Dưới đây là vài ghi chú khi đọc tài
liệu kinh điển, bao gồm vài thắc mắc
thông thường của người học kinh Phật.
Các ghi chú này có thể còn nhiều thiếu
sót, và chúng tôi sẽ chỉnh sửa, cập nhật,
bổ sung theo thời gian.
*
1. Có 31 hay 32 phần cơ thể?
Ở đây, câu hỏi là: - Khi đề cập đến quán
thân, có 31 hay 32 phần trong thân thể? Câu
trả lời là tùy theo quan niệm về "não" (hay
"óc") có được liệt kê hay không.
(1) Trong quyển Đại Niệm Xứ, ngài Thiền
sư Silananda dịch đoạn kinh Đại Niệm Xứ (Maha
Satipatthana Sutta, Trường Bộ 22, Tỳ
khưu Khánh Hỷ dịch Việt):
"Lại nữa, này các thầy tỳ khưu, tỳ khưu
quán sát trên cơ thể này từ gót chân trở lên
và từ đỉnh tóc trở xuống bao bọc bởi da và
đầy các loại bất tịnh khác nhau. Trong cơ
thể này có:
- Tóc, lông, móng, răng, da (5)
- Thịt, gân, xương, tủy, thận (5)
- Tim, gan, ruột, lá lách, phổi (5)
- Phèo, bao tử, thực phẩm chưa tiêu,
phẩn, óc (5)
- Mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ (6)
- Nước mắt, nước mỡ (huyết tương), nước
miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước
tiểu. (6)"
Như vậy, tổng cộng là 32 phần. Nhưng sau
đó, ngài cũng có đề cập là:
... Cần ghi nhận ở đây là trong nhiều bản
kinh khi nói đến các bộ phận của cơ thể
không đề cập đến "óc" hay "não" nhưng Chú
Giải cho rằng óc hay não được nói đến trong
Patisambhidamagga. Như vậy kinh nào không đề
cập đến não thì ta nên hiểu là não đã được
bao gồm trong "tủy".
(2) Giải thích trên cũng phù hợp với bản
Anh ngữ của bài kinh, do Hội Burma Tipitaka
Association dịch từ bản Pāli-Miến Điện và ấn
tống năm 1984 (Ten Suttas from Digha Nikaya
- Long Discourses of the Buddha). Trong bản
Anh ngữ này, chỉ liệt kê 31 phần, còn "não"
(brain) thì được in ra trong dấu ngoặc, với
ghi chú là "não" không được ghi trong bản
Pāli của bài kinh, nhưng được đề cập đến
trong bộ Patisambhida-magga (Vô ngại giải
đạo).
(3) Trong Thanh Tịnh Đạo, chương VIII.44
về pháp Niệm Thân, Luận sư Buddhaghosa liệt
kê 31 phần, và giải thích rằng "não" được
bao gồm trong "tủy". Có lẽ Thiền sư
Silananda dựa vào đoạn này để có lời giải
thích nêu trên. Theo bản dịch của Ni sư Trí
Hải:
"... Trong thân này, đây là tóc, lông,
móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy,
tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi,
ruột, màng ruột, phân, mật, đàm, niêm dịch,
mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước
miếng, nước mũi, nước ở khớp xương, nước
tiểu. Não được bao gồm trong tủy, nên đây ta
chỉ thấy có 31 vật."
Cũng xin ghi nhận ở đây là trong các đoạn
kế tiếp giảng về pháp niệm thân, Ngài
Buddhaghosa lại dùng cụm từ "32 phần", kể cả
"não", để bình luận.
(4) Các bản dịch Anh ngữ khác của Tỳ khưu
Nanamoli và Tỳ khưu Bodhi, của Tỳ khưu
Nyanasatta, của Tỳ khưu Soma, các đoạn về
niệm thân của kinh Niệm Xứ (Trung Bộ 10) và
kinh Thân Hành Niệm (Trung Bộ 119), và của
Tỳ khưu Thanissaro và Giáo sư M. Walshe về
Đại kinh Niệm Xứ (Trường Bộ 22), chỉ liệt kê
31 phần, không có phần "não".
Trong các bài kinh nêu trên, không thấy
ghi con số "31 phần" hay "32 phần", chỉ thấy
ghi liệt kê các phần của thân mà thôi.
(5) Trong tập Tiểu Tụng (Khuddakapatha),
thuộc Tiểu Bộ Kinh, có ghi 32 phần (Dvattimsakara),
trong đó "não" là phần cuối cùng:
"Trong thân này có: tóc, lông, móng,
răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim,
gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột,
màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ
hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước
mủ, chất nhờn ở khớp, nước tiểu và não trong
đầu" (bản dịch của Hòa thượng Minh Châu).
(6) Trong bộ A-hàm, bản kinh tương đương
là kinh Niệm Xứ (Trung A Hàm 98) và kinh
Niệm Thân (Trung A Hàm 81), có ghi "não",
nhưng chỉ liệt kê 29 phần:
"... Trong thân này của ta có tóc, lông,
móng, răng, da dày, da non, thịt, gân,
xương, tim, thận, gan, phổi, ruột già, ruột
non, lá lách, dạ dày, phân, não và não căn,
nước mắt, mồ hôi, nước mũi, nước miếng, mủ,
máu, mỡ, tủy, đờm dãi, nước tiểu" (bản dịch
của Thượng tọa Tuệ Sỹ).
Bài kinh Nhất Nhập Đạo (Tạp A-hàm, XII)
cũng có ghi "não" nhưng chỉ liệt kê 27 phần:
"... Lại quán thân này có lông, tóc,
móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, não,
mỡ miếng, mỡ nước, ruột, bao tử, tim, gan,
tỳ, thận đều quán biết hết, phẩn, tiểu, sanh
tạng, thục tạng, nước mắt, đờm dãi, huyết
mạch, mỡ, mật, đều nên quán biết, không có
gì đáng tham đắm. Như thế, các Tỳ khưu quán
thân tự vui thích, trừ bỏ niệm ác, không có
sầu lo" (bản dịch của Hòa thượng Thanh Từ và
Hòa thượng Thiện Siêu).
