- Con Đường Thoát Khổ
- Đại đức W. Rahula
Thích Nữ Trí Hải dịch
- Chương III
- Diệu đế thứ hai: Tập
(Samudaya):
- Nguyên nhân của Khổ
Chân lý thứ hai là chân lý về sự
phát sinh hay nguồn gốc của dukkha (Dukkhasamudaya - ariyasacca). Định nghĩa
danh tiếng và thông dụng nhất về chân lý thứ hai, được tìm thấy trong
rất nhiều bản kinh nguyên thủy như sau:
"Chính là lòng ái (tanhà) đã
phát sinh sự tái sinh, đã được dính liền với sự thèm muốn đam mê,
và đã tìm lạc thú nay chỗ này mai chỗ khác, nghĩa là:
1) khao khát đối với khoái lạc
giác quan (dục ái - kàma-tanhà)
2) khao khát hiện hữu và trở
thành (hữu ái - bhava-tanhà) và
3) khao khát sự không hiện hữu (diệt
ái; tự hủy diệt - vibhava-tanhà)."
Chính sự khao khát này, ham muốn, dục
vọng, thèm thuồng, xuất hiện dưới nhiều hình thức - đã làm phát sinh
mọi hình thái khổ đau và sanh tử. Nhưng không nên xem đấy là nguyên
nhân đầu tiên, bởi lẽ không thể nào có một nguyên nhân đầu tiên vì,
theo Phật, mọi sự vật đều tương quan tương liên (phụ thuộc lẫn
nhau). Ngay cả lòng "ái" (tanhà) được xem như nguyên nhân hay nguồn
gốc của dukkha, cũng tùy thuộc vào một cái gì khác để được phát
sinh, và đấy là "thọ" (vedanà), và "thọ" phát sinh tùy
thuộc vào sự "xúc" (phassa) và cứ thế nối tiếp nhau trên một
vòng tròn mà thuật ngữ Phật học gọi là Duyên sinh (Paticca-samuppàda), mà
ta sẽ bàn đến sau này (3).
Như thế tanhà, "ái", không
phải là nguyên nhân đầu tiên hay độc nhất của sự phát sinh ra khổ. Nhưng
đấy là nguyên nhân trực tiếp và rõ rệt nhất, nguyên nhân chính yếu
và điều phổ quát nhất trong những nguyên bản Pali, định nghĩa của Tập
bao gồm cả những xấu xa bất tịnh khác, được thêm vào "ái"
luôn luôn được nêu ra trước (5). Trong giới hạn bài này ta chỉ cần nhớ
rằng trọng tâm của "ái" ấy là ý niệm sai lầm về ngã phát
sinh vì vô minh.
Ở đây từ ngữ "ái"
không những chỉ bao gồm sự ham muốn, ràng buộc với nhiều khoái lạc
giác quan, tài sản và thế lực, mà còn là sự ham muốn, ràng buộc với
những tư tưởng, lý tưởng, quan niệm, lý thuyết, khái niệm và những sự
tin tưởng (dhamma-tanhà) (6). Theo sự phân tích của Đức Phật, tất cả mọi
sự phiền não và tranh chấp trên thế gian từ những sự gây gỗ vụn vặt
trong gia đình cho đến đại chiến giữa các quốc gia lãnh thổ, đều phát
sinh do lòng "ái" vị kỷ này (7). Theo quan điểm ấy, mọi vấn đề
kinh tế, chính trị và xã hội đều có cội rễ là lòng tham vị kỷ. Những
nhà đại chính khách muốn dàn xếp những tranh chấp quốc tế mà chỉ
nói về chiến tranh và hòa bình trong lãnh vực chính trị và kinh tế thì
là họ chỉ đi phớt bên ngoài, và không bao giờ vào tận trong cội gốc
đích thực của vấn đề. Như Đức Phật đã dạy Rattapàla: "Thế
gian thiếu thốn, khát khao và bị nô lệ cho dục vọng".
Ai cũng nhận rằng mọi xấu xa tệ
đoan trong thế giới đều phát sinh vì dục vọng ích kỷ. Điều này không
khó hiểu, nhưng làm sao dục vọng, sự khát khao ấy lại có thể phát sinh
ra sự tái sinh và luân hồi, là một vấn đề không phải dễ lãnh hội.
