- Con Đường Thoát Khổ
- Đại đức W. Rahula
Thích Nữ Trí Hải dịch
Chương VII
Quán Tưởng: Sự đào luyện
tâm ý (Bhàvanà)
Đức Phật dạy: "Hỡi các Tỳ
kheo, có hai thứ bệnh. Hai bệnh ấy là gì? Bệnh thể xác và bệnh tinh thần.
Có những người hưởng sự vô bệnh về thể xác trong một năm, hai năm
... cả đến trong 100 năm hay hơn nữa. Nhưng, này các Tỳ kheo, hiếm thay
trong thế gian này là những người hưởng sự vô bệnh về tinh thần, ngay
cả trong chốc lát, trừ phi những người đã thoát khỏi những tâm địa
xấu xa ô uế" (có nghĩa là những vị A La Hán).(1)
Giáo lý Đức Phật, đặc biệt
phương pháp thiền quán của Ngài, nhằm mục đích phát khởi một trạng
thái sức khỏe tinh thần hoàn hảo, quân bình và an tĩnh. Thật rủi ro rằng
không có một ngành nào trong giáo lý Đức Phật lại bị hiểu lầm nhiều
như "thiền định", bởi những Phật tử cũng như những người không
phải Phật tử. Mỗi khi nói đến "thiền định" là người ta
nghĩ ngay đến một sự trốn thoát những sinh hoạt thường ngày, một lối
ngồi đặc biệt nào đó, như một pho tượng trong hang động hay trong một
tu viện, ở một nơi xa xăm tách biệt hẳn với xã hội, và trầm tư, hay
để mình chìm đắm trong một thứ ý tưởng hay hôn mê nào đó, huyền bí
và vi mật. Thiền định chân chính của Đạo Phật hoàn toàn không có nghĩa
một sự thoát ly như thế. Người ta đã quá hiểu sai lạc hay ít hiểu biết
về vấn đề này trong giáo lý Đức Phật, đến nỗi trong những giai đoạn
về sau, lối "thiền định" đã bị suy đồi và trở thành một thứ
nghi thức hay lễ tục thông thường, hầu như kỹ thuật. (2)
Phần đông người ta chú trọng đến
thiền định hay "yoga" để luyện một vài năng lực tâm linh hay thần
bí như "con mắt thứ ba", mà những kẻ khác không có. Một vài năm
trước, có một tu sĩ Phật giáo ở Ấn Độ cố phát triển một "khả
năng nhìn thấy bằng lỗ tai", trong khi bà ta vẫn còn thấy được hoàn
toàn bằng con mắt! Những loại ý nghĩ như vầy chỉ là một thứ bệnh
quái dị về tâm linh. Luôn luôn đấy là một vấn đề khao khát, khao khát
năng lực, quyền năng.
Danh từ "thiền định"
rất kém cỏi để thay thế chữ bhàvanà, có nghĩa "sự đào luyện"
hay đào luyện tâm linh. Bhàvanà của Phật học, nói đúng ra, là một
sự đào luyện tâm linh trong ý nghĩa toàn vẹn nhất của danh từ. Nó nhằm
mục đích tẩy sạch tâm tưởng hết những sự bất tịnh, vọng động,
như dâm dục, sân nhuế, ác độc, biếng nhác, phiền não, bất an, hoài
nghi, và đào luyện những đức tính như tập trung, sáng suốt, thông minh,
ý chí, nghị lực, khả năng phân tích, tin tưởng, niềm hoan hỉ, an bình,
để cuối cùng đưa đến trí tuệ cao cả, thấy rõ bản chất của sự vật
như thật, và thực chứng chân lý tối hậu, Niết Bàn.
Có hai hình thức thiền định. Một
là phát triễn sự tập trung tâm ý (Định, samatha hay samàdhi), sự chú tâm
vào một cõi đề mục (cittekaggatà, Skt: cittaikàgratà), bằng những phương
pháp khác nhau có nói đến trong các bản kinh, đưa đến những huyền vi
cao cả như "cõi không-vô biên" hay cõi "phi tưởng phi-phi-tưởng"
(không có tri giác cũng không không tri giác).
