- Ðường vào nội
tâm
- Thích nữ Trí Hải
11
47. ẢO HÓA
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vệ
nữ có lần hóa sinh làm một vị Vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên
ông là Ravana. Ravana có một người con trai tên Dasa. Mẹ Dasa chết sớm, vương
tử cưới một người vợ khác. Sau khi người đàn bà đẹp và tham vọng
này sinh được một trai, bà đâm ra thù ghét Dasa. Bà muốn cho con mình,
Nala, kế vị, nên âm mưu chia rẽ cha con Dasa, và chờ cơ hội thanh toán cậu
bé. Trong triều, có một người Bà La Môn Vasudeva, viên quan coi về tế tự,
biết được âm mưu của bà. Ông thương tình cậu bé, người mà ông thấy
có khuynh hướng sùng tín và đức công bằng giống mẹ. Ông trông chừng
cho Dasa khỏi bị hại, và chờ dịp đưa cậu ra khỏi tầm tay mẹ ghẻ.
Bấy giờ vua Ravana sở hữu một đàn
bò được xem là thiêng liêng. Sữa và bơ của chúng dùng để tế thần.
Những đồng cỏ tốt nhất trong xứ dành cho những con bò ấy.
Một ngày kia, người chăn bò đem sữa
về kinh báo cáo rằng trong vùng bò đang ăn cỏ, có những dấu hiệu sắp
hạn hán. Do đó đoàn người chăn đang dẫn bò lên những dãy núi cao, ở
đó nước và cỏ luôn luôn sẵn sàng ngay cả vào những mùa khô ráo nhất.
Người Bà La Môn đã quen biết người
chăn bò này từ lâu, anh ta là một người đáng tin cậy. Ông cho anh biết
dự định của mình. Hôm sau, khi hoàng tử bé Dasa biến mất, thì chỉ có
ông và người chăn bò ấy biết được lý do bí ẩn của sự mất tích.
Người chăn bò đem cậu bé theo lên núi rừng. Họ theo kịp đàn bò di chuyển
chậm chạp, và Dasa sung sướng được gia nhập đoàn mục tử. Cậu phụ
giúp thả bò, nụn sữa, chơi với những con bê, và lang thang khắp những
đồng cỏ trên núi, uống sữa tươi ngọt ngào, những bàn chân trần của
cậu lấm đầy phân bò. Cậu thích đời sống mục tử này, dần dần quen
với núi rừng và những cây trái hoa quả của nó. Cậu nhặt những củ
sen ngọt trong ao đầm, và vào những ngày lễ hội, cậu đeo một tràng hoa
rừng đỏ chói. Cậu trở nên quen thuộc với đường đi lối về của thú
rừng, tập tránh cọp, chơi với những con sóc và nhím. Mùa mưa cậu ở
trong căn nhà lá ở đó bọn chăn bò chơi cờ, hát hoặc đan giỏ hay chiếu
cói. Dasa không hẳn quên hết đời sống vương giả của mình trước đấy,
nhưng chẳng mấy chốc những thứ này đối với cậu chỉ còn như một giấc
chiêm bao.
Một ngày kia, khi đàn bò đi đến một
vùng khác, Dasa vào rừng để tìm mật. Từ ngày biết núi rừng, cậu đã
bắt đầu thích; nhưng đặc biệt khu rừng này, cậu bé thấy nó đẹp lạ.
Những tia nắng lượn khúc qua những cành lá trông như những con rắn vàng.
Những tiếng của rừng, tiếng chim hót, tiếng xào xạc của những ngọn
cây, tiếng lắp bắp của những con khỉ quyến vào nhau thành một mạng lưới
âm thanh êm dịu trong sáng, giống như ánh sáng giữa những cành cây. Những
mùi hương cũng vậy, hoà vào nhau rồi lại phân tán: hương của hoa rừng,
của những loại cây, lá, nước, rêu, thú vật, trái cây và của đất, vừa
cay nồng vừa dịu ngọt, vừa hoang dã vừa thân thiết, vừa kích thích vừa
thoa dịu, vừa buồn vừa vui.
