Mục lục
1. Đạo Phật là gì?
2. Khái niệm căn bản của Phật giáo
3. Phật giáo và quan niệm Thượng Đế
4. Năm giới
5. Tái sinh
6. Thiền định
7. Trí tuệ và Từ bi
8. Ăn chay
9. Vận may và số mạng
10. Trở thành Phật tử
Lời người
dịch
"Hỏi Hay, Đáp Đúng"
(nguyên tác Anh ngữ: '' Good Question, Good Answer'') là
một trong nhiều tác phẩm phổ biến của Đại đức Shravasti Dhammika, một
tu sĩ
người Úc đã từng diễn giảng giáo lý Phật Đà trên đài truyền hình
và đại học Úc cũng như nhiều quốc gia khác ở Á châu.
Tập sách nhỏ là kết quả của
các buổi diễn thuyết ấy và được ấn hành lần đầu
tiên vào năm 1987 theo lời thỉnh cầu của đông đảo Phật tử ở
Singapore. Đến
nay tập sách đã được tái bản rất nhiều lần ở Úc, Mã Lai, Singapore
và Đài
Loan. Riêng tại Singapore, tập sách đã được in ra với hơn ba mươi ngàn
bản vào lần ấn hành thứ nhất làmột thành công ngoài dự kiến của
tác giả. Tác phẩm đã được đón nhận một cách rộng rãi ở Úc, Mỹ,
Canada, Anh , Pháp, Ergentina, Singapore và các quần đảo Seychelle, và đến nay
đã được dịch nhiều thứ tiếng như Trung Hoa, và Nepal và Miến Điện.
Nhận thấy tác phẩm có tính cách
phổ biến cho người học Phật. Chúng tôi xin
chuyễn ngữ ra tiếng Việt để giúp cho độc giả Phật tử Việt Nam có
thêm những hiểu biết giáo lý Đạo Phật.
Dù hết sức cố gắng nhưng không
sao tránh khỏi những sơ sót khi chuyễn ngữ, kính mong các bậc cao minh hoan
hỷ chỉ giáo cho.
- Sài gòn, đầu xuân 1998
- Thích Nguyên Tạng
___________________________
[01]
Đạo Phật là gì? [^]
Hỏi: Đạo Phật là gì?
Đáp: Danh từ Đạo Phật (Buddhism)
xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy
Đạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi
nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng của Ngài Sĩ-Đạt-Đa Cồ-Đàm,
được biết như một vị Phật, đã tự mình giác ngộ ở tuổi ba mươi sáu.
Đến nay Đạo Phật đã có mặt trên 2500 năm và có khoảng 300 triệu tín
đồ trên khắp thế giới. Hàng trăm năm về trước, Đạo Phật đã chính
thức là một nền triết học của Á châu, tuy nhiên ngày nay đã phát triển
và có tín đồ ở khắp châu Âu và châu Mỹ.
HỎI : Như vậy, Đạo Phật có phải
là một triết học không ?
Đáp: Danh từ triết học - philosophy - bắt nguồn từ hai chữ
"philo" nghĩa là "tình thương" và "sophia" nghĩa là"trí
tuệ". Vậy triết học là tình thương của trí tuệ hoặc tình thương
và trí tuê. Cả hai ý nghĩa nầy đều diễn tả một đạo Phật toàn
bích. Đạo Phật khuyên dạy con người nên cố gắng phát triển khả năng
tri thức của mình đến chỗ cùng tột để có thể hiểu biết một cách
rõ ràng. Đạo Phật cũng dạy chúng ta làm lớn mạnh lòng từ bi và lòng
nhân ái để mình có thể trở thành một người bạn chân thành#273;ối
với tất cả chúng sanh. Vì thế Đạo Phật là một triết học, nhưng không
chỉ là một triết học mà là một triết học siêu việt.
Hỏi: Đức Phật là ai?
