II
-6-
Trưởng lão ni Sanghamitta:
Vị Ni trưởng đầu tiên tại Sri Lanka
Lorna Dewaraja
H ằng
năm, vào ngày Rằm tháng Mười Một âm lịch,
Phật tử khắp nơi trong đảo quốc Sri Lanka
hành lễ tưởng niệm Trưởng lão ni Sanghamitta,
là vị nữ tu sĩ cùng với anh trai của bà là
ngài Trưởng lão Mahinda đã mang Phật giáo
truyền vào đảo quốc hơn 2300 năm trước,
trong triều đại vua Davanampiya Tissa. Một
điều quan trọng đáng ghi nhận là khi Ngài
Mahinda hoằng pháp tại vùng Anuradhapura, đa
số cư sĩ lắng tâm chuyên chú thính pháp là
phụ nữ, trong hàng hoàng gia lẫn hàng thường
dân. Sự kiện đó vẫn tiếp tục cho đến ngày
nay, số nữ cư sĩ tham gia vào các cuộc lễ
Phật giáo bao giờ cũng đông hơn số nam cư sĩ.
Sau khi nghe Ngài Trưởng
lão Mahinda thuyết giảng, Hoàng hậu
Anuladevi, vợ của Phó vương Mahanaga, phát
tâm tín thành nơi lời dạy của Đức Phật, và
ngỏ ý muốn xuất gia để trở thành một vị Tỳ
khưu ni. Khi được biết ý định nầy, Ngài
Mahinda nói với vua rằng theo đúng giới luật
tu sĩ, Ngài không thể truyền giới cho phụ
nữ. Ngài đề nghị nhà vua gửi văn thư đến vua
Asoka (A-dục) của xứ Maurya, Ấn Độ, yêu cầu
vua Asoka gửi con gái của vua là Trưởng lão
ni Sanghamitta sang đảo quốc, và đem theo
một nhánh của cây bồ đề tại Bồ đề Đạo tràng,
nơi Đức Phật đã thành đạo.
Lúc bấy giờ, bang giao
giữa hai triều đình rất tốt đẹp, nên vua
Devanampiya Tissa không ngần ngại gửi một vị
quan là ngài Arittha đến thành phố
Pataliputra (bây giờ là Patna) của xứ Ấn Độ,
để gặp vua Asoka, chuyển đạt lời thỉnh cầu
ấy.
Lúc đầu, vua Asoka ngần
ngại, không muốn gửi con gái mình ra đi
truyền giáo ở nước ngoài, nhưng vì Trưởng
lão ni Sanghamitta cương quyết yêu cầu nhà
vua cho phép bà xuất dương đi hoằng đạo, nên
sau cùng, vua Asoka đồng ý cho phép. Một
đoàn mười một vị Tỳ khưu ni cùng lên thuyền
đi với bà Sanghamitta, vượt biển sang đảo
quốc, mang theo nhánh cây bồ đề, với sự
hướng dẫn của quan Arittha. Đây là một việc
làm dũng cảm của bà Sanghamitta, vì vào thời
đó, khi người ta vẫn còn có thành kiến xem
thường phụ nữ, bà Sanghamitta đã có đủ nghị
lực và can đảm để thực hiện cuộc hành trình
vượt biển đầy nguy hiểm, mà không có người
trong hoàng tộc cùng đi để bảo vệ bà.
Tại cảng Jambukolapattana
(nay là cảng Pedro, bán đảo Jaffna), vua của
đảo quốc cùng với Trưởng lão Mahinda và rất
đông các tín đồ Phật tử đã ra nghênh đón
Trưởng lão ni cùng với Ni chúng từ Ấn Độ
sang, mang theo nhánh cây bồ đề. Nhà vua đã
tổ chức buổi lễ tiếp rước rất long trọng, và
rất đông dân chúng đã tham gia cùng với phái
đoàn truyền giáo đưa nhánh cây nầy về kinh
đô Anuradhapura, cuộc hành trình kéo dài 14
ngày bằng đường bộ. Nhánh cây nầy được trồng
trong vườn Mahamegha tại một nơi tôn nghiêm.
Từ ngày ấy cho đến nay, trong suốt 23 thế kỷ
qua, vua chúa và dân chúng đảo quốc Sri
Lanka tiếp tục gìn giữ, bảo vệ và tôn quý
cây bồ đề này, như là một bảo vật quốc gia.
Cổ thụ bồ đề ngày nay được xem như là một
trong những cổ thụ lâu năm nhất trên thế
giới.
Trưởng lão ni Sanghamitta
đã thực hiện một công tác quan trọng nhất
tại đảo quốc là truyền giới và hướng dẫn tu
tập cho Hoàng hậu Anuladevi và các thị nữ
sau khi các vị nầy xuất gia với Bà. Từ đó,
Ni đoàn Sri Lanka được thành lập và kéo dài
khoảng 1000 năm. Theo các nguồn sử liệu
Trung quốc, vào năm 429 CN, Ni đoàn nầy đã
gửi 9 vị Tỳ khưu ni do Ni sư Deva Sara lãnh
đạo, vượt đại dương, đi thuyền đến Trung
quốc để truyền giới cho 300 vị tu nữ tại Nam
kinh, thành lập Ni đoàn tại xứ sở đó; và từ
Trung quốc, đã phát triển đến các quốc gia
khác trong vùng Đông Á cho đến ngày nay.
T rưởng
lão ni Sanghamitta lưu lại tại đảo quốc,
tiếp tục công trình hoằng pháp, truyền bá
đạo Phật, và viên tịch tại đó, vào tuổi 59.
Bà là tấm gương dũng cảm cho các vị nữ tu sĩ,
đã không ngần ngại lên đường mạo hiểm nơi xa
xôi để hoằng dương Chánh Pháp. Bà cũng là
một vị nữ đại sứ đầu tiên trong lịch sử
ngoại giao cận đại, đã được một vị quốc
trưởng gửi đi theo lời mời của một vị quốc
trưởng khác. Cho đến ngày nay, phụ nữ Sri
Lanka nói riêng, và Phật giáo Sri Lanka nói
chung, đều thành tâm ghi ân và tán thán công
đức của Bà.
Bình Anson trích dịch
Tây Úc, tháng 3-2007
-7-
Vesak là ngày lễ quốc tế
T rong
phiên họp khoáng đại ngày 15 tháng 12 năm
1999, Hội đồng Liên Hiệp Quốc (LHQ) đã thông
qua dự thảo nghị quyết "Công nhận quốc tế về
ngày Lễ Vesak tại trụ sở Liên Hiệp Quốc và
các văn phòng liên hệ" (văn bản số
A/54/L.59) do đại diện nước Sri Lanka đệ
trình. Hội đồng quyết định hằng năm sẽ có
các công tác bố trí thích hợp để tổ chức
ngày Lễ Vesak với sự cố vấn của các đại diện
quốc gia trong Hội đồng. Ngày Vesak – ngày
trăng tròn trong tháng 5 dương lịch mỗi năm
– là ngày thiêng liêng nhất của mọi Phật tử
trên toàn thế giới để kỷ niệm ngày sinh,
ngày thành đạo và ngày nhập diệt của Đức
Phật (do đó, được gọi là ngày Đại lễ Tam Hợp,
mặc dù nhiều người vẫn gọi là Lễ Phật Đản).
Sau đây là tóm tắt các
lời phát biểu trong kỳ họp này:
Ông JOHN DE SARAM, đại sứ
Sri Lanka, giới thiệu dự thảo nghị quyết
công nhận Ngày Vesak (văn bản số A/54/L.59),
nói rằng Hội đồng LHQ đã công nhận nhiều sự
quan tâm khác nhau trong một thế giới phức
tạp, và đã chấp nhận rằng mọi người trên thế
giới mong mỏi Hội đồng ghi nhận sự quan tâm,
lòng hy vọng và sự tín ngưỡng của họ. Trong
tinh thần ấy, Hội nghị Thượng đỉnh Phật giáo
Quốc tế trông chờ LHQ có một sự công nhận
quốc tế về Ngày Vesak – ngày trăng tròn
trong tháng 5 dương lịch, là ngày hơn 150
triệu tín đồ Phật giáo trên toàn thế giới
làm lễ kỷ niệm ngày sinh, ngày thành đạo và
ngày nhập diệt của Đức Phật.
Ông kêu gọi Hội đồng LHQ
công nhận ngày Vesak là ngày thiêng liêng
nhất của Phật giáo, và cho phép bố trí thích
hợp để hành lễ tại trụ sở LHQ và các văn
phòng của tổ chức này.
Ông cũng ghi nhận rằng
đại diện nước Hy Lạp, Mauritius, Na Uy và
Thổ Nhĩ Kỳ đã cùng hỗ trợ bản dự thảo này.
Ông VORAVEE WIRASAMBAN,
đại sứ Thái Lan, nói rằng thông điệp phổ
quát về hòa bình, thiện ý và từ bi mà Đức
Phật đã truyền giảng hơn 2500 năm trước càng
thêm nhiều ý nghĩa cho thời đại ngày nay.
Phật giáo luôn luôn đề cao các giải pháp hòa
hợp cho các cuộc xung đột, dù giữa các cá
nhân hay giữa các cộng đồng. Phật giáo là
đồng nghĩa với hòa bình. Thêm vào đó, sự bao
dung là một trong các điểm chính yếu của
Phật giáo. Tại Thái Lan, bao dung, nhất là
bao dung tôn giáo, đã được ghi nhận trong
hiến pháp, và là một lối sống của người dân
Thái.