Dasa quên việc tìm mật. Trong khi lắng
nghe tiếng hót của những con chim nhỏ màu sáng như ngọc, cậu chú ý đến
một đường mòn giữa những rừng cây phong cao chót vót trông như một cụm
rừng nhỏ hẹp. Cậu im lặng rón rén bước theo dấu đường mòn, và đến
một cây bằng có nhiều cành lớn. Dưới gốc cây, có một cái chòi nhỏ,
một túp lều đan bằng lá dương xỉ. Cạnh túp lều, một người đàn
ông ngồi bất động, lưng thẳng đuột, hai bàn tay đặt trên đôi chân bắt
chéo. Dưới mái tóc bạc trắng và vùng trán cao rộng, đôi mắt bất động
của ông tập trung trên mặt đất. Ðôi mắt ấy đang mở, nhưng nhìn vào
bên trong. Dasa nhận ra rằng đấy là một người thánh thiện, một người
tu phái Du già. Trước đấy cậu đã thấy những người như vậy, đó là
những người được ân sủng của thần linh, đáng được tôn trọng cúng
dường. Nhưng người cậu đang thấy đây, ngồi trước túp lều được lợp
rất đẹp và ở nơi kín đáo này, hoàn toàn bất động như thế, đăm chiêu
trong thiền định, -người này càng lôi cuốn cậu bé hơn bất cứ người
nào cậu đã gặp. Ông ta dường như bay lượn trên mặt đất trong khi
đang ngồi đấy, và dường như cái nhìn xa xăm của ông thấy và biết mọi
chuyện. Một hào quang của sự thánh thiện vây phủ ông, một phép mầu của
sự tôn nghiêm lan tỏa làm cho cậu không dám phá tan bằng một lời chào
hay một tiếng kêu. Vẻ uy nghiêm của người ông, ánh sáng nội tâm rạng
ngời trên gương mặt ông, mãnh lực tâm linh toát ra từ nơi ông khiến
Dasa có cảm tưởng đây là một con người mà, chỉ cần móng một niệm
nghĩ, không cần phải ngước mắt lên, cũng có thể sinh và sát được.
Người ẩn sĩ ngồi bất động hơn cả cây cối mà những cành lá còn lay
động trong hơi thở của gió. Người này ngồi bất động như một pho tượng
đá, và từ khi thấy người ấy, cậu bé cũng đứng bất động, say mê,
như bị bùa lực lôi cuốn. Cậu đứng nhìn chòng chọc vào vị thầy. Cậu
thấy một đóm sáng mặt trời trên vai ông ta, một đóm sáng trên một
bàn tay buông thỏng của ông, cậu trông thấy một điểm sáng di động ẩn
rồi hiện, nhưng những thứ này không làm vị ấy lay động, cũng như tiếng
chim hót và tiếng lải nhải của những con khỉ từ các khu rừng xung
quanh. Một con ong rừng đến đậu trên má ông, đánh hơi làn da ông, bò một
đoạn đường ngắn trên má ông rồi vụt bay đi. Nhà ẩn sĩ vẫn ngồi bất
động trước tất cả sự sống động đủ màu sắc của khu rừng. Tất cả
cảnh tượng này, những gì mắt có thể thấy, tai có thể nghe, những cái
đẹp và xấu, đáng ưa hay kinh khủng, đều không mầy may liên hệ đến
con người thánh thiện này. Cậu bé mục tử có gốc gác vương giả tưởng
chừng như vị ẩn sĩ này đã lặn sâu xuống dưới lớp bề mặt của cuộc
đời và đi vào bản thể của mọi sự. Một điều lạ lùng, trong khi đứng
đấy cậu bỗng nhớ lại gốc gác vương giả của mình.