Đáp: Vào năm 624 trước Tây Lịch, một hoàng nhi đã ra đời tại một
vương quốc
thuộc miền Bắc Ấn Độ. Vị hoàng nhi ấy đã lớn lên trong nhung lụa
và xa hoa,
nhưng cuối cùng sớm nhận ra rằng tiện nghi vật chất và sự yên bình của
thế
gian không đủ để bảo đảm hạnh phúc. Chàng đã xúc động sâu xa bởi
những cảnh
khổ đau mà chàng đã thấy ở khắp mọi nơi, và quyết tâm tìm một lời
giải đáp đưa
đến hạnh phúc cho nhân loại. Năm hai mươi chín tuổi, chàng từ giả vợ
và con, và
tìm học với các bậc đạo sư vĩ đại đương thời. Các vị này đã dạy
cho chàng
rất nhiều nhưng không có người nào thật sự biết rõ được nguyên
nhân khổ đau
của kiếp người và phương cách vượt thoát khổ đau. Cuối cùng, sau sáu
năm
tu học và hành thiền, chàng đã đạt được một kinh nghiệm mà tất cả
mọi
phiền não vô minh được đoạn trừ và ngài đã hoát nhiên giác ngộ. Kể
từ ngày ấy,
Ngài được tôn xưng là Phật-đà (Buddha), một bậc Giác Ngộ. Ngài tiếp
tục ở lại
thế gian trong 45 năm nữa, chu du khắp miền Bắc Ấn độ để truyền dạy
cho mọi người
những gì mà ngài đã chứng ngộ. Lòng từ bi và đức tính kham nhẫn của
Ngài là
một sự kỳ diệu đã khiến cho hàng ngàn người theo làm đệ tử của Ngài
. Ở tuổi tám mươi, tuy già và bệnh, nhưng vẫn hạnh phúc và thanh thản,
cuối cùng ngài đã viên tịch.
Hỏi: Đức Phật vô trách nhiệm chăng khi Ngài rời bỏ vợ con của mình?
Đáp: Điều đó không dễ dàng chút nào khi Đức Phật rời bỏ gia đình.
Ngài đã phải lo lắng và do dự trong một thời gian dài trước khi quyết
định ra đi. Lúc đó, Ngài có một sự chọn lựa, hoặc là hiến dâng đời
mình cho gia đình, hoặc cho thế gian. Cuối cùng, với lòng từ bi rộng lớn
đã khiến ngài hy sinh đời mình cho thế gian , và cả thế gian đều được
lợi lạc từ sự hy sinh của ngài. Do vậy, đó không phải là vô trách nhiệm.
Có thể nói đó là một sự hy sinh đầy ý nghĩa nhất từ trước đến
nay.
Hỏi: Đức Phật đã nhập diệt thì làm sao Ngài có thể giúp đỡ chúng
ta?
Đáp: Ông Faraday, người phát minh ra điện, đã mất nhưng những gì ông
phát minh vẫn còn có ích cho chúng ta. Ông Luis Pasteur, người tìm ra phương
pháp điều trị nhiều bệnh tật, đã qua đời, nhưng các khám phá y khoa của
ông vẫn cứu được nhiều mạng sống. Ông Leonardo da Vinci, người sáng tạo
ra những kiệt tác nghệ thuật, cũng đã khuất bóng, nhưng tác phẩm của
ông vẫn đem lại nhiều hứng khởi và niềm vui cho mọi người. Những thánh
nhân và anh hùng đã từ giã cõi đời hàng thế kỷ nhưng khi chúng ta đọc
lại những kỳ tích và thành tựu của họ, chúng ta vẫn có nhiều hứng
khởi để noi theo những gì họ đã làm. Đúng thế, Đức Phật đã diệt
độ, nhưng 2500 năm sau lời giáo huấn của Ngài vẫn giúp được nhân loại,
gương lành của Ngài vẫn tạo nhiều cảm hứng cho mọi người, lời dạy
của Ngài vẫn có thể cải tạo được cuộc sống. Chỉ có Đức Phật mới
có thể có một tiềm lực thu hút như thế qua nhiều thế kỷ sau khi Ngài
đã nhập diệt.