Phật giáo đề cao đường
lối trung dung, ông nói. Sống dung hòa là
căn bản của mọi hành động của mọi Phật tử,
mà giúp ngăn chận các hành động cực đoan
thường thấy xảy ra trên thế giới. Sự công
nhận của quốc tế về Ngày Vesak là một hành
động cần thiết để công nhận và tôn trọng
Phật giáo và hàng triệu Phật tử trên thế
giới và tái khẳng định sự quyết tâm của LHQ
tuân thủ nguyên tắc tôn trọng mọi dị biệt.
Bà CHRISTINE LEE, đại sứ
Singapore, nói rằng công nhận Ngày Vesak
là một việc làm thích hợp để tôn trọng Đức
Phật. Đây là một trong bốn dịp lễ chính tại
Singapore, nơi có một phần ba dân số là Phật
tử.
Bà ca ngợi bản dự thảo vì
nó phù hợp với nghị quyết của Đại Hội đồng
LHQ về năm 2000 là Năm Quốc tế Văn hóa Hòa
bình và thập kỷ 2001-2010 là Thập kỷ Quốc tế
về Văn hóa Hòa bình cho Thiếu nhi Toàn cầu.
Đặc điểm của lời dạy của Đức Phật là về sự
hòa bình và bất bạo động. Dự thảo này cũng
giúp mở đường cho năm 2001 là Năm Đối thoại
giữa các Nền Văn minh.
Ông SHAIKH RAZZAQUE ALI,
đại sứ Bangladesh, phát biểu rằng tại
châu Á và các nơi khác trên thế giới, rất
nhiều người đã cử hành Ngày Vesak như là
ngày thiêng liêng nhất của Phật giáo.
Bangladesh có một lịch sử gắn bó với văn
minh Phật giáo, có thành phần dân chúng theo
đạo Phật rất đáng kể, và cử hành lễ Vesak
cũng như các lễ khác. Sự công nhận quốc tế
về ngày này là một cơ hội để áp dụng các lời
dạy quý báu của Đức Phật, để mang đến sự
thông cảm, hạnh phúc và an vui cho thế giới.
Ông OM PRADHAN, đại sứ
Bhutan, nói rằng sự công nhận quốc tế về
các đóng góp của Phật giáo đã và đang cung
hiến cho thế giới sẽ giúp tăng trưởng sự
hiểu biết và thông cảm về tính dị biệt trong
các xã hội ngày nay.
Những lời dạy của Phật
giáo có tính phổ quát, ông nói. Đó là lời
dạy về sự chừng mực, bất bạo động, hiện hữu
hòa bình và bao dung. Đó là lời dạy về bảo
tồn các nguồn lực và môi trường thiên nhiên,
tôn trọng sự sống của mọi loài. Có rất nhiều
nguyên tắc của Phật giáo tương đồng với các
tôn giáo lớn khác, và cũng tương hợp với các
nguyên tắc căn bản của LHQ.
Ông JUAN LUIS FLORES, đại
sứ Tây Ban Nha, phát biểu rằng nước ông
là một thành viên hỗ trợ dự thảo nghị quyết,
và tin rằng LHQ là một nghị trường để các
tôn giáo và các nền văn hóa lớn gặp gỡ và
trao đổi ý kiến. Công nhận Ngày Vesak là để
ghi nhận các đóng góp của những tôn giáo và
văn hóa khác nhau cho sự bao dung và thông
cảm lẫn nhau của mọi người trên thế giới.
Ông U WIN MRA, đại sứ
Miến Điện, nói rằng LHQ kêu gọi mọi quốc
gia thực hành bao dung và chung sống hòa
bình. Điều đó cũng nằm trong lời dạy của Đức
Phật, đã được hằng triệu người tuân theo.
Đạo Phật, cũng như các tôn giáo lớn khác, đã
có nhiều đóng góp đáng kể để duy trì hòa
bình, và đây là một điều thích hợp để LHQ
tạo ra một cơ hội tốt giúp mọi Phật tử giới
thiệu ngày thiêng liêng của họ đến cộng đồng
quốc tế. Ngày Vesak là ngày lễ thiêng liêng
của Miến Điện, nơi có 90 phần trăm dân số
theo đạo Phật. Để kỷ niệm ngày này, dân
chúng thường cử hành lễ tưới cây Bồ đề, là
nơi Đức Phật thành đạo.
Ông NARENDRA BIKRAM SHAH,
đại sứ Nepal, phát biểu rằng tinh hoa
của đạo Phật là cho con người, hòa bình, từ
bi, thông cảm, bất bạo động, sự bình đẳng
giữa mọi người, và kính trọng các tín ngưỡng
tôn giáo khác.
Lâm-tỳ-ni (Lumbini), nơi
Đức Phật đản sinh, ngày nay là một Di sản
Quốc tế. LHQ đã từng hỗ trợ để bảo tồn và
phát triển nơi đó. Hội nghị Thượng đỉnh Phật
giáo Quốc tế đã được tổ chức tại Lâm-tỳ-ni
vào năm trước, và đã công bố đây là nơi cội
nguồn của hòa bình. Ngày Vaishakh Purnima
(theo tiếng Nepal) hay là Ngày Vesak – còn
được gọi là Ngày Lâm-tỳ-ni – đã được công
nhận tại Nepal như là một ngày lễ quốc gia,
một ngày chính thức của tinh thần bất bạo
động.
Ông INAM-UL-HAQUE, đại sứ
Pakistan, nói rằng miền tây bắc của đất
nước ông là quê hương của nền văn minh Phật
giáo Gandhara, phát triển vào thế kỷ thứ I
trước Tây lịch. Đây là thời kỳ của nghệ
thuật Gandhara, là một kết nối của nghệ
thuật Hy Lạp - La Mã với truyền thống Phật
giáo. Sự đóng góp của Phật giáo vào văn hóa,
nghệ thuật và văn minh của dân chúng Nam Á
và các nơi khác rất quan trọng. Thông điệp
về hòa bình, từ bi và chân lý của Đức Phật
đã được chia sẻ trong các tôn giáo và tín
ngưỡng khác. Công nhận của LHQ về Ngày Vesak
là một ghi nhận thích đáng về sự đóng góp
của Phật giáo cho sự phát triển tâm linh của
nhân loại.
Ông KAMALESH SHARMA, đại
sứ Ấn Độ, nói rằng tác động lớn lao của
Phật giáo vào các giá trị của thế giới về
tâm linh, luân lý và đạo đức rất xứng đáng
để Hội đồng LHQ công nhận và tôn vinh Ngày
Vesak. Cốt lõi của các lời dạy của Đức Phật
đã tác động lên đời sống của hàng triệu
người trên thế giới, với hy vọng và giải
thoát. Quốc gia của ông sẽ tham gia tích cực
vào ngày lễ này tại LHQ.
S au
đó, đại sứ các nước Lesotho, Nicaragua và
Hoa Kỳ cùng quyết định tham gia hỗ trợ dự
thảo nghị quyết này. Tiếp theo, nghị quyết
được Hội đồng LHQ chấp thuận thông qua, ngày
15 tháng 12 năm 1999.
-8-
Về bài kinh Kalama
Tỳ khưu Bodhi
B ài
kinh Kalama, trong Tăng chi bộ, chương Ba
Pháp, thường được nhiều người xem như là một
"Hiến chương Phật giáo về Tự do Trạch vấn".
Mặc dù bài kinh bác bỏ các tư duy giáo điều
và lòng tin mù quáng, vấn đề ở đây là bài
kinh có thật sự mang những ý nghĩa mà người
ta thường gán ghép vào đó hay không? Dựa vào
một đoạn duy nhất của bài kinh, thường được
trích dẫn sai lạc ra ngoài mạch văn, người
ta thường nghĩ rằng Đức Phật là một nhà chủ
nghĩa thực nghiệm, bác bỏ mọi giáo thuyết và
lòng tin, và giáo pháp của Ngài chỉ là công
cụ của một người tư duy tự do để đạt chân lý,
và mời gọi mỗi người chấp nhận hay bác bỏ
bất cứ điều gì theo sở thích của họ.
Thế nhưng, bài kinh
Kalama có thật sự biện minh cho quan điểm đó
không? Hay chúng ta thấy ở đây chỉ là một
tập hợp các dạng thái khác nhau của khuynh
hướng trơ trẽn xưa cũ là đánh đồng giáo pháp
với những gì thích hợp với mình – hoặc thích
hợp với những người đang nghe mình thuyết
giảng? Trong giới hạn của bài viết ngắn này,
chúng ta hãy đọc lại toàn bộ bài kinh
Kalama, và cũng cần nên nhớ rằng để hiểu
đúng lời Phật dạy, chúng ta cần phải tìm
hiểu ý định của Ngài khi nói ra các lời dạy
đó.
*
Đoạn kinh thường được
nhiều người trích dẫn như sau:
- "Này quý vị Kalama,
đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó
là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại,
đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng
tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng
tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì
dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin
vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ
rằng vị ấy là thầy của mình."
"Khi nào quý vị tự mình
biết rõ: ‘Các pháp này là bất thiện; các
pháp này là đáng chê; các pháp này bị người
trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực
hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến bất hạnh khổ
đau’, quý vị hãy từ bỏ chúng. ... Khi nào
quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp này là
thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp
này được người trí ca ngợi; các pháp này nếu
được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến lợi
lạc hạnh phúc’, quý vị hãy đạt đến và an
trú".
Đoạn kinh này, cũng như
những đoạn khác ghi lại trong kinh điển, Đức
Phật nói ra trong một ngữ cảnh đặc biệt –
cho thính chúng trong một bối cảnh đặc biệt
nào đó – và vì thế cần phải hiểu trong ngữ
cảnh đó. Các người trong bộ tộc Kalama, cư
dân của thị trấn Kesaputta, được nhiều vị
đạo sư với những quan điểm khác nhau đến
viếng thăm, mỗi vị đề cao giáo thuyết của
mình và bôi bác giáo thuyết của người khác.
