- Ðường vào nội
tâm
- Thích nữ Trí Hải
1. NGƯỜI
NGÀY XƯA
(phóng tác một mẫu truyện Liêu
trai do Hòa thượng Trí Thủ kể)
Sinh là một anh học trò nghèo kiết
xác tha phương cầu học. Anh ở trọ trong một ngôi chùa, ngày đêm dùi
mài kinh sử để ứng thí. Quan huyện sở tại cũng là người xứ khác bổ
nhiệm đến, thường lui tới chùa vì quan rất mộ đạo. Quan có một cô
con gái tuổi độ trăng tròn, nhan sắc mỹ miều diễm lệ. Một hôm nhân
ngày lễ Vu lan, cô gái theo cha đến chùa. Vừa trông thấy người ngọc,
Sinh ôm lòng thầm yêu trộm nhớ. Nhưng chàng đã có vợ con ở quê nhà, lại
thuộc gia đình nghèo khó, mà nàng thì đang độ xuân xanh, lá ngọc cành
vàng. Chuyện lương duyên thật khó nỗi ước mơ. Mối tình bị chướng
duyên ngăn trở càng thêm nồng nàn thắm thiết, mặc dù chưa một lời
trao đổi, tình yêu chỉ đơn phương. Chàng đành nuốt nước bọt ngâm
câu "tình tuyệt vọng":
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thu.
Nàng thoáng hiện tới chùa một lần
rồi không bao giờ trở lại. Con "người gieo thảm" đó để lại
trong lòng Sinh một mối tương tư cay đắng, vì không thể nào trăm năm tính
cuộc vuông tròn. Hình ảnh nàng đang ám ảnh Sinh một cách mãnh liệt, thì
bỗng một hôm, chàng nghe tin nàng đã chết. Ôi! Rõ thật là: Ngày xuân
xanh sơ ngộ để thiên thu."
Mới thấy nàng có một lần, nhưng
Sinh lăn khóc thảm thiết khi hay tin nàng lìa trần. May thay, tục lệ lúc bấy
giờ ưa chôn người chết ở nguyên quán, nên quan huyện ướp xác quàng
thây nàng tại ngôi chùa Sinh trú ngụ, chờ ba năm sau sẽ đưa về cố quận.
Từ đó Sinh được đêm ngày gần gũi người đẹp... trong quan tài. Mối
tình si vẫn nồng đượm, có lẽ còn mặn mà hơn xưa, bởi lẽ giờ đây
không còn gì ngăn cách. Cái chết xóa tan mọi bất bình đẳng giữa con
người, phá đổ mọi ranh giới tài sản, địa vị, giai cấp... Mỗi bữa
ăn, Sinh đặt một mâm cơm trên nắp quan tài cúng cho vong linh hưởng xong,
chàng mới chịu hạ xuống ăn. Chàng kể lể với người trong quan tài như
sau:
"Ối nàng ơi! Âm dương đôi ngã,
nàng có thấu cho lòng tôi không? Khi nàng còn sống, nàng là lá ngọc cành
vàng, tôi chỉ là một kẻ thư sinh bần hàn ăn nhờ ở đậu, có khi nào
đài gương soi đến đậu bèo! Nhưng tôi yêu nàng tha thiết, tình riêng luống
ra ngẩn vào ngơ. Hình bóng nàng đậm nét trong tim tôi. Bây giờ, nàng nằm
đó, tôi đứng đây, cách nhau có một tấm ván quan tài, chỉ trong gang tấc
vậy mà thành ra biết mấy trùng quan san! Ôi! Sao con tạo khéo trêu người
dường bấy! Khi tôi được hân hạnh gần gũi nàng, thì nàng đã hóa ra người
thiên cổ, thành cái xác không hồn! Ước sao nàng hãy sống lại, tôi xin
đổi bất cứ gì để đôi ta được tái ngộ trên dương trần! Xin nàng
chứng giám cho lòng tôi."
Bữa ăn nào cũng vậy, việc cúng cơm
và đọc văn tệ than khóc người đẹp trở thành một tục lệ bất biến
trong đời chàng thư sinh. "Hữu cầu tất ứng", lời cầu nguyện của
chàng chẳng bao lâu cảm ứng được vong hồn người chết. Một đêm nàng
hiện về thỏ thẻ:
"Cảm tấm tình si của chàng, em
đã xin với Diêm vương cho em được tái sinh vào ngôi nhà số 555, đường
Nguyễn Văn Trổi, thành phố Hồ Chí Minh. Mười lăm năm sau đúng vào ngày
rằm tháng bảy, chàng hãy đến tìm em ở đó, chúng ta sẽ gặp gỡ để vầy
mối lương duyên. Nhưng chàng ôi, Diêm vương có ra một điều kiện. Muốn
tái sinh, em phải nhờ người thân chí thành tụng một Tạng Kinh Kim Cương
thì mới được như ý. Vậy, nếu chàng có lòng, xin chàng hãy tụng kinh
cho em."
Sinh tỉnh dậy mừng rỡ, ghi rõ ngày
tháng nàng đã hẹn lên vách, ghi luôn cả địa chỉ mới của cô gái. Từ
đó chàng xếp bút nghiên, chuyên chú tụng Kim cương đến sáu ngàn lần như
nàng dặn, phải hết mất ba năm. Năm đó chàng đã bốn mươi lăm tuổi. Còn
những mười hai năm nữa mới gặp lại người đẹp ngày xưa! Sinh vẫn
ôm lòng chờ đợi, hình ảnh yêu kiều của nàng mỗi ngày một đậm nét
trong trí tưởng.
Về phần cô gái, quả nhiên thần thức
cô đã thác sinh vào một gia đình thường dân ở địa chỉ trên, để đáp
lại tấm tình si của anh học trò. Cô mang hình đáng một cô gái nhu mì dễ
yêu, nhưng không có gì gọi là cá lặn chim sa cho lắm. Mối tình đeo đẳng
từ lúc còn nằm trong quan tài, khiến tiềm thức cô vẫn một mực đợi
chờ anh chàng thư sinh mặt trắng. Với tình yêu mới nở, cô tưởng tượng
hình dung của anh chàng ít ra cũng bằng chàng Kim:
"Phong tư tài mạo tuyệt vời.
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa."
Ngày tháng thoi đưa, sắp đến ngày hẹn.
