn người hành đúng theo Bát Chánh Ðạo là còn có người đắc
được đạo quả và Niết Bàn. Nếu người ai ai muốn giải thoát đến Niết
Bàn thì cứ hành đúng theo Bát Chánh Ðạo. Vì đó là con đường đi ngay
đúng vào Niết Bàn.
Sở dĩ mà thời pháp đầu tiên
thuyết tại vườn Lộc Giả được tên là Chuyển Pháp Luân có ý nghĩa
xoay bánh xe Pháp. Ý nói thời pháp ấy dạy 3 luân và 12 thể của Tứ Diệu
Ðế. Khi người nhận định thấy rõ 3 luân và 12 thể rõ rệt thì người
ấy là người giải thoát luân hồi.
Ba luân và 12 thể ấy là gì?
Như quí vị đã biết Tứ Diệu Ðế
là 4 điều: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Hành giả phải hiểu rõ mỗi đế có
3 điều gọi là 3 luân nhân cho 4 đế ra làm 12 thể.
Câu chót của bài kinh Chuyển Pháp
Luân đức Thế Tôn dạy: Khi mà Ngài chưa tìm thấy rõ 3 luân và 12 thể
trong Tứ Diệu Ðế là chưa đắc quả vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Sau khi Ngài đắc được 3 luân 12 thể nên Ngài mới đắc được quả cao
thượng ấy.
Ba luân ấy là:
- Tuệ thấy rõ Khổ.
- Tuệ suy nghĩ thấy và hiểu rõ Khổ
- Tuệ thấy và biết rõ là hoàn toàn giải thoát khỏi Khổ, Tập, Diệt,
Ðạo, đều có 3 luân như thế nên gọi là 12 thể.
Sau khi thuyết dứt thời Pháp đức
Thế Tôn biết rằng: Trong 5 vị có một vị già nhất đắc Tu Đà Huờn quả.
Nên Ngài mới dạy rằng: Annasi vata bhokondanno nghĩa là Kondanna (Kiều
Trần Như) đã thấy rõ Thánh Pháp rồi. Vì vậy từ ấy Ngài Kiều Trần
Như có tên là A Nhã Kiều Trần Như.
Xin nói thêm về Attha (ý nghĩa)
của Tứ Ðế. Khổ đế có 4 Attha (ý nghĩa):
Pìlanatto: Có nghĩa làm hại
Sankhàtatto: Có nghĩa là họp các nguyên nhân
Santàpatto: Có nghĩa là làm cho nóng nảy
Viparinàmatto: Có nghĩa là thay đổi.
Tập đế có 4 Attha (ý nghĩa):
Ayuhanattho: Có nghĩa là làm cho Khổ phát sanh
Nidànattho: Có nghĩa là nhân làm cho Khổ sanh
Sanyogattho: Có nghĩa là hội họp tất cả điều Khổ
Palipolattho: Có nghĩa là làm cho bận lòng vì Khổ.
Diệt đế có 4 Attha (ý nghĩa):
Nissaranattho: Có nghĩa là đem mình ra khỏi
luân hồi.
Appaliboddhattho: Có nghĩa là không còn bận rộn vì khổ.
Alankalattho: Có nghĩa là nguyên nhân cấu tạo không thể hội họp lại
không thể cấu tạo được.
Amattho: Có nghĩa là bất tử.
Ðạo đế có 4 Attha (ý nghĩa):
Niyyànattho: Có nghĩa là đi ra khỏi vùng luân
hồi.
Hetavattho: Có nghĩa là nhân diệt khổ
Dassanattho: Có nghĩa là thấy rõ Niết Bàn
Adhipayattho: Có nghĩa là chủ nhân (ý nói không còn dưới quyền của
phiền não)
Sau khi đắc được Tu Đà Huờn quả,
Kiều Trần Như không còn hoài nghi Phật bảo và Pháp bảo nên bạch với
Phật rằng: Bạch hoá đức Thế Tôn, đệ tử xin xuất gia với đức Đại
giác.
Ðức Thế Tôn dạy: Ehi bhikkhu,
thầy hãy trở nên vị Tỳ Khưu hành theo thánh đạo và phạm hạnh đúng
theo luật của Như Lai đã dạy hầu diệt tận phiền não.
Khi dạy dứt lời thì râu tóc của
vị Kiều Trần Như đều rụng, trên mình có đắp bộ y cà sa vàng. Sau ấy
4 vị kia mới xin xuất gia.