Điều này làm cho những người Kalama hoang
mang. Khi biết ẩn sĩ Gotama, được ca ngợi là
bậc Giác Ngộ, đến viếng thị trấn, họ đến yết
kiến Ngài, với hy vọng rằng Ngài sẽ giúp
giải tỏa các sự hoang mang, nghi ngờ của họ.
Khi đọc tiếp các đoạn sau của bài kinh,
chúng ta thấy rõ ràng các vấn đề làm cho họ
hoang mang là về sự tái sinh và hậu quả của
các hành động thiện và ác.
Đức Phật bắt đầu bằng
cách trấn an những người Kalama rằng trong
tình huống như thế, họ nghi ngờ hoang mang
là đúng, và Ngài khuyến khích họ nên trạch
vấn. Tiếp theo, Ngài nói với họ những điều
như đã được ghi trong đoạn kinh trích dẫn ở
trên, khuyên họ nên từ bỏ những điều họ tự
biết rõ là bất thiện, và thực hành những
những điều họ tự biết rõ là thiện. Lời
khuyên này có thể nguy hiểm cho những ai
không có luân lý đạo đức, và chúng ta có thể
hiểu rằng ở đây, Đức Phật xem những người
Kalama này là những người có đạo đức tốt. Dù
thế nào, Ngài cũng không để cho họ tự mình
suy diễn, mà Ngài còn khéo léo hỏi họ để cho
họ thấy tham sân si đưa đến bất hạnh, khổ
đau cho mình và cho người khác, và chúng
phải được từ bỏ. Trái lại, tâm vô tham, vô
sân, vô si sẽ đưa đến an lạc, hạnh phúc, và
vì thế, cần phải được nuôi dưỡng.
Tiếp theo, Đức Phật giảng
rằng một "vị Thánh đệ tử ly tham, ly sân, ly
si" sống tỉnh giác, chánh niệm, an trú và
tỏa rộng tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Xả bao
trùm toàn thế giới. Với tâm thanh tịnh,
không oán thù, không ác hại như vậy, vị ấy
có được "bốn sự an ổn" ngay bây giờ và tại
nơi đây: (i) nếu có đời sau và nếu có kết
quả dị thục do các nghiệp thiện ác, sau khi
thân hoại mạng chung, vị ấy sẽ sinh vào cõi
thiện lành; (ii) nếu không có đời sau và nếu
không có kết quả dị thục, vị ấy vẫn sống tự
tại và an lạc tại đây và ngay bây giờ; (iii)
nếu có quả xấu trổ ra bởi nghiệp ác, vị ấy
không chịu quả xấu; và (iv) nếu quả xấu
không trổ bởi nghiệp ác, cũng không ảnh
hưởng gì đến vị ấy vì ý nghĩ lẫn hành động
của vị ấy đều trong sạch. Sau khi nghe giảng
như thế, các người Kalama tỏ lòng tri ân và
tán thán Đức Phật, rồi xin Ngài cho phép họ
quy y Tam Bảo.
*
Bài kinh Kalama có đề
nghị, theo quan điểm của nhiều người, rằng
một người Phật tử có thể bác bỏ mọi giáo
thuyết và lòng tin, rằng người ấy chỉ cần
dựa theo kinh nghiệm cá nhân của mình như là
tiêu chuẩn để đánh giá các lời dạy của Đức
Phật và để bác bỏ những gì mà mình không thể
dung hợp, hay không? Đúng rằng Đức Phật
không đòi hỏi những người Kalama phải chấp
nhận những gì Ngài nói vì họ có lòng tin nơi
Ngài, nhưng chúng ta cần phải ghi nhận một
điểm quan trọng: những người Kalama này, khi
bắt đầu bài kinh, chưa phải là đệ tử của Đức
Phật. Họ đến gặp Ngài và xem Ngài chỉ như là
một vị cố vấn, để nghe những lời khuyên khả
dĩ giúp họ xóa tan sự nghi ngờ thắc mắc của
họ, nhưng họ chưa xem Ngài là đấng Như Lai,
bậc Toàn Giác, là vị có thể chỉ cho họ con
đường tâm linh đưa đến giải thoát tối hậu.
Bởi vì các người Kalama
không có ý định đến gặp Đức Phật để tìm hiểu
sứ mạng hoằng pháp của Ngài, để tìm hiểu con
đường giải thoát, cho nên chưa phải là dịp
để Đức Phật thuyết giảng về giáo pháp cao
diệu của Ngài, chẳng hạn như là Tứ Diệu Đế,
tam tướng (khổ, vô thường, vô ngã), và các
pháp quán niệm. Giáo pháp này chỉ giảng đặc
biệt cho những ai đã chấp nhận Đức Phật là
vị Thầy dẫn đường giải thoát. Trong các bài
kinh khác, Ngài chỉ thuyết giảng cho những
ai đã có "lòng tín thành nơi Đức Như Lai" và
cho những ai đã có đầy đủ phước duyên để
thông hiểu và thực hành các lời dạy đó.
Những người Kalama này, ngay trong đoạn đầu
bài kinh, chưa phải là thửa đất mầu mỡ để
Ngài gieo các hạt giống giáo pháp giải thoát.
Họ còn đang hoang mang về các lời tuyên bố
trái ngược nghe được từ các vị đạo sĩ khác,
tâm họ vẫn chưa rõ ràng, ngay cả về nền tảng
căn bản của đạo đức.
Vì thế, sau khi khuyên họ
không nên tin dựa theo các truyền thống sẵn
có, dựa theo lý luận trừu tượng, dựa theo
các bậc đạo sư khéo thuyết, Đức Phật trình
bày những gì có thể kiểm chứng tức khắc và
có khả năng thiết lập một nền tảng vững chắc
cho đời sống đạo đức và thanh tịnh tâm hồn.
Ngài dạy rằng cho dù có hay không có tái
sinh sau khi chết, một đời sống có đạo đức
và có lòng từ bi với mọi loài chúng sinh tất
nhiên sẽ mang đến phần thưởng quý báu ngay
bây giờ và ở nơi đây, đó là sự an bình và
hạnh phúc nội tâm, cao quý hơn tất cả các
khoái lạc mong manh khi con người vi phạm
các nguyên tắc đạo đức và chạy theo lòng
tham dục. Cho những ai dù chưa sẵn sàng chấp
nhận có đời sau, có đời sống khác sau khi
chết, lời dạy như thế sẽ đảm bảo sự an vui
hiện tại của họ, và nhờ thế, có khả năng
giúp họ tái sinh về cõi thiện lành.
Mặt khác, cho những ai có
khả năng hiểu biết và chấp nhận sự hiện hữu
của chúng ta qua tái sinh luân hồi, lời dạy
của Ngài cho những người Kalama vượt qua các
tác động tức thời và chỉ thẳng vào cốt lõi
của Giáo Pháp. Ba trạng thái tâm – tham,
sân, si – được Ngài đem ra thuyết giảng
không phải chỉ là căn bản của tà hạnh và uế
nhiễm trong tâm. Trong khung giáo lý của
Ngài, đó là cội nguồn của lậu hoặc – là
nguyên nhân chính của tất cả mọi ràng buộc
và đau khổ – và toàn thể giáo pháp có thể
xem như là pháp hành để diệt sạch ba cội rễ
ác hại này, bằng cách phát triển toàn hảo ba
liều thuốc hóa giải: xả ly, từ bi và trí
tuệ.
*
Như thế, bài giảng cho
các người Kalama trình bày cách thử nghiệm
tốt để mang lại sự tín nhiệm nơi giáo pháp
của Đức Phật như là một giáo thuyết khả thi,
đưa đến giải thoát. Giáo pháp bắt đầu với
một lời dạy có thể chứng nghiệm tức thời,
giá trị của lời dạy ấy có thể thấy được bởi
bất cứ người nào có đạo đức tốt và thực hành
nghiêm túc cho đến kết luận cuối cùng; nghĩa
là có thể thấy được: các lậu hoặc trong tâm
gây tai hại và đau khổ cho mình và cho xã
hội, đoạn trừ lậu hoặc sẽ mang đến an bình
và hạnh phúc, và các pháp hành mà Đức Phật
đã dạy là những phương cách hiệu quả để đoạn
trừ các lậu hoặc đó. Bằng cách tự thử nghiệm
lời dạy này, chỉ cần tạm thời đặt lòng tin
nơi Đức Phật như hành trang đi đường, cuối
cùng, ta sẽ có được một sự tin tưởng vững
chắc, dựa trên kinh nghiệm thực chứng, nơi
uy lực giải thoát và thanh tịnh hóa của giáo
pháp. Sự tin tưởng nơi lời dạy ấy sẽ mang
lại lòng tịnh tín sâu xa nơi Đức Phật là vị
Thầy, và từ đó, ta sẽ chấp nhận các nguyên
tắc hành trì mà Ngài truyền giảng để giúp ta
tiến bước trên con đường đưa đến giác ngộ,
ngay cả khi chúng vượt ngoài khả năng kiểm
chứng của ta. Đây chính là đánh dấu sự khai
mở Chánh Kiến, bước đầu tiên của Bát Chánh
Đạo.