Tất cả những trạng thái huyền
bí này, theo Đức Phật, đều do tâm tạo, sản phẩm của tâm, do tâm định
đoạt (samkhata) (3). Chúng không dính dấp gì đến Thực tại, Chân lý, Niết
Bàn. Hình thức thiền định này đã có từ trước thời Đức Phật. Vì vậy
nó không thuần túy là của Phật giáo. Nhưng nó cũng không bị loại ra
ngoài lãnh vực thiền định Phật giáo. Tuy nhiên nó không thiết yếu cho sự
thực chứng Niết Bàn. Chính Đức Phật, trước khi Giác Ngộ, cũng đã luyện
tập các phương pháp Yoga này với nhiều vị Thầy, và Ngài đã đạt đến
những trạng thái tâm linh huyền bí cao siêu nhất, nhưng Ngài vẫn không thỏa
mãn với chúng, bởi vì chúng không đem lại giải thoát hoàn toàn, chúng
không đem lại kiến giải về thực tại tối hậu. Ngài xem những trạng
thái huyền bí ấy chỉ là sự sống hạnh phúc trong đời này
(dittha-dhammasukhavihàra) hay "sự sống an tĩnh" (santavihàra), nhưng
ngoài ra không đem lại gì hơn.
Bởi thế Ngài đã tìm ra hình thức
khác của "thiền định" gọi là vipassanà, "trực
giác" về bản chất của sự vật đưa đến sự giải thoát hoàn toàn
của tâm ý, đến sự thực chứng Chân lý tối hậu, Niết Bàn. Đấy là
thiền định Phật giáo chính yếu, phương pháp đào luyện tâm linh theo Phật
học. Đấy là một phương pháp phân tích căn cứ trên sự chú ý, sáng suốt
thận trọng, quan sát.
Ta không thể nào bàn đến một vấn
đề rộng lớn như thế một cách đủ đúng đắn trong chỉ vài trang giấy.
Tuy nhiên ở đây biên giả cũng cố gắng trình bày một ý niệm rất sơ
lược và đại khái về thiền định chân chính của Phật giáo một cách
thực tế.
Bài thuyết pháp quan trọng nhất Đức
Phật đã từng giảng về sự phát triển tâm linh (thiền) được gọi là
"satipatthàna-suttà" (Kinh Quán Niệm; số 12 trong Digha-nikàya - Trường
Bộ, hay số 10 của Majjhima-nikàya - Trung Bộ). Bài kinh này rất được sùng
mộ trong truyền thống Phật giáo đến nỗi nó thường được tụng không
những trong các tu viện Phật giáo mà cả đến trong các nhà Phật tử, những
người trong gia đình ngồi quanh lại lắng nghe một cách thuần thành. Những
thầy tu rất thường tụng kinh này bên giường người hấp hối để thanh
lọc những ý tưởng cuối cùng của họ.
Những cách thức thiền định trong
bài kinh ấy không tách rời sự sinh hoạt, chúng cũng không lánh đời, trái
lại tất cả chúng đều liên quan đến đời sống của ta, hoạt động hàng
ngày của ta, những buồn vui của ta, lời nói và ý nghĩ của ta, những việc
làm về đạo đức và trí thức của ta.
Bài thuyết pháp ấy được chia làm
bốn phần: Phần đầu nói đến thân thể (kàya), phần thứ hai nói
đến những cảm giác và cảm thọ của ta (vedanà), phần thứ ba nói
về tâm (citta) và phần thứ tư nói về những đối tượng đạo đức
và tri thức (pháp - dhamma).
Ta cần nhớ rõ một điều là, dù
trong hình thức thiền định nào, điều cốt yếu cũng là sự tỉnh thức
hoàn toàn hay sự sáng suốt (sati), sự chú ý hay sự quan sát (anupassanà).