Hỏi: Đức Phật có phải là một vị thần linh không?
Đáp: Không, Ngài không phải là một vị thần linh (god). Ngài cũng không
tuyên bố
rằng mình là thần linh, là con của thần linh, hoặc ngay cả là một sứ
giả của
thần linh. Ngài là một con người đã tự toàn thiện mình, và dạy rằng
nếu chúng ta noi theo gương Ngài, chúng ta cũng có thể tự hoàn
thiện được như Ngài.
Hỏi: Nếu Đức Phật không phải là thần linh, tại sao người ta thờ cúng
Ngài?
Đáp: Có nhiều loại thờ cúng khác nhau, khi người ta thờ một vị thần,
họ tán thán cung kính và cúng dường vị ấy, để cầu xin ân sủng. Họ
tin tưởng rằng vị thần linh ấy sẽ nghe thấy sự tán dương, tiếp nhận
sự cúng dường và đáp ứng lại lời cầu xin của họ. Người Phật tử
không theo kiểu thờ cúng này. Cũng có các loại thờ cúng khác như khi chúng
ta bày tỏ lòng tôn kính đối với một người nào đó hay điều gì khiến
chúng ta ngưỡng mộ. Khi vị thầy giáo bước vào lớp, chúng ta đứng lên;
khi gặp một viên chức cao cấp, chúng ta bắt tay; khi một bài quốc ca được
trổi lên, chúng ta nghiêm chào. Đó là tất cả những cử chỉ cung cách
tôn kính tỏ bày lòng khâm phục của chúng ta đối với người hay vật. Cách
thờ cúng theo Phật giáo là thực hành. Một pho tượng Phật ngồi với bàn
tay nhẹ nhàng trong mãnh y và nụ cười từ ái nhắc nhở chúng ta cố gắng
phát triển sự an lạc và yêu thương trong mỗi chúng ta. Mùi thơm của
hương trầm nhắc nhở chúng ta về sự ảnh hưởng của đức hạnh lan tỏa
khắp nơi, ngọn đèn nhắc nhở chúng ta đến ánh sáng của hiểu biết,
và những bông hoa sớm tàn úa nhắc cho chúng ta lẽ vô thường. Khi đảnh
lễ cuối đầu, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn đối với Đức Phật về
những lời dạy của Ngài. Đó là phương cách thờ cúng của người Phật
tử.
HỎI : Nhưng tôi nghe người ta nói
rằng nhiều Phật tử vẫn thờ cúng thần tượng ?
ĐÁP : Những lời phát biểu như vậy
chỉ phản ảnh sự hiểu lầm của người đang hành trì. Từ điển định
nghĩa từ "idol" là "một hình ảnh hay một pho tượng được tôn
thờ như một thần linh"( an image or statue worshipped as a god) . Như chúng
ta đã biết, người Phật tử không bao giờ tin rằng Đức Phật là một vị
thần linh. Vậy làm sao người Phật tử có thể tin rằng một khối gỗ
hay một mảng kim loại kia lại là một vị thần ?
Mỗi tôn giáo đều dùng một biểu
tượng nào đó để bày tỏ quan điểm và niềm tin của riêng họ. Trong Đạo
Lão (Taoism), Âm dương được dùng để làm biểu tượng hài hòa và đối
kháng. Đạo Sikh (1), thanh gươm được xem là biểu tượng
cho sự đấu tranh tinh thần. Đạo Cơ-đốc (Christianity), con cá dùng làm biểu
tượng cho sự hiện hữu của Chúa và cây Thánh giá dùng làm biểu trưng
cho sự hy sinh của Chúa. Và Phật giáo, tượng Phật được xem như những
biểu tượng của sự hoàn thiện nhân cách con người. Tượng Phật cũng
nhắc nhở ta về tính nhân bản trong giáo lý nhà Phật. Thật vậy, Phật
giáo luôn xem con người là trung tâm chứ không phải là thần linh, điều
đó nhắc nhở chúng ta phải tìm sự toàn hảo và hiểu biết ở bên trong
chứ không phải vẻ bề ngoài của hình tượng. Vì thế nói rằng người
Phật tử tôn thờ hình tượng là không đúng.