*
M ột
phần vì phản ứng chống lại chủ nghĩa giáo
điều, một phần vì quỵ lụy vào kiến thức khoa
học khách quan, khuynh hướng thời thượng
ngày nay là vội vàng suy diễn cho rằng Đức
Phật bác bỏ mọi lòng tin và giáo thuyết đã
thiết lập, và cho rằng Ngài dạy chúng ta chỉ
chấp nhận những gì ta có thể tự kiểm nghiệm,
qua bài kinh Kalama. Tuy nhiên, sự suy diễn
này không chính xác. Chúng ta đừng quên rằng
đây là các lời khuyên của Đức Phật đến những
người Kalama khi họ chưa sẵn sàng tin Ngài
và giáo pháp của Ngài; cũng bởi lẽ ấy, bài
kinh đã không đề cập gì đến Chánh Kiến và cả
bầu trời tươi sáng khi có được một cái nhìn
chân chính. Trái lại, bài kinh chỉ đưa ra
những lời khuyên hợp lý nhất để họ có được
một đời sống hiền thiện, khi vấn đề về đức
tin tối hậu được tạm thời gác sang một bên.
Ở đây, chúng ta cần phải
hiểu rằng lời Đức Phật dạy trong bài kinh
bao gồm những gì mà chúng ta có thể tự thực
chứng trong kinh nghiệm đời sống hằng ngày;
rồi từ đó, sẽ là cơ sở vững chắc để ta đặt
niềm tin vào những khía cạnh khác của giáo
pháp, vượt qua những kinh nghiệm thông
thường của ta. Đức tin trong Phật Pháp không
bao giờ được xem như là cứu cánh, cũng không
đủ bảo đảm để giác ngộ giải thoát, mà chỉ là
điểm khởi đầu của một tiến trình thăng hoa
chuyển hóa nội tâm để khai mở tuệ quán. Để
tuệ quán thực hiện được chức năng giải
thoát, nó cần phải được khai mở trong bối
cảnh nắm bắt chính xác các chân lý trọng yếu
về vị trí của chúng ta trong thế gian và về
phạm vi của giải thoát. Các chân lý này đã
được Đức Phật hoằng truyền từ sự hiểu biết
thâm sâu của Ngài về bản chất của con người.
Chấp nhận các chân lý đó với lòng tín thành,
sau khi xem xét kỹ lưỡng, là đặt bước đầu
tiên trên cuộc hành trình chuyển hóa niềm
tin thành trí tuệ, sự tín nhiệm thành sự
chắc chắn, và đưa đến giải thoát khỏi mọi
đau khổ.
Tỳ khưu Bodhi
(Buddhist Publication Society,
Newsletter No. 9, Sri Lanka, 1988)
Bình Anson lược dịch
(Perth, Tây Úc, tháng 8-2007)
-ooOoo-
Kinh Kalama
(Tăng chi III.65)
T ôi
nghe như vầy:
Một thời, Thế Tôn du hành
trong xứ Kosala, cùng với đại chúng tỳ khưu
đi đến thị trấn Kesaputta của bộ tộc Kalama.
Các người Kalama ở
Kesaputta được nghe: "Du sĩ Gotama là bậc
xuất gia của dòng họ Thích-ca đang du hành
trong xứ Kosala, vừa đến Kesaputta. Tiếng
đồn tốt đẹp về Ngài Gotama được truyền đi
như sau: Ngài là bậc Ứng cúng, Chánh đẳng
giác, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian
giải, Vô thượng sĩ, Ðiều ngự trượng phu,
Thiên nhân sư, Phật, Thế tôn. Ngài giảng
pháp cao diệu, rõ ràng, đầy đủ từ chặng đầu,
chặng giữa, cho đến chặng cuối. Ngài tuyên
bố đã chứng đắc đạo quả tối thượng bằng
chính tuệ giác của Ngài đến toàn thể thế
giới của chư thiên và nhân loại. Ngài có đời
sống phạm hạnh hoàn toàn tinh khiết. Lành
thay, nếu chúng ta được yết kiến một vị Ứng
cúng như vậy".
Rồi các người Kalama ở
Kesaputta đến yết kiến Thế Tôn. Sau khi đến,
có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một
bên; có người nói lên những lời chào đón
thăm hỏi thân thiện với Thế Tôn rồi ngồi
xuống một bên; có người cung kính chắp tay
vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên; có
người xưng tên họ rồi ngồi xuống một bên; có
người im lặng ngồi xuống một bên.
*
Sau khi ngồi xuống, các
người Kalama ở Kesa-putta thưa với Thế Tôn:
- Bạch Ngài, có một số du
sĩ, Bà-la-môn, đến Kesaputta. Họ thuyết minh
và phát huy giáo lý của mình, nhưng họ bài
xích, khinh miệt, chê bai và xuyên tạc giáo
lý người khác. Lại có một số du sĩ,
Bà-la-môn khác đến Kesaputta, họ cũng thuyết
minh và phát huy giáo lý của mình, nhưng họ
cũng lại bài xích, khinh miệt, chê bai và
xuyên tạc giáo lý người khác. Bạch Ngài, đối
với những người ấy, chúng con nghi ngờ phân
vân: "Trong những du sĩ, Bà-la-môn này, ai
nói đúng sự thật, ai nói không đúng sự thật?"
- Này quý vị Kalama,
đương nhiên quý vị có những nghi ngờ, phân
vân. Khi có điều đáng nghi ngờ, đương nhiên
phân vân khởi lên.
Này quý vị Kalama, đừng
tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là
truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng
tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì
lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì
đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa
theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị
ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng
vị ấy là thầy của mình.
*
- "Nhưng này quý vị
Kalama, khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các
pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng
chê; các pháp này bị người trí chỉ trích;
các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận,
sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau’, quý vị hãy từ
bỏ chúng."
Quý vị nghĩ thế nào? Khi
tham lam, sân hận, si mê khởi lên trong tâm
người nào, sẽ đem đến lợi lạc hay đau khổ?
- Đem đến đau khổ, bạch
Thế Tôn.
- Này quý vị, người nào
có tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm bị tham
sân si chinh phục và xâm chiếm, người ấy sẽ
sát sinh, lấy của không cho, tà dâm, nói
dối, và khích lệ kẻ khác làm ác như vậy. Do
đó, có làm cho người ấy bất hạnh đau khổ lâu
dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Quý vị nghĩ thế nào,
các pháp này là thiện hay bất thiện?
- Bất thiện, bạch Thế
Tôn.
- Đáng chê hay không đáng
chê?
- Đáng chê, bạch Thế Tôn.
- Có tội hay không có tội?
- Có tội, bạch Thế Tôn.
- Bị người trí quở trách
hay không bị người trí quở trách?
- Bị người trí quở trách,
bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện và
chấp nhận, có đưa đến bất hạnh đau khổ
không? Ở đây, chúng sẽ tác động như thế nào?
- Nếu được thực hiện và
chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng sẽ đưa đến
bất hạnh, đau khổ. Ở đây, chúng sẽ tác động
như thế.
- Như vậy, này quý vị,
hãy ghi nhớ điều Ta vừa nói:
"Này quý vị Kalama, đừng
tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là
truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng
tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì
lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì
đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa
theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị
ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng
vị ấy là thầy của mình.
Nhưng này quý vị Kalama,
khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp
này là bất thiện; các pháp này là đáng chê;
các pháp này bị người trí chỉ trích; các
pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ
đưa đến bất hạnh khổ đau’, quý vị hãy từ bỏ
chúng".
*
- "Này quý vị Kalama,
đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó
là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại,
đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng
tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng
tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì
dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin
vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ
rằng vị ấy là thầy của mình.
Nhưng này quý vị Kalama,
khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp
này là thiện; các pháp này là đáng khen; các
pháp này được người trí ca ngợi; các pháp
này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa
đến lợi lạc hạnh phúc’, quý vị hãy đạt đến
và an trú".
Quý vị nghĩ thế nào? Khi
tham lam, sân hận, si mê không hiện hữu
trong tâm người nào, sẽ đem đến lợi lạc hay
đau khổ?
- Đem đến lợi lạc, bạch
Thế Tôn.
- Này quý vị, người nào
không có tâm tham, không có tâm sân, không
có tâm si, không bị tham sân si chinh phục
và xâm chiếm, người ấy sẽ không sát sinh,
không lấy của không cho, không tà dâm, không
nói dối, và không khích lệ kẻ khác làm ác
như vậy. Do đó, có làm cho người ấy lợi lạc
hạnh phúc lâu dài hay không?
- Thưa có, bạch Thế Tôn.
- Quý vị nghĩ thế nào,
các pháp này là thiện hay bất thiện?
- Thiện, bạch Thế Tôn.
- Đáng chê hay không đáng
chê?
- Không đáng chê, bạch
Thế Tôn.
- Có tội hay không có
tội?
- Không có tội, bạch Thế
Tôn.
- Bị người trí quở trách
hay không bị người trí quở trách?
- Không bị người trí quở
trách, bạch Thế Tôn.
- Nếu được thực hiện và
chấp nhận, có đưa đến lợi lạc hạnh phúc
không? Ở đây, chúng sẽ tác động như thế nào?
- Nếu được thực hiện và
chấp nhận, bạch Thế Tôn, chúng sẽ đưa đến
lợi lạc hạnh phúc. Ở đây, chúng sẽ tác động
như thế.
- "Này quý vị Kalama,
đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó
là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại,
đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng
tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng
tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì
dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin
vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ
rằng vị ấy là thầy của mình.
Nhưng này quý vị Kalama,
khi nào quý vị tự mình biết rõ: ‘Các pháp
này là thiện; các pháp này là đáng khen; các
pháp này được người trí ca ngợi; các pháp
này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa
đến lợi lạc hạnh phúc’, quý vị hãy đạt đến
và an trú".