Sau đó, cậu không biết mình đã đứng
đấy bao lâu, hàng giờ, hay đã mấy ngày qua. Khi qua khỏi cái bùa lực đã
làm cậu đứng bất động nhìn ông già, cậu rón rén bước lui giữa những
hàng cây phong, tìm lối ra khỏi cụm rừng, và cuối cùng trở lại đồng
cỏ với đàn bò. Cậu đi mà không hoàn toàn ý thức mình đi. Tâm hồn cậu
còn bàng hoàng như trong mộng, và chỉ bừng tỉnh khi một mục tử gọi
tên cậu. Anh chàng tức giận vì cậu đã vắng mặt quá lâu, nhưng khi trông
thấy Dasa chỉ mở lớn mắt ngạc nhiên nhìn, dường như không hiểu được
ai đang nói gì với cậu, thì người kia kinh ngạc thốt lên:
- Sao thế, mày? Mày vừa trông thấy một
vị thần tiên nào, hay gặp ma quỷ chăng?
Dasa nói:
- Tôi đang ở trong rừng, dường như
có một sức mạnh nào lôi cuốn tôi đến chỗ ấy. Tôi muốn tìm mất. Nhưng
tôi đã quên hết mọi sự khi thấy một ẩn sĩ ngồi thiền định. khi thấy
gương mặt sáng ngời của ông ta, tôi cũng đứng bất động nhìn ông một
lúc lâu. Tôi muốn trở lại đấy chiều nay và mang cho ông ta một ít quà.
Ông ấy là một người thánh thiện.
- Thì mày hãy mang đi. Ðem cho ông sữa
và bánh ngọt. Chúng ta nên cung kính cúng dường các vị ấy những gì ta
có thể cúng.
- Nhưng tôi phải nói với ông ta như
thế nào?
- Không cần phải nói gì cả, Dasa. Chỉ
cần cúi thấp và đặt đồ cúng trước mặt ông. Thế là xong.
Dasa làm y lời. Cậu phải mất một
lúc để tìm ra chỗ cũ. Khoảng trống trước chòi tranh bấy giờ vắng vẻ,
nhưng cậu không dám đi vào trong chòi. Bởi thế cậu đặt tặng phẩm trước
cửa chòi rồi bỏ đi. Trong thời gian đàn bò và đoàn người chăn còn lưu
lại vùng lân cận, Dasa đem đồ cúng hàng ngày vào buổi chiều. Một hôm
cậu đến vào buổi sáng, thấy vị ẩn tu ngồi đắm mình trong thiền
quán, và lần này cũng thế, cậu bị thu hút bởi năng lực toát ra từ nơi
sự bình an của người, đứng lại đấy một lúc trong tâm trắng cực kỳ
hạnh phúc.
Rất lâu sau khi đàn bò và mục tử
đã đời đến đồng cỏ khác, Dasa vẫn nhớ mãi kinh nghiệm của cậu
trong khu rừng này. Mỗi khi ngồi một mình, cậu thường mơ màng tưởng
tượng mình cũng là một ẩn sĩ thực hành thiền định. Nhưng với thời
gian, ký ức và mộng mơ của cậu cũng phai dần, vì cậu bé bây giờ đang
độ lớn nhanh thành một thanh niên lực lưỡng hăng hái lao mình vào những
trò chơi mạnh bạo của đồng bọn mục tử. Nhưng vẫn còn một chút ánh
sáng mờ nhạt của ký ức le lói trong tâm hồn chàng, khiến chàng có một
ý nghĩ mơ hồ rằng, đời sống vương giả và vương vị mà chàng đã mất
ấy, một ngày kia có thể được thay bằng sự tôn quý và năng lực của
thiền định.
Một ngày, khi họ đến vùng phụ cận
kinh đô, thì có tin đồn thành phố đang sửa soạn một cuộc lễ lớn.
Vua Ravana đã già yếu, nên định ngày làm lễ tấn phong cho hoàng tử Nala
kế vị.