HỎI : Tại sao người ta đốt giấy
vàng bạc và làm những chuyện lạ trong chùa ?
ĐÁP : Nhiều việc thấy lạ nếu
ta không tìm hiểu về chúng. Tốt hơn nên gạt bỏ những chuyện lạ ấy
mà nên cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của chúng. Tuy nhiên, trong thực tế, đôi
khi người Phật tử đã áp dụng những điều mê tín dị đoan và hiểu lầm
hơn là lời dạy của Phật. Và những việc hiểu lầm như vậy không phải
chỉ riêng ở Phật giáo mà thỉnh thoảng cũng được thấy ở những tôn
giáo khác. Đức Phật đã dạy rất rõ ràng và chi tiết và nếu không hiểu
giáo lý của Ngài thì không thể đổ lỗi cho Ngài. Có lời dạy rằng:
Nếu một người đau khổ vì bệnh
hoạn mà không chịu để điều trị, thậm chí người ấy có người thầy
thuốc trong tầm tay. Đó không phải là lỗi của người thầy thuốc..
Cũng vậy, nếu một người bị hành
hạ và đau khổ bởi phiền não mà không tìm sự giúp đỡ của Đức Phật,
thì đó cũng không phải là lỗi của Ngài. (JN 28-9)
Không phải phật giáo mà bất cứ
tôn giáo nào cũng không thể giúp cho họ nếu bản thân họ không thực
hành đúng pháp. Nếu bạn muốn biết rõ ràng và chính xác về chân lý của
Đạo Phật , thì hãy đọc những lời dạy của Phật hoặc học hỏi với
người hiểu đúng giáo lý này.
HỎI : Nếu Phật giáo quá tốt đẹp
như vậy, tại sao vẫn còn nhiều quốc gia nghèo khổ ?
ĐÁP : Ý bạn muốn nói nghèo khổ
về kinh tế ? Đó là sự thật, vì vẫn còn nhiều quốc gia Phật giáo chưa
phát triển về mặt này. Nhưng nếu nghèo mà ý bạn muốn ám chỉ về
"phẩm chất của cuộc sống" thì có lẽ nhiều nước theo Phật giáo
lại rất giàu. Chẳng hạn nước Mỹ, một quốc gia cường thịnh về kinh
tế và quyền lực, nhưng lại là một trong những quốc gia có mức độ tội
phạm cao nhất thế giới, hàng triệu người già bị con cái lãng quên và
chết trong cô độc tại các viện dưỡng lão; nạn bạo lực ở trong gia
đình và lạm dụng tình dục trẻ em là vấn đề nóng bỏng. Cứ ba cặp cưới
nhau có một cặp ly dị; sách báo đồi trụy dễ dàng tìm thấy. Vì vậy,
giàu theo nghĩa có tiền nhưng lại nghèo về "phẩm chất cuộc sống".
Bây giờ chúng ta thử quay sang Miến Điện, một quốc gia có nền kinh tế
lạc hậu, nhưng cha mẹ được con cái tôn vinh và kính trọng; tỉ lệ tội
phạm tương đối thấp; vấn đề ly dị và tự tử hầu như không nghe thấy;
việc bạo lực trong gia đình, lạm dụng trẻ em, sách báo kích dục và nạn
mãi dâm không thể có . Một nền kinh tế chậm tiến nhưng lại có một nền
tảng đạo đức xã hội cao hơn một quốc gia như Hoa kỳ. Tuy nhiên, nếu
chúng ta muốn nhìn thấy những quốc gia Phật giáo theo cái nghĩa kinh tế
như vậy, thì một trong những quốc gia giàu có nhất và có nền kinh tế năng
động nhất thế giới hiện nay là Nhật Bản, nơi có 93% dân số là tín
đồ theo Phật giáo.