Chính ở đây mà chúng ta phải bàn đến khía cạnh triết lý sâu sắc của
chân lý thứ hai, tương ứng với khía cạnh triết lý của Diệu Đế thứ
nhất. Đây ta phải có vài ý niệm về thuyết nghiệp báo và luân hồi.
Có bốn thức ăn (àhàrà) theo nghĩa
nguyên nhân hay "điều kiện" cần thiết cho sự sống và tiếp tục
của chúng sinh:
Đoạn thực (kabalinikàràhàra): thức
ăn vật chất thông thường,
Xúc thực (phassàhàra): sự tiếp
xúc của giác quan, kể cả ý thức, với ngoại giới,
Thức thực (vinnà-nàhara) và
Tư niệm thực (manosancetanàhàra):
ý chí hay ý muốn của tâm thức (8)
Trong bốn điều kiện trên, điều
cuối cùng, tư niệm, chính là ý chí muốn sống, muốn tồn tại, tái sinh,
tương tục, tăng trưởng (9). Nó tạo nên cội gốc của sự sống và tiếp
tục, tiến tới trước bằng những nghiệp thiện, ác (kusalàkusalakama)
(10), nó cũng như ý chí (tư - cetàna) (11). Ta đã thấy trước đây rằng ý
chí là nghiệp, như chính Đức Phật đã định nghĩa. Nói đến tư niệm vừa
kể trên, Đức Phật đã dạy: "Khi người ta hiểu tư niệm thực, người
ta sẽ hiểu được ba thứ 'ái' (tanhà)" (13). Như thế những từ ngữ
"ái" tác ý tư niệm và nghiệp tất cả đều ám chỉ cùng một
điều: chúng ám chỉ dục vọng, ý muốn sống, tồn tại, tái sinh, trở
thành, tăng trưởng, tích tụ, là nguyên nhân của sự phát sinh ra khổ và
nó được tìm thấy trong hành uẩn, một trong năm uẩn cấu tạo nên một
chúng sinh.
Đây là một trong những điểm chính
yếu và quan trọng nhất của giáo lý Đức Phật. Vì vậy chúng ta phải thận
trọng để ý và nhớ rõ rằng: nguyên nhân, mầm mống của sự phát sinh
ra dukkha là ở ngay chính trong dukkha chứ không phải ở bên ngoài. Đây là
ý nghĩa của câu danh tiếng thường được thấy trong các nguyên bản Pali:
"Yam kinci samudaya dhammam sabbamtam nirodha dhammam. Bất cứ cái gì thuộc về
bản chất của sinh đều cũng thuộc về bản chất của diệt"(15). Một
người, một vật hay một hệ thống, nếu có ở trong chính nó bản chất
của sự phát sinh, hình thành, thì cũng có luôn ở trong nó bản chất, mầm
mống của sự chấm dứt và hủy diệt. Như thế dukka (ngũ uẩn) có trong
nó bản chất của sự phát sinh ra nó, và cũng có luôn trong nó bản chất
của sự chấm dứt của nó. Điểm này sẽ được bàn trở lại trong phần
nói về Diệu Đế thứ ba (nirodha).
Danh từ Pali "kamma" hay
Sanskrit "karma" (từ gốc Skr nghĩa là "làm") có nghĩa "hành
động", "làm". Nhưng trong lý thuyết Đạo Phật về Nghiệp, nó
mang một ý nghĩa đặc biệt: nó chỉ có nghĩa là "những hành động
do ý muốn", không phải tất cả mọi hành động. Nó cũng không có nghĩa
"kết quả của Nghiệp" như nhiều người dùng một cách sai lạc.
Trong thuật ngữ Phật học, chữ Nghiệp không bao giờ có nghĩa kết quả của
nó, kết quả của nó được gọi là "quả" hay "nghiệp
báo" (kamma-phala hay vipàka).
Ý chí có thể tương đối thiện
hay ác. Bởi thế nghiệp có thể thiện hay ác một cách tương đối. Nghiệp
thiện (kusala) phát sinh thiện quả, ác nghiệp (akusala) phát sinh ác quả.
"Lòng tham", ý chí, nghiệp dù thiện hay ác đều có một năng lực
đưa đến kết quả: năng lực tiếp tục - tiếp tục trong chiều hướng
thiện hay ác. Dù thiện hay ác nó đều là tương đối, đều ở trong vòng
luân hồi. Một vị A La Hán, mặc dù có hành động, vẫn không dồn chứa
nghiệp, bởi vì vị ấy đã thoát khỏi ý tưởng sai lầm về ngã, thoát
khỏi lòng "tham" muốn tiếp tục và sinh thành, thoát khỏi tất cả
mọi sự xấu xa bất tịnh khác (kilesà, sàsavà dhammà). Đối với vị ấy
không còn luân hồi.