(7) Tuy nhiên, theo bản dịch Anh ngữ của
bộ Giải Thoát Đạo (Vimuttimagga, The
Path of Freedom, Tỳ khưu Ehara, Soma và
Kheminda dịch), cũng như các bản dịch Việt
ngữ của Thiện Nhựt, Thượng tọa Thích Như
Điển và Ni sư Mạn Đà La, dịch từ bản tiếng
Hán, danh sách 32 bộ phận trong thân thể có
bao gồm phần "não" giống như Thanh Tịnh Đạo,
dù rằng có khác thứ tự liệt kê.
*
2. Có 9 hay 10 hồng danh của Đức Phật?
Hằng ngày, chúng ta thường tụng niệm ân
đức Phật: "Itipi so Bhagava Araham
Sammasambuddho Vijjacaranasampanno Sugato
Lokavidu Anuttaro Purisadammasarathi
Satthadevamanussanam Bud-dho Bhagavati"
(Thật vậy, Ðức Thế Tôn có hiệu Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng
Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn ).
Câu hỏi ở đây là: - Trong câu niệm đó, có
9 hay 10 danh hiệu Phật? Câu trả lời là tùy
chúng ta có thể gộp Vô Thượng Sĩ (Anuttaro)
và Điều Ngự Trượng Phu (Purisadammasarathi)
thành một danh hiệu hay không.
(1) Trong quyển Kinh Nhựt Hành dành cho
cư sĩ, Hòa thượng Hộ Tông tách rời
Anuttaro và Purisa-dammasarathi
là 2 danh hiệu, và vì thế có 10 danh hiệu
Phật. Về sau này, các quyển kinh tụng của
chùa Kỳ Viên ở Sài Gòn cũng như quyển kinh
tụng của chùa Pháp Luân ở Hoa Kỳ có cùng
quan điểm đó.
(2) Ngài Buddhaghosa trong quyển Thanh
Tịnh Đạo giảng có thể xem Anuttaro và
Purisadamma-sarathi là 2 danh hiệu
(Chương VII.46 & 47), nhưng cũng có thể gộp
lại thành 1 danh hiệu chung là
Anuttaro-purisadammasarathi (VII.48),
với ý nghĩa "là một vị vô thượng có thể điều
phục các bậc trượng phu".
(3) Tỳ khưu Hộ Pháp, trong quyển Tìm Hiểu
Pháp Môn Niệm Phật, giải thích
Anuttaro-purisadamma-sarathi là một danh
hiệu, và dịch là "Ðức Vô Thượng giáo hóa
chúng sinh", và như thế, Ngài chỉ trình bày
9 ân đức Phật mà thôi.
(4) Trong quyển Kho Tàng Pháp Học, Chương
Chín Pháp, Tỳ khưu Giác Giới đề cập đến 9 ân
đức Phật, trong đó
Anuttaro-purisadammasarathi là "bậc Vô
thượng điều ngự trượng phu", nghĩa là bậc
đánh xe vô thượng, khéo điều phục chúng sinh
như những hạng bò ngựa, có loài thuần thục,
có loài ương ngạnh.
Tuy nhiên, tác giả cũng có chú thích rằng
về ân đức Phật, có chỗ ghi là mười hồng
danh,vì trong hồng danh Anuttaro
purisadammasarathi, nếu tách ra
Anuttaro (bậc vô thượng sĩ), và
Purisadammasarathi (bậc điều ngự trượng
phu) thì trình bày ân đức Phật có 10 hồng
danh.
(5) Hầu như tất cả các bản dịch Anh ngữ
và các bài pháp Anh ngữ của các vị học giả
mà chúng tôi có đọc qua, đều có cùng quan
điểm về 9 hồng danh Phật, nghĩa là xem
Anuttaro-purisadammasarathi là một danh
hiệu. Xin đơn cử vài thí dụ:
a- Ngài Nyanatiloka (Sri Lanka),
trong quyển Buddhist Dictionary, dịch
Anuttaro-purisadamma-sarathi là:
"Unsurpassed leader of men to be
trained" (xem mục từ Anussati).
b- Bà I. B. Horner, Hội trưởng Hội
Pāli Text Society (Anh quốc), trong bài
kinh Dantabhumi Sutta (Kinh Điều ngự
địa, Trung bộ 125 ) dịch
Anuttaro-purisadammasarathi là: "The
matchless charioteer of men to be tamed"
(xem http://www.accesstoinsight. org).
Trong bản dịch khác của bài kinh
trên, Sư cô Upalavanna (Sri Lanka) dịch
Anuttaro-purisa-dammasarathi là:
"The incomparable tamer of those to be
tamed". Giáo sư M. Walshe cũng dịch
tương tự như thế trong bài Đại kinh Bát
Niết Bàn (Trường Bộ 16).
c- Tỳ khưu Thanissaro (Hoa Kỳ), trong
bài kinh Dhajagga Sutta (Tương Ưng XI.3)
từ nguồn Pāli-Thái, dịch
Anuttaro-purisadammasarathi là: "The
un-excelled trainer of those who can be
tamed" (xem trang web:
http://www.accesstoinsight.org).
d- Hòa thượng Piyadassi (Sri Lanka),
trong quyển kinh tụng "The Book of
Protection" dịch
Anuttaro-purisadammasarathi là: "The
peerless trainer of persons".
e- Tỳ khưu Sayagyi U Kyaw Htut (Miến
Điện), trong bài pháp "The Nine
Attributes of the Buddha", chỉ đề cập
đến 9 hồng danh, dịch
Anuttaro-purisa-dammasarathi là:
"The Incomparable One in taming those
who deserved to be tamed" (xem trang
web: http://nibbana.com).