*
- Này quý vị Kalama, vị
Thánh đệ tử ly tham, ly sân, ly si như vậy,
vị ấy sống tỉnh giác, chánh niệm, an trú và
tỏa rộng tâm Từ bao trùm phương thứ nhất,
phương thứ hai, phương thứ ba, phương thứ
tư. Cũng như vậy, tỏa khắp mọi nơi, bên
trên, phía dưới, ngang dọc, đến tất cả mọi
loài chúng sinh trên thế giới, vị ấy an trú
với tâm Từ cao quý, rộng lớn, không giới
hạn, không oán thù.
Vị Thánh đệ tử ly tham,
ly sân, ly si như vậy, vị ấy sống tỉnh giác,
chánh niệm, an trú và tỏa rộng tâm Bi bao
trùm phương thứ nhất, phương thứ hai, phương
thứ ba, phương thứ tư. Cũng như vậy, tỏa
khắp mọi nơi, bên trên, phía dưới, ngang dọc,
đến tất cả mọi loài chúng sinh trên thế giới,
vị ấy an trú với tâm Bi cao quý, rộng lớn,
không giới hạn, không oán thù.
Vị Thánh đệ tử ly tham,
ly sân, ly si như vậy, vị ấy sống tỉnh giác,
chánh niệm, an trú và tỏa rộng tâm Hỷ bao
trùm phương thứ nhất, phương thứ hai, phương
thứ ba, phương thứ tư. Cũng như vậy, tỏa
khắp mọi nơi, bên trên, phía dưới, ngang
dọc, đến tất cả mọi loài chúng sinh trên thế
giới, vị ấy an trú với tâm Hỷ cao quý, rộng
lớn, không giới hạn, không oán thù.
Vị Thánh đệ tử ly tham,
ly sân, ly si như vậy, vị ấy sống tỉnh giác,
chánh niệm, an trú và tỏa rộng tâm Xả bao
trùm phương thứ nhất, phương thứ hai, phương
thứ ba, phương thứ tư. Cũng như vậy, tỏa
khắp mọi nơi, bên trên, phía dưới, ngang
dọc, đến tất cả mọi loài chúng sinh trên thế
giới, vị ấy an trú với tâm Xả cao quý, rộng
lớn, không giới hạn, không oán thù.
*
Vị Thánh đệ tử ấy, này
quý vị Kalama, với tâm không oán thù, không
ác hại, với tâm thanh tịnh không uế nhiễm
như vậy, ngay bây giờ và tại đây, vị ấy đạt
được bốn sự an ổn:
i) "Nếu có đời sau, nếu
có kết quả dị thục do các nghiệp thiện ác,
sau khi thân hoại mạng chung, ta sẽ sinh vào
cõi thiện lành"; đây là an ổn thứ nhất vị ấy
có được.
ii) "Nếu không có đời
sau, nếu không có kết quả dị thục do các
nghiệp thiện ác, tại đây và ngay bây giờ, ta
vẫn sống tự tại, an lạc, với tâm không oán
thù, không ác hại"; đây là an ổn thứ hai vị
ấy có được.
iii) "Nếu có quả xấu trổ
ra cho người làm nghiệp ác, nhưng ta không
tác ý làm điều ác hại cho bất cứ ai; do vậy,
làm sao quả xấu đó có thể tác động đến ta?";
đây là an ổn thứ ba vị ấy có được.
iv) "Nếu quả xấu không
trổ ra cho người làm nghiệp ác, cũng không
tác động gì đến ta, vì tâm ta thanh tịnh và
thân ta không làm điều ác"; đây là an ổn thứ
tư vị ấy có được.
Vị Thánh đệ tử ấy, này
quý vị Kalama, với tâm không oán thù, không
ác hại, với tâm thanh tịnh không uế nhiễm
như vậy, ngay bây giờ và tại đây, vị ấy đạt
được bốn sự an ổn này.
- Sự việc là như vậy,
bạch Thế Tôn! Sự việc là như vậy, bạch Thiện
Thệ! Vị Thánh đệ tử ấy, bạch Thế Tôn, với
tâm không oán thù, không ác hại, với tâm
thanh tịnh không uế nhiễm như vậy, ngay bây
giờ và tại đây, vị ấy đạt được bốn sự an ổn
này.
Thật vi diệu thay, bạch
Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn!
Ngài đã thuyết giảng Chánh Pháp rõ ràng bằng
nhiều phương cách, như người dựng đứng những
gì bị xô ngã xuống, hay phô bày những gì bị
che phủ, hay chỉ đường cho người bị lạc
hướng, hay cầm đèn sáng vào trong tối để
những ai có mắt có thể thấy tường tận. Nay,
chúng con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y
Tăng. Kính xin Ngài nhận chúng con làm đệ tử
cư sĩ; từ bây giờ cho đến mạng chung, chúng
con xin trọn đời quy ngưỡng.
*
Tham khảo:
1) "Kinh Kalama", bản
dịch Việt ngữ của Hòa thượng Thích Thiện
Châu.
2) "Kinh Kalama" (Tăng chi bộ), bản dịch
Việt ngữ của Hòa thượng Thích Minh Châu.
3) "The Instruction to the Kalamas", bản
dịch Anh ngữ của Bhikkhu Soma.
4) "To the Kalamas", bản dịch Anh ngữ
của Bhik-khu Bodhi.
-9-
Về bài kinh Quán Niệm
Bài đọc trong diễn đàn
Tìm Hiểu Kinh Điển Pali, Paltalk, tháng
8-2006
*
K ính
thưa quý chư tôn đức Tăng Ni và quý anh chị
đạo hữu,
Mấy tháng trước, chúng
tôi được thông báo là sẽ có một chương trình
giảng bài kinh Satipatthana trong diễn đàn
Tìm Hiểu Kinh Điển Pali, thuộc chương trình
trực tuyến Paltalk, trong nhiều tuần lễ.
Chúng tôi rất hoan hỷ và tán thán đề xuất đó.
Khi được đề nghị có một
bài đọc nhân buổi khai mạc thời giảng kinh
này, chúng tôi rất ngần ngại, vì với kiến
thức hạn hẹp, chúng tôi hầu như rất ít khi
viết hay thuyết trình về một bài kinh nào
của Đức Phật, mà chỉ chuyên tâm dịch các bài
Anh ngữ của các vị cao tăng thạc đức, hay
chỉ soạn ra các bài viết ngắn, trong đó có
trích lục các đoạn kinh trong nguồn kinh
tạng Pali.
Tuy nhiên, để đánh dấu
ngày đầu tiên của thời giảng bài kinh
Satipatthana, cũng như để đóng góp, chia sẻ
những gì mình đã học tập, chúng tôi xin mạn
phép được trình bày vài ý kiến thô thiển,
vài câu hỏi gợi ý, vài điểm quan trọng mà
chúng tôi thường suy gẫm, có liên quan đến
bài kinh và sự tu học của chính bản thân
mình.
*
Trước hết, bài kinh
Satipatthana là một bài giảng chi tiết của
Đức Phật, mà người Phật tử chúng ta cần phải
học tập. Có người cho rằng đây là bài kinh
quan trọng nhất, nhưng chúng tôi tránh dùng
chữ "nhất" ở đây. Bài kinh nào của
Đức Phật cũng đều quan trọng như nhau. Trong
suốt 45 năm hoằng hóa độ sinh, Ngài đã để
lại các bài giảng quý báu cho từng căn cơ,
từng nhân duyên, từng hoàn cảnh. Mỗi bài
giảng là đặc biệt cho một loại thính chúng
nào đó để hóa độ họ. Tùy theo căn duyên của
mỗi cá nhân, lời giảng của Đức Phật có những
tác động khác nhau. Và cũng tùy theo thời
điểm trên con đường tu học, có khi chúng ta
có cảm nhận sâu xa về bài kinh này, và có
khi chúng ta cảm thấy gần gủi với lời dạy
của Ngài trong bài kinh khác. Cho nên, chúng
ta không thể cho rằng bài kinh này lại quan
trọng hơn bài kinh kia. Thêm nữa, qua nhận
xét của chúng tôi, đã có một số người vì lý
do này hay lý do khác, có vẻ quá tôn sùng
một bài kinh, cho rằng đó là quan trọng
nhất, chỉ cần học một bài kinh đó thôi là
đủ, không cần học thêm các bài kinh khác.
Chúng tôi e rằng đó là một thái độ cực đoan,
chủ quan, cố chấp, không lợi lạc trong quá
trình tu học của chúng ta.
Trong Tam Tạng, Đức Phật
đề cập rất nhiều về Chánh Niệm và pháp Quán
Niệm, được ghi lại trong nhiều bài kinh, thí
dụ như các bài kinh trong Tương ưng Niệm Xứ
của Tương ưng bộ. Tuy nhiên, có hai bài kinh
thường được nhiều người biết đến, nhất là
trong giới thiền sinh: đó là Satipatthana
Sutta – Kinh Quán Niệm, bài kinh số 10
trong Trung Bộ, và Maha Satipatthana
Sutta – Đại Kinh Quán Niệm, bài kinh số
22 trong Trường bộ. Hai bài kinh này có nội
dung giống nhau, chỉ khác ở chỗ bài kinh
trong Trường bộ thì dài hơn, vì có thêm phần
triển khai về Tứ Diệu Đế.
Ở đây, chúng tôi xin ghi
nhận có vài cách để dịch tựa bài kinh. Thứ
nhất, chúng ta hiểu như thế nào về chữ
"Maha" (Đại) trong tựa kinh "Maha
Satipatthana Sutta"? Nó bổ nghĩa cho chữ
Kinh hay chữ Niệm? Dịch là "Đại Kinh Niệm
Xứ" hay "Kinh Đại Niệm Xứ"? Theo chúng tôi,
chữ Maha ở đây là để phân biệt bài
kinh dài hay ngắn, do đó, tựa đề của 2 bài
kinh có thể dịch là "Kinh Niệm Xứ"
trong Trung Bộ, và "Đại Kinh Niệm Xứ"
trong Trường Bộ. Điều này cũng được các dịch
giả Âu Mỹ dùng khi họ dịch sang Anh ngữ (Long
Discourse on Mindfulness và Short
Discourse on Mindfulness).