Không nên lầm lẫn thuyết nghiệp
báo với cái gọi là "công bằng luân lý" hay "thưởng phạt".
Ý tưởng về công bằng luân lý hay thưởng phạt phát sinh do quan niệm về
một thực thể tối cao, một thượng đế, ngồi phán xét và là một người
ban luật lệ và phân định chánh tà. Từ ngữ "Công bằng" hồ đồ
và nguy hiểm, nhân danh nó nhiều tai hại đã đến cho nhân loại hơn là lợi
ích. Thuyết nghiệp báo là thuyết về nhân và quả, về hành động và phản
ứng. Nó là một luật tự nhiên, không dính líu gì đến ý tưởng về công
bằng hay thưởng phạt. Mọi hành động do ý muốn đều phát sinh kết quả
hay hậu quả của nó. Nếu một hành vi thiện phát sinh những thiện quả
và một hành vi ác phát sinh những ác quả, thì đấy không phải là sự
công bằng, hay thưởng, phạt do một người nào hay một quyền năng nào ngồi
phán xét hành vi của bạn, mà đó chỉ là vì bản chất của riêng nó, luật
lệ của chính nó. Điều này không khó hiểu. Nhưng điều khó hiểu là,
theo thuyết nghiệp báo, những kết quả của một hành vi tự ý có thể tiếp
tục xuất hiện ngay cả trong một đời sống sau khi chết. Ở đây ta phải
giải thích "chết" là gì theo Phật giáo.
Chúng ta đã thấy trước đây rằng
một con người không là gì ngoài ra là một sự kết hợp của những sức
mạnh cùng năng lực vật lý và tâm linh. Cái mà ta gọi là "chết",
là sự chấm dứt hoàn toàn những hoạt động của thân xác vật lý. Nhưng
sức mạnh, năng lực này có cùng chấm dứt với hoạt động của thân
xác hay không? Phật giáo trả lời "không". Ý chí, sự ham muốn, dục
vọng, lòng khao khát tồn tại, tiếp tục tăng trưởng, là một sức mạnh
ghê gớm dời đổi toàn thể những đời sống, ngay cả dời đổi toàn thể
vũ trụ, thế giới. Đây là sức mạnh lớn lao nhất, năng lực vĩ đại
nhất trong hoàn vũ. Theo Phật giáo, sức mạnh này không dừng nghỉ cùng với
sự chết của xác thân, mà lại tiếp tục biểu hiện trong một hình thức
khác, phát khởi sự tái sinh mà người ta gọi là luân hồi.
Bây giờ, một câu hỏi khác được
đặt ra: Nếu không có một thực thể hay bản thể trường cửu bất biến
như Ngã hay linh hồn (àtman), thì cái gì là cái có thể tái sinh sau khi chết?
Trước khi tiếp tục bàn đến đời sống sau khi chết, ta hãy xét đời này
là gì, và nó đang tiếp tục ra sao. Cái mà ta gọi là đời sống, như ta
đã nhiều lần nhắc lại, là sự kết hợp của năm uẩn, một sự phối
hợp của những năng lực vật lý và tâm linh. Những uẩn này luôn luôn biến
chuyển, chúng không còn là một (như cũ) trong hai giai đoạn liên tiếp.
Chúng sinh và diệt mỗi lúc. "Mỗi lúc các uẩn phát sinh, suy giảm và
chết, hỡi các tỳ kheo, là mỗi lúc các ông sinh ra, suy giảm và chết"
(16) Như thế, ngay cả bây giờ, trong đời sống này, chúng ta được sinh
ra và chết đi mỗi lúc, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục. Nếu ta có thể hiểu
rằng trong đời này chúng ta có thể tiếp tục mà không cần có một bản
thể trường cửu bất biến như Ngã hay linh hồn, thì tại sao lại không
hiểu được rằng chính những sức mạnh kia cũng có thể tiếp tục không
cần một bản ngã hay linh hồn ở sau chúng, sau khi thân xác không còn điều
hành?