Niệm thân
Một trong những ví dụ thông dụng,
thực tiễn và được nhiều người biết, trong thiền định về thân thể
được gọi là "sổ tức quán" (sự ý thức về hơi thở ra vào,
phép đếm hơi thở - 讦#224;pànasati). Chỉ
dành riêng cho phép quán này mà một lối ngồi nhất định đặc biệt được
đặt ra trong kinh. Về những hình thức khác của "quán" bàn đến
trong Kinh này, bạn có thể ngồi, đứng, đi hay nằm tùy ý. Nhưng với Sổ
tức quán theo Kinh văn người ta nên ngồi "kiết già", giữ thân thể
thẳng đứng và ý thức sáng suốt. Nhưng ngồi kiết già không thực tiễn
và dễ dàng cho người trong mọi xứ, nhất là cho những người Âu Tây. Bởi
thế, những người không ngồi kiết già hay bán già được, có thể ngồi
trên một chiếc ghế, "thân thể thẳng và ý thức sáng suốt". Điều
rất cần thiết cho sự luyện tập này là hành giả phải ngồi thật thẳng,
nhưng không phải cứng đờ, tay để thoải mái trên đùi. Ngồi xong, bạn
có thể nhắm mắt hay có thể nhìn vào sống mũi tùy tiện.
Bạn hít vào thở ra suốt ngày đêm,
nhưng bạn không bao giờ để ý điều đó, bạn không bao giờ tập trung
trong một giây lát vào hơi thở. Bây giờ bạn sẽ chỉ làm có điều ấy.
Cứ hít vào thở ra như thường lệ, không một gắng sức hay nỗ lực
nào. Rồi bạn đem tâm trí tập trung vào sự hít vô, thở ra của bạn, để
cho tâm trí bạn quan sát hơi thở ra vào của bạn. Khi bạn thở, đôi khi bạn
thở thật sâu dài, đôi khi không. Điều này không hề gì. Cứ thở một
cách tự nhiên, như thường lệ. Điều độc nhất là khi bạn thở sâu và
dài, bạn phải biết rằng đấy là những hơi thở sâu dài v.v... Nói cách
khác, tâm trí bạn cần hoàn toàn tập trung vào hơi thở mà bạn biết rõ
những động tác và chuyển biến của nó. Hãy quên hết mọi việc khác,
quên những gì xung quanh bạn, đừng đưa mắt lên và nhìn bất cứ cái
gì. Bạn cố gắng làm như thế trong chừng 5, 10 phút.
Lúc đầu bạn thấy vô cùng khó khăn
để tập trung tâm trí vào hơi thở. Bạn sẽ ngạc nhiên thấy tâm trí chạy
lăng xăng. Nó không đứng lại. Bạn khởi sự nghĩ nhiều chuyện khác
nhau. Bạn nghe những âm thanh bên ngoài. Tâm trí bạn bị rối ren và phân
tán. Bạn có thể buồn bã, thất vọng. Nhưng nếu bạn tiếp tục luyện tập
như thế mỗi ngày hai bận, sáng và chiều, chừng 5, 10 phút mỗi lần, bạn
sẽ dần dần bắt đầu tập trung được tâm ý vào hơi thở. Sau một thời
gian, bạn sẽ kinh nghiệm đúng cái giây phút mà tâm trí bạn hoàn toàn tập
trung vào hơi thở, mà bạn sẽ không còn nghe cả đến những âm thanh gần
bạn, lúc mà ngoại giới không có nữa đối với bạn.
Cái giây phút mong manh này thật là
một kinh nghiệm lớn lao đối với bạn, đầy hạnh phúc hoan lạc và bình
an, đến nỗi bạn muốn tiếp tục nó mãi. Nhưng bạn vẫn không thể làm
được. Tuy thế nếu bạn cứ tiếp tục luyện tập như thế một cách đều
đặn, bạn có thể có lại kinh nghiệm ấy nhiều lần trong những khoảng
thời gian càng ngày càng dài lâu hơn. Đấy là lúc bạn hoàn toàn quên
mình đi trong sự chú ý hơi thở. Bao lâu bạn cần có ý thức về bạn
thì bạn không bao giờ có thể tập trung vào một cái gì.
Lối tập luyện quán hơi thở này,
một lối giản dị và dễ nhất, là cốt để phát triển lực tập trung (định
lực) dẫn đến những trạng thái huyền bí rất cao (thiền). Ngoài ra, năng
lực tập trung là điều cốt yếu để đạt đến bất cứ sự hiểu biết
sâu xa nào, sự thâm nhập, trực giác về bản chất của vạn hữu, gồm cả
sự thực chứng Niết Bàn.