Thứ hai, Satipatthana
được dịch như thế nào? Quan niệm thông
thường dịch là Niệm Xứ hay Nền
Tảng Của Niệm, như là kết hợp của chữ
Sati và Pat-thana. Nhưng cũng có
dịch giả, như ngài Tỳ khưu Bodhi, không đồng
quan điểm, mà cho rằng nên dịch là Sự
Thiết Lập Niệm (Establishment of
Mindfulness) – như là kết hợp của chữ
Sati và Upatthana, và như thế,
tựa đề sẽ là Kinh Lập Niệm và Đại
Kinh Lập Niệm. Tỳ khưu Soma trong quyển
Con Đường Chánh Niệm (The Way of
Mindfulness), dịch là Bài Giảng Về Sự
Khơi Dậy Niệm, hay Thẩm Thấu Niệm
(the Dis-course on the Arousing of
Mindfulness, the Discourse on Penetrating
Mindfulness).
Và quan trọng hơn, chúng
ta hiểu như thế nào về chữ Niệm? Theo cách
chiết tự chữ Hán, chữ Niệm là kết hợp của
chữ Tâm và chữ Kim (hiện tại), nghĩa là "tâm
trong hiện tại". Ngày nay, trong rừng kinh
sách phát triển về sau này, nhất là trong
truyền thống Thiền tông Trung Hoa, chữ Niệm
có lẽ là một chữ đã mang nhiều màu sắc,
nhiều ý nghĩa khác nhau, và từ đó, tạo nhiều
tranh luận vì không cùng thống nhất về ý
nghĩa của chữ Niệm - Sati.
*
Bài kinh được Đức Phật
giảng cho người dân Kuru ở thị trấn
Kamasadamma, bây giờ là vùng Đông Kailash
thuộc thành phố Delhi, thủ đô của Ấn Độ. Nếu
quý vị có dịp đi hành hương Ấn Độ và ghé vào
thủ đô Delhi, chúng tôi đề nghị quý vị thu
xếp thì giờ để đến viếng nơi Đức Phật giảng
bài kinh Satipatthana này, ngày nay chỉ còn
là một ngọn đồi nhỏ trong vùng Đông Kailash,
với những tảng đá to, có ghi khắc lại sự
kiện lịch sử đó.
Theo Chú giải, Đức Phật
giảng bài kinh Quán Niệm cho thính chúng xứ
Kuru, gồm đầy đủ bốn thành phần: tỳ khưu, tỳ
khưu ni, nam cư sĩ và nữ cư sĩ. Các vị nầy
sống an vui, thân thể khỏe mạnh, tâm trí
tươi sáng, sống trong chánh pháp, lúc nào
cũng có thực hành quán niệm ngay cả trong
các hoạt động hằng ngày. Vì vậy, nhận thấy
nhân duyên đã tròn đủ, Đức Phật mới thuyết
giảng bài kinh nầy với ý nghĩa thâm sâu, để
giúp họ đi vào dòng thánh giác ngộ giải
thoát. Có lẽ vì vậy, các vị ấy có thể thu
nhận dễ dàng những gì Ngài truyền dạy.
Về phần chúng ta, sau 25
thế kỷ từ khi Phật Pháp được quảng bá, chúng
ta vẫn còn ngồi đây, luân lưu trong cõi Ta
bà này, không biết chúng ta đã có đầy đủ
phước duyên để dễ dàng thông hiểu bài kinh
như thính chúng xứ Kuru hay không? Thêm vào
đó, ngữ văn Pali ngày nay là một cổ ngữ,
không còn ai sử dụng, mà đa số chúng ta lại
không am tường rõ ràng loại ngữ văn đó. Vì
thế, đương nhiên là ngày nay, chúng ta thấy
nhiều cách diễn giải về bài kinh. Trong bài
kinh, nhiều cụm từ và thành ngữ Pali có thể
được được chuyển dịch theo những ý nghĩa
khác nhau, theo những quan kiến khác nhau,
mà chắc rằng Đại đức giảng sư sẽ trình bày
chi tiết để chúng ta được thông hiểu tường
tận hơn.
Ở đây, chúng tôi chỉ xin
chia sẻ thêm một kinh nghiệm nhỏ, là khi
chúng ta học kinh và nghe hoặc đọc những
giải thích khác nhau, từ các bản Chú giải
hay Phụ Chú giải – hoặc từ các bài giảng
luận của các tác giả đương đại, đương nhiên
là chúng ta có một thái độ kính quý nhưng
chúng ta cũng không nên vội cả tin, và nhất
là không nên quá chấp chặt vào một kiến giải
nào cả, dù rằng đó là từ một vị cao tăng
thạc đức. Chúng ta cần có một thái độ cởi
mở, bao dung nhưng độc lập, kính trọng nhưng
không nô lệ, đón nhận các ý kiến khác nhau,
tự mình suy tư và thành tâm áp dụng vào đời
sống hằng ngày, và tự rút tỉa những nhận
định cho riêng mình, cho đời sống tu tập của
chính mình. Chúng ta nên thẳng thắn và thành
thật với chính mình: rằng mình chỉ là một
phàm nhân còn nhiều vô minh, cho nên, những
gì mình hiểu, mình biết, những kết luận mà
mình tự tìm ra được hay qua giảng giải của
người khác, tất cả chỉ là những tri thức tạm
bợ, nhất thời, có thể còn thay đổi, chuyển
hóa theo thời gian, trong tiến trình tu học
của mình.
Thêm vào đó, theo kinh
nghiệm cá nhân, chúng ta cũng nên tra cứu
các bài kinh tương đương, ghi lại trong các
bộ kinh A-hàm của Hán tạng. Các bài kinh
A-hàm đã được lược dịch sang Hán ngữ từ các
nguồn Phạn ngữ của nhiều tông phái khác
nhau, cho nên, đôi khi, lời văn có vẻ cô
đọng hơn, và ngày nay đã được chuyển dịch
sang tiếng Việt. Nếu chúng ta tìm đọc và so
sánh các bài kinh từ nguồn Pali tạng lẫn Hán
tạng, ý nghĩa của các đoạn kinh liên quan có
thể sẽ trở nên rõ ràng hơn. Trong trường hợp
bài kinh Satipatthana Sutta, trong Hán tạng
có 2 bài kinh tương đương là: (i) Kinh Niệm
Xứ (Trung A-hàm, kinh 98); và (ii) Kinh Nhất
Nhập Đạo (Tăng Nhất A-hàm, chương XII), mà
chúng ta cũng nên tìm đọc và so sánh.
*
Chúng ta học bài kinh này
như thế nào? Theo thiển ý, đầu tiên, chúng
tôi đề nghị ta nên tìm đọc toàn bộ bài kinh,
đọc bằng bản dịch tiếng Việt hay đọc bản
tiếng Anh, hay cả hai. Đây là bài kinh nổi
tiếng nên đã có nhiều bản dịch, đăng trong
các trang web Phật giáo trên Internet. Theo
kinh nghiệm riêng, cho một người sinh sống
trong môi trường Tây phương và phải sử dụng
tiếng Anh hằng ngày, chúng tôi phải thành
thật nói rằng, nhiều khi, đọc bản dịch tiếng
Anh thì lại thấy dễ hiểu hơn bản tiếng Việt,
nhất là nếu bản tiếng Việt dùng quá nhiều từ
ngữ Hán Việt cổ xưa. Đọc chậm rãi, đọc to
thành tiếng hơn là đọc thầm trong miệng, vì
theo thiển ý, khi ta đọc to thành tiếng, lời
kinh dễ thâm nhập vào tâm thức hơn. Trong
giai đoạn sơ khởi nầy, có thể chúng ta chưa
hiểu hết toàn thể ý nghĩa của bài kinh,
nhưng ít ra, khi chúng ta đọc toàn bộ bài
kinh, chúng ta cũng có một ý niệm khái quát
về các lời Phật dạy trong bài kinh đó.
Trong những buổi giảng
tiếp theo, chúng ta cũng nên làm như thế.
Trước buổi giảng chừng 15-20 phút, chúng ta
nên tự đọc lại toàn bộ bài kinh, đọc từ từ,
chậm rãi, thong thả, để điều hướng tâm ta về
bài kinh sắp được giảng.
Trong khi nghe giảng, nên
có một cuốn sổ tay hay một tập giấy để ghi
chú. Chúng ta không cần phải ghi chép tất cả
những gì đang giảng, nhưng chỉ đánh dấu, ghi
nhanh vài chữ chính, có liên hệ đến các điểm
quan trọng khi nghe giảng: điểm nào đáng lưu
ý, điểm nào ta không đồng ý với giảng sư,
điểm nào nghe không rõ, điểm nào còn thắc
mắc nghi ngờ. Đến phần tham vấn sau bài
giảng, ta có thể khai triển các điểm đó với
giảng sư, để soi sáng thêm, hoặc để đóng góp
cho không khí sinh hoạt của diễn đàn.