Ngày 16 âm lịch Ngài thuyết pháp
độ vị thứ nhì đắc Tu Ðà Hườn quả vị ấy là Ðại đức Vappa. Còn
4 vị kia đi khất thực.
Ngày 17 âm lịch Ðức Phật thuyết
pháp độ Ðại đức Bhaddiya đắc Tu Ðà Hườn quả.
Ngày 19 âm lịch đức Thế Tôn thuyết
pháp độ Ðại đức Assaji Tu Ðà Hườn quả.
Ðến ngày 30 âm lịch Ðức Phật hội
5 vị lại và thuyết bài Anattalakkhana-sutta (Vô ngã tướng kinh) (quý
vị muốn xem nguyên văn xin xem quyển kinh tụng của Ðại đức Hộ Tông đã
xuất bản). Nơi đây tôi xin lược thuật dễ hiểu thôi.
* * *
Ðức Thế Tôn dạy:
Rupam bhikkhave anattà, Này các thầy
Tỳ Khưu! Thân này không phải của ta, vì vậy hằng bị các bịnh hoạn.
Không thể ngăn cản rằng: Thân ta nên trẻ đẹp và trang điểm rất đẹp
ví như cây cột bằng vàng chạm trỗ rất tinh vi, trông coi rất đẹp mắt.
Mặc dầu lo trang điểm cho đẹp như thế, nhưng nó vẫn thay đổi vì bịnh
hoạn tàn phá, không thể tồn tại như lời ta bảo. Ngoài ra Thọ, Tưởng,
Hành, Thức cũng chẳng phải của ta.Những pháp ấy cũng không chịu dưới
quyền sai bảo và cấm đoán của ta.
Rồi Ngài vấn chư Tăng rằng: Này
các thầy Tỳ Khưu! Các thầy nghĩ sao?
Chư tăng đáp: Bạch Ngài thân sắc
này vô thường.
- Nếu thân sắc này vô thường thì
khổ hay vui?
- Bạch Ngài, là khổ.
- Nếu sắc thân này khổ, vậy các
thầy suy tưởng thấy có phải cần ta hay không?
- Bạch Ngài, sắc thân này không phải
ta, mà cũng không phải là của ta.
Rồi đức Thế Tôn hỏi Thọ, Tưởng,
Hành, Thức như trên, và Chư tăng cũng trả lời như trên.
Đức Thế Tôn mới dạy Ngũ Uẩn
ở quá khứ cũng như hiện tại và vị lai mặc dầu là của ta hay của người,
đẹp hay xấu, thô hay vi tế, nếu nó là Ngũ Uẩn hay có sắc thì hằng ở
dưới 3 tướng là vô thường, Khổ não, Vô ngã. Các thầy nên lấy đó
mà quán tưởng cho thấy rõ rệt là vô thường, khổ não và vô ngã. Do nhờ
sự quán tưởng như thế nên chư Thinh Văn đệ tử Phật chán nản với Ngũ
Uẩn. Không ưa mến Ngũ Uẩn nên được giải thoát là đắc được A La Hán
quả tuệ, thì tức nhiên tự mình thấy rằng: Ta đã diệt trừ tận phiền
não, phạm hạnh của Phật giáo đã hành xong.
Sau khi thuyết bài Vô ngã tướng
kinh, cả 5 vị đều giải thoát nghĩa là đắc được quả A La Hán.
Trong ngày ấy, 30 tháng 6 âm lịch,
trong Tam Giới có 6 vị Thánh Nhơn: Một đức Chánh Ðẳng Chánh Giác và 5 vị
A La Hán.
MAHA THONGKHAM MEDHIVONGS
-ooOoo-
I-8
DỊCH NGHĨA KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN
(DHAMMACAKKAPPAVATTANA-SUTTA)
(trích trong bộ luật MAHÀVAGGA phần
PATHAMADESANÀ,
và cũng trong bộ SAMYUTTA NIKÀYA)
BỐ CÁO
Kính bạch chư hiền giả:
Phạm Thiên SAHAMPATI thỉnh cầu đức
Thế Tôn thuyết pháp độ sanh, đức Thế Tôn nhận lời, Ngài đã ngự đến
khu rừng nơi vườn Lộc Giả (ISIPATANA), nơi trước kia chư Phật Ðộc
Giác thường ngụ xuống, gần thành BÀRÀNASÌ. Bấy giờ tại nơi đây có
nhóm 5 Tỳ Khưu: Ngài KONDANNA, Ngài VAPPA, Ngài BHADIYA, Ngài MAHÀNÀMA và Ngài
ASSAJI, đức Thế Tôn thuyết bài kinh đầu tiên gọi là
DHAMMACAKKAPPAVATTANASUTTA kinh Chuyển Pháp Luân, giảng giải về Pháp Tứ
Thánh Ðế để tế độ nhóm 5 Tỳ Khưu. Nhóm 5 Tỳ Khưu cùng tất cả chư
thiên, Phạm Thiên vô cùng hoan hỷ.