Ngoài ra, sự luyện tập này về hơi
thở đem lại cho bạn những kết quả tức thì. Nó lợi ích cho sức khỏe
của bạn, giúp bạn thoải mái, ngủ ngon, và có hiệu năng trong công việc
hằng ngày. Nó làm cho bạn bình an thanh thản. Ngay cả những lúc bạn nóng
nảy hay xúc động, nếu bạn thực hành phép quán này trong vài phút, bạn
sẽ thấy ngay rằng bạn liền trở nên bình tĩnh. Bạn cảm thấy như vừa
thức tỉnh sau một sự nghỉ ngơi đầy đủ.
Một hình thức khác rất quan trọng,
thực tiễn, và ích lợi của "thiền định" là có ý thức về,
và để ý tới bất cứ cái gì bạn làm hay nói, suốt trong thói quen đời
sống hằng ngày, một mình bạn, giữa công khai hay trong nghề nghiệp. Dù bạn
đứng, đi, ngồi, nằm hoặc ngủ, hoặc co giản chân tay, hoặc nhìn quanh,
hoặc mặc quần áo, hoặc nói năng hoặc im lặng hoặc ăn hoặc uống, hoặc
ngay cả khi bạn đáp tiếng gọi của thiên nhiên - trong tất cả những động
tác này và những động tác khác, bạn đều phải hoàn toàn ý thức và tỉnh
táo về hành vi mà bạn đang làm mỗi lúc. Thế nghĩa là, bạn phải sống
trong phút hiện tại, trong hành động hiện tại. Điều này không có nghĩa
bạn không nên nghĩ chút nào về quá khứ hay vị lai. Trái lại, bạn nghĩ
về chúng trong sự tương quan với lúc hiện tại, hành động hiện tại, tùy
lúc và tùy trường hợp.
Người ta không thường thường sống
trong hành động của họ, trong lúc hiện tại. Họ sống trong quá khứ hoặc
trong vị lai. Mặc dù họ dường như đang làm một việc gì ở đây và
bây giờ, nhưng kỳ thực họ sống ở một nơi nào khác trong tâm tưởng họ,
trong những âu lo và những vấn đề tưởng tượng của họ, thường thường
họ nhớ đến quá khứ hay nuôi những khao khát và suy tư về tương lai. Bởi
vậy họ không sống trong những gì họ đang làm và cũng không thưởng thức
được những gì họ đang làm trong mỗi lúc. Do đó họ bất mãn và bất hạnh
với lúc hiện tại, với công việc đang làm, và dĩ nhiên họ không thể
nào làm hoàn toàn "hết mình" những gì họ có vẻ đang làm.
Đôi khi bạn thấy một người
trong quán ăn vừa ăn vừa đọc - một cảnh rất thường. Họ cho bạn cái
cảm tưởng rằng họ là một người rất bận bịu, không có thì giờ để
mà ăn nữa. Bạn tự hỏi họ đang ăn hay đang đọc. Người ta có thể
nói họ làm cả hai chuyện. Nhưng thật ra họ không làm được việc nào,
họ không thưởng thức được việc nào. Họ bị căng thẳng, rối ren
trong tâm trí, và họ không thưởng thức cái mà họ đang làm trong lúc đó,
mà vô tình và một cách điên rồ họ đang cố thoát khỏi sự sống. (Tuy
nhiên, điều này không có nghĩa rằng người ta không nên nói chuyện với
bạn trong lúc ăn trưa hay ăn tối.)
Dù bạn cố cách mấy, bạn cũng không
thể nào thoát khỏi cuộc đời. Bao lâu bạn còn sống, dù trong thành thị
hay trong hang động, bạn còn phải đối đầu với cuộc đời và sống
nó. Sự sống chân thật là lúc hiện tại - không phải ký ức về quá khứ,
vốn đã chết và đi qua, cũng không phải những mơ mộng về tương lai, vốn
chưa tớí. Một con người sống trong hiện tại là sống đời sống thật
sự, và là người hạnh phúc nhất.