HỎI : Tại sao bạn không thường
nghe người Phật tử làm công tác từ thiện xã hội ?
ĐÁP : Có lẽ người Phật tử không
cảm thấy cần thiết phải khoe khoang về những điều tốt của họ. Nhiều
năm trước đây ông Nikkyo Niwano (2), vị lãnh đạo Phật
giáo Nhật Bản đã được trao giải thưởng Templeton qua việc ông vận động
liên kết hòa hợp tôn giáo. Tương tự, một tăng sĩ người Thái đã nhận
giải thưởng Magsaysay cho chiến dịch bài trừ tệ nạn ma túy. Năm 1987,
Thượng tọa Kantayapiwat, người Thái Lan, cũng nhận một giải thưởng Nhi
đồng Hòa Bình của Na Uy cho công việc từ thiện của ngài trong nhiều năm
giúp đỡ trẻ bụi đời ở vùng nông thôn. Và hiện nay, các hội đoàn Phật
giáo phương Tây đang thực hiện một số công tác từ thiện ở các vùng
nông thôn Ấn Độ, họ đang xây dựng trường học, Trung tâm điều trị tâm
thần thiếu nhi, trạm xá và những khu công nghiệp nhẹ. Người Phật tử
thấy rằng việc giúp đỡ cho người khác như là một pháp môn tu tập của
họ, nhưng họ cho rằng công việc ấy nên thực hiện trong thầm lặng,
không cần phô trương. Chính vì thế mà bạn không nghe thấy nhiều về
các hoạt động từ thiện của họ.
HỎI : Tại sao có nhiều tông phái
khác nhau trong Phật giáo ?
ĐÁP : Có nhiều loại đường khác
nhau : đường vàng, đường trắng, đường kết tinh, đường cục, đường
cát, đường phèn... nhưng tất cả chỉ là đường và chỉ có một vị ngọt.
Nó được sản xuất từ nhiều hình thức khác nhau để nó có thể sử dụng
nhiều cách khác nhau. Phật giáo cũng thế, Phật giáo Nguyên thủy, Thiền
tông , Tịnh độ tông, Du già tông, Mật tông nhưng tất cả đều là Phật
giáo và đều có chung một vị - vị giải thoát. Phật giáo quả thật đã
phát triển qua nhiều hình thức khác nhau để nó hiện hữu và thích ứng
với những nền văn hóa khác nhau. Qua nhiều thế kỷ Phật giáo có thể tồn
tại phù hợp với mọi thế hệ. Đứng trên phương diện bề mặt, Phật
giáo dường như có khác nhau, nhưng tâm điểm dị biệt ấy vẫn là giáo
lý Tứ đế và Bát chánh đạo. Tất cả những tôn giáo chính, kể cả Phật
giáo, đã từng bị chia ra nhiều tông phái khác nhau. Tất cả những tôn
giáo chính, Phật giáo bao gồm những hình thái và tông phái. Những sự
khác nhau của các tông phái ấy không bao giờ đưa tới xung đột nhau, và
cho tới nay chưa bao giờ biểu lộ sự thù địch với nhau, họ đến với
nhau ở những chùa viện khác và cùng cầu nguyện với nhau. Lòng bao dung,
và hiểu nhau như thế quả thật là hiếm thấy.
HỎI : Bạn luôn nghĩ tốt về Đạo
Phật. Tôi cho rằng bạn nghĩ Đạo của bạn đang theo là đúng còn các đạo
khác là sai.