Dasa muốn đi xem cuộc lễ. Chàng mong
mỏi được thấy lại kinh đô một lần, vì chàng chỉ còn ký ức lờ mờ
về nó từ tấm bé. Chàng muốn nghe âm nhạc, ngắm đoàn người diễn hành
và cuộc so tài giữa những vương tôn công tử. Chàng muốn nhìn xem một lần
cho biết những con người ở kinh thành, vì chàng biết - mặc dù một cách
mơ hồ như chuyện hoang đường thần thoại - rằng thế giới của họ
cũng đã từng là thế giới của chàng.
Ðoàn mục tử có nhiệm vụ phải
cung cấp một xe bị cho triều đình dùng vào lễ tế trong dịp ấy, và
Dasa sung sướng được chọn làm một trong ba người đem sữa vào kinh đô.
Họ đến kinh thành vào chiều hôm trước buổi lễ, trao sữa cho quan tế tự,
bà la môn Vasudeva, nhưng ông không nhận ra chàng. Ba thanh niên mục tử nối
gót đám đông đi xem cuộc lễ với những đàn voi dẫn đầu cuộc diễn hành.
Xe hoa của tân vương Nala đi trong tiếng trống vang dội. Tất cả cảnh tượng
ấy đối với chàng thật vui nhộn, lộng lẫy, nhưng đồng thời cũng thực
lố bịch đáng cười. Chàng ngắm mọi sự trong niềm vui thú, nhưng vẫn với
lương tri của một mục tử ở núi rừng, nghĩa là vốn sẵn khinh thị
dân thành phố.
Chàng không hề có ý nghĩ về chuyện
chàng là con trưởng đã bị cướp ngôi, rằng người ngồi xe hoa kia đáng
lẽ là chàng, rằng Nala em khác mẹ với chàng đã chiếm chỗ của chàng.
Không, nhưng chàng đặc biệt không ưa gã Nala đang ngồi trên xe ấy, mà
chàng cho là thật ngu đần hạ liệt trong bộ điệu phô trương rỗng tuếch
của y.
Khi trở về sau cuộc lễ, Dasa đã
thành một người đàn ông. Chàng đã biết theo đuổi con gái, và đậu võ
với những thanh niên khác để tranh người đẹp. Bấy giờ đoàn mục tử
đang tiến đến một vùng khác, một vùng đồng bằng. Ở đấy chàng gặp
một thiếu nữ xinh đẹp con gái của một chủ trại. Dasa say mê nàng đến
độ quên hết mọi sự, và dám hi sinh cả đời sống tự do để chiếm
được cô gái. Khi đoàn mục tử nhổ trại để đi đến những đồng cỏ
mới, Dasa gạt qua tất cả những lời khuyên nhủ, cảnh cáo của đồng bọn,
từ giã cuộc đời du mục, và bắt đầu định cư. Chàng cưới được nàng
Pravati làm vợ, nhưng bù lại chàng phải cày cuốc cho ông nhạc, giúp đỡ
ông xay lúa bổ củi. Chàng làm một cái chòi đạp bằng tre và đất bùn,
và giữ vợ chàng trong ấy.
Cái mãnh lực ấy thực là ghê gớm,
nó đã làm cho một thanh niên bỏ hết những thú vui, bạn bè, thói quen,
thay đổi hẳn nếp sống cũ để sống giữa những người lạ với vai trò
chàng rể chán phèo. Nhưng sắc đẹp của Pravati thật quyến rũ, sự hứa
hẹn của tình yêu thật quá nhiều, khiến Dasa trở nên mù quáng, hoàn
toàn quy phục.
Nhưng hạnh phúc của chàng chỉ được
một năm, mà trong khoảng thời gian đó chàng cũng không hoàn toàn sung sướng.
Chàng phải chịu đựng nhiều phiền phức: những yêu sách của ông nhạc,
sự hỗn xược của mấy đứa em vợ, và tính khí thay đổi của vợ chàng.
