Bản văn dưới đây về Đại Thủ Ấn — thường gọi là
Mahamudra, còn gọi là Phyag-gGya Chhen-Po — do vị đạo sư Ấn Độ Maitripa
soạn thảo, và được truyền dạy trực tiếp cho Marpa, và từ Marpa truyền
dạy cho Milarepa. Pháp môn Đại Thủ Ấn mặc dù được trao truyền và gắn
liền với phái Hồng Mạo (Kargyudpa), nhưng vẫn được học và tu tập bởi
chư tăng các tông phái khác của Phật Giáo Tây Tạng. Chữ "Đại Thủ
Ấn" có nhiều nghĩa, có khi còn gọi là Đại Biểu Tượng, nhưng
nghĩa trực tiếp nhất chính là một trực nhận về thế giới và từ đây
học nhân sử dụng như một bảo ấn lớn để hợp nhất niết bàn và
sinh tử — ngắn gọn, đó là trực nhận được Tánh Bất Nhị của vạn
pháp. Đại Thủ Ấn, trong nghĩa trên, chính là một pháp đốn ngộ. Bản
Việt dịch của Nguyên Giác dựa theo bản Anh dịch của James Low trong cuốn
Simply Being: Texts in the Dzogchen Tradition, nhà xuất bản Vajra Press, London,
1998.
Thánh Sư Marpa, 1012-1097, là một đạo sư nổi tiếng miền
Nam Tây Tạng, còn được gọi là Dịch Giả. Với ba chuyến đi Ấn Độ và
bốn chuyến đi Nepal, ngài mang về Tây Tạng nhiều giáo pháp, trong đó nổi
bật nhất là Đại Thủ Ấn. Marpa là thầy của Milarepa. Marpa còn được
nhìn như là điển hình lý tưởng của trường hợp người tu có vợ con,
vừa thành tựu Thánh Pháp vừa lo những trách nhiệm trần gian. Lần đầu
tới Ấn Độ, Marpa gặp Thánh Sư Naropa và theo học suốt 16 năm. Theo lịch
sử, Marpa theo học tất cả là 108 vị Thầy, nhưng hai vị Thầy chính yếu
là Naropa và Maitripa. Trở về Tây Tạng, Marpa dịch các bản văn mang về ra
tiếng Tây Tạng, sống đời của một nông dân và có nhiều con với vợ
là Dagmema. Lần thứ nhì từ Ấn về, Marpa nhận Milarepa (1025-11235) làm học
trò sau khi đã thử thách thật gian nan người đệ tử mới này. Lần thứ
ba đi Ấn, Marpa gặp Thánh Sư Atisha (980/90-1055) và gặp lại bổn sư Naropa
lần cuối. Marpa đã tiên tri ra việc tông phái Hồng Mạo sẽ phát triển mạnh
mẽ ở Tây Tạng, trong đó Milarepa đóng một vai trò rất lớn. Các sách về
cuộc đời Milarepa đã được dịch ra Việt ngữ nhiều lần. Bản văn dưới
đây được ghi là của Ngài Maitripa truyền trực tiếp cho Marpa.
Nội dung bản văn rất ngắn gọn, yêu cầu học nhân trực
nhận Tánh Bất Nhị của vạn pháp và từ đây xa lìa mọi nỗ lực, cứ tự
nhiên để tâm an trụ trong cái nhìn Bất Nhị này. Khi dòng sông niệm đứng
lại, thì ý nghĩa hiện ra. Và tất cả mọi hành động và nỗ lực thiền
định đều không cần thiết, bởi vì Tánh Thực của vạn pháp lúc nào cũng
là Vô Tự Tánh.
(BẢN VĂN BẮT ĐẦU)
Hãy đảnh lễ trong tâm thức hoan lạc hoàn toàn, ta sẽ
nói cho ngươi về dấu ấn lớn.
Tất cả những gì khả thể chỉ thực sự là tâm của ngươi
— đi tìm sự thực ngoài tâm chỉ là việc làm của tri thức rối loạn.
Tất cả những hiện tướng đều chủ yếu trống rỗng như một giấc
mơ. Và tâm cũng chỉ là chuyển động của trí nhớ và ý tưởng. Với không
tự tánh nào trong đó, nó thì như năng lực của ngọn gió; và trống rỗng
trong cốt tủy, nó thì hệt như hư không.