Tương tự, Tỳ khưu Aung Thein Nyunt
(Miến Điện), trong bài pháp "The Nine
Supreme Attributes of the Lord Buddha",
dịch Anuttaro-purisadamma-sarathi
là: "The peerless charioteer to tame
men" (xem trang web: http://nibbana.
com).
f- Khi dịch bộ Giải Thoát Đạo (Hán
tạng) sang Anh ngữ, quý ngài Tỳ khưu
Ehara, Soma, Kheminda gộp chung Vô
Thượng sĩ và Điều Ngự Trượng Phu, và
dịch là "The matchless guide of men to
be tamed".
g- Quan trọng nhất là trong phần cuối
của bài kinh Phân biệt Sáu xứ (Salayatana-vibhanga
sutta, Trung Bộ 137), cụm từ "Anuttaro-purisadamma-sarathi"
đã được Đức Phật nhắc đến để giảng
giải về ba đức tính chánh niệm của một
bậc Đạo sư để diễn giảng cho đồ chúng,
và nếu được như thế, vị ấy được gọi là
vị Vô thượng Ðiều ngự sư, điều
phục hạng người đáng được điều phục
(theo bản Việt dịch của Hòa thượng Minh
Châu). Trong bản Anh ngữ, Tỳ khưu Bodhi
dịch là "The incomparable leader of
persons to be tamed", và dịch giả có chú
thích đây là một trong 9 hồng danh của
Đức Phật.
(6) Xin ghi nhận ở đây là trong kinh sách
nguồn Hán Tạng, danh hiệu "Như Lai"
được thêm vào, thành ra 11 danh hiệu (Từ
điển Phật học Hán Việt, Hà Nội, 1994). Do
đó, để có 10 danh hiệu thì có sách gộp Vô
Thượng Sĩ và Ðiều Ngự Trượng Phu thành một
danh hiệu (Ðoàn Trung Còn, Tự điển Phật
học), có sách gộp Phật và Thế Tôn thành một
danh hiệu, chẳng hạn như trong bộ kinh Ðại
Bát Niết Bàn (Hán tạng), tập 1, trang 585
(Phẩm Phạm Hạnh), Hòa thượng Trí Tịnh dịch
(1996).
Trong bộ A-hàm, bài kinh tương đương với
kinh Dantabhumi Sutta là kinh Điều ngự địa
(Trung A-hàm, 198), trong đó có liệt kê các
hồng danh Phật là: "Bậc Vô Sở Trước, Đẳng
Chánh Giác, Minh Hạnh Thành Tựu, Thiện Thệ,
Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự,
Thiên Nhân Sư, Phật, Chúng Hựu" (bản dịch
của Thượng tọa Tuệ Sỹ).
*
3. Ekayano-maggo: Con đường duy
nhất?
Trong đoạn đầu của bài kinh Niệm Xứ (Sati-patthana
Sutta, Trung Bộ 10, Trường Bộ 22), chúng
ta thường đọc là:
- Đây là con đường độc nhất đưa đến thanh
tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt
trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ
Niết-bàn. Ðó là Bốn Niệm xứ (Hòa thượng Minh
Châu dịch).
Hay:
- Ðây là con đường duy nhất để thanh lọc
tâm chúng sanh, chấm dứt lo âu phiền muộn,
uất ức than khóc, diệt khổ thân và khổ tâm,
đạt Thánh Ðạo và chứng ngộ Niết Bàn. Ðó là
Tứ Niệm Xứ (Tỳ khưu Khánh Hỷ dịch).
Đây là bài kinh quan trọng, thường được
xem là bài kinh cẩm nang cho nhiều hành giả
thực hành pháp thiền Minh Quán (Vipassana
Bhavana). Các vị thiền sinh đó thường
cho rằng pháp hành của mình là "con đường
duy nhất" hay "con đường độc nhất" – nghĩa
là không có con đường nào khác – để chứng
ngộ Niết Bàn. Hiểu như thế, từ chữ "ekayano-maggo",
có đúng theo tinh thần bài kinh không?
Mặc dù có nhiều dịch giả dùng cụm từ "con
đường duy nhất, độc nhất" (the only way, the
sole way) để dịch chữ ekayano-maggo,
nhưng cũng có những dịch giả khác không đồng
ý như thế.
Giáo sư M. Walshe, dịch giả bản Anh ngữ
Trường Bộ (The Long Discourses of the
Buddha), dịch chữ ekayano-maggo là
"this one way" (đây là một con đường) trong
bài Đại Kinh Niệm Xứ (Trường Bộ 22).
Trong bản dịch đầu tiên của bài kinh Niệm
Xứ (Trung Bộ 10), Tỳ khưu Nanamoli dịch là
"a path that goes one way only" (con đường
chỉ đi theo một hướng). Tuy nhiên, trong bản
hiệu đính, Tỳ khưu Bodhi sửa lại là "the
direct path" (con đường trực tiếp, hay con
đường thẳng). Các dịch giả này đều cho rằng
nếu dịch là "the only way, the sole way"
(con đường duy nhất) thì nó có hàm ý là độc
nhất, loại trừ các con đường khác, và như
thế là không hoàn toàn chính xác (bản dịch
Trung bộ, "The Middle Length Discourses of
the Buddha").
Theo Tỳ khưu Bodhi, Chú giải Trung Bộ
bình luận rằng chữ ekayano-maggo có
thể hiểu như là con đường đơn thuần, không
có ngã rẽ; như là con đường mà hành giả phải
tiến bước một mình, không bạn bè; và như là
con đường đưa đến một mục tiêu, Niết Bàn.
Ngài chọn dịch "the direct path" (con đường
trực tiếp) với hàm ý để phân biệt
Satipatthana với pháp tu tiến qua các
tầng thiền-na (jhanas) hoặc qua tứ vô
lượng tâm (tứ phạm trú, brahmaviharas).
Mặc dù pháp tu tiến này có thể đưa đến Niết
Bàn nhưng chúng cũng có thể rẽ qua ngõ khác,
trong khi Satipatthana là đưa thẳng
đến mục đích tối hậu.