Chàng thư sinh bây giờ tuổi đã xấp xỉ lục tuần, râu tóc hoa râm, sắm
mặt phong trần vì nỗi đời mưa nắng. Nhưng mối tình thì vẫn tươi trẻ
như thuở ban đầu, vì nó vô hình vô tướng nên không có già bệnh như cái
thể xác của anh. Tình yêu đã không đổi, nên hình ảnh nàng trong tim anh
không chút đổi thay, đó là nét đẹp đắm nguyết say hoa của một lần
sơ ngộ. Anh yêu, là yêu cái hình bóng của nàng thì đúng hơn. Vì nếu
nàng còn sống thì chắc chắn bây giờ nàng cũng không còn như hình bóng
anh tôn thờ.
Cái ngày hẹn hò đã đến. Anh chàng
thắng bộ y phục mới tinh, chải lại mái tóc nửa đen nửa bạc không biết
bao nhiêu lần, cố che dấu càng nhiều tóc bạc càng hay. Anh cũng không
quên bôi dầu láng mượt như thời trang dạo đó. Nhưng làm gì thì làm,
không thể hóa trang cái già thành trẻ. Không thể nào xóa hết những vết
hận năm tháng khắc sâu trên vừng trán nhăn nheo.
"Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này."
Huống chi là con người, dù nó có nỗ
lực bao nhiêu để xóa bỏ vết tích thời gian trên thân thể. Nhưng tâm hồn
của chàng, mối tình si của chàng vẫn không chịu già theo tuổi tác, mà
nó vẫn là mối tình đầu của tuổi đôi mươi, của cái lần sơ ngộ.
Cho nên anh chàng hăng hái, hăm hở thuê xe tắc xi đến địa chỉ nàng hẹn
để gặp lại tình xưa. Phần nàng cũng vậy, con tim rộn rã với tình
yêu, với mộng đẹp và với hình ảnh chàng thư sinh khả ái. Chắc hẳn mặt
chàng phải đẹp như mối tình của chàng! Chắc hẳn chàng phải tươi trẻ
như hoa xuân phong nhụy! Ôi, cảm động làm sao sẽ là cái phút giây gặp gỡ!
Ngàn năm hồ dễ đã ai quên.
...Mỗi người sống trong tâm tưởng
hình ảnh tuyệt vời của người kia, và của mối tình, tưởng tượng đến
cái lúc gặp gỡ mà suýt chết ngất người vì sung sướng. Chiếc xe tắc
xi đã dừng lại trước một ngôi nhà chúng cư dơ dáy. Nàng con gái đã ra
đứng tựa cửa trông chờ. Mà nào thấy đâu bóng hình "hoàng tử của
lòng em"? Chỉ là một cụ già trông càng già hơn do bởi nỗ lực làm
cho có vẻ trẻ. Cô gái buột miệng hỏi:
- Ông kiếm ai?
- Xin lỗi, cho tôi hỏi thăm nhà tiểu
thư...
- Ông là ai?
- Tôi là thư sinh ở trọ chùa Bà Ðầm.
Xin cô cứ thưa lại với tiểu thư như vậy.
Cô gái òa khóc, nói trong tức tưởi:
- Không phải, không phải! Trời ôi!
Chàng đã phụ tình, đã lừa dối ta! Chàng đã si mê người khác, nên
đưa ông già này đến thay! Chàng lừa dối ta! Thật chàng khinh ta quá mức!
Nàng ôm mặt bỏ chạy một mạch vào
nhà trong. Cụ thư sinh lủi thủi lê bước trên đường về. Chàng như bừng
tỉnh cơn trường mộng: hình ảnh cô tiểu thư đã chết thật rồi, nhờ
chàng vừa tai nghe mắt thấy. Vâng, nhờ thấy người con gái sống, mà
chàng chết được trong tim hình ảnh người con gái chết. Bấy lâu hồn ma
vẫn sống mãnh liệt trong lòng chàng dưới hình ảnh một cô nương hoa
nhường nguyết thẹn. Nhưng bây giờ, sau mười lăm năm chờ đợi, chàng
chỉ bắt gặp một cô gái nhan sắc tầm thường như trăm ngàn cô gái
khác, nào có gì đâu?
Chàng trở về, giở lại Kinh Kim Cương
ra tụng, đến câu kết:
Hết thảy pháp hữu vi
Như mộng huyễn ảo ảnh
Như sương và như chớp
Hãy quán sát như vậy.
Chàng tỉnh ngộ, thầm nhủ:
"Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại
cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ
không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ
huống chi phi pháp. Nhan sắc nàng, cái nhan sắc mà mười lăm năm nay ta từng
say đắm, đã không thực, huống chi là hình ảnh, hoài niệm về nhan sắc
ấy. Cái thực đã không thực, huống hồ là mộng tưởng trong tâm."
-ooOoo-
2. TRÁI TIM CỦA MẸ
Ngày xưa, có một cậu bé ở với mẹ
trong một túp lều ven rừng. Ngày ngày cậu đi vào rừng hái củi bán để
nuôi mẹ. Mẹ cậu ở nhà nấu cơm, vá áo, chăm sóc những luống rau. Hai mẹ
con sống nghèo nàn hẩm hút, nhưng không kém vẻ đầm ấm, bởi vì tình thương
của mẹ vốn đã là điều kiện cần và đủ cho một con người.
Nhưng cậu bé lớn dần và bắt đầu
đi xa hơn trong những buổi kiếm củi. Hồn cậu cũng bay xa hơn trong những
mộng ước, mong chờ. Cho đến một chiều nọ, trên đường hái củi cậu
bắt gặp một bóng hồng thiếu nữ bên suối biếc. Kể từ hôm ấy, bát
cơm nguội trên tay mẹ âu yếm đưa cho cậu ăn đỡ đói lòng mỗi khi trở
về, không còn hương vị nữa. Cậu bắt đầu tiếc nhớ bâng khuâng, người
trở nên thờ thẫn, mất hồn. Bà mẹ lo lắng hỏi han, cậu gắt gỏng với
mẹ. Tình yêu hay đúng hơn, sự mê gái, đã làm cậu lú lẫn mê muội rồi.
Mẹ càng chăm sóc ân cần, cậu càng khó chịu, muốn bỏ nhà ra đi... theo
bóng hồng bên suối biếc.
Ối, phải chăng nàng là tiên nữ
giáng trần? Cậu cảm như chưa bao giờ thấy một người con gái đẹp đến
thế. Mỗi đáng vẻ, động tác của nàng đều làm cho cậu mê mẩn tâm thần:
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh, em đứng chỗ nào cũng xinh.
Huống chi nàng lại đứng bên bờ suối
phận chiếu ánh trời chiều long lanh với muôn màu sắc: màu xanh của mây,
màu vàng, đỏ, tím của hoa rừng, màu lục biếc của cây lá ...Giữa
thiên nhiên kỳ tuyệt ấy, nàng nổi bật như một đóa hoa vương giả khoe
tươi.