Nghe xong, Ngài KONDANNA là bậc thinh
văn đại để tử đầu tiên chứng ngộ Tứ Thánh Ðế, chứng đắc thánh
đạo, thánh quả nhập lưu, đồng thời có 180 triệu chư thiên, Phạm
Thiên cùng chứng ngộ Tứ Thánh Ðế, chứng đắc thánh đạo, thánh quả
nhập luu. Bài kinh này đem lại sự lợi ích cho thế gian và siêu thế giới.
Kính bạch chư hiền giả, vì mong sự
lợi ích, sự tấn hoá, sự an vui lâu dài cho tất cả chúng sanh, nay chúng
tôi sẽ tụng bài kinh Chuyển Pháp Luân ấy.
* * *
MỞ ÐẦU:
Kính bạch Ngài Ðại đức Trưởng
lão MÀHAKASSAPA khả kính, con là ANANDA được nghe bài kinh Chuyển Pháp Luân
từ đức Thế Tôn như vầy:
Một thưở nọ. đức Thế Tôn ngự
tại khu rừng, nơi vườn Lộc Giả ISIPATANA, trước kia chư Phật độc giác
thường ngự xuống. Tại đây, đức Thế Tôn gọi nhóm 5 Tỳ Khưu: Ngài
KONDANNA, Ngài VAPPA, Ngài BHADIYA, Ngài MAHÀNÀMA và Ngài ASSAJI mà dạy rằng:
HAI PHÁP THẤP HÈN (DVE ANTÀ)
Này chư Tỳ Khưu, có 2 pháp cực
đoan thuộc về 2 biên kiến người xuất gia không nên hành theo. Hai pháp
ấy như thế nào?
Một là việc thường thụ hưởng lạc thú trong
ngũ dục hợp với tâm tham ái và thường kiến ; thấp hèn của hạng tục
gia phàm phu không phải của bậc Thánh Nhơn, không đem lại lợi ích an vui
nào.
Hai là việc thường tự ép xác hành khổ mình,
hợp với tam sân hận và có đoạn kiến, thuộc pháp hành khổ hạnh của
ngoại đạo, không thuộc bậc Thánh Nhơn, không đem lại sự lợi ích an
vui nào.
PHÁP HÀNH TRUNG ÐẠO (MAJJHIMA
PATIPADA):
Này chư Tỳ Khưu, không thiên về 2
biên kiến ấy, Như Lai đã hành theo pháp hành Trung đạo, nên đã chánh
giác Tứ Thánh Ðế bằng trí tuệ siêu thế, làm chho tuệ nhãn phát sanh,
trí tuệ Thiền tuệ phát sanh, để làm vắng lặng hẳn mọi phiền não,
trí tuệ siêu việt thông suốt chân lý Tứ Thánh Ðế, giác ngộ thánh đạo,
thánh quả, chứng đắc Niết Bàn.
Này chư Tỳ Khưu, thế nào gọi là
pháp hành Trung đạo mà Như Lai đã chánh giác Tứ Thánh Ðế (bằng trí tuệ
siêu thế), làm cho tuệ nhãn phát sanh, làm cho vắng lặng hẳn mọi phiền
não, cho trí tuệ siêu việt thông suốt chân lý Tứ Thánh Ðế, Giác Ngộ
thánh đạo, thánh quả chứng đắc Niết Bàn?
Này chư Tỳ Khưu, pháp hành Trung đạo
đó chính là thánh đạo hợp đủ tám chi cao thượng là:
1) Chánh kiến: Trí tuệ chơn chánh
chứng ngộ Tứ Thánh Ðế
2) Chánh tư duy: Tư duy chơn chánh,
có 3 điều: Tư duy ra khỏi cảnh ngũ dục, tư duy không thù hận và tư duy
không làm khổ mình, khổ người.
3) Chánh ngữ: Lời nói chơn chánh
có 4: Tránh xa sự nói dối, sự nói lời đâm thọc chia rẽ, sự nóilời
thô tục chửi rủa, mắng nhiếc và sự nói lời phù phiếm vô ích.
4) Chánh nghiệp: hành nghiệp chơn
chánh có 3 là: Tránh xa sự sát sanh, sự trộm cắp, sự tà dâm.