Hương lửa đang nồng chưa trọn năm
thì một hôm vùng lân cận xôn xao tin đồn tân vương sắp ngự giá đi
săn tại rừng này. Những lều trại được dựng lên khắp nơi, đoàn kị
binh và tùy tùng rần rộ kéo đến dọn đường cho vị vua trẻ. Dasa không
chú ý gì đến cảnh ấy. Chàng bận cày cuốc trong đồng ruộng, chăm lo cối
xay. Chàng tránh xa những người đi săn và triều đình. Nhưng một ngày kia
khi trở về túp lều tổ ấm, chàng không thấy vợ đâu nữa. Chàng đã
triệt để cấm nàng đặt chân ra ngoài trong thời gian triều đình đang
ở trong vùng lân cận, cho nên bây giờ chàng bỗng thấy tim nhói đau, và
linh cảm một tai họa. Chàng vội vàng đến nhà ông nhắc, vợ chàng cũng
không có ở đấy. Không ai nhận đã thấy hay gặp nàng ở đâu. Niềm đau
trong tim chàng thêm mãnh liệt. Chàng lục lọi khắp những luống cải trong
đồng ruộng, suốt ngày này qua ngày khác chàng chạy từ chòi mình đến
nhà ông nhắc và chạy về, tìm dưới ruộng, leo xuống giếng, gọi tên
nàng, vỗ về, nguyền rủa, săn tìm dấu chân.
Cuối cùng, đứa em út của vợ chàng
nói thật cho chàng biết. Pravati đang ở trong lều trại nhà vua, và người
ta đã trông thấy nàng ngồi trên lưng ngựa với vua.
Dasa lẻn đến nơi Nala cắm trại,
mang theo cái ná ngày xưa chàng đã dùng khi còn làm mục tử. Ngày như đêm,
mỗi khi trại của Nala tuồng như không người canh gác, thì chàng bò lại
gần, nhưng mỗi lần như vậy quân canh lại xuất hiện, và chàng phải bỏ
trốn. Ẩn trong cành cây, chàng có thể thấy ông vua trẻ với gương mặt
khả ố chàng còn nhớ rõ trong lễ tấn phong ngày trước. Chàng ngắm y
lên ngựa. Khi y trở về hàng giờ sau đó, xuống ngựa, giở tung tấm vải
che lều, thì Dasa có thể trông thấy trong bóng mờ, một người đàn bà ra
đón vua. Chàng suýt té từ trên cây xuống đất khi nhận ra vợ chàng. Bây
giờ chàng mới chắc chắn, và sức nặng đè nơi ngực chàng trở nên
không thể chịu đựng. Hạnh phúc và tình yêu của chàng mãnh liệt Thế
nào, thì bây giờ cơn giận tức, nỗi mất mát sỉ nhục càng lớn lao Thế
ấy. Sự tình là như vậy, khi con người đặt hết khả năng yêu thương của
mình vào một đối tượng duy nhất. Cùng với sự mất mát tình yêu, tất
cả đều sặp đổ đối với chàng, và chàng đứng đấy giữa đống gạch
vụn, hoàn toàn bị tước đoạt, nghèo nàn.
Dasa đi lang thang một ngày một đêm
trong khu rừng lân cận. Chàng đã kiệt sức, nhưng sau mỗi lần nghỉ mệt
ngắn ngủi, nỗi đau khổ trong tim chàng lại thúc chàng tiến bước. Chàng
cứ phải di động mãi, tưởng chừng như chàng cần phải đi cho đến tận
cùng thế giới, cho đến tận cùng cuộc đời, một cuộc đời đã mất hết
ý nghĩa và ánh sáng. Tuy vậy, chàng không lang thang đến những vùng xa lạ.