Trong quyển "Satipatthana - The Direct
Path to Realization" (Buddhist Publication
Society, Sri Lanka, 2003), Tỳ khưu Analayo
cũng có quan niệm tương tự, và dịch chữ
ekayano-maggo là "the direct path" (con
đường trực tiếp). Ngài giải thích chữ
ekayano-maggo gồm có những từ eka
(một), ayana (đi) và maggo
(đường), dịch sát nghĩa là "một con đường
đi". Truyền thống chú giải thường đề cập
đến 5 ý nghĩa của chữ này:
Con đường trực tiếp hay con đường
thẳng, là vì nó đưa thẳng đến mục tiêu;
Con đường phải đi một mình;
Con đường vạch ra bởi Một Đấng (ám
chỉ Đức Phật);
Con đường duy nhất trong Đạo Phật;
và
Con đường đưa đến một mục tiêu (đó
là Niết Bàn).
Đa số các dịch giả đều chọn cách dịch thứ
tư nêu trên, nhưng Tỳ khưu Analayo chọn cách
dịch thứ nhất.
Ngài cho rằng muốn tìm hiểu rõ ràng ý
nghĩa của một thuật ngữ Pāli, chúng ta cũng
cần xem thuật ngữ đó được dùng trong các bài
kinh khác như thế nào, để đối chiếu. Trong
Đại kinh Sư tử hống (Maha-sihanada Sutta,
Trung Bộ 12), chữ ekayano dùng để chỉ
con đường mà một người đi theo sẽ đi thẳng
xuống hố, mang ý nghĩa là "thẳng tiến, trực
tiếp", không phải là "độc nhất, duy nhất".
Trái lại, trong bài kinh Tam Minh (Tevijja
Sutta, Trường Bộ 13), khi hai người
Bà-la-môn tranh cãi về con đường nào là "con
đường duy nhất" để đưa đến sự hòa nhập với
Phạm thiên thì lại không thấy dùng chữ
ekayano. Rõ ràng hơn hết là trong câu kệ
274 của kinh Pháp Cú, ý nghĩa "con đường duy
nhất" - là Bát Chánh Đạo - đã được nói đến,
nhưng chữ ekayano lại không thấy xuất
hiện. Vì thế, Tỳ khưu Analayo cho rằng cách
dịch thứ tư của chữ ekayano (con
đường duy nhất) là không thích hợp.
Ngoài ra, Giáo sư R. Gethin (A Buddhist
Path to Awakening: A Study of the
Bodhi-Pakkhiya Dhamma, Oxford, 2001) có cùng
quan điểm dịch chữ ekayano-maggo là
con đường thẳng tiến (the direct path) trong
bài kinh Niệm Xứ, vì ông cho rằng: "... căn
bản những gì muốn nói ở đoạn này trong bài
kinh là bốn pháp quán niệm (satipatthana)
biểu trưng cho một con đường trực tiếp và
thẳng tiến đến mục đích tối hậu". Tỳ khưu
Thanissaro cũng dùng chữ "the direct path"
trong bản dịch Đại Kinh Niệm Xứ (Trường Bộ
22, xem treng web:
http://www.accesstoinsight.org) từ bản
Pāli-Thái.
Xin ghi nhận ở đây là trong bộ A-hàm
thuộc Hán tạng, hai bài kinh tương đương với
kinh Satipatthana Sutta là kinh Niệm Xứ
(kinh 98, Trung A-hàm) và kinh Nhất Nhập Đạo
(Tăng Nhất A-hàm, XII). Trong bài kinh Niệm
Xứ của bộ Trung A-hàm, đoạn kinh tương ứng
là:
"Có một con đường tịnh hóa chúng sanh,
vượt qua lo sợ, diệt trừ khổ não, chấm dứt
kêu khóc, chứng đắc Chánh pháp. Đó là Bốn
niệm xứ" (Thượng tọa Tuệ Sỹ dịch).
"Một con đường" là dịch từ chữ "nhất
đạo", hoàn toàn không có ý nghĩa "duy nhất,
độc nhất", loại trừ các con đường khác.
Đặc biệt hơn nữa, trong kinh Nhất Nhập
Đạo thuộc Tăng Nhất A-hàm, bốn niệm xứ chỉ
là một lối vào đạo, và "đạo" ở đây là Bát
Chánh Đạo:
"Có một lối vào đạo làm trong sạch hạnh
của chúng sanh, trừ bỏ sầu lo, không có các
não, được đại trí tuệ, thành tựu chứng quả
Niết-bàn. Ðó là nên diệt Ngũ cái, tư duy Tứ
ý chỉ (Tứ niệm xứ). Thế nào là một lối vào?
Nghĩa là chuyên nhất tâm. Ðó là một lối vào.
Thế nào là đạo? Nghĩa là con đường tám phẩm
của Hiền Thánh: Chánh kiến, Chánh chí (tư
duy), Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh phương
tiện (tinh tấn), Chánh ngữ, Chánh niệm,
Chánh định" (Hòa thượng Thanh Từ và Hòa
thượng Thiện Siêu dịch).
Trong bài kinh trên, không thấy đoạn nào
nói rằng tứ niệm xứ là "con đường duy nhất".
*
4. Satipatthana là Niệm Xứ hay Lập
Niệm?
Nhân đề cập đến bài kinh Satipatthana
Sutta nêu trên, chúng ta thử tìm hiểu thêm:
Satipatthana được dịch như thế nào?
Chúng ta thường thấy dịch là Niệm Xứ
hay Nền Tảng Của Niệm (Foundation of
Mindfulness). Ngay cả bài kinh tương đương
trong Trung A-hàm (Hán tạng) cũng có tên là
Kinh Niệm Xứ.