5) Chánh mạng: Nuôi mạng chơn chánh
là xa cách sống tà mạng do 3 lại thân hành ác và 4 loại khẩu nói ác.
6) Chánh tinh tấn: Tinh tấn chơn chánh
có 4 điều là:
- Tinh tấn không để cho ác Pháp phát sanh.
- Tinh tấn điệt ác Pháp đã phát sanh.
- Tinh tấn để cho thiện pháp phát sanh.
- Tinh tấn để cho thiện pháp phát sanh càng thêm, phát triển.
7) Chánh niệm: Niệm chơn chánh có
4 là:
- Niệm thân: dùng thân làm đối tượng cho chánh
niệm và tỉnh giác.
- Niệm thọ: dùng thọ làm đối tượng cho chánh niệm và tỉnh giác.
- Niệm tâm: dùng tâm làm đối tượng cho chánh niệm và tỉnh giác.
- Niệm pháp: dùng pháp làm đối tượng cho chánh niệm và tỉnh giác.
(chỉ có Tứ niệm xứ này mới gọi là Chánh niệm).
8) Chánh định: Tâm định chơn chánh
có 5 là:
- Tâm Ðịnh đệ nhất thiền
- Tâm Ðịnh đệ nhị thiền
- Tâm Ðịnh đệ tam thiền
- Tâm Ðịnh đệ tứ thiền
- Tâm Ðịnh đệ ngũ thiền
(nhưng tâm định này chỉ khi đồng sanh với thánh
đạo tâm và thánh quả tâm mới gọi là Chánh Ðịnh)
Này các thầy Tỳ Khưu! Nhờ pháp
hành Trung đạo là thánh đạo hợp đủ tám chánh cao thượng này mà Như
Lai đã chánh giác Tứ Thánh Ðế (bằng trí tuệ siêu thế) làm cho tuệ
nhân phát sanh, để làm cho vắng lặng mọi phiền não, để trí tuệ thông
suốt chân lý Tứ Thánh Ðế, để giác ngộ thánh Đạo thánh Quả, chứng
đắc Niết Bàn.
TỨ THÁNH ÐẾ
KHỔ THÁNH ÐẾ (DUKKHA ARIYASACCA)
Này chư Tỳ Khưu, Khổ Thánh Ðế
là.
- Tái sanh là Khổ, già là Khổ, bịnh là Khổ
và chết là Khổ, trái nghịch ý lòng cũng là Khổ.
- Phải xa lìa người thường yêu hay mất cảnh vừa lòng cũng là Khổ.
Câu rằng: "Vui biết chừng
nào! mong cho ta đừng có sanh, đừng có già, đừng có bịnh, đừng có chết..."
Như vậy, câu mà không thể được như ý cũng là khổ. Tóm lại Ngũ Uẩn
là đối tượng của chấp thủ do tâm tham ái và tà kiến là khổ. Thực
tánh những sự khổ nói trên ấy là sự thật là bậc thánh nhân đã chứng
ngộ gọi là Khổ Thánh Ðế.
TẬP THÁNH ÐẾ (DUKKHASAMUDAYA
ARIYACCA):
Này chư Tỳ Khưu! Nhân sanh Khổ
Thánh Ðế này chính là tâm tham ái, là nhân dẫn dắt tái sanh, hợp với
tham muốn thoả thích, có trạng thái thường say đắm hoan lạc trong kiếp
sống hay các đối tượng. Nhân sanh Khổ Thánh Ð? ấy là:
- DỤC ÁI (KÀMATANHÀ): Tham đắm trong 6 cảnh trần:
sắc, thanh, huơng, vị, xúc, pháp.
- HỮU ÁI (BHAVATANHÀ): Tham đắm trong 6 cảnh trần hợp với thường kiến,
hay tham ái trong thiền hữu sắc, thiền vô sắc, hoặc cõi trời hữu sắc,
cõi trời vô sắc.
- PHI HỮU ÁI (VIBHAVATANHA): Tham đắm trong 6 cảnh trần hợp với đoạn kiến,
hay tham ái trong thiền vô sắc, hoặc cõi trời vô sắc.
Thực tánh 3 loại tham ái ấy là
nhân sanh Khổ Thánh Ðế mà bậc thánh nhân đã chứng ngộ, còn gọi là Tập
Thánh Ðế.