Chàng chỉ lượn quanh khu vực gian chòi của chàng, nhà xay, đồng lúa, và
lều trại của ông vua. Chàng thu gọn mình núp trong đám lá, lòng chua xót
và nóng cháy như một con thú đói rình mồi, cho đến khi cái giây phút hồi
hộp ấy đến - giây phút mà chàng đã dành cho nó tất cả sức lực cuối
cùng của mình - nghĩa là cho đến khi vị vua bước ra ngoài lều vải.
Chàng lặng lẽ tuột xuống khỏi cành cây, dương ná bắn ngay vào trán kẻ
thù một miểng đá nhọn. Nala ngã ngay xuống bất tỉnh. Dường như không
có ai quanh đấy. Cơn bão tố của đam mê thù hận và khoái lạc trả thù
gầm thét trong những cảm quan chàng bỗng dưng bị chận đứng lại một cách
hãi hùng dị kỳ. Chàng lặng người đi một lúc, một sự im lặng sâu xa
ngự trị trong hồn chàng. Sau đó, khi sự huyên náo bắt đầu, một đám
đông tôi tớ xúm quanh nạn nhân và tin dữ bắt đầu loan đi, thì chàng cũng
đã biến mất trong những bụi tre rấm rắp dẫn xuống thung lũng.
Trong cơn mê sảng hành động, lúc nhảy
xuống khỏi cây và bắn ra miểng đá giết người, chàng có cảm tưởng
đang dập tắt luôn cả sự sống của mình, đang ném đi sinh lực cuối cùng,
lao mình theo viên đá định mệnh xuống vực thẳm của lãng quên, đoạn
tuyệt. Chàng tưởng như nếu giết được kẻ thù, thì chàng sẽ vui lòng
chết sau hắn một giây thôi cũng được. Nhưng bây giờ, khi hành động đã
được tiếp theo bởi cái giây lát im lặng lạ lùng mà chàng không ngờ
ấy, thì bỗng dưng chàng lại khát khao sống, một nỗi khát khao chàng
không nhận ra, đã kéo chàng trở về từ vực thẳm. Một bản năng nguyên
ủy xâm chiếm giác quan chàng, tứ chi chàng, lôi chàng chạy trốn vào rừng
sâu, ra lệnh cho chàng phải ẩn náu.
Chàng chỉ ý thức được những gì xẩy
đến sau khi đã tới một nơi ẩn núp an toàn. Khi ngã quị kiệt sức, thở
hào hển, cơn cuồng nhiệt nhường chỗ cho sự bình thản, chàng lại cảm
thấy thất vọng và tự khinh đã chạy trốn. Nhưng khi đã qua cơn mệt, chàng
lại quyết định phải sống, và một lần nữa tim chàng cảm thấy khoái
trá một cách man dại về hành động vừa qua.
Cuộc săn tìm kẻ sát nhân khởi sự.
Những người đi lùng bắt đầu rải rác khắp những khu rừng. Họ sặc sạo
suốt ngày trong những bụi rậm, nhưng chàng thoát được nhờ ẩn kín
trong ao đầm, nơi không ai dám vào vì sợ gặp hổ báo. Chàng ngủ một
ít, nằm tỉnh táo nghe ngóng một lúc, bò rồi lại nghỉ. Cứ thế cho đến
ngày thứ ba thì chàng đã qua khỏi những ngọn đồi và tiến lên những
đỉnh núi cao.