Tất cả những gì khả thể đều cư trú trong bình đẳng,
hệt như hư không — như vậy, ta nói về dấu ấn lớn.
Tự tánh của ngươi không có thể phô diễn được, và cũng
vậy tánh thật của tâm không hề rời xa hay chuyển đổi trạng thái thật
của dấu ấn lớn. Nếu ngươi có thể chứng ngộ chân thật điều này,
thì tất cả mọi hiện tướng đều trở thành dấu ấn lớn. Đây là trạng
thái tự nhiên bao trùm toàn khắp.
Hãy thoải mái trong trạng thái tự nhiên không nỗ lực của
ngươi. Đây là trạng thái tự nhiên vô niệm. Thiền pháp này tự cư trú
trong chính nó, không cần tìm kiếm gì khác. Loại Thiền pháp nào mà đi tìm
kiếm thì chỉ là việc làm của tri thức rối loạn. Y hệt như hư không
hay một ảo ảnh huyễn thuật, khi vắng bặt cả thiền định lẫn phi thiền
định thì làm sao ngươi nói về chia cách hay không chia cách?
Với những Thiền giả nào có hiểu biết này, tất cả mọi
hành động đức hạnh và tội lỗi đều được giải thoát bởi trực nhận
về thực tại này. Tất cả mọi tổn thương tinh thần đều trở thành việc
nhận biết thuần khiết, lớn lao, và tới như người bạn của Thiền giả,
y hệt như ngọn lửa cháy lan suốt cánh rừng. Vậy thì làm sao chúng ta
nói gì về chuyện ra đi hay ở lại?
Bất kể là ngươi có ổn định tâm ngươi bao nhiêu tại một
nơi vắng lặng, nếu ngươi không trực nhận chân lý này, ngươi sẽ không
giải thoát được ra khỏi các trạng thái chỉ là manh mún đó. Nhưng nếu
ngươi kinh nghiệm sự thực này, rồi thì có gì có thể ràng buộc được
ngươi?
Khi ngươi an trụ một cách không chao động trong trạng thái
này, sẽ không còn cần tới bất cứ loại thiền định được cấu trúc
nào cho thân và khẩu của ngươi. Cho dù ngươi có vào được trong cái gọi
là hợp nhất chân thật hay không, sẽ không còn cần tới nỗ lực thiền
định liên hệ tới các pháp đối trị. Không cố tâm muốn thành tựu bất
kỳ chi cả, bất cứ những gì khởi lên sẽ được trực nhận là không
ngay trong tự tánh. Tất cả những hiện tướng đang tự giải thoát trong
chiều kích mở rộng này, và tất cả các niệm đều tự giải thoát ở
trong (và tự thân như là) cái nhận biết thuần khiết lớn lao. Đây là
tính bình đẳng hoàn toàn bất nhị của trạng thái tự nhiên. Y hệt như
dòng chảy của một sông lớn, ý nghĩa chân thực sẽ hiện ra với ngươi
bất cứ khi nào ngươi đứng lại. Đây là trạng thái của cảnh giới Phật
đang diễn tiến, cái hạnh phúc lớn lao được giải thoát khỏi tất cả
các pháp sinh tử.
Tất cả các hiện tượng tự chúng đều trống rỗng một
cách tự nhiên, và cái trí tuệ nhận diện cái rỗng không đó sẽ được
thanh tịnh ngay trong vị trí riêng của nó. Xa lìa tất cả những kiến giải
hóa, sẽ không còn liên hệ nào tới các hoạt động tâm thức nữa. Đây
là con đường của tất cả các vị Phật.
Đối với những người thật sự may mắn, ta soạn ra bản
văn này để tóm lược tất cả các lời dạy của ta. Nhờ vào đây, nguyện
cho tất cả chúng sinh an trụ trong dấu ấn lớn.
Tới đây là hết bài giảng của Maitripa về Đại Thủ Ấn.
Bản văn được truyền trực tiếp từ Thánh Sư đó, và
được dịch sang tiếng Tây Tạng bởi dịch giả Tây Tạng Marpa Chokyi Lodro