DIỆT THÁNH ÐẾ (DKKHANIRODHA
ARIYASACCA):
Này chư Tỳ Khưu! Diệt Khổ Thánh
Ðế này chính là Niết Bàn, là nơi diệt tận nhân sanh khổ, diệt tận khổ,
là nơi diệt tận tâm tham ái không còn dư xót bằng thánh đạo, nơi xả
ly Ngũ Uẩn, nơi từ bỏ Ngũ Uẩn, nơi giải thoát khổ, nơi không còn có
gì để luyến ái, dính mắc nữa.
Niết Bàn Diệt Khổ Thánh Ðế ấy
là sự thật mà bậc thánh nhân đã chứng ngộ còn gọi là Diệt Thánh Ðế.
ÐẠO THÁNH ÐẾ
(DUKKANIRODHAGAMINIPATIPADA ARIYASACCA):
Này chư Tỳ Khưu! Pháp hành dẫn đến
sự chứng ngộ Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế này, chính là thánh đạo
hợp đủ tám chánh: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Bát Chánh Ðạo, pháp hành dẫn đến
sự chứng ngộ Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế ấy, là sự thật mà bậc
thánh nhân đã chứng ngộ, gọi là Ðạo Thánh Ðế.
-ooOoo-
I-9
BA BẬC TRÍ TUỆ TRONG TỨ THÁNH ÐẾ
1- BA BẬC TRÍ TUỆ TRONG KHỔ THÁNH
ÐẾ
a) TRÍ TUỆ HỌC BIẾT TRONG KHỔ
THÁNH ÐẾ (SACCANÀNA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn (Cakkhu)
thấy rõ Khổ Thánh Ðế đã phát sanh: Trí tuệ Thiền tuệ (nàna) thấy rõ
được tánh Khổ Thánh Ðế đã phát sanh, trí tuệ sáng suốt (Pannà) thấy
rõ khổ sanh, Tuệ Minh (Vijjà) thấy rõ thấu suốt hoàn toàn Khổ Thánh Ðế
đã phát sanh, ánh trí tuệ (Àloka) diệt màn Vô Minh che ám Khổ Thánh Ðế
đã phát sanh đến Như Lai trong mọi pháp Khổ Thánh Ðế mà trước đây,
khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết
rằng:
"Thực hành tất cả các pháp (danh pháp, sắc
pháp) sanh trong Tam Giới ngoại trừ tâm tham ái ra gọi là Khổ Thánh Ðế
"
b) TRÍ TUỆ HÀNH BIẾT TRONG KHỔ
THÁNH ÐẾ (KICCANÀNA):
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã
phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, trí tuệ sáng suốt ... đã
phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ ... đã phát sanh đến
với Như Lai trong mọi mọi pháp Khổ Thánh Ð? mà trước đây, khi chưa thành
Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực hành tất cả các pháp (danh pháp, sắc
pháp) Khổ Thánh Ðế ấy là pháp phải biết rõ bằng thánh Đạo tuệ"
c) TRÍ TUỆ THÀNH BIẾT TRONG KHỔ
THÁNH ÐẾ (KATANÀNA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã
phát sanh; trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh; tuệ sáng suốt ... đã
phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ ... đã phát sanh đến
với Như Lai trong mọi mọi pháp Khổ Thánh Ð? mà trước đây, khi chưa thành
Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực hành tất cả các pháp (danh pháp, sắc
pháp) Khổ Thánh Ðế ấy là pháp phải biết rõ bằng thánh Đạo tuệ rồi
".
2- BA BẬC TRÍ TUỆ TRONG TẬP THÁNH
ÐẾ
a) TRÍ TUỆ HỌC BIẾT TRONG TẬP
THÁNH ÐẾ (SACCANÀNA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn thấy
rõ tham ái là nhân sanh Khổ Thánh Ðế đã phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ
thây rõ thực tánh ba loại tham ái là nhân sanh Khổ Thánh Ðế đã phát
sanh: Trí tuệ sáng suốt thấy rõ 108 loại tham ái là nhân sanh Khổ Thánh
Ðế đã phát sanh, Tuệ Minh thấy rõ thấu suốt mọi nhân sanh Khổ Thánh
Ðế đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ diệt màn Vô Minh che ám nhân sanh Khổ
Thánh Ðế đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi Tập Pháp Thánh Ðế
mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng
được biết rằng:
"Thực tánh ba loại tham ái ấy gọi là nhân
sanh Khổ Thánh Ðế, còn gọi là Tập Thánh Đế"
b) TRÍ TUỆ HÀNH BIẾT TRONG TẬP
THÁNH ÐẾ (KICCANÀNA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn... đã
phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, Trí tuệ sáng suốt, đã
phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ ... đã phát sanh đến
với Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực tánh ba loại tham ái là nhân sanh Khổ
Thánh Ðế ấy, là pháp cần phải diệt tận bằng thánh Đạo tuệ"
c) TRÍ TUỆ THÀNH BIẾT TRONG TẬP
THÁNH ÐẾ (KATANÀNA):
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã
phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, Trí tuệ sáng suốt, đã
phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ ... đã phát sanh đến
với Như Lai trong mọi pháp tập đế mà trước đây khi chưa thành Phật Như
Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực tánh ba loại tham ái là nhân sanh Khổ
Thánh Ðế ấy, là pháp cần phải diệt tận bằng thánh đạo tuệ rồi".