Sau giờ giảng, chúng ta
nên tự suy tư, những gì đã nghe, đã theo dõi
trong một giờ qua, xem có lợi lạc gì cho
mình, giúp ích được gì cho sự tu tập của
mình. Nên thẳng thắng và thành thật hỏi lòng
mình và tự trả lời. Có thể ta chưa tìm được
câu trả lời, có thể các ý tưởng còn lộn xộn
trong đầu, nhưng ít ra, khi ta tự đặt câu
hỏi như thế, ta hướng tâm ý ta vào con đường
để tìm một lời giải thích thỏa đáng. Không
nên tiếp tục ngồi nghe Paltalk bằng cách vội
vàng chạy vào các diễn đàn khác như thể một
hình thức chạy show, lãng phí thì giờ đã
theo dõi bài giảng. Hãy dừng lại, đứng lên,
rời bỏ máy vi tính, đi pha một tách trà, một
ly nước, uống chậm rãi, rồi ra sau vườn, hay
đi bộ loanh quanh, hay vào một phòng riêng,
ngồi tĩnh tâm, suy gẫm về những gì vừa được
nghe giảng.
*
Trong bài kinh, Đức Phật
giảng về cách sửa soạn tâm ý trước khi áp
dụng pháp quán niệm. Chúng ta có thật lòng
thực hành các bước sửa soạn đó không? Trong
mỗi pháp quán niệm, ta cần quán với thái độ
như thế nào? Làm sao để tập luyện được như
thế? Chúng ta có thử tạm gát bỏ mọi chuyện
đời, tìm một nơi thanh vắng, hay sửa soạn
một phòng riêng, một góc riêng, dành một ít
thì giờ mỗi ngày, để tập quán niệm không?
Hiểu là một chuyện, thực hành lại là một
chuyện khác. Chúng ta dành thì giờ để nghe
giảng, tìm hiểu bài kinh này để làm gì? Để
gia tăng kho tàng tri thức của mình, để bàn
luận suông, khoe khoang, chỉ dạy, tranh cãi
với người khác, hay là để tập áp dụng, thực
hành trong đời sống hằng ngày của mình? Và
áp dụng như thế nào khi sáu căn tiếp xúc
liên tục với sáu trần, và làm sao để giữ
chánh niệm trước những đổi thay liên tục
quay cuồng trong đời sống?
Trong bài kinh, Đức Phật
đưa ra 21 đề mục với chi tiết rõ ràng để
chúng ta tập quán niệm. Chúng ta cần tìm
hiểu và ghi nhận đầy đủ; rồi tùy thời, tùy
duyên, tùy hoàn cảnh mà đem ra áp dụng. Các
đề mục nầy được Ngài tập hợp lại trong 4
nhóm tổng quát: thân, thọ, tâm, pháp, và
thường được Ngài giảng tóm tắt trong các bài
kinh khác. Ở đây, đối với người Phật tử Việt
Nam, vốn được nghe và đọc nhiều kinh sách từ
cả hai nguồn Bắc truyền và Nam truyền, có lẽ
chúng ta thường nghe nhiều người nói câu:
"Quán tứ niệm xứ là quán thân bất tịnh, quán
thọ thị khổ, quán pháp vô thường, quán tâm
vô ngã". Câu này được người ta nói đi
nói lại nhiều lần, máy móc như thể một câu
thiệu. Sau khi nghe loạt bài giảng về kinh
Satipatthana này, chúng ta cũng nên tự hỏi:
- Câu thiệu đó, tuy nghe có vẻ đơn giản và
ngắn gọn, có còn đúng không? Có ích lợi gì
không? Có tóm tắt được ý nghĩa của bài kinh
không? Hay đó chỉ là một cách nói suông, dựa
theo lời bàn luận trong Chú giải, để giúp
đối trị bản tính tham lam, sân hận, si mê
của một vài hạng thiền sinh mà thôi?
Sau khi giải thích tỉ mỉ
từng đề mục, Đức Phật khuyên chúng ta phải
quán sát, theo dõi, ghi nhận sự sinh khởi,
hay ghi nhận sự tàn diệt, hay ghi nhận sự
sinh và diệt của đề mục. Từ đó, khởi lên trí
tuệ, để thấy tính vô thường và vô ngã của
nó, và rồi, khi phước duyên tròn đủ, sẽ
không còn tham ái, chấp thủ vào đó. Đây là
mục đích chính của Chánh Niệm, một chi phần
của Con Đường Tám Chánh mà Đức Phật đã
truyền giảng.
Nói đến Con Đường Tám
Chánh, thỉnh thoảng, trong khi tìm hiểu về
bài kinh, chúng ta cũng nên dừng lại, và tự
hỏi: - Bài kinh này, với những đề mục và
phương cách quán niệm ghi lại trong đó, giúp
chúng ta được gì trong công phu thực hành
Bát Chánh Đạo, trong đó, Chánh Niệm chỉ là
một chi phần, và làm thế nào để phát triển
bảy chi phần kia? Tác động hỗ tương giữa
Chánh Niệm và bảy chi phần đó là như thế
nào? Suy diễn, quy nạp các lý luận tuy cần
thiết nhưng vẫn chưa đủ, mà chúng ta cần
phải tự dấn thân, tự thực nghiệm trong đời
sống của mình. Có người cho rằng chỉ cần tu
quán niệm là đủ rồi, điều đó có đúng không?
Hay là chúng ta dùng Chánh Niệm như là một
nền tảng vững chắc để phát triển các chi
phần kia? Trong phần cuối của bài kinh, Đức
Phật có đề cập đến Bát Chánh Đạo, và như
thế, vai trò của bài kinh nầy là gì trong sự
hành trì Con Đường Tám Chánh đó? Con
Đường Tám Chánh này là con đường duy nhất
để đưa đến giác ngộ giải thoát, là con
đường mà các Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác đều
đi qua trong các thời kỳ trước. Đức Phật của
chúng ta cũng đã đi theo Con Đường Tám Chánh
ấy, và Ngài truyền giảng con đường này trong
suốt 45 năm hoằng đạo, như đã ghi lại trong
rất nhiều bài kinh, từ ngay trong bài giảng
đầu tiên sau khi thành đạo và trong bài
giảng cuối cùng trước khi nhập diệt.
Đã có nhiều sách, nhiều
tài liệu, nhiều bài giảng luận của các vị
cao tăng thiền sư mà chúng ta có thể tham
khảo để tìm hiểu thêm, trong đó có nhiều
điểm tương đồng mà cũng có những điểm bất
đồng, và chắc chắn chúng ta cũng sẽ được
nghe giảng giải chi tiết trong các buổi học
sắp tới. Nhưng cuối cùng rồi, chính mỗi
người chúng ta phải tự nhận định, để có một
chọn lựa thích hợp cho sự tu tập của chính
mình.
*
Ở
đây, chúng tôi chỉ đưa ra những câu hỏi mà
không đưa ra câu trả lời, vì đây chỉ là các
câu hỏi gợi ý, để chúng ta cùng suy gẫm,
trong tiến trình học tập bài kinh, sau khi
nghe các vị pháp sư giảng giải, và sau khi
đem ra áp dụng trong đời sống hằng ngày của
mình. Chúng tôi chỉ là phàm nhân cư sĩ, còn
đang tu tập, còn nhiều vô minh, thì những
câu trả lời của chúng tôi, nếu có, cũng chỉ
là tạm bợ, nhất thời mà thôi, và vì thế,
không cần thiết ở đây.
Trước khi dứt lời, một
lần nữa, chúng tôi rất hoan hỷ và xin tán
thán công đức của Đại đức giảng sư với tâm
từ bi, đã bỏ nhiều thì giờ và công sức soạn
thảo giáo trình mà Sư sẽ thuyết giảng trong
thời gian tới, chắc chắn sẽ đem nhiều lợi
lạc cho toàn thể thính chúng trong diễn đàn
này. Chúng tôi xin cầu chúc Sư được nhiều
sức khỏe, và xin chúc toàn thể quý vị thính
giả mọi điều tốt lành, học và hành đầy đủ,
với nhiều thuận duyên trên con đường tu tập
đưa đến giác ngộ giải thoát, chứng đạt Niết
Bàn.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca
Mâu Ni Phật
Bình Anson
Tây Úc, Tháng 8-2006
-10-
Sống tỉnh giác từng ngày
1. Sống tỉnh giác từng
ngày
"Mùa mưa ta ở đây..." (Pháp
Cú, 286)
Ðó là lời của Ðức Phật
dạy cho ông Ðại Phú (Mahadhana), một vị
thương gia, khi Ngài ngụ tại tinh xá Kỳ Viên.
Một ngày nọ, vị thương
gia nầy dùng 500 xe bò, chất đầy vải vóc với
nhiều màu nhuộm tươi đẹp, lên đường từ thành
Ba-na-lại đến các vùng xa để buôn bán. Khi
đến thành Xá-vệ, ông ta gặp một sông lớn.
Ông suy nghĩ: "Ngày mai ta sẽ qua sông", rồi
dừng xe lại, cởi ách cho các con bò, và nghỉ
qua đêm tại bờ sông. Trong đêm đó, một trận
bão kéo đến với mưa tầm tả cả đêm. Qua bảy
ngày kế tiếp, nước sông dâng cao, tạo lụt
lớn, và người dân trong vùng đều phải đình
chỉ mọi sự buôn bán, đi lại. Kết quả là vị
thương gia đó không thể bán các kiện hàng
vải của ông. Vì thế, ông ta nghĩ rằng: "Ta
đã trải qua một quảng đường dài, nếu ta quay
về thì lại bị trễ nải. Chi bằng ta cứ ở đây
qua mùa mưa, qua mùa xuân và mùa hạ, tiếp
tục các công việc giao dịch và cố gắng bán
cho hết các loại hàng nầy..."
Khi Ðức Phật đi trì bình
khất thực trong thành phố, Ngài biết được ý
định của vị thương gia đó và Ngài mỉm cười.
Thấy thế, Ðại đức A-nan hỏi Phật vì sao Ngài
cười. Ðức Thế Tôn đáp: "Này A-nan, thầy có
biết ông Ðại Phú đó không?"