Có lẽ lối dịch nầy là dựa theo quan niệm
xem chữ Satipatthana như là kết hợp
của chữ Sati (Niệm) và Patthana
(Xứ, Nền Tảng). Nhưng cũng có nhiều dịch
giả – như các ngài Tỳ khưu Bodhi, Tỳ khưu
Analayo – không đồng quan điểm, mà cho rằng
nên dịch là Sự Thiết Lập Niệm
(Establishment of Mindfulness). Quý ngài xem
Satipattha như là kết hợp của chữ
Sati và Upatthana (thiết lập), và
như thế, tựa đề sẽ là Kinh Lập Niệm
và Đại Kinh Lập Niệm. Tỳ khưu Soma
trong quyển Con Đường Chánh Niệm (The Way of
Mindfulness), dịch là Bài Giảng Về Sự
Khơi Dậy Niệm, hay Bài Giảng Về Thẩm
Thấu Niệm (the Dis-course on the
Arousing of Mindfulness, the Discourse on
Penetrating Mindfulness).
Tuy nhiên, Tỳ khưu Thanissaro, mặc dù
nghiêng theo lối dịch dựa theo sự kết hợp
Sati và Patthana, công nhận rằng
cả hai lối dịch đều chính xác, đều phản ảnh
ý nghĩa của bài kinh.
*
5. Đại kinh hay kinh đại?
Trong kinh tạng, chúng ta thấy có các cặp
bài kinh cùng một tựa đề, chỉ khác nhau ở
chữ Maha (Đại) và Cula (Tiểu).
Thí dụ như hai bài kinh: Cula-sihanada
Sutta (Trung Bộ 11) và Maha-sihanada
Sutta (Trung Bộ 12). Chúng ta dịch hai
tựa đề đó như thế nào? Kinh Tiểu Sư Tử Hống
và Kinh Đại Sư Tử Hống? Hay là Tiểu Kinh Sư
Tử Hống và Đại Kinh Sư Tử Hống? Nếu dịch sát
nghĩa Hán Việt, Cula-sihanada Sutta
và Maha-sihanada Sutta là Tiểu Sư Tử
Hống Kinh và Đại Sư Tử Hống Kinh. Ở đây, chữ
Tiểu và Đại là bổ nghĩa cho chữ nào? Nếu
dịch là Kinh Đại Sư Tử Hống, ta sẽ hiểu như
thế nào về cụm từ "Đại Sư Tử Hống"? Là tiếng
rống lớn của con sư tử, hay là tiếng rống
của con sư tử lớn?
Vì thế, nếu chúng ta hiểu tựa đề của hai
bài kinh trên có nghĩa là bài kinh ngắn và
bài kinh dài về tiếng rống sư tử, theo thiển
ý, tựa đề hai bài đó có thể dịch là Tiểu
Kinh Sư Tử Hống và Đại Kinh Sư Tử Hống. Điều
này cũng tương đồng với tựa đề của các bản
dịch Anh ngữ của Tỳ khưu Bodhi: The
Shorter Discourse on the Lion's Roar và
The Greater Discourse on the Lion's Roar.
Ngài Bodhi ghi nhận rằng từ "maha"
thường được thêm vào tựa đề một bài kinh dài
để phân biệt với bài kinh ngắn có cùng tên.
Tương tự như thế cho các cặp bài kinh khác:
- Đại Kinh Khổ Uẩn (Maha-dukkhakkhanda
Sutta, Trung Bộ 13) và Tiểu Kinh Khổ Uẩn
(Cula-dukkhakkhanda Sutta, Trung Bộ
14);
- Tiểu Kinh Ví Dụ Dấu Chân Voi (Cula-hatthi-padopama
Sutta, Trung Bộ 27) và Đại Kinh Ví Dụ
Dấu Chân Voi (Maha-hatthipadopama Sutta,
Trung Bộ 28);
- Ðại Kinh Ví Dụ Lõi Cây (Maha-saropama
Sutta, Trung Bộ 29) và Tiểu Kinh Ví Dụ
Lõi Cây (Cula-saropama Sutta, Trung
Bộ 30);
- Tiểu Kinh Tánh Không (Cula-sunnata
Sutta, Trung Bộ 121) và Đại Kinh Tánh
Không (Maha-sunnata Sutta, Trung Bộ
122).;
- Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt (Cula-kamma-vibhanga
Sutta, Trung Bộ 135) và Đại Kinh Nghiệp
Phân Biệt (Maha-kammavibhanga Sutta,
Trung Bộ 136);
- Kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta,
Trung Bộ 10) và Đại Kinh Niệm Xứ (Maha-satipatthana
Sutta, Trường Bộ 22); v.v.
Thêm vào đó, tựa bài kinh
Maha-parinibbana Sutta (Trường Bộ 16) có
lẽ nên dịch là Đại Kinh Bát-niết-bàn (dịch
sát nghĩa là Đại Bát-niết-bàn Kinh), thay vì
Kinh Đại Bát-niết-bàn như thường gặp trong
nhiều tài liệu kinh sách. Theo thiển ý, chữ
Bát-niết-bàn (phiên âm của parinibbana)
tự nó đã đủ nghĩa, không cần thêm từ "Đại".
Chữ Đại ở đây có thể hiểu như là bổ nghĩa
cho chữ Kinh, Đại Kinh là bài kinh dài. Theo
học giả Maurice Walshe, đây là bài kinh dài
nhất trong Kinh tạng. Trong bản dịch Anh
ngữ, Tỳ khưu Thanissaro dịch là "The Great
Discourse on the Total Unbinding".
*
6. Bát Chánh Đạo: Con Đường Tám Chánh hay
Tám Con Đường Chánh?
Một vài tác giả Phật tử, cư sĩ lẫn tu sĩ,
thường suy diễn Bát Chánh Đạo là tám con
đường chánh mà Đức Phật có giảng trong bài
pháp đầu tiên, kinh Chuyển Pháp Luân, cho
năm anh em Kiều-trần-như sau khi Ngài giác
ngộ, đạt đạo quả Chánh Đẳng Giác. Đây là một
sự suy diễn sai lầm rất đáng tiếc. Có lẽ các
vị tác giả đó đã quen suy diễn theo lối pháp
số: Tứ Diệu Đế là bốn sự thật cao sang, Ngũ
Uẩn là năm tập hợp, Lục Căn là sáu căn, Thất
Giác Chi là bảy chi phần giác ngộ, thì ắt
hẳn Bát Chánh Đạo là tám con đường chánh.