3- BA BẬC TRÍ TUỆ TRONG DIỆT THÁNH
ÐẾ:
a) TRÍ TUỆ HỌC BIẾT TRONG DIỆT
THÁNH ÐẾ (SACCANÀNA):
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn thấy
rõ Niết Bàn là Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ
thây rõ trạng thái Niết Bàn là nơi an vui tuyệt đối đã phát sanh: Trí
tuệ sáng suốt thấy rõ 2 loại Niết Bàn, 3 loại Niết Bàn đã phát sanh,
Tuệ Minh thấy rõ thấu suốt mọi Niết Bàn là nợi Diệt Khổ Thánh Ðế
đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ diệt màn Vô Minh che ám Niết Bàn là nơi
Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp Thánh
Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng được nghe,
chưa từng được biết rằng:
"Thực tánh Niết Bàn ấy gọi là Diệt Khổ
Thánh Ðế, còn gọi là diệt Thánh Ðế "
b) TRÍ TUỆ HÀNH BIẾT TRONG DIỆT
THÁNH ÐẾ (KICCANÀMA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã
phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, trí tuệ sáng suốt ... đã
phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ ... đã phát sanh đến
với Như Lai trong mọi pháp diệt Thánh Ð? mà trước đây, khi chưa thành Phật,
Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực tánh Niết Bàn là Diệt Khổ Thánh Ðế
ấy là Pháp phải chứng ngộ bằng thánh đạo tuệ"
c) TRÍ TUỆ THÀNH TRONG DIỆT THÁNH
ÐẾ (KATANÀNA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã
phát sanh, trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, trí tuệ sáng suốt ... đã
phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ ... đã phát sanh đến
với Như Lai trong mọi pháp diệt Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành
Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực tánh Niết Bàn là Diệt Khổ Thánh Ðế
ấy, là pháp phải chứng ngộ thì đã được chứng ngộ bằng thánh đạo
tuệ rồi".
4- BA BẬC TRÍ TUỆ TRONG ÐẠO THÁNH
ÐẾ
a) TRÍ TUỆ HỌC BIẾT TRONG ÐẠO
THÁNH ÐẾ (SACCANÀNA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn thấy
rõ Bát Chánh Ðạo là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn, nơi
Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh; trí tuệ Thiền tuệ thấy rõ thực
tánh thánh đạo hợp đủ tám chánh là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ
là Niết Bàn nơi Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh: Trí tuệ sáng suốt thấy
rõ mỗi chi trong Bát Chánh Ðạo là pháp hành dẫn đền sự chứng ngộ Niết
Bàn nơi Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh, Tuệ Minh thấy rõ thấu suốt tất
cả mọi chi trong Bát Chánh Ðạo là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết
Bàn là nơi Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ diệt màn
Vô Minh che ám Bát Chánh Ðạo là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết
Bàn nơi Diệt Khổ Thánh Ðế đã phát sanh đến với Như Lai trong mọi pháp
Ðạo Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành Phật, Như Lai chưa từng
được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực tánh thánh đạo hợp đủ tám chánh
là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế,
còn gọi là Ðạo Thánh Ðế "
b) TRÍ TUỆ HÀNH BIẾT TRONG ÐẠO
THÁNH ÐẾ (KICCANÀNA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã
phát sanh; trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, Trí tuệ sáng suốt ... đã
phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ ... đã phát sanh đến
với Như Lai trong mọi pháp Ðạo Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành
Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực tánh thánh đạo hợp đủ tám chánh
là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế,
còn gọi là Ðạo Thánh Ðế ấy, là pháp cần phải tiến hành, là pháp cần
được tiến hành".