"Thầm yêu trộm nhớ bấy lâu đã
chồn"... Thanh niên đánh bạo đến gần người đẹp. Thiếu nữ vừa
trông thấy cậu đã khóc òa:
- Chàng ôi! Thiếp không còn sống được
bao lâu nữa nếu ....
Giọng oanh vàng nấc nghẹn. Thanh niên
hỏi dồn:
- Tại sao, tại sao, nàng hỡi! Tôi sẽ
làm bất cứ gì để đem lại sự sống cho nàng, dù có phải mất mạng.
Thiếu nữ mở lớn đôi mắt bồ câu
xinh:
- Thật không, ồ xin chàng hãy cứu
thiếp! Thiếp đau bệnh nan y, thầy thuốc bảo chỉ có nuốt vào mình trái
tim nóng hổi của một người mới tắt thở, họa may hết bệnh. Nếu chàng
cứu thiếp, thiếp xin hứa sẽ trọn đời sửa túi nâng khăn.
- Xin nàng hãy đứng chờ.
Thanh niên chạy như bay một mạch về
túp lều. Bà mẹ tựa cửa trông con, trong chỗ tranh sáng tranh tối, cậu va
cái cốc vào đầu mẹ. Tiến thể, cậu rút ngay con dao ở vách lều, thọc
vào ngực bà, moi ra trái tim còn nóng hổi. Cậu bưng trái tim mẹ hối hả
chạy ngược trở lại bờ suối.
Mặt trời đã lặn khuất sau đồi. Bóng
lá cây đen dầy che rợp lối đi. Ba bốn lần cậu suýt vấp ngã vì vội
vàng hấp tập. Bỗng nghe một tiếng nói hiền từ đâu đây vọng lại:
- Con ơi, chạy chậm bước lại kẻo
té, con ạ!
Cậu giật mình đứng lại ngơ ngác
nhìn quanh. Nhưng cậu chợt hiểu. Thì ra tiếng nói kia vang lên từ trong hai
lòng tay cậu, từ TRÁI TIM CỦA MẸ!
-ooOoo-
3. GIỮ GÌN CÂY PHÁP
(Phỏng thuật theo Kinh Tăng Chi Bộ)
Khi đức Thế tôn ở núi Linh Thứu
thành Vương Xá, có tôn giả Dhammikà, sau khi lang thang hết chỗ này tới chỗ
khác qua bảy trú xứ mà không nơi nào chấp nhận, cuối cùng lần mò về
chỗ Phật. Nguyên do là vì, tôn giả đi đến đâu cũng gây sự với các tỳ
kheo ở đó, khiến họ không chịu nổi, bỏ đi. Các cư sĩ biết chuyện,
đến mời Tôn giả đi chỗ khác. Thế là cuối cùng Tôn giả về thành Vương
Xá yết kiến Phật. Ngài hỏi:
- Này Dhammikà, sao ngươi trở về đó?
- Bạch Thế tôn, con bị các cư sĩ tại
các trú xứ mời đi chỗ khác.
- Thế đấy! Ngươi cũng chẳng hề gì
cả, vì còn ta đây để cho ngươi quay về. Phải ngươi nghĩ vậy không?
Tôn giả cúi đầu im lặng. Ðức Thế
tôn lại bảo:
- Thuở xưa, này Dhammika, các nhà buôn
đi biển thường mang theo một con chim. Khi tàu ra khơi, không trông thấy bờ
bến, muốn biết có hòn đảo nào gần để ghé tàu, người ta thả con
chim ra. Nó bay đi tứ phía, nếu không có chỗ nào đậu, không gặp bờ bến,
thì nó trở lui về tàu. Nay nhà ngươi cũng vậy đó, Dhammika.
Tôn giả đứng im lặng, Thế tôn lại
tiếp:
- Thuở xưa, này Dhammika, có một cây
bàng chúa to lớn, chịu đầy trái ngon ngọt. Vua và các cung nữ hưởng thụ
một cành, quân đội hưởng thụ một cành, dân chúng một cành, các sa
môn, bà la môn một cành, thú rừng và chim chóc một cành. Một hôm có người
đến ăn trái no bụng xong, bẻ gãy một cành rồi bỏ đi. Khi ấy vị thần
trú nơi cây bàng nói với cây rằng: "Thưa tôn giả, loài người thật
là ác độc, đã ăn no rồi còn bẽ gãy cành. Tôn giả đừng có sinh trái
nữa." Cây bàng chúa nghe lời, năm sau không thèm sinh trái nữa. Khi thấy
cây không còn sinh quả, vua bèn yêu cầu trời Ðế thích triệt hạ cây
bàng chúa. Ðế thích liền ra lệnh cho Thiên lôi nổi sấm sét bật tung gốc
rễ cây bàng lên, làm cho nó ngã nằm sóng soài ra giữa đất. Vị thần cây
mất chỗ trú ngụ, đứng khóc lóc nước mắt đầy mặt, làm cho trời Ðế
thích ngạc nhiên hỏi: "Này thần cây, sao ngươi sầu muộn thế?"
Thần cây đáp: "Thưa tôn giả, có cơn mưa to gió lớn nổi lên, làm
cho trú xứ của con, cây bàng chúa này, bị ngã xuống trốc gốc."
Ðế thích hỏi: "Này thần cây,
ngươi có giữ gìn cây này, để cho nó sống đúng như pháp không?" Thần
hỏi: "Thế nghĩa là gì, thưa Tôn giả?" Ðế thích nói: "Nghĩa
là ngươi phải nghĩ, với cái cây này, người cần rễ đến lấy rễ,
người cần lá đến lấy lá, cần hoa lấy hoa, cần trái lấy trái. Như vậy
không có gì dính dấp đến vị thần cây, khiến cho vị ấy không hoan hỉ.
Thế là giữ gìn Pháp của cây."
Thần cây nói: "Thưa Tôn giả, con
sẽ giữ gìn cây ấy theo pháp của cây. Mong rằng trú xứ của con trở lại
như xưa." Rồi Ðế thích vấn thần thông làm cho cây bàng chúa dựng
đứng trở lại.
Cũng thế, này Dhammika, nhà ngươi có
giữ gìn pháp của sa môn, khi các cư sĩ mời ngươi đi chỗ khác hay không?
- Nhưng bạch Thế tôn, thế nào là giữ
pháp của sa môn?
- Này Dhammika, sa môn không mắng nhiếc
lại người đã mắng nhiếc mình, không tức giận người đã tức giận
mình, không khiển trách người đã khiển trách mình. Như vậy là giữ gìn
pháp sa môn.