Một phần có lẽ là vì chữ Hán, âm sang Hán
Việt, không dùng dấu gạch nối để phân biệt
rõ ràng "bát-chánh đạo" (đạo
bát-chánh, hay con đường tám chánh) với "bát
chánh-đạo" (tám chánh-đạo, tám
con đường chánh).
Tìm đọc kinh điển, chúng ta sẽ thấy ngay
rằng Bát Chánh Đạo là Con Đường Tám Chánh,
nghĩa là một con đường có tám phần tử – hay
tám yếu tố – chân chánh, có sách dùng chữ
"Thánh Đạo Tám Ngành", dịch từ chữ Pāli
"ariya atthangika maggo". Đây là con
đường duy nhất để đưa đến đạo quả giải thoát
(Pháp Cú, 273-274), là con đường cổ xưa mà
chư Phật đều đi qua trong các thời kỳ trước
(Tương Ưng, 12.65).
Cũng xin ghi nhận ở đây là trong tiếng
Anh, không thấy có sự lầm lẫn đáng tiếc này.
Trong khi Tứ Diệu Đế dịch là "Four Noble
Truths" (số nhiều, với "s"), Bát
Chánh Đạo được dịch là "Noble Eightfold
Path" (số ít, không có "s").
*
7. A-tỳ-đàm trong Kinh tạng?
Abhidhamma thường được dịch là Vi
diệu pháp, Thắng pháp, Vô tỷ pháp, bắt nguồn
từ chữ Dhamma là pháp và Abhi
(hay Adhi) là cao siêu, vượt trội,
tối thượng, tối thắng. Tàu âm là A-tỳ-đàm.
Có quan niệm cho rằng Đức Phật đã giảng giáo
lý A-tỳ-đàm và có ghi lại trong Kinh tạng,
vì chữ Abhidhamma đã được tìm thấy
trong các bài kinh:
- Kinh Phúng Tụng (Sangiti Sutta), Trường
Bộ 33.
- Ðại Kinh Rừng Sừng Bò (Mahagosinga
Sutta), Trung Bộ 32.
- Kinh Gulisani (Gulisani Sutta), Trung
Bộ 69.
Tuy nhiên, theo ông Maurice Walshe, dịch
giả bản Anh ngữ của Trường Bộ, chữ
Abhidhamma (pháp tối thượng) trong bài
kinh Phúng Tụng là được dùng chung với chữ
Abhivinaya (luật tối thượng) để chỉ
giáo pháp và giới luật của Ngài, không liên
hệ gì đến giáo lý kết tập trong tạng Vi diệu
pháp về sau này. Nhận xét nầy cũng áp dụng
trong trường hợp bài kinh Gulisani, Trung
Bộ. Thêm vào đó, theo Tỳ khưu Bodhi, dịch
giả bản Anh ngữ của Trung Bộ, chữ
Abhidhamma trong bài Đại Kinh Rừng Sừng
Bò có thể hiểu là giáo lý có hệ thống và có
phân tích. Theo Từ điển Pali-Anh
(Pali-English Dictionary, Pali Text
Society), chữ Abhidhamma không tìm
thấy trong Tương Ưng Bộ và Tăng Chi Bộ, và
có lẽ chữ này đã được dùng thêm trong giai
đoạn cuối của tiến trình triển khai và kết
tập bốn tạng kinh chính.
*
8. Đức Phật giảng Vi diệu pháp ở đâu, khi
nào?
Đây là câu hỏi thường gặp khi chúng ta
học Vi diệu pháp (Abhidhamma), và đã
có nhiều bình luận về nguồn gốc Vi diệu pháp
trong các sách giáo khoa Phật học và lịch sử
Phật giáo.
Sự kiện Đức Phật giảng Vi diệu pháp chỉ
được ghi trong chương đầu tiên của bản Chú
giải bộ Pháp tụ (Atthasālīnī), Chú
giải Thuyết luận sự (Kathāvat-thuppakarana
Atthakathā), và trong Chú giải kinh Pháp
cú (kệ 181) của Luận sư Buddhaghosa
(Phật Âm) với nhiều chi tiết hơn. Trong 3
tháng hạ vào năm thứ 7 sau khi Thành Đạo,
Đức Phật đến cõi trời Ba Mươi Ba (Tavatimsa,
Đao-lợi) giảng Vi diệu pháp cho chư thiên,
trong đó có mẫu hậu Đại Ma-da (Maha Maya)
từ cung trời Đâu-suất (Tusita) đến
nghe. Mỗi ngày, Ngài trở về địa cầu, nơi
thành Sankassa, tóm tắt lại cho tôn
giả Xá-lợi-phất. Dựa vào đó, Trưởng lão
Xá-lợi-phất giảng rộng ra cho chư Tăng gồm
500 vị tỳ khưu, và về sau, kết tập thành
tạng Vi diệu pháp.
Thành Sankassa ngày nay là một
làng nhỏ, còn lại di tích một gò đất, người
ta tin rằng đó là nơi Đức Phật trở về địa
cầu. Gần đó có một ao nhỏ, theo truyền
thuyết, đó là hồ Anotatta
(A-nâu-đạt), nơi Ngài rửa mặt, đánh răng.
Ngoài ra, còn có di tích trụ đá và một con
voi đá do vua A-dục dựng lên.
*
9. Cờ Phật giáo có 5 hay 6 màu?
Chúng ta thường nghe nói cờ Phật giáo là
cờ ngũ sắc, gồm 5 màu: xanh dương (nila),
vàng (pita), đỏ (lohita),
trắng (odata), cam (manjesta).
Có người bình giải rằng đó là tượng trưng
cho ngũ căn và ngũ lực: tín, tấn, niệm,
định, huệ. Có đúng thế không?