"Dạ có, bạch Thế Tôn."
"Không biết rằng mạng
sống của mình đã gần hết, ông ta vừa quyết
định sẽ ở lại đây cả năm để bán hết các kiện
hàng của ông ấy."
"Thật vậy sao, bạch Thế
Tôn?"
"Ðúng thế, này A-nan. Ông
ta chỉ sống thêm được bảy ngày nữa, và nếu
không khéo, ông ta sẽ bị các loài cá ăn
thịt." Nói xong, Thế Tôn thốt lên bài kệ:
"Hãy tinh tấn thi
hành
việc cần làm hôm nay.
Có ai biết chắc chắn
cái chết đến lúc nào?
Có ai chống lại được
mệnh lệnh của thần Chết?
An lạc thay cho người
ngày và đêm tinh tấn
sống tỉnh giác từng ngày!"
"Bạch Thế Tôn, con sẽ đến
nói cho ông ấy biết," ngài A-nan thưa với
Phật.
"A-nan, thầy cứ việc đi,"
Ðức Phật đáp.
Ðại đức A-nan đi khất
thực đến nơi ông Ðại Phú trú ngụ với đoàn xe
buôn của ông. Ông ta kính cẩn dâng vật thực
đến ngài. Sau đó, Ðại đức nói với vị thương
gia: "Ông định ngụ lại đây trong bao lâu?"
"Bạch Ðại đức, con đã
trải qua một quảng đường dài, nếu con quay
về thì lại bị trễ nải. Cho nên con sẽ ở đây
trọn năm, cho đến khi nào bán hết vải thì
con mới ra đi."
"Này quý cư sĩ, mặc dù
mạng sống đã gần hết mà ít ai lại biết được!
Ông nên tinh tấn!"
"Bạch Ðại đức, tại sao
thế? Có phải đời sống của con đã gần mãn?"
"Ðúng vậy, quý cư sĩ.
Mạng sống của ông chỉ kéo dài bảy ngày nữa
thôi."
Ông Ðại Phú rất bàng
hoàng và xúc động. Sau khi bình tâm trở lại,
ông thỉnh mời Ðức Phật và Tăng đoàn đến nơi
ông ngụ để thọ trai. Trong bảy ngày kế tiếp,
ông cúng dường vật thực đến chư Tăng, và
trong ngày thứ bảy, ông xin phép được rửa
bát của Đức Phật và xin Ngài chúc phúc.
Trong khi chúc phúc, Ðức Thế Tôn giảng thêm:
"Này quý vị tu sĩ và cư
sĩ, một người hiền trí không bao giờ nên
nghĩ rằng: ‘Tôi sẽ ở lại đây trong suốt mùa
mưa. Tôi sẽ làm việc này, việc kia.’ Trái
lại, người ấy lúc nào cũng nên sống tỉnh
giác từng giây khắc và luôn luôn quán chiếu
về cái chết của mình như thể mình chỉ sống
thêm được một đêm nữa thôi." Sau đó, Ngài
thốt lên các câu kệ dưới đây, về sau được
ghi lại trong kinh Pháp Cú (kệ 286-289):
Mùa mưa ta ở đây,
đông, hạ cũng ở đây,
người ngu tâm tưởng vậy,
không tự giác hiểm nguy.
Người tâm ý đắm say
con cái và súc vật,
tử thần bắt người ấy,
như lụt trôi hàng ngủ.
Một khi tử thần đến,
không có con che chở,
không cha, không bà con,
không thân thích che chở.
Biết rõ ý nghĩa này,
bậc trí lo trì giới,
mau lẹ làm thanh tịnh,
con đường đến Niết-Bàn. (Pháp Cú,
286-289)
Sau khi nghe xong bài
giảng, vị thương gia tỉnh ngộ, thành tâm xin
quy y Tam Bảo và đắc quả Dự lưu, các tu sĩ
trong đoàn cũng đạt được thắng trí.
Sau đó, ông Ðại Phú đưa
tiễn Ðức Phật về tinh xá. Khi quay trở lại
nơi trú ngụ của mình, ông nói: "Tôi cảm thấy
nhức đầu, thân thể mệt mỏi!", và nằm xuống
giường để nghỉ. Vừa nằm xuống thì ông chết,
và được tái sinh vào cõi trời Ðâu-suất.
*
2. Ðoạn diệt để giải
thoát
Trong 45 năm thuyết pháp
độ sinh, Ðức Phật đã giảng dạy và hóa độ cho
rất nhiều người thuộc nhiều thành phần, căn
cơ và nguồn gốc khác nhau. Tùy cơ duyên mà
Ngài sử dụng những phương cách giảng trạch
khác nhau để khai mở trí tuệ cho hàng đệ tử.
Có khi Ngài dùng lời dịu dàng để khuyên răn
những người đang bị hoạn khổ. Có khi Ngài
dùng các lý luận sắc bén để thuyết phục
người tài trí. Cũng có khi Ngài dùng các ẩn
dụ mạnh mẻ gây sửng sốt, để khích động sự tu
tập quán chiếu, khai mở trí tuệ giải thoát
tri kiến.
Một ngày nọ có một nhóm
các thầy Tỳ khưu từ phương xa đến đãnh lễ
Phật. Trong dịp đó, Ngài dạy rằng:
"Sau khi giết cha mẹ
rồi,
Giết hai vua nọ, hết đời hiếu tranh.
Chém tên quốc khố đại thần,
Diệt luôn lãnh thổ, quan quân tùy tùng.
Ðược rồi quốc độ mênh mông,
Bậc Vô Ưu sống thong dong bốn mùa."
và:
"Mẹ cha đã giết, đã
chôn
Và hai vua Bà-La-Môn, chém ngành.
Ðoạn viên hổ tướng thứ năm,
Bậc Vô Ưu sống cõi hằng vô sinh."
Ðó là hai câu kệ số 294
và 295 ghi trong Kinh Pháp Cú (Dhammapada),
do Tỳ khưu Giới Ðức chuyển dịch sang Việt
ngữ (Kinh Lời Vàng, Nxb Thuận Hóa, 1995).
Hòa thượng Minh Châu (Kinh Pháp Cú, Tiểu bộ)
dịch bằng hai câu kệ năm chữ như sau:
Hãy giết cha, giết mẹ
Giết hai vua Sát-Lỵ
Giết vương quốc quần thần
Bà-la-môn như vậy,
Vô ưu sống thoải mái
Hãy giết cha, giết mẹ
Giết hai vua Bà-Môn
Giết hổ tướng thứ năm
Bà-La-Môn như vậy,
Vô ưu sống thoải mái.
Hòa thượng Thiện Siêu (Kinh
Pháp Cú, Thiền viện Vạn Hạnh, 1995) dịch ra
văn xuôi từ bản dịch Hán tự:
"Hãy diệt mẹ và cha, diệt
hai vua dòng Sát-Ðế-Lợi, diệt vương quốc
luôn cả quần thần, mà hướng về Bà-La-Môn vô
ưu."
"Hãy diệt mẹ và cha, diệt
hai vua dòng Bà-La-Môn, diệt luôn hổ tướng
'nghi' thứ năm, mà hướng về Bà-La-Môn vô
ưu."
Kinh Pháp Cú còn được
dịch sang Anh ngữ bởi nhiều tác giả khác
nhau, chẳng hạn như Hòa thượng Narada (The
Dhammapada, Buddha Educational Foundation,
Taiwan, 1995) và Tỳ khưu Khantipalo (The
Path of Truth, Mahamakut Press, Bangkok,
1977). Theo bản dịch của ngài Khantipalo:
"One's mother and
father having slain
and then two warrior kings,
a realm and its treasurer having slain,
one goes immune, a Brahmana"
"One's mother and
father having slain
and then two learned kings,
the fifth, a tiger having slain,
one goes immune, a Brahmana"
Thật khó mà hiểu rõ được
ý nghĩa của các câu kệ nầy nếu chúng ta
không đọc bản Chú Giải ghi chép lại trong
kinh tạng Pali. Theo Tỳ khưu Khantipalo và
Hòa thượng Narada, ý nghĩa của các câu kệ đó
như sau:
"... Mẹ là ẩn dụ cho
lòng tham ái, và cha là ẩn dụ của
ngã mạn. Chính vì tham ái và ngã mạn
mà ta phải tái sinh nhiều đời, nhiều kiếp
trong cõi Ta bà luân hồi này. Hai vị vua,
luôn luôn thống trị tâm tư duy của chúng ta,
chính là hai biên kiến của vô minh:
thường kiến và đoạn kiến,
thường tạo ra nhiều tranh cãi hý luận vô ích,
cần phải được phá bỏ. Vương quốc lãnh thổ
kia chính là thân xác nầy, gồm sáu căn
(mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) luôn luôn
giao tiếp với sáu trần (sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp). Vị quốc khố đại thần
là để chỉ lòng tham đắm dục lạc phát
sinh và chất chứa từ sáu căn đó. Sau cùng,
hổ tướng thứ năm chính là con quỷ thứ năm
làm cản trở sự định tâm, khai phát tuệ minh.
Ðó là sự hoài nghi, là yếu tố thứ năm
trong nhóm năm triền cái: tham dục, sân hận,
hôn trầm, trạo cử, và hoài nghi. Sau khi đã
đoạn diệt tất cả các chướng ngại nầy thì
hành giả mới thong dong, tự tại, đi đến giải
thoát giác ngộ ..."
T heo
lời giải thích trong Chú Giải, sau khi lãnh
hội và quán triệt được ý nghĩa thâm sâu của
hai câu kệ trên, các vị Tỳ khưu ấy đắc quả
A-la-hán. |
|