- Bạch Thế tôn, con không giữ gìn sa
môn pháp, khi các cư sĩ mời con đi nơi khác.
- Vậy, này Dhammika, từ nay về sau, ngươi
cần phải học tập pháp sa môn.
- Thưa vâng, bạch Thế tôn.
-ooOoo-
4. HOA VẪN TƯƠI CÀNH
Kinh thuật tóm tắt một đoạn kinh
Di Lan Ðà (Milinda-panha)
Hoa tàn mà lại thêm tươi
Trăng tàn mà lại hơn mười năm xưa (Kiều)
Một hôm, vua Di Lan Ðà (Milinda) đề
nghị với tỳ kheo Na tiên (Nagasena):
- Bạch Tôn giả, pháp của Ðức Như
lai thật là hùng vị, cao quý, tuyệt vời, thuần tịnh, không cấu nhiễm,
không lỗi lầm. Thật không nên để cho cư sĩ phàm phu gia nhập Tăng đoàn
thanh tịnh. Hãy dạy Phật pháp cho chúng, đến khi chúng chứng được quả
Dự lưu rồi mới nên cho xuất gia. Vì sao? Vì khi những con người còn cấu
uế xấu xa ấy được gia nhập Pháp và Luật thuần tịnh như thế kia, rủi
chúng bỏ đạo nửa chừng, đọa lạc trở lại nơi hạ liệt, thì do sự
đọa lạc của chúng, người ta sẽ nghĩ rằng: "Chắc là Pháp Luật của
sa môn Cù Ðàm chẳng có ra gì, nên những người kia đã bỏ."
Na Tiên tỳ kheo trả lời:
- Ðại vương, giả sử có một cái hồ
tắm, đầy nước trong sạch mát mẻ. Có một người dơ dáy, mình lấm cả
đất bùn, đi đến hồ nước nhưng không chịu tắm, lại bỏ về, vẫn dơ
dáy như cũ. Trong trường hợp ấy người ta sẽ chê người kia hay chê cái
hồ?
- Bạch Tôn giả, người ta sẽ chê người
kia, chứ hồ tắm có lỗi gì. Làm sao cái hồ tắm tự tẩy sạch người
ấy được, nếu người ấy không chịu tắm?
- Cũng vậy, Ðại vương, giáo pháp đức
Thế tôn ví như hồ nước trong sạch mát mẻ kia. Một người đầy cấu bẩn
tội lỗi, tu theo Ph?t pháp sẽ hết những nhiễm ô, nhưng nếu không tu, bỏ
về thì cũng như người dơ không chịu tắm. Lỗi không ở Phật Pháp.
Và này, Ðại vương, giả như có một
vị lương y trị lành các chứng bệnh, và một người mắc bệnh đi đến
lương y nhưng không chữa trị, bỏ về, bệnh vẫn còn nguyên, thì lỗi ở
người kia hay ở lương y?
- Bạch Tôn giả ở người kia chứ.
Lương y làm sao chữa bệnh cho nó, nếu nó nhất định không chịu chữa?
- Cũng thế, Ðại vương, đối với
Ðức Như lai. Và này, Ðại vương, giả như lương y có nhiều thuốc hay trị
bá bệnh, tuyên bố rằng: "Bà con cô bác nào bệnh thì đừng đến đây.
Chỉ có người khỏe mạnh mới được đến." Khi ấy những người mạnh
có cần đến thuốc của lương y không?
- Bạch Tôn giả không cần! Vì những
người ấy đã khỏe mạnh.
- Cũng vậy, Ðại vương. Người đã
chứng quả thì còn cần gia nhập Tăng đoàn làm gì nữa. Nhưng này Ðại vương,
không vì sự thối đọa của những người bỏ cuộc mà Phật pháp mất
giá trị. Trái lại, nó còn chứng tỏ năm điểm vi diệu của chánh pháp:
Thứ nhất, chánh pháp cao thượng thù
thắng nên những người kia không theo nổi. Như một người nghèo dốt nát
được quyền làm chủ một vương quốc, thì vì không biết gì cả, chẳng
bao lâu y phải bị hất xuống, trở lại tình trạng khốn cùng. Kẻ ngu cũng
vậy, không thể đương nổi Phật pháp.
Thứ hai, chánh pháp trong sạch không
tì vết, như lá sen không thấm nước. Kẻ ngu vào đạo rồi đi ra, như nước
tuột khỏi lá sen.
Thứ ba, chánh pháp thanh tịnh không
dung kẻ tội lỗi, như biển không chứa thây chết, thây phải giạt vào bờ.
Thứ tư, chánh pháp cao sâu như đích
khó trúng với một người bạn tên dở.
Thứ năm, giới luật rất khó giữ,
nên kẻ yếu đuối không thể theo.
Lại nữa, này Ðại vương, như bụi
bông lài có những hoa bị sâu ăn, rã rụng nửa chừng, thì bụi bông
không vì thế mà mất giá trị, vì nó còn có những hoa khác tỏa ngát hương
lài. Phật pháp vi diệu cũng thế, không vì những người thối đọa mà mất
giá trị, bởi vì vẫn còn những người ở lại trong Tăng đoàn sẽ tỏa
ngát hương giới hạnh khắp thế giới nhân loại và chư thiên.
- Hay thay, bạch Tôn giả. Bằng nhiều
ví dụ chính xác, tôn giả đã khéo trình bày sự vi diệu, vô cấu của
giáo pháp đức Như lai. Dù có những người bỏ đạo, cũng vẫn chứng tỏ
được các điều thù thắng của Phật pháp.
-ooOoo-
5. NỖI LÒNG TU-ÐI
Sư thượng đường kể:
Ngày xưa, có một con chó bị bệnh ghẻ
lác, nên bị chủ quăng bỏ ra ngoài bờ sông. Cạnh bờ sông có một vị sư
già sống trong một am cốc nghèo nàn, ngày ngày đi khất thực để sống.
Trông thấy con chó đói bệnh, vị sư động lòng từ mẫn, đem về săn sóc,
chia sớt cho nó phần ăn hàng ngày sư xin được, tắm rửa, xức thuốc cho
nó. Chẳng bao lâu nhờ sự tấn tâm của sư mà con chó khỏi bệnh, lông
lá mọc lại trên thân, trở thành một anh chó bảnh bao, dễ nhìn. Nhà sư
đặt tên nó là "Tu Ði", có ý muốn thọ ký nó phát tâm tu hành để
chuyển nghiệp chó.