Thật ra, cờ Phật giáo có 6 màu, 5 màu đầu
tiên được liệt kê như trên, và màu thứ sáu
là màu sáng chói (prabaswara), do 5
màu kia kết hợp lại. Do đó, cờ có 6 vạch
đứng, vạch thứ sáu có 5 phần ngang tượng
trưng cho sự kết hợp của 5 màu kia. Cờ nầy
do Hội đồng Bảo vệ Phật giáo ở Colombo, Sri
Lanka, cùng với ông H. S. Olcott (Phật tử
Mỹ), thiết kế và dùng trong dịp lễ Vesakha,
vào năm 1885. Về sau, vào năm 1952, lá cờ
này được Hội Liên hữu Phật giáo Thế giới
(WBF, World Buddhist Fellowship) công nhận
là lá cờ Phật giáo chung cho cộng đồng Phật
tử trên toàn thế giới.
Sáu màu nầy là dựa theo truyền thuyết ghi
lại trong quyển Atthasālīnī (Chú giải
bộ Pháp tụ). Trong tuần lễ thứ tư sau ngày
Thành Đạo, Đức Phật ngồi thiền, chiêm nghiệm
về Vi diệu pháp, toàn thân Ngài phát hào
quang gồm 6 màu nêu trên.
*
10. Tám vạn bốn ngàn pháp môn?
Trong sách báo Phật giáo, chúng ta thường
thấy cụm từ "84 ngàn pháp môn" để chỉ
tính đa dạng, đa phái của đạo Phật. Có nhiều
người dùng cụm từ "84 ngàn pháp môn"
để chỉ các pháp môn, các truyền thống khác
nhau trong đạo Phật, và cho rằng bất kỳ pháp
môn nào, bất kỳ truyền thống nào rồi cũng
đưa đến mục đích cuối cùng của giác ngộ giải
thoát. Đức Phật có giảng dạy như thế không?
Theo sự hiểu biết thô thiển của chúng
tôi, trong kinh điển Pāli nguyên thủy không
thấy có cụm từ "84 ngàn pháp môn"
trong ý nghĩa nêu trên, mà chỉ có một đoạn
văn do Trưởng lão Ānanda trả lời ông
Moggallāna người chăn bò, khi ông ấy hỏi
ngài lời dạy của đức Phật là gì, có tất cả
là bao nhiêu pháp. Ngài đáp: "Trong 84
ngàn pháp, chính tôi được nghe Đức Phật
giảng 82 ngàn, còn 2 ngàn kia là do các vị
tỳ khưu khác thuật lại" (Trưởng lão
Tăng kệ, 1025, Tiểu bộ).
Xin ghi nhận vài điểm sau đây:
(1) Con số "84.000" hay cụm từ "tám mươi
bốn ngàn", hay "tám vạn bốn ngàn", là một
thành ngữ thường thấy trong nhiều bài kinh,
như: 84.000 đại kiếp, 84.000 năm, 84.000 thị
nữ, 84.000 cỗ xe, 84.000 con voi, 84.000 con
bò, 84.000 chén bạc, 84.000 thước vải, v.v.
Đây chỉ là một thành ngữ phổ thông tại Ấn Độ
trong thời đó, là cách nói tổng quát để chỉ
một số lượng rất lớn, rất nhiều, không phải
là một con số chính xác.
(2) Chữ "pháp" (dhamma) trong câu
trả lời của ngài Ānanda có nghĩa là gì? Giáo
sư K. R. Norman, dịch giả bản dịch Anh ngữ
Theragatha (Trưởng Lão Tăng Kệ), cho
biết rằng ngài luận sư Buddhaghosa, trong
Chú giải Trưởng Lão Tăng Kệ, có giải thích
"pháp" ở đây được hiểu như là "pháp uẩn" (dhamma-khandha),
nghĩa là đoạn văn về giáo pháp.
Trong quyển Saddhammasangaha (Diệu
Pháp Yếu Lược, Tỳ khưu Indacanda dịch) do
Trưởng lão Dhammakitti Mahāsāmi soạn ra tại
Sri Lanka vào khoảng thế kỷ 13 DL, Ngài có
giải thích về Pháp Uẩn như sau:
... Thế nào là có tám mươi bốn ngàn phần
khi nói về Pháp Uẩn? Bài kinh nào có nhiều
chủ đề thì tính nhiều Pháp Uẩn. Như thế,
việc tính đếm Pháp Uẩn tức là đề cập đến chủ
đề. Trong những phần Kệ (gāthā), mỗi câu hỏi
hay chất vấn là một Pháp Uẩn và câu trả lời
là một Pháp Uẩn. Trong tạng Vi diệu pháp,
mỗi một phần chia chẻ gồm có một nhị đề hoặc
tam đề và mỗi một phần chia chẻ theo loại
tâm được gọi là một Pháp Uẩn. Trong tạng
Luật thì có phần câu chuyện (vatthu), có
phần tiêu đề (mātikā), có phần phân tích từ
ngữ, có phần phạm tội, có phần không phạm
tội, có phần phán xét; trong trường hợp này,
cứ mỗi một phần được xem là một Pháp Uẩn.
Như thế, khi đề cập đến Pháp Uẩn thì có tám
mươi bốn ngàn phần.
(3) Cũng trong quyển Saddhammasangaha,
ngài Dhammakitti Mahāsāmi có đưa ra các con
số thống kê về Tam Tạng kinh điển như sau:
a) Trong 84.000 pháp uẩn, Tạng Kinh
có 21.000 pháp uẩn, Tạng Luật có 21.000
pháp uẩn, và Tạng Vi diệu pháp có 42.000
pháp uẩn.
Ngày nay, các con số này cũng thấy
được trích dẫn trong nhiều tác phẩm Phật
học. Đây có phải là con số chính xác và
khả tín không? Đã có vị Tăng Ni học giả
nào nghiên cứu tường tận để chứng minh
các con số này, hay không?
b) Tam Tạng Pāli gồm có một ngàn một
trăm tám mươi ba (1.183) tụng phẩm (bhānavāra).
c) Tam Tạng Pāli có số lượng từ là
hai trăm chín mươi lăm ngàn bảy trăm năm
mươi (295.750).
d) Tam Tạng Pāli có số lượng mẫu tự
là chín triệu bốn trăm sáu mươi bốn ngàn
(9.464.000).