ĐÁP : Không có một Phật tử nào
hiểu lời Phật dạy mà lại nghĩ các tôn giáo khác là sai. Không một ai
có tâm hồn cởi mở lại để tâm phán xét các tôn giáo khác. Việc trước
tiên bạn để tâm nghiên cứu những tôn giáo khác là để biết có bao
nhiêu điểm tương đồng .Tất cả các tôn giáo đều thừa nhận rằng đời
sống con người hiện tại không được thỏa mãn. Tất cả đều tin rằng
nếu hoàn cảnh của con người phải cải thiện thì cách cư xử và quan
điểm của họ cần phải được thay đổi. Tất cả đều truyền dạy về
một nền đạo đức học về yêu thương, nhân ái, kiên nhẫn, rộng lượng
và có trách nhiệm với xã hội, và tất cả đều chấp nhận có sự hiện
hữu trong một vài hình thức tuyệt đối.
Họ sử dụng nhiều ngôn ngữ khác
nhau, nhiều tên gọi khác nhau và nhiều biểu tượng khác nhau để mô tả
và giải thích những sự việc này. Và chỉ khi nào họ bám chặt vào đường
hướng của mình bằng tâm lượng hẹp hòi để nhìn sự việc thì sự
ích kỷ, ngạo mạn và tự tôn liền phát sinh.
Cứ tưởng tượng một người Anh,
một người Pháp, một người Trung quốc và một người Nam Dương. Tất cả
đều nhìn vào một cái ly nước . Người Anh nói "Đây là cái
'cup'", người Pháp nói "Không phải, nó là cái 'tasse'", người
Hoa bảo "cả hai ông đều sai hết, nó chính là ' pei'". Và người
Nam Dương cười lớn nói rằng : "Các anh ngớ ngẫn làm sao, nó là cái
'cawan'". Người Anh lật quyển từ điển ra và chỉ cho các người kia
"Tôi có thể chứng minh đây là cái 'cup', quyển từ điển của tôi đã
viết như thế". Người Pháp cãi lại "từ điển của tôi nói rõ
đó là 'tasse'. Người Hoa lớn tiếng cãi lại "Từ điển của chúng
tôi mới chính xác, vì nó có hàng ngàn năm nay rồi, lâu hơn tất cả các
từ điển của các anh, vả lại người nói tiếng Hoa nhiều hơn người nói
ngôn ngữ của mấy anh, vì thế tôi nói nó là pei là chính xác nhất".
Trong lúc những người này đang cãi cọ và tranh luận, một người Phật tử
bước tới bưng lấy cái ly nước lên uống. Sau khi vị ấy uống xong, vị
ấy nói : "Dù các anh có gọi nó là 'cup', 'tasse', 'pei' hay 'cawan' , mục
đích của cái ly là dùng để uống nước, các anh hãy chấm dứt tranh luận
và hãy uống nước để bớt cơn khát của các anh đi!". Đây là thái
độ của người Phật tử đối với các tôn giáo khác.
HỎI : Đạo Phật có phải là khoa
học không ?
ĐÁP : Trước khi trả lời câu hỏi
này, tốt nhất chúng ta hãy tìm hiểu về định nghĩa của từ khoa học,
theo từ điển giải thích khoa học là "Kiến thức có thể được hình
thành theo một hệ thống, cái tuỳ thuộc vào sự trắc nghiệm các dữ kiện
và xác nhận được quy luật tự nhiên, một phần tùy thuộc vào những
gì được nghiên cứu chính xác".