Nhưng từ khi khỏi bệnh, Tu Ði đâm
ra ưa lêu lổng. Nó tìm gặm những cục xương của người ta vứt bên bờ
sông, và bỗng thấy hết ưa mùi vị tương chao của nhà sư tốt bụng,
người đã cứu tử nó. Ngày ngày nó đi tìm ăn những cơm thừa cá vụn
nên đâm ra quen mùi trần tục. Một hôm nó đang ngồi bên bờ sông nghễnh
mõm nhìn móng sang bên kia bờ, bỗng một làn gió từ bên ấy tắt qua, thơm
phức mùi thịt xào hành mỡ. Nó tung mình nhảy xuống sông lội về hướng
ấy. Khi nó lội đến giữa dòng thì nhà sư cũng vừa về tới am, không thấy
Tu Ði ngài ra sông tìm. Thấy con chó thân yêu đang chới với giữa dòng
theo tiếng gọi của dục vọng, nhà sư tha thiết gọi nó quay về:
-Tu Ði! Con nỡ nào bỏ thầy già yếu
cho đành? Con hãy mau quay về với thầy. Tu Ði, Nào có mùi vị gì nơi một
mảnh xương khô của trần tục, con chỉ tự ăn nước bọt chính con tiệt
ra đấy mà thôi. Hãy quay về, hỡi Tu Ði!
Con chó nghe lời thầy gọi vội vã
quay trở lại, nhưng nó vừa quay lưng với bờ kia thì bỗng một làn gió từ
bên ấy hắt lại, tạt mùi thịt ngon lành vào mũi nó. Không cưỡng được,
nó lại bơi trở lui về hướng thịt xào. Bên bờ này vị sư lại thiết
tha khuyên nhủ. Con chó cầm lòng không đậu cũng quay lại, nhưng vừa muốn
quay lại với thầy, thì gió lại đưa mùi thịt xào đến mũi nó, cứ thế
Tu Ði quay qua lộn lại giữa giòng sông không thể quyết định được. Và
cuối cùng nó bị chết chìm ngay giữa giòng.
Kể xong câu chuyện, sư lui về tịnh
thất nghỉ. Các đệ tử ngồi lại kháo nhau:
- Huynh cho câu chuyện ấy có nghĩa gì?
Một người nói:
- Ðó là cái chết thảm khốc của một
kẻ bội bạc, phận chủ.
Người thứ hai:
- Tai họa xẩy đến cho những kẻ nào
không quyết đoán.
Người thứ ba:
- Các huynh nói đều đúng cả, nhưng
theo tôi thì, thầy mình có ngụ ý. Con chó tượng trưng cho người khởi sự
tu tập, tại gia hay xuất gia. Vị thầy là Phật tánh, lương tri sẵn có nơi
mỗi người. Mùi thịt xào với làn gió là sự cám dỗ mời gọi của sắc
thanh hương vị xúc pháp, tức sáu trần. Giòng sông tượng trưng cho sanh tử.
Người nào đã thấm nhuần chút đạo lý, thì đạo lý ấy trong họ trở
thành một thứ đại bổ hoặc kịch độc. Ðại bổ là khi sống thuận
theo ánh sáng mình đã thấy, kịch độc là khi mình không cưỡng nỗi tiếng
gọi của sắc trần mà quay lưng với đạo, chạy theo thanh sắc. Thỉnh thoảng
tiếng gọi của lương tri nổi dậy, nên người ấy không thể nào dứt
khoát chạy theo thanh sắc như người thế tục chưa từng biết đạo, mà cũng
không thể quay về, cho nên phải chết chìm giữa giòng sông sanh tử.
-ooOoo-
6. CÚNG PHẬT
(Phỏng theo một đoạn vấn đáp
trong kinh "Di Lan Ðà vấn" - Milinda-panha )
Vua Di Lan Ðà hỏi: - Ðức Phật đã
nhập Niết bàn có nhận những sự cung kính cúng dường hay không? Nếu
Ngài có nhận thì chứng tỏ Ngài chưa giải thoát, vẫn còn quanh quẩn đâu
đó trong ba cõi. Nếu Ngài không nhận, thì sự cung kính cúng dường Ngài
thật vô ích.
Na Tiên đáp: - Ðức Phật là Ðấng
giải thoát hoàn toàn. Ngay khi Ngài còn ngồi dưới cội Bồ đề, còn thân
hữu dư, Ngài đã không cần đến sự cung kính cúng dường, huống chi sau
khi Ngài đã nhập Vô Dư Niết bàn.
Nhưng chính vì để làm phước điền
cho thế gian, mà khi còn tại thế, Ngài đã thụ nhận những sự cung kính
cúng dường tuy Ngài không cần đến. Những người cúng dường nhờ đó
được phước đức lớn. Sau khi nhập Niết bàn cũng vậy, mặc dù Ngài
không nhận, nhưng những kẻ cúng dường cung kính Ngài vẫn được phước
báo lớn do nhân lành ấy.
Vua Di Lan Ðà hỏi: - Những lời Tôn
giả nói chỉ thuyết phục được các tỳ kheo đệ tử Phật mà thôi. Như
con đề cao cha, trò đề cao thầy, không đủ thuyết phục người ngoài.
Xin hãy nêu những bằng chứng cụ thể, khách quan thì trẫm mới tin được.
Na Tiên tỳ kheo: - Ðại vương, Ðại
vương có nghĩ rằng đất bằng lòng nhận những gì ta gieo xuống đất hay
không?
- Bạch Tôn giả, không! Nhưng đất làm
môi trường cho hạt nẩy mầm, đơm hoa kết trái.
- Cũng vậy, Ðại vương. Tuy Ðức Thế
tôn không nhận sự cung kính cúng dường, người ta vẫn gặt hái kết quả
của sự cung kính do nhân duyên cung kính cúng dường Phật.
Và này Ðại vương, những con súc vật
hay con người, có nhận cho những con vi trùng ở trong thân mình đục khoét
cơ thể hay không?
- Không, thưa Tôn giả.
- Thế thì tại sao chúng vẫn bị vi
trùng đục khoét?
- Ấy là do từ lâu xa, chúng đã tạo
những điều kiện, nh?ng môi trường cho vi trùng sinh trưởng, do ác nghiệp
của chúng.
- Cũng vậy đối với thiện nghiệp cúng
dường cung kính, mặc dù Phật không nhận, vẫn có quả báo tốt đẹp. Và
này Ðại vưong, Ðại vương có nghe chuyện con quỷ Nalaka bị đất chôn sống
không?
- Bạch Tôn giả, có nghe.
- Vì sao quỷ bị chôn sống?