Cuộc đời không nhà từ đấy dẫn
chàng đi chỗ này chỗ nọ, làm cho chàng cứng rắn, chai lì, nhưng cũng khôn
ngoan nhẫn nại hơn. Tuy thế, về đêm chàng luôn luôn mơ thấy Pravati và hạnh
phúc đã qua, hay ít nhất cái mà chàng đã gọi là hạnh phúc. Chàng cũng
mơ nhiều lần về cuộc săn tìm và lẩn trốn, những giấc mơ hãi hùng
làm cho tim chàng ngưng đập, như là mơ thấy mình đang chạy trốn qua những
khu rừng, trong khi bị đuổi bắt sau lưng, trống còi inh ỏi. Chàng cố chạy
thoát qua những ao đầm, băng qua những chiếc cầu gãy, mang theo vật nặng,
được gói kín nhưng chàng không biết đó là vật gì. Chàng chỉ biết là
nó rất quý, chàng không được để nó rơi khỏi tay mình trong bất cứ trường
hợp nào. Ðấy là một cái gì qúy báu đang lâm nguy, một tài sản, có lẽ
là một vật gì đã được lấy trộm, gói trong một mảnh vải có hình
xanh đỏ như chiếc áo của Pravati ngày nào. Chàng khó nhọc mang vật ấy
mà chạy trốn qua bao nhiêu hiểm nguy, cho đến cuối cùng, khi mệt lả dừng
lại, từ từ mở ra xem, thì thấy cái của báu mà chàng đang cầm trong đối
tay run rẩy đó, chính lại là cái đầu của chàng.
Từ đấy, chàng sống cuộc đời lén
lút của một kẻ du thủ lang thang. Bấy giờ không hẳn là chàng trốn người
ta, mà đúng hơn, chàng muốn tránh họ. Một ngày, trong cuộc lữ, chàng đến
một vùng đồi núi trông thật xinh đẹp, dường như đón mời chàng.
Chàng cảm thấy cần phải biết rõ khu rừng ấy. Chàng nhận ra một đồng
cỏ gợi cho chàng những ngày trong sáng hồn nhiên lúc chàng chưa biết đến
tình ái và ghen tuông, cừu hận và trả thù. Ðấy là đồng cỏ ngày xưa
chàng đã chăn bò cùng các bạn mục tử trong khoảng đời an bình nhất của
tuổi hoa niên. Một cơn buồn nhẹ lan trong tim chàng đáp lại tiếng mời gọi
của rừng sâu với tiếng lá xắc xào trong gió, tiếng hát của con suối
nhỏ, tiếng chim líu lo và tiếng ong vù vù. Tất cả nghe như mùi hương mời
gọi của mái ấm, nơi an nghỉ. Trong cuộc đời du mục, chưa bao giờ chàng
thấy đồng nội có vẻ thân thiết đến thế. Chàng lang thang khắp nơi
trong khung cảnh thanh bình âý, lần đầu tiên trong nhiều tháng ngày kinh khủng,
chàng mới bước đi với tâm hồn rộng mở, không nghĩ ngợi gì, không ước
mong gì, hoàn toàn đặt mình vào hiện tại an tịnh. Chàng cảm thấy có
mãnh lực gì thu hút chàng vào trong khu rừng bên kia những đồng cỏ. Khi
bước dưới những hàng cây trong bóng chiều, cảm giác quen thuộc càng tăng,
đưa chàng đi dọc theo những con đường mòn nhỏ. Chân chàng như tự động
tìm lối bước tới một rặng dương giữa khu rừng rộng, và gặp gian
chòi nhỏ. Trên khoảnh đất trước mặt chòi, đang ngồi bất động vị
ẩn sĩ mà ngày xưa chàng đã đứng nhìn, người mà chàng đã cúng sữa
và bánh dạo ấy.
Dasa dừng bước, như thể vừa tỉnh
giấc. Mọi sự vẫn như xưa. Ở đây không có thời gian trôi qua, không có
sự giết chóc và đau khổ. Ở đây thời gian và cuộc đời dường như thể
đông lại thành khối pha lê, đông lại thành vĩnh cửu. Chàng đứng nhìn
ông già, cảm nghe trong tim niềm thán phục, yêu kính. Mong ước ngày xưa vụt
trở lại, những cảm giác mà chàng có khi mới thấy vị ẩn sĩ lần đầu.