c) TRÍ TUỆ THÀNH BIẾT TRONG ÐẠO
THÁNH ÐẾ (KATANÀNA)
Này chư Tỳ Khưu! Tuệ nhãn ... đã
phát sanh; trí tuệ Thiền tuệ ... đã phát sanh, Trí tuệ sáng suốt ... đã
phát sanh, Tuệ Minh ... đã phát sanh, ánh sáng trí tuệ ... đã phát sanh đến
với Như Lai trong mọi pháp Ðạo Thánh Ðế mà trước đây, khi chưa thành
Phật, Như Lai chưa từng được nghe, chưa từng được biết rằng:
"Thực tánh thánh đạo hợp đủ tám chánh
là pháp hành dẫn đến sự chứng ngộ Niết Bàn, nơi Diệt Khổ Thánh Ðế,
còn gọi là Ðạo Thánh Ðế ấy, là pháp cần phải tiến hành, thì đã
được tiến hành rồi".
CHƯA CHỨNG NGỘ TỨ THÁNH ÐẾ THÌ
CHƯA ÐỦ TUYÊN BỐ THÀNH BẬC CHÁNH ÐẲNG CHÁNH GIÁC:
Này chư Tỳ Khưu! Khi nào trí tuệ
thấy rõ, biết rõ thực tánh của các pháp một cách hoàn toàn trong sáng
thanh tịnh theo ba bậc tuệ luân (trí tuệ học,trí tuệ hành, trí tuệ
thành) trong Tứ Thánh Ðế thành mười hai thể loại trí tuệ chưa phát
sanh đến với Như Lai. Này chư Tỳ Khưu! Khi ấy Như Lai chưa tuyên bố rằng:
"Như Lai đã chứng đắc vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác" Trong
hàng Sa Môn, Bà La Môn, nhân loại, chư thiên, Ma Vương và Phạm Thiên cả
thảy.
ÐÃ CHỨNG NGỘ TỨ THÁNH ÐẾ MỚI
TUYÊN BỐ THÀNH BẬC CHÁNH ÐẲNG CHÁNH GIÁC:
Này chư Tỳ Khưu! Khi nào trí tuệ
Thiền tuệ thấy rõ biết rõ thực tánh của các pháp một cách hoàn toàn
trong sáng thanh tịnh theo ba bậc tuệ luân trong Tứ Thánh Ðế thành mười
hai thể loại trí tuệ đã phát sanh đến với Như Lai. Này chư Tỳ Khưu!
Khi ấy Như Lai mới mạnh dạn tuyên bố rằng: "Như Lai đã chứng đắc
vô thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác trong hàng Sa Môn, Bà La Môn, nhân loại,
chư thiên, Ma Vương và Phạm Thiên cả thảy".
NHÓM NĂM TỲ KHƯU HOAN HỶ, NGÀI ÐẠI
ÐỨC KODANNA CHỨNG ÐẮC THÁNH ÐẠO QUẢ NHẬP LƯU ÐẦU TIÊN TRONG GIÁO
PHÁP CỦA ÐỨC PHẬT.
Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài
kinh Chuyển Pháp Luân này xong, nhóm 5 Tỳ Khưu vô cùng hoan hỷ với lời
giáo huấn của Ngài. Trong khi bài Pháp thoại được tuyên giảng thì Pháp
nhãn (chứng ngộ Thánh Ðế ), chừng đắc nhập lưu thánh đạo tuệ,tâm
không còn bụi nhơ bởi phiền não thường kiến, không còn ô niễm bởi
đoạn kiến, hoài nghi đã phát sanh đến Ngài Ðại đức Kodanna. Ngài biết
rõ ràng chắc rằng: "Trạng thái các pháp phát sanh trong Tam Giới, thì
tất cả Pháp ấy có sự diệt là thường"
TOÀN THỂ CHƯ THIÊN, PHẠM THIÊN
TÁN DƯƠNG CA TỤNG:
Khi đức Thế Tôn thuyết giảng
kinh Chuyển Pháp Luân vừa xong, chư thiên trên địa cầu đồng thanh tán dương
ca tụng rằng:
"Ðức Thế Tôn thuyết Chuyển Pháp Luân vô
thượng tại vườn Lộc Giả Isapatana gần thành Bàrànasì, chưa từng có
Sa Môn, Bà La Môn, hay chư thiên, Ma Vương, Phạm Thiên hay bất cứ một ai
trong đời này có thể thuyết Chuyển Pháp Luân như vậy được"
Đồng thời chư thiên trong cõi Tứ
Ðại Thiên Vương được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên ở địa
cầu cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.
Đồng thời chư thiên trong cõi tam
thập tam thiên được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên ở cõi Tứ
Ðại Thiên Vương cũng đồng thanh tán dương ca tụng như trên.