- Bạch Tôn giả vì quỷ Nalaka xúc phạm
đến trưởng lão Xá Lợi Phất lúc Ngài đang nhập định.
- Thế thì trưởng lão Xá Lợi Phất
có chấp nhận cái việc đất chôn sống quỷ Nalaka không?
- Bạch Tôn giả, không! Nhưng do ác
nghiệp của quỷ mà quỷ tự rước lấy quả báo.
- Cũng vậy, này Ðại vương, mặc dù
đức Như lai không nhận sự cung kính cúng dường, nhưng do thiện nghiệp cúng
dường của chúng sanh, sẽ tự có quả báo tốt đẹp.
- Hay thay, thưa Tôn giả, ngoại đạo
sẽ nhờ những ví dụ cụ thể của Tôn giả mà tiêu tan những thành kiến
trong vấn đề này.
-ooOoo-
7. PHẬT TIẾP KHÁCH
Vào một mùa an cư, trưởng lão Yasoja
dẫn về vườn Cấp Cô Ðộc 500 tỳ kheo yết kiến Phật. Vì mới thụ giới
chưa lâu, uy nghi chưa thuần thục, những vị này gây nhiều tiếng động
khi xếp đặt chỗ nghỉ dưới gốc cây, và lớn tiếng chào hỏi nhau. Từ
trong hương thất của ngài, Ðức Thế tôn gọi thị giả A nan dạy:
- Này A nan, tiếng gì ồn ào ngoài
kia, như là tiếng hàng cá ngoài chợ tranh giành cá với nhau vậy?
- Bạch Thế tôn, đó là 500 vị tỳ
kheo đệ tử của trưởng lão Yasoja mới đến.
- Ngươi hãy cho các tỳ kheo ấy vào.
- Thưa vâng, bạch Thế tôn.
Tôn giả A Nan mời 500 khách tăng vào
hầu Phật, với Yasoja, thầy họ dẫn đầu. Ðến nơi họ đảnh lễ Thế
tôn rồi ngồi một phía. Ðức Thế tôn quở trách:
- Này các tỳ kheo, các ngươi không xứng
đáng ở cạnh ta. Hãy đi đi. Ta đuổi các ngươi.
Chư tỳ kheo đảnh lễ Phật rồi lui
ra. Tôn giả Yasoja khuyến khích họ:
- Chư hiền, Ðức Ðạo sư quở trách
chư hiền vì lợi ích cho chư hiền. Hãy tinh tấn tu học, để Ðức Ðạo
Sư hoan hỉ.
- Thưa vâng, bạch Tôn giả.
Rồi Tôn giả dẫn 500 Tỳ kheo đi đến
một bờ sông để dựng chòi an cư trong mùa mưa. Các tỳ kheo tinh tấn tu học,
mãn hạ, tất cả đều chứng quả A La Hán. Từ vườn Cấp Cô Ðộc, đức
Thế tôn nhập định thấy hào quang sáng rỡ một vùng, nơi chư tỳ kheo
cư trú. Ngài cho gọi Tôn giả A Nan bảo:
- Này A Nan, hãy nhân danh ta, đến bờ
sông mời các tỳ kheo lại đây.
- Thưa vâng bạch Thế tôn.
Khi 500 Tỳ kheo đến yết kiến đức
Phật sau mùa an cư, Ðức Thế tôn đang nhập định. Chư tỳ kheo này với
tâm thanh tịnh, rõ biết rằng: "Nay Thế tôn đang an trú định bất động,
vậy chúng ta cùng an trú định ấy." Rồi họ cùng ngồi kiết già nhập
định. Khi mãn canh một (đầu đêm), Tôn giả A Nan đến bên Phật nhắc:
- Bạch Thế tôn, xin Thế tôn hãy xuất
định để đón tiếp các tỳ kheo. Con đã mời họ đến. Họ chờ đã
lâu.
Ðức Thế tôn im lặng. Canh hai trôi
qua, tôn giả A Nan, con người lịch sự hiếu khách, lại tới bên Thế tôn
bạch:
- Bạch Thế tôn, Thế tôn nhập định
đã lâu, các tỳ kheo chờ đợi đã lâu, xin Thế tôn xuất định đón tiếp
họ.
Lần thứ hai, Thế tôn im lặng. Canh
ba trôi qua, A Nan Tôn giả sốt ruột sợ khách chờ, lại đến bên Phật:
- Bạch Thế tôn con đã mời các tỳ
kheo đến, chúng tỳ kheo đợi Ngài đã lâu. Xin Thế tôn xuất định đón
tiếp họ. Khi ấy đức Thế tôn an lành xuất định, từ tốn bảo Tôn giả
A Nan:
- Này A Nan, Ta và chúng Tỳ Kheo đang
nhập định Bất Ðộng. Nếu ngươi hiểu điều ấy, ngươi đã không hối
thúc ta như vậy.
(Theo kinh Phật tự thuyết, Hòa thượng
Thích Minh Châu dịch)
-ooOoo-
8. BẢY BƯỚC
THĂNG TRẦM
Một hôm, thanh niên Citta, con trai một
người luyện voi, đi giữa đường gặp một vị tỳ kheo đang khất thực.
Nhiều Phật tử đến đảnh lễ đặt vào bát của tỳ kheo những thức
ăn ngon lành, trong đó có một trái "sầu riêng", món mà Citta đặt
biết ưa thích. Anh ta liền đến bên vị tỳ kheo, nói:
- Bạch Ðại đức, Ngài cũng ưa món
này sao?
-Ồ, thanh niên. nếu muốn, ngươi có
thể lấy đi.
Thanh niên sung sướng cảm ơn vị tỳ
kheo, nhận trái "sầu riêng" đem về. Dọc đường anh ta suy nghĩ:
"Mình lao động suốt ngày mới có mà ăn, vậy mà vĩ đại đức thì
trông thật nhàn nhã, khỏi làm gì cả, lại được cúng dường đầy đủ.
Hay thay, nếu ta cũng xuất gia để được cúng dường."
Nghĩ thế thanh niên bèn cạo đầu đạp
cà sa đi khất thực, gia nhập một tăng đoàn của đức Phật. Nhưng vì xuất
gia với một động cơ không hay ho gì cho lắm, nên chẳng bao lâu Citta phải
hoàn tục, vì chàng không chịu nổi nếp sống khổ hạnh gò bó của Tăng
đoàn. Nhưng sự thanh tịnh an lạc của chư tăng với khung cảnh trang nghiêm
ở vườn Cấp Cô Ðộc, nơi đức Thế tôn ngự tòa, vẫn để lại một
ấn tuợng khó phai trong tâm khảm chàng, đến nỗi khi đã hoàn tục, Citta
vẫn thường mơ ước trở lại đời tu sĩ. Một hôm gặp một con voi khó
luyện, chàng trở nên chán nghề của cha, và tìm đến Phật xin xuất gia lại.