Về Tạng Kinh, ngài liệt kê:
e) Trường Bộ có 34 bài kinh.
f) Trung Bộ có 152 bài kinh.
g) Tương Ưng Bộ có 7.762 bài kinh.
h) Tăng Chi Bộ có 9.557 bài kinh.
Ngoài ra, ngài cũng có đưa ra các con
số thống kê về các bộ Chú giải và Sớ
giải:
i) Tất cả Chú giải Tam Tạng do luận
sư Buddha-ghosa giảng giải có số lượng
tụng phẩm là một ngàn một trăm sáu mươi
ba (1.163).
j) Tất cả Chú giải Tam Tạng có số
lượng từ là hai trăm chín chục ngàn bảy
trăm năm mươi (290.750).
k) Tất cả Chú giải Tam Tạng có số
lượng mẫu tự là chín triệu ba trăm lẻ
bốn ngàn (9.304.000).
l) Sớ giải của Tam Tạng được giảng
giải bởi các vị thầy giáo thọ về sớ
giải, có số lượng tụng phẩm là sáu trăm
ba hai (632).
m) Sớ giải của Tam Tạng có số lượng
từ là một trăm năm mươi tám ngàn
(158.000).
n) Sớ giải của Tam Tạng có số lượng
mẫu tự là năm triệu không trăm năm mươi
sáu ngàn (5.056.000).
Các con số về các bài giảng trong Kinh
Tạng cũng được đề cập trong quyển Chú giải
bộ Pháp tụ (Attha-sālīnī), nhưng
không nhiều chi tiết.
Ngày nay, các bộ Tam Tạng Pāli, Chú giải
và Sớ giải đã được số hóa từ các nguồn Sri
Lanka, Myanmar và Thái Lan, và đã được phổ
biến rộng rãi qua dạng đĩa CD-ROM. Chúng tôi
không biết đã có những công trình nghiên cứu
nào để minh chứng các con số thống kê nêu
trên, bằng cách viết các chương trình vi
tính để xử lý nguồn số hóa trên CD-ROM, hay
không?
Theo thiển ý, đó là đề tài rất thú vị và
cũng rất quan trọng, rất xứng đáng để cho
các vị nghiên cứu sinh Phật học lưu tâm và
thực hiện trong các bài luận văn hay luận án
tốt nghiệp.
*
11. Chánh Pháp tồn tại bao lâu?
Trong Chương 10, Tiểu Phẩm, Tạng Luật
(Tỳ khưu Indacanda dịch) có đề cập đến
việc bà Mahā-pajāpati Gotamī đến
gặp Đức Phật xin xuất gia tỳ khưu ni,
và Ngài chỉ đồng ý cho phép nếu bà
thọ nhận Tám Trọng Pháp (bát kỉnh
pháp). Sau đó, Ngài nói với Trưởng lão
Ānanda:
- Này Ānanda, nếu nữ nhân không đạt được
sự xuất gia rời nhà sống không nhà trong
Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố,
phạm hạnh có thể sẽ được tồn tại lâu dài,
Chánh Pháp có thể tồn tại một ngàn năm. Này
Ānanda, bởi vì nữ nhân đã xuất gia rời nhà
sống không nhà trong Pháp và Luật đã được
đức Như Lai công bố, giờ đây, phạm hạnh sẽ
không tồn tại lâu dài. Này Ānanda, giờ đây,
Chánh Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm.
(Sự kiện này cũng được ghi trong bài kinh
Mahā-pajāpati Gotamī, Tăng chi
VIII.51)
Do đó, ngày nay, 2.500 năm sau khi Đức
Phật bát-niết-bàn, nhiều người bi quan
cho rằng chúng ta đang ở trong thời Mạt
Pháp, không ai có thể đạt giác ngộ
giải thoát nữa. Tuy nhiên, Chú giải
Luật Tạng và Chú giải Tăng Chi Bộ có
giải thích: 1000 năm của Chánh Pháp là đề
cập đến sự diệt tận các lậu hoặc với sự
thành đạt về bốn Tuệ Phân Tích. Từ đó về sau
là 1.000 năm của sự diệt tận các lậu hoặc do
thuần túy tuệ minh sát, 1000 năm của đạo
quả Bất Lai, 1.000 năm của đạo quả Nhất Lai,
1.000 năm của đạo quả Nhập Lưu. Như vậy,
Chánh Pháp sẽ tồn tại 5.000 năm, và sau
đó sẽ không còn ai trong cõi người có
thể nhập dòng thánh giải thoát. Thêm
vào đó, Tỳ khưu Dhammanando (chùa
Benchamabophitr, Bangkok) cho biết trong
bản Chú giải Trường Bộ và Trung Bộ
có ghi một con số khác: thời kỳ của
đạo quả A-la-hán có thể kéo dài đến
4.000 năm, sau đó mới từ từ suy tàn.
Dù sao đi nữa, chúng ta cũng nên ghi
nhận rằng trong lời giảng cuối cùng
cho ngài Subhada trước khi nhập diệt,
Đức Phật có tuyên bố khi nào Bát
Chánh Đạo được tu tập và truyền giảng
một cách đúng đắn thì thế giới nầy
không bao giờ trống vắng các đạo quả
thánh (Đại kinh Bát-niết-bàn, Trường
Bộ).
-12-
Những gì đã trình bày trên đây không phải
là một mẫu mực chung cho mọi nơi; mà chỉ có
thể xem như là một thí dụ để góp ý, không
hẳn có thể hoàn toàn thích nghi, áp dụng
được tại các địa phương khác.
Trước khi dứt lời, chúng tôi thành tâm
kính chúc quý vị thân tâm an lạc, tu hành
tinh tấn trong hồng ân Tam Bảo.