Cũng như vậy, chư thiên ở cõi Dạ
Ma Thiên, Hoá Lạc Thiên, Tha Hoá Tự Tại Thiên cũng đồng thanh tán dương
ca tụng như trên.
Phạm Thiên cõi trời Sắc giới,
được nghe lời tán dương ca tụng của chư thiên ở Tha Hoá Tự Tại
Thiên cũng đồng thanh tán dương ca tụng rằng:
"Ðức Thế Tôn thuyết Chuyển Pháp Luân vô
thượng tại vườn Lộc Giả Isipatana gần thành Bàranasì chưa từng có Sa
Môn, hay Bà La Môn, hay chư thiên, Ma Vương, Phạm Thiên hay bất cứ một ai
trong đời này có thể thuyết Chuyển Pháp Luân như vậy được".
Ngay khi ấy, ngay lúc ấy, ngay tức
khắc lời tán dương ca tụng thấu lên đến cõi trời Sắc giới Phạm
Thiên cao nhất là "Sắc Cứu Cánh Thiên" (Akanitthà). Muời ngàn thế
giới này đều rung chuyển, rúng động, rung rinh cả ánh sáng hào quang của
đức Chánh Ð?ng Chánh Giác toả rộng vô biên cùng khắp thế giới hơn hẳn
tất cả oai lực chư thiên, Phạm Thiên cả thảy.
NGÀI ÐẠI ÐỨC KODANNA CÓ TÊN LÀ
ANNASIKONDANNA:
Khi Ngài Ðại đức Kodanna chứng đắc
thánh đạo, thánh quả nhập lưu, đức Thế Tôn cảm hứng tự thốt lên
cho toàn thế giới biết rằng:
"Này chư vị, quả thật
Kondanna đã chứng ngộ Tứ Thánh Ðế rồi! Này chư vị, quả thật Kondanna
đã chứng ngộ Tứ Thánh Ðế rồi!"
Do vậy Ngài Ðại đức Kondanna được
gọi là Annasikondanna (A-nhã Kiều-Trần-Như, ngài Ðại đức Kondanna đã chứng
ngộ).
NGÀI ÐẠI ÐỨC ANNASIKODANNA XIN THỌ
GIỚI TỲ KHƯU VỚI ÐỨC PHẬT:
Khi ấy Ngài Ðại đức
Annasikondanna đã phát sanh trí tuệ chứng ngộ Tứ Thánh Ðế n, đã biết
rõ một cách chắc chắn đúng theo Tứ Thánh Ðế, đã thấu rõ thông suốt
Tứ Thánh Ðế, nên đã tận diệt hoàn toàn mọi điều hoài nghi nơi đức
Phật, đức Pháp, v.v... do trí tuệ sắc bén chứng đạt chân lý Tứ Thánh
Ðế cao thượng trong Giáo Pháp của đức Thế Tôn một cách vững chắc,
ngoài Ðức Phật ra không còn tin tưởng nơi người nào khác nữa (vì
chính mình đã tự chứng ngộ Tứ Thánh Ðế rồi).
Ngài Ðại đức Annasikondanna thành
kính đảnh lễ đức Thế Tôn rồi bạch rằng:
"Kính bạch đức Thế Tôn cao
thượng, con thành kính xin Ngài từ bi cho con thọ giới Tỳ Khưu nương nhờ
nơi Ngài".
Đức Thế Tôn từ bi đưa ngón tay
chỏ chỉ và truyền rằng:
"Ehi bhikkhu! Svàkkhàto dhammo cara
bramacariyam sammà dukkhassa antakiriyàya" (này con, hãy đến với
Như Lai, con sẽ trở thành Tỳ Khưu như con cầu xin. Giáo Pháp cao thượng
giải thoát khổ luân hồi mà Như Lai đã thuyết giảng, hoàn thiện ở phần
đầu, hoàn thiện ở phần giữa, hoàn thiện ở phần cuối, con hãy nên cố
gắng thực hành phạm hạnh cao thượng để chứng đắc thánh đạo thánh
qủa Araham, chấm dứt sự khổ sanh tử luân hồi).
Chỉ với lời truyền dạy ấy của
đức Thế Tôn, Ngài Ðại đức Annasikondanna đã trở thành Tỳ Khưu theo cách
Ehi bhikkhu pasampadà.
Tỳ kheo DHAMMARAKKHITA soạn dịch
Mục lục
| 1.1 | 1.2
| 2.1 | 2.2 | 2.3
| 2.4