Ðức Thế tôn chấp thuận cho chàng thế phát. Tu được vài tháng, chàng lại
đâm chán, xin hoàn tục. Một lần nữa, chàng trở về đời sống tại
gia, rồi lại chán, lại cạo đầu xin xuất gia, cứ thế cho đến khi chàng
hoàn tục lần thứ năm. Lần này, khi trở về nhà, việc đầu tiên chàng
định làm là cưới một chị vợ để thay đổi không khí, họa may đời
chàng có chút ổn định nào chăng. Chàng đâm chán cái bệnh ưa thay đổi
của chàng, và muốn thay đổi một lần chót. Do đó chàng cưới vợ.
Ðời sống hôn nhân chẳng bao lâu cũng
làm cho chàng chán ngấy lên tới cổ. Một đêm kia, chàng trằn trọc không
ngủ được, dòm qua thấy chị vợ đang ngủ say, mép tiệt ra một đống
nước bọt trên gối, bụng mang bầu lớn tướng như một con cá "bống
mủ" sắp tới kỳ sinh nở. Chàng bỗng thấm thía sự dơ uế, khốn nạn
của dục lạc và lập tức ôm bát chạy ra đường (y bát của chàng qua năm
lần xuất gia rồi hoàn tục, chàng vẫn giữ như người ta giữ một cái
va-li chờ dịp đi xa). Trên đường vắng, đêm khuya thanh tịnh, một mình
tiến về rừng Cấp cô độc, bao nhiêu hột giống tốt đẹp chàng đã
gieo trong ruộng thức qua năm thời kỳ xuất gia trước đấy bỗng nhiên
cùng trổi dậy một loạt, đâm chồi nẩy lộc. Chàng chứng được quả Dự
Lưu khi đang còn đi trên đường.
Trong lúc ấy, tại vườn Cấp cô độc,
các tỳ kheo sau thời tọa thiền đang ngồi bàn tán về chàng:
- Tên đó, lần này nếu còn trở lại,
chúng ta nhất quyết đừng cho xuất gia. Các huynh đồng ý không?
- Ðồng ý! Cho y xuất gia chẳng khác
nào bắt cóc bỏ dĩa. Y cứ nhẩy ra nhẩy vô hoài, làm náo động nếp sống
thanh tịnh của chúng tăng.
- Phải đấy, nhưng mà chư hiền nghĩ
sao? Y có còn trở lại hay không? Chắc y sẽ xấu hổ không trở lại. Năm
lần là đã quá lắm rồi!
- Chúng ta hãy chờ xem!
Ðúng lúc ấy Citta ôm bát tiến vào vườn.
Mặt y rạng rỡ như trăng rằm, các căn tịch tịnh. Chư tỳ kheo không ai bảo
ai, đều im lặng khi Citta ngỏ lời xin được gia nhập tăng đoàn trở lại.
Có nghĩa họ đã bằng lòng.
Lần thứ sáu xuất gia, Citta nhiệt
tâm tu tập và nhanh chóng đạt đến tứ thiền, nội tâm định tịnh. Chàng
vô cùng hân hoan, và mong mỏi có dịp để tỏ lộ thánh quả. Một hôm
vài vị đã chứng A La Hánđang ngồi đàm luận về Pháp. Citta cũng tham dự,
và không ngớt ngắt lời vị trưởng lão khi ngài đang phát biểu. Trưởng
lão Ðại Câu thi la nói:
- Này Citta, chú hãy đợi những vị
Thượng tọa nói xong cái đã, rồi hãy phát biểu ý kiến của mình.
Vài tỳ kheo bênh vực Citta:
- Bạch Thượng tọa, huynh này đã đắc
pháp nhãn, có thể nói lên những gì đã thực chứng. Xin Thượng tọa chớ
khiển trách y.
- Ta biết y có thiền chứng, nhưng việc
ấy không ngăn nổi y hoàn tục lần nữa. Ví như một con bò khi được buộc
chặt vào cái cọc, thì nó có vẻ hiền lành an ổn, nhưng thả ra nó sẽ dẫm
đạp nát hết ruộng lúa. Cũng vậy một tỳ kheo khi đứng trước bậc đạo
sư hay trước những bậc thánh, có thể tỏ ra khiêm cung, đạo hạnh,
nhưng khi thả lỏng, y có thể thối đọa, từ bỏ học giới mà hoàn tục.
Một người có thể chứng đắc bốn thiền, nội tịnh nhất tâm, và trong
khi an trú các thiền chứng này, y được ổn định, nhưng khi xả thiền, lại
ba hoa khoác lác, không thể tự kềm chế, ưa khoe khoang thành quả. Khi ấy
tâm y đầy tham và mạn, khen mình chê người, và cuối cùng phải từ bỏ
học giới. Khi hoan hỉ tham đắm các thiền chứng, thì chính những thiền
chứng ấy sẽ đưa y đến chỗ tàn mạt. Bởi vì cấu uế của tâm rất
vi tế, thiền chứng chỉ làm cho chúng lắng xuống chứ không mất. Như khi
một đạo quân cắm trại trong rừng, thì vì những tiếng trống kèn ống
loa xe cộ, mà ta không nghe tiếng côn trùng trong cỏ, ta tưởng chúng đã lặng
im. Khi đạo quân nhổ trại đi chỗ khác, tiếng côn trùng lại vang lên như
cũ.
Về sau, quả nhiên Citta từ bỏ đời
sống xuất gia, hoàn tục lần thứ sáu. Chúng tỳ kheo hỏi trưởng lão:
- Bạch ngài, ngài đã biết trước việc
này do thiền quán, hay do chư thiên mách?
- Cả hai.
Họ đến nơi Phật, kể lại sự vụ
và tỏ ý tiệc cho Citta. Thế tôn dạy:
- Không sao, Citta còn trở lại lần nữa,
và sẽ là lần cuối đấy.
Một hôm, Citta cùng đi với Potthapàda
một nhà khổ hạnh, đến hầu Phật để hỏi về Pháp. Những lời Thế
tôn dạy cho vị khổ hạnh làm chàng rất hài lòng. Chàng lại xin Phật xuất
gia lần thứ bảy. Ðức Phật chấp nhận, và chỉ trong thời gian ngắn,
chàng chứng quả La hán.
Ðức Phật kể lại nguyên do tại sao
Citta phải vô ra bảy lần như vậy mới chứng thánh quả. Vào một tiền
kiếp, thời Phật Ca Diếp tại thế, chàng đi cùng với một tỳ kheo bạn.