Khi thân xác vật lý này không còn
hoạt động được, khi ấy những năng lực không chết theo với nó, mà tiếp
tục nhận một hình dạng khác, mà ta gọi là một đời khác. Trong một đức
trẻ, mọi khả năng vật lý, tâm linh và tri thức đều yếu ớt, nhưng chúng
có sẵn tiềm năng để trở nên một người lớn đầy đủ. Những năng lực
vật lý và tâm linh đã làm thành cái mà ta gọi là linh hồn ấy, có sẵn
trong chúng khả năng nhận một hình thức mới, lớn lên dần và thâu thập
sức mạnh cho đến khi đầy đủ.
Vì không có bản thể trường cửu
bất biến nên không có gì đi từ một lúc này đến lúc kế tiếp. Bởi
thế, hiển nhiên không có cái gì trường cửu hay bất biến có thể đi
hay luân hồi từ đời này đến một đời sau. Đấy là một chuỗi tiếp
tục không gián đoạn, nhưng biến đổi từng giây phút. Chuỗi ấy thật
ra không là gì ngoài ra sự chuyển dịch. Nó giống như một ngọn lửa cháy
thâu đêm: nó không phải cùng là một ngọn lửa, cũng không phải khác. Một
đứa trẻ lớn lên thành một ông già sáu mươi: dĩ nhiên ông già lục tuần
không phải là một đứa trẻ sáu mươi năm về trước, nhưng cũng không
phải là khác. Cũng thế, một người chết ở đây và tái sinh ở một nơi
khác không phải cùng là người ấy, cũng không phải là khác (naca so na ca
anno). Đấy là sự tiếp tục của cùng một chuỗi. Sự khác nhau giữa chết,
sống chỉ là khoảng thời gian rất ngắn cho một niệm khởi lên: niệm cuối
cùng trong đời này định đoạt niệm đầu tiên trong cái mà người ta gọi
là đời sau, nhưng kỳ thực chỉ là sự tiếp nối của cùng một chuỗi
liên tục. Ngay cả trong đời này cũng thế, một niệm này định đoạt niệm
kế tiếp. Bởi thế trong quan niệm Phật học, vấn đề đời sau không phải
là một huyền bí lớn lao, và một người Phật tử không bao giờ băn
khoăn vấn đề này.
Bao lâu còn sự "khát khao"
trở thành, thì vòng luân hồi vẫn tiếp tục. Nó chỉ có thể ngừng khi
nào sức mạnh điều khiển nó, sự khát khao ấy, bị chặt đứt nhờ trí
huệ thấy rõ Thực tại, Chân lý, Niết bàn.
Chú
thích
(1) Mhvg (Alutgama, 192), p. 9, VS (PTS),
p. 421 và các chỗ khác trong sách.
(2) Vedanàsamudayà tanhàsamudayo. M I
(PTS), p.51.
(3) Xem Chương VI, về Duyên sinh
(4) Abhisamuc, p.43, pràdhànyràtha,
sarvatragàrtha
(5) Vibh. (PTS), p. 106 ff.
(6) M I (PTS), p. 51, S II, p. 72, Vibh,
p. 280
(7) M I, p. 86.
(8) M I, p. 48
(9) Một điều thú vị khi so sánh
"sự thúc đẩy của tâm ý" này vớI "libido" trong tâm lý học
ngày nay.
(10) MA I (PTS), p. 210.
(11) Manosancetanà ti cetanà eva
vuccati. MA I (PTS), p. 209.
(12) Xem Chương II, về uẩn thứ tư
("Hành").
(13) S II (PTS), p. 100. Ba hình thức của
"ái" hay khao khát:
1. Khao khát lạc thú giác quan (dục
ái),
2. Khao khát sinh tồn và trở thành
(hữu ái),
3. Diệt ái: khao khát hư vô, không
hiện hữu như đã nói trong định nghĩa samudaya 'nguyên nhân của dukkha' ở
trên.
(14) Xem Chương II, về uẩn thứ tư
("Hành").
(15) M III (PTS), p. 280, SIV, p.p. 47,
107, Vp. 423 và những chỗ khác.
(16) Prmj I (PTS), p. 78. "Khandhesu
jayamànesu jiyamànesu miyamànesu ca khane khane tvam bhikkhujàyase ca jiyase ca miyase
ca". Câu này được trích trong Luận Paramatthajotikà như là những lời
của chính Đức Phật . Cho đến bây giờ biên giả chưa tìm được đoạn
này trong nguyên bản của nó.
Lời nói
đầu | chương 1
| chương 2 | chương 3 | chương 4 | chương 5 | chương 6 | chương 7 | chương 8