Khi có người hỏi Đức Phật vì
sao những đồ đệ của Ngài sống một cuộc đời đơn sơ và lặng lẽ,
chỉ ăn có một bữa cơm mỗi ngày, mà lại hoan hỉ như thế, Đức Phật
trả lời: "Họ không ân hận vì quá khứ, họ cũng không trầm tư
về tương lai. Họ sống trong hiện tại. Bởi thế họ hoan hỉ. Vì trầm tư
tương lai và ân hận quá khứ, những người ngu khô héo như cây xanh bị
chặt để dưới nắng." (5)
Sự chú ý hay tỉnh táo không có
nghĩa rằng bạn phải nghĩ và ý thức rằng "tôi đang làm cái nầy"
hay "tôi đang làm cái kia". Không. Hoàn toàn trái lại. Lúc mà bạn
nghĩ "tôi đang làm cái này", bạn trở nên tự ý thức về mình,
và khi đó bạn không sống trong hành động ấy, mà bạn sống trong ý nghĩ
về "tôi", và hậu quả là việc làm của bạn cũng hỏng nốt. Bạn
phải hoàn toàn quên bạn đi, và để chìm đắm mình trong những gì bạn
đang làm. Lúc mà một thuyết trình viên trở nên tự ý thức và nghĩ
"tôi đang nói với khán giả" thì lời lẽ của anh ta sẽ bị bối
rối và dòng tư tưởng gián đoạn. Nhưng khi anh ta quên mình đi trong bài
diễn văn, trong đề tài của mình, khi ấy anh ta nói hay nhất, diễn đạt
trôi chảy và giải thích mọi sự một cách rõ ràng. Mọi tác phẩm vĩ đại
- về nghệ thuật, thi ca, trí thức hay tâm linh - đều được thành hình
vào những lúc mà những người sáng tác hoàn toàn quên mình trong hành động,
say sưa với nó, và không còn ý thức về mình.
Sự chú ý hay tỉnh thức đối với
những hoạt động của mình tức là sống trong lúc hiện tại, sống trong
hành động hiện tại. (Đây cũng là cách thức của Zen, vốn có căn bản
chính yếu trên giáo lý này). Ở đây, trong hình thức "quán" này,
bạn không cần phải làm một hành động nào đặc biệt để phát triển
sự chú ý, mà bạn chỉ phải để ý và tỉnh táo (có ý thức về) với bất
cứ cái gì bạn làm. Bạn không cần phải phí phạm một giây phút nào của
thời gian quý báu của bạn để thực hành phép "quán" đặc biệt
này: bạn chỉ cần luôn luôn đào luyện sự chú ý và tỉnh thức, ngày
và đêm, đối với tất cả mọi hoạt động của bạn trong đời sống
thường nhật. Hai hình thức "quán" trên đây là thuộc về thân
xác chúng ta.
Niệm thọ
Kế đến có một cách (thiền định)
phát triển tâm linh đối với mọi cảm giác và cảm tưởng của ta, dù
vui, khổ hay không vui không khổ. Ta hãy lấy ví dụ: Bạn kinh nghiệm một
cảm giác đau buồn, bất hạnh. Trong tình trạng ấy tâm trí bạn mờ mịt,
u ám, không quang đãng, nó bị suy sụp. Trong vài trường hợp, bạn cả đến
không thấy rõ vì sao bạn có cảm giác bất hạnh đó. Trước tiên, bạn
phải tập đừng buồn về những cảm giác bất hạnh của bạn. Nhưng hãy
cố tìm hiểu rõ vì sao lại có một cảm giác hay cảm tưởng bất hạnh
hay lo âu, hay buồn sầu. Cố xem xét nó phát khởi ra sao, nguyên nhân của
nó, nó tan biến như thế nào, sự chấm dứt của nó. Cố xem xét nó, làm
như ban đang quan sát nó từ bên ngoài, không có một phản ứng chủ quan
nào cả, như một nhà khoa học quan sát một đối tượng. Ở đây cũng thế,
bạn không nên nhìn nó như là "cảm giác của tôi" hay "cảm tưởng
của tôi" một cách chủ quan mà chỉ nhìn nó như "một cảm giác"
hay "một cảm tưởng" theo cách khách quan. Bạn lại cũng cần quên
đi ý tưởng sai lầm về "tôi". Khi bạn thấy bản chất của nó,
nó sinh và diệt ra sao, tâm thức bạn dần trở nên dửng dưng đối với cảm
giác ấy, và hoàn toàn hết ràng buộc, tự do. Đối với mọi cảm giác
hay cảm tưởng khác cũng thế.