Bạn chàng ngỏ ý muốn hoàn tục, vì không chịu nổi khổ hạnh. Thay vì
khuyên bạn tiếp tục tu hành, Citta lại có tâm xấu, xúi giặc bạn bỏ
tu, để cho bạn bị chê, mình được khen. Do vậy mà kiếp này Citta phải
chịu sự sỉ nhục là vô ra tăng đoàn bảy lần mới đắc quả.
-ooOoo-
9. LẠC THÀNH NHÀ MỚI
Một thời, Thế tôn nghỉ tại tinh
xá Nigrotha thành Ca tì la vệ. Dân chúng ở đây vừa dựng một giảng đường
cho các sa môn, bà la môn sử dụng. Khi khánh thành, họ cung thỉnh Phật và
chúng tỳ kheo đến ngôi giảng đường ấy trước tiên, để cầu phước.
Ðức Phật im lặng nhận lời. Dân
chúng trở về xếp đặt chỗ ngồi cho Phật và chư tăng trong giảng đường,
đặt ghè nước rửa chân, treo đèn dầu thắp sẵn, (buổi lạc thành có lẽ
đã về chiều). Rồi họ đến thỉnh Phật và chư tăng. Ðức Thế tôn đắp
y, mang y bát cùng chúng tỳ kheo đi đến giảng đường. Ngài rửa chân, ngồi
vào chỗ dành sẵn. Chúng tỳ kheo cũng rửa chân rồi vào ngồi quanh, đối
diện với đức Phật trong giảng đường. Sau khi chúng tỳ kheo và các vị
trong dòng họ Sakya đã an tọa, Thế tôn thuyết pháp đến quá nửa đêm,
khích lệ, làm cho hoan hỉ phấn khởi các vị Sakya ở Ca tì la vệ. Rồi
ngài bảo tôn giả A nan:
- Thầy A nan, thầy hãy giảng Hữu học
đạo cho các vị Sakya. Tôi bị đau lưng. Tôi muốn nằm nghỉ.
Rồi đức Thế tôn trải chiếc đại
y ra gấp làm bốn mà nằm xuống hông bên phải, chánh niệm tỉnh giác. Khi
ấy tôn giả A nan giảng cho các vị Sakya về sự tu tập của một vị
thánh đệ tử, gồm sáu việc như sau:
- Một là thành tựu giới hạnh, sống
đúng theo giới bản tỳ kheo, đầy đủ uy nghi, thấy nguy hiểm trong những
lỗi nhỏ.
- Hai là hộ trì các giác quan, nghĩa là
khi mắt thấy sắc, tai nghe tiếng...không nắm giữ tướng chung (như toàn
thể một con người), không nắm giữ tướng riêng (như đôi mắt, tướng
đi của người nào). Những nguyên nhân gì khiến tham ái ưu bi khởi lên, vị
tỳ kheo chế ngự nguyên nhân ấy, giữ gìn giác quan và tâm ý.
- Thứ ba là tiệt độ trong sự ăn uống.
Vị tỳ kheo nhận và dùng thực phẩm với sự quán sát rằng ta ăn không
phải để vui đùa, không để đam mê, không để trang sức, mà chỉ để
thân này khỏi khổ vì đói, để giữ gìn phạm hạnh. Vị ấy ăn để trừ
cảm thọ cũ là cơn đói, mà không làm phát sinh cảm thọ mới như tham vị
ngon.
- Thứ tư là chú tâm cảnh giác các
pháp bất thiện có thể khởi lên trong từng uy nghi đi đứng nằm ngồi, vào
mọi lúc.
- Thứ năm là thành tựu bảy diệu
pháp: Tín (tin tưởng vào khả năng tự giác), Tàm (tự thẹn, không làm bấy
khi ở một mình), Quý (thẹn với người khác, không làm bậy khi ở chung),
Ða văn (nghe, học nhiều về Pháp), Tinh tiến (siêng năng về việc lành),
Niệm (nhớ nghĩ chân chánh), Tuệ (sáng suốt) và Trạch pháp (biết chọn lọc
các pháp để tu tập).
- Thứ sáu là có khả năng chứng và
an trú bốn thiền một cách dễ dàng.
Khi một vị thánh đệ tử thành tựu
được sáu việc kể trên, vị ấy được gọi là đang đi trên đạo lộ
bậc Hữu học, có trứng không bị hư hoại, có khả năng giác ngộ. Ví như
một con gà mái có trứng khéo ấp, khéo ủ, thì dù nó không cầu mong, gà
con vẫn nở ra. Vị tỳ kheo cũng thế, nếu hoàn tất được sáu việc
trên thì sẽ thành tựu ba sự sáng suốt, giống như gà con ba lần phá vỡ
vỏ trứng để chui ra:
- Vị ấy chứng túc mạng minh, nhớ
được các đời trước, đó là sự phá vỡ đầu tiên.
- Vị ấy chứng thiên nhãn minh, thấy
rõ hành nghiệp chúng sinh người đẹp kẻ xấu người sang kẻ hèn đều
do nguyên nhân chúng tự tạo ra từ đời trước. Ðấy là sự phá vỡ thứ
hai.
- Vị ấy đoạn tận lậu hoặc (phiền
não mê lầm), chứng vô lậu Tâm giải thoát (giải thoát nhờ thiền định),
Tuệ giải thoát (nhờ trí tuệ). Ðó là sự phá vỡ cuối cùng, để con gà
con bước ra ngoài ánh sáng.
Sáu pháp hữu học thuộc về HẠNH đức,
ba minh thuộc về TRÍ đức, thành tựu được như vậy, vị thánh đệ tự
được gọi là bậc MINH HẠNH TÚC.
Khi tôn giả A nan giảng xong, đức Thế
tôn ngồi dậy, khen ngợi tôn giả, và bảo các vị Sakya rằng: "Những
lời thầy A nan nói không khác gì lời đức Như lai, các ngươi hãy ghi nhận
như vậy."
Trên đây là kinh thuật theo kinh Hữu
học về một buổi lạc thành nhà mới vào thời Phật. Ngày nay, thiết nghĩ
Phật tử chúng ta rất nên làm sống lại truyền thống tốt đẹp này. Mỗi
khi cúng tân gia hay bất cứ lễ lạc gì, thay vì bày biến ăn uống linh đình
tốn kém, hãy thỉnh một vị giảng sư về giảng Pháp cho toàn gia nghe. Như
vậy cũng tốt như trai đàn chẩn tế, mà lại ít tốn và ít ồn.