Chàng nhìn gian chòi và nghĩ rằng nó cần được sửa chữa trưóc khi mùa
mưa đến. Chàng đánh bạo tiến thêm vài bước, đi vào trong chòi, nhìn
quanh. Rất ít đồ đạc, hầu như không có gì: một thảm lá, một cái bầu
chứa ít nước, và một cái túi rỗng đan bằng mây. Chàng lấy cái túi
đi vào rừng kiếm thức ăn, trở lại với một túi trái cây và mật. Ðoạn
chàng xách bầu đi lấy nước.
Chàng đã làm xong tất cả mọi việc
có thể làm. Quả thực ít oi, những gì một con người cần để sống.
Dasa quỳ gối trên đất và đắm mình trong mộng tưởng. Chàng hài lòng với
sự nghỉ ngơi yên lặng này, hài lòng với chính mình, với tiếng gọi
bên trong đã đưa chàng tới đây, nơi mà khi còn là bé trai, chàng đã cảm
thấy có cái gì giống như là sự thanh bình, hạnh phúc, quê hương.
Bởi thế chàng ở lại bên vị ẩn sĩ
già. Chàng lợp lại chòi, kiếm thức ăn cho cả hai, và bắt đầu dựng một
căn chòi riêng cho mình, cách một khoảng ngắn. Ông già dưòng như chịu
cho chàng ở, nhưng Dasa không hoàn toàn chắc rằng ông ta có để ý đến mình
hay không. Mỗi khi ông xả thiền đứng lên, thì chỉ là để vào trong
chòi ngủ, hoặc ăn chút gì lót dạ, hay đi bách bộ một lát trong rừng.
Dasa sống với ông như một tên đầy tớ trước một nhà quý tộc, đúng
hơn, như một con vật người ta nuôi để chơi, một con vật hữu ích nhưng
không được người để ý. Vì chàng đã sống đời đào tẩu quá lâu,
luôn luôn lo sợ bị bắt, cho nên cuộc đời an nghỉ này với những công
việc không nhọc nhận, với sự hiện diện của một người dường như
không để ý gì tới mình - cuộc sống ấy làm chàng thoải mái một thời
gian.
Những giấc ngủ của chàng không còn
bị ám ảnh bởi những ác mộng, có những lúc chàng có thể quên hết mọi
sự trong nửa ngày, rồi trọn ngày. Tương lai không làm chàng bận tâm, và
nếu có khi nào chàng ao ước điều gì, thì chính là được ở lại nơi
chàng đang ở, được vị ẩn sĩ thâu nhận và dạy cho chàng những bí quyết
của đời sống ẩn cư, trở thành một ẩn sĩ như ông, có được cái
bình thận bất cần của một ẩn sĩ. Chàng đã khởi sự tập ngồi thiền
như ông, nhưng mỗi khi làm vậy chàng đâm ra mệt mỏi, cảm thấy tay chân
cứng đờ, lưng đau, muỗi đốt, bị quấy rầy bởi mọi thứ, cảm thấy
ngứa ngáy khó chịu trong người, khiến chàng phải nhúc nhích, ngứa, gãi,
và cuối cùng phải đứng dậy. Nhưng có nhiều lúc chàng lại thấy khác,
một cảm giác trống trải, nhẹ nhàng, như là bơi trong không khí, kiểu như
thỉnh thoảng trong giấc mơ ta thường thấy mình bay bổng. Nhưng những giây
phút như thế không bền lâu. Chàng mong mỏi được vị ẩn sĩ dạy cho nghệ
thuật thiền định, nhưng ông ta dường như không bao giờ để ý đến chàng,
không bao giờ thốt lên tiếng nói.
Tuy nhiên, có một ngày ông ta nói nên
một lời. Bấy giờ gặp lúc Dasa trở lại những đêm mộng mơ, có khi rất
êm dềm, nhưng thường là những ác mộng khốc liệt, hoặc về vợ chàng,
hoặc về những kinh khủng trong cuộc đời đào tẩu. Ban ngày chàng cũng
không khá gì hơn. Chàng không chịu nổi sự ngồi yên và tập thiền định,
không quên được đàn bà và