Niệm tâm
Bây giờ ta hãy bàn đến hình thức
thiền định thuộc về tâm thức chúng ta. Bạn cần phải hoàn toàn ý thức
về việc tâm ý bạn đang mê say hay giải thoát; nó đầy hận thù, ác độc,
ghen ghét, hay đầy tình yêu, từ bi; nó đang có ảo tưởng hay thấy biết
chân xác rõ ràng v.v.. Ta phải công nhận rằng rất thường khi chúng ta sợ
hãi hay hổ thẹn, không dám nhìn thẳng vào tâm ý của chính mình. Bởi thế
ta ưa lẩn tránh nó. Người ta nên can đảm, thành thật và nhìn vào tâm
mình như nhìn vào mặt mình trong gương (6).
Ở đây không có thái độ chỉ trích
hay phê phán, hoặc phân biệt giữa phải và trái, tốt và xấu. Đây chỉ
có sự quan sát, ngắm nhìn, xem xét. Bạn không phải là một quan tòa mà
là một nhà khoa học. Khi quan sát tâm ý bạn, và thấy rõ bản chất đích
thực của nó, bạn trở nên dửng dưng với những cảm xúc, tình cảm và
trạng huống của nó. Nhờ thế bạn không còn bị dính mắc ràng buộc,
và được tự do, để thấy sự vật đúng như thật.
Ta hãy lấy một ví dụ. Giả sử bạn
tức giận thực sự, sôi sục vì giận dữ, ác độc, thù hằn. Thật lạ
lùng, và mâu thuẫn rằng người đang tức giận thường không thực biết,
không chú ý rằng mình đang tức giận. Lúc mà anh ta trở nên chú ý và có
ý thức về trạng thái tâm hồn ấy của mình, lúc anh ta thấy sự tức giận
của mình, thì sự giận dữ đó dường như trở nên hổ thẹn bẽn lẽn,
và bắt đầu nguôi bớt. Bạn phải xem xét bản chất của nó, nó sinh làm
sao, diệt thế nào. Ở đây lại cũng cần nhớ rằng bạn không nên nghĩ
"tôi đang tức giận" hay nghĩ về "sự giận dữ của tôi".
Bạn chỉ cần phải ý thức và chú ý về trạng thái của một tâm hồn
giận dữ. Bạn chỉ đang quan sát và xem xét một cách khách quan cái tâm hồn
giận dữ. Đây phải là thái độ đối với tất cả mọi tình cảm, cảm
xúc và trạng thái tâm linh.
Niệm pháp
Kế đó còn có một hình thức
"quán" về những đề mục luân lý, tâm linh và trí thức: Tất cả
mọi sự nghiên cứu, đọc sách, thảo luận, đàm thoại và bàn cãi về những
đề mục như thế đều được bao gồm trong phép "quán" này. Đọc
quyển sách này, và suy nghĩ sâu xa về những đề tài ở trong đó là một
hình thức "quán" (hay thiền định). Chúng ta đã thấy trước đây
(7) rằng: cuộc đàm thoại giữa Khemaka và nhóm tăng lữ là một hình thức
thiền quán đã đưa đến sự thực chứng Niết Bàn.
Bởi thế, theo hình thức
"quán" này, bạn có thể nghiên cứu, suy nghĩ, và thảo luận về
"ngũ cái" (5 sự ngăn che; nivarana) gồm có:
- Tham dục (kàmacchanda)
- Sân hận (vyàpàda)
- Hôn trầm (thìna-middha)
- Trạo cử (uddaca-kukkucca)
- Hoài nghi (vicikicchà)
Năm món này được xem như những
chướng ngại đối với bất cứ sự hiểu biết nào, và do đó, bất cứ
sự tiến bộ nào. Khi con người bị chúng làm chủ và khi họ không biết
trừ khử chúng, thì họ không còn có thể hiểu được chánh tà, tốt xấu.