Trong Phật giáo có nhiều phương diện
không phù hợp với định nghĩa này. Nhưng giáo lý cốt lõi của Đạo Phật,
Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths) thì hẳn đã phù hợp. Chân lý thứ nhất
khổ đau là một kinh nghiệm và có thể xác định được. Chân lý thứ
hai chỉ rõ rằng đau khổ có nguyên nhân tự nhiên của tham ái mà nó có
thể định nghĩa, trải qua và đo lường được. Không cần cố gắng giải
thích khổ đau theo thuật ngữ , quan điểm siêu hình hay huyền hoặc. Chân
lý thứ ba, chấm dứt khổ đau không nương nhờ vào thần linh tối cao,
vào niềm tin hay cầu nguyện mà đơn giản chỉ là loại bỏ nguyên nhân của
khổ đau. Đó là việc hiển nhiên. Chân lý thứ tư, con đường đưa đến
sự chấm dứt khổ đau, một lần nữa cũng không có gì siêu hình mà tùy
thuộc vào việc thực hiện theo phương pháp đặc biệt. Và hơn nữa thái
độ phải cởi mở để xét nghiệm.
Phật giáo không thừa nhận quan điểm
về một đấng cao cả , giống như khoa học và giải thích nguồn gốc và
sự vận hành của vũ trụ theo quy luật tự nhiên. Hẳn những điều này
là chứng minh theo tinh thần khoa học. Một lần nữa, chúng ta lại thấy
tinh thần khoa học trong Phật giáo càng rõ ràng hơn qua lời khuyên của Đức
Phật, rằng chúng ta không nên tin tưởng một cách mù quáng mà ngược lại
phải đặt vấn đề , tìm hiểu và thẩm tra, nhờ vào kinh nghiệm của
chính mình rồi mới tin, có như thế tính chất khoa học mới được rõ
ràng. Đức Phật dạy :
"Đừng tin tưởng theo huyền bí
hay truyền thống. Đừng tin tưởng theo tin đồn đãi hay kinh điển, đừng
tin tưởng theo lời đồn hay những gì hợp lý, đừng tin tưởng theo khuynh
hướng của một ý niệm nào đó , hay do một ai đó có khả năng. Và đừng
tin tưởng theo ý tưởng " vị ấy là thầy của ta". Nhưng khi chính
các vị biết rằng điều ấy là tốt không làm tổn hại ai, đó là sự
sáng suốt đáng tán dương và khi thực hành và theo dõi rằng nó sẽ mang
đến hạnh phúc, rồi hãy tin tưởng theo". (AI 188)
Vì thế chúng ta có thể nói rằng
mặc dù Phật giáo không hoàn toàn khoa học, nhưng hẳn đã mang tính khoa học
mạnh mẽ và có tính khoa học hơn các tôn giáo khác. Chính ông Albert
Einstein (1879-1955) một nhà khoa học vĩ đại nhất của thế kỷ hai mươi
đã nói về tính khoa học của Phật giáo như sau :
"Tôn giáo tương lai sẽ là một
tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi tinh thần linh, giáo điều và thần
học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu
nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm
tổng thể gồm mọi lĩnh vực trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật
giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó. Và nếu có bất cứ một
tôn giáo nào có thể đương đầu với những nhu cầu của nền khoa học
hiện đại, thì đó là Phật giáo vậy."
Ghi chú:
- Sikhism: một đạo phát triển từ
Ấn giáo từ thế kỷ 16, chỉ tín ngưỡng một vị thần.
- Pháp sư Nikkyo Niwano (1906-1999), người khai sáng Hội
Phật Giáo Lập Chánh Giảo Thành (Rissho Kosei-kai, phát xuất từ phái Pháp
Hoa Nhật Liên Tông của Nhật bản), là nhà lãnh đạo Hội Tôn Giáo và
Hòa Bình Thế Giới, Hiệp Hội Tự Do Tôn Giáo, Hiệp Hội Hòa Bình Niwano,
Liên Đoàn Tân Tôn Giáo Nhật Bản, là tác giả của nhiều tác phẩm Phật
học quan trọng. (Người dịch).
| 1
| 2 | 3
| 4 | 5
| 6 | 7
| 8 | 9
| 10 |