Người ta cũng có thể
"quán" về "Thất Bồ Đề Phận" (Bojjhanga) nghĩa là 7 yếu
tố của Giác Ngộ:
- Niệm (sati), có ý thức và tỉnh
táo về tất cả các hoạt động và động tác vật lý cũng như tâm lý,
như đã bàn ở trên.
- Trạch pháp (dhamma-vicaya). Tìm tòi
nghiên cứu những vấn đề khác nhau của lý thuyết. Ở đây bao gồm tất
cả mọi nghiên cứu về tôn giáo, luân lý và triết học, đọc sách, sưu
tầm, bàn luận, đàm thoại, ngay cả dự những buổi diễn giảng về những
vấn đề của lý thuyết ấy.
- Tinh tấn (viriya) làm việc một
cách đầy nghị lực cho đến cùng.
- Hỷ (pìti), đức tính hoàn toàn
trái ngược vớI thái độ tâm lý hoài nghi, bi đát hay thảm đạm.
- Khinh an (passaddhi), sự thoải mái
của cả thể xác lẫn tinh thần. Người ta không nên có thể xác hay tâm
thần căng thẳng.
- Định (samàdhi), như đã bàn ở
trên.
- Xả (upekkhà), nghĩa là có thể đối
diện cuộc sống trong mọi thăng trầm của nó, với một tâm hồn an tĩnh
thanh bình, không rối loạn.
Muốn đào luyện những đức tính
ấy điều cốt nhất là phải có một lòng mong mỏi thực sự, ý chí, hay
khuynh hướng. Nhiều điều kiện vật chất và tâm linh giúp cho sự phát
triển mỗi đức tính ấy được tả rõ trong các kinh nguyên thủy.
Người ta cũng có thể
"quán" về những đề mục như Ngũ Uẩn, nghiên cứu câu hỏi
"con người là gì?" hay "cái được gọi là tôi là cái
gì?" hay về Tứ Diệu Đế, như đã bàn trên. Sự học hỏi và sưu tầm
về những đề mục ấy bao gồm trong hình thức thứ tư của thiền định,
đưa đến sự thực chứng chân lý tối hậu.
Ngoài những đề mục đã bàn, còn
có nhiều đề mục thiền quán khác, theo truyền thống có 40, trong đó đặc
biệt ta phải kể đến Tứ Vô lượng tâm (brahma-vihàra):
- Từ (mettà), trải ra một tình
yêu vô biên, phổ quát và thiện cảm đối với tất cả mọi chúng sinh
không chút phân biệt, như "một người mẹ thương yêu đứa con duy nhất".
- Bi (karunà) lòng trắc ẩn đối với
mọi chúng sinh khổ đau phiền não và gặp hoạn nạn.
- Hỷ (mudità) niềm vui đầy thiện
cảm đối với sự thành công của kẻ khác, đối với may mắn và hạnh
phúc của họ, và
- Xả (upekkhà) sự bình thản ở
trong mọi thăng trầm của cuộc sống.
Chú thích
(1) A (Colombo, 1929), p. 276.
(2) Theo Yogàvacara's Manual (do
T.W. Rhys Davids xuất bản London, 18896), một bản văn về Thiền quán viết
ở Tích Lan vào khoảng thế kỷ 18, đã chứng tỏ Thiền quán vào thời bấy
giờ đã bị suy đồi thành một tục lệ đọc thần chú, đốt nến,
v.v...
Xem thêm Chương XII về "The
Ascetic Ideal", trong "History of Buddhism in Ceylon", Walpola Rahula
(Colombo, 1956), p. 199.
(3) Xem Chương IV
(4) Xem Sallekha-sutta, Kinh số 8, M
(5) S I(PTS) p.5.
(6) M I(PTS) p.100
(7) Xem Chương VI.
Lời nói
đầu | chương 1
| chương 2 | chương 3 | chương 4 | chương 5 | chương 6 | chương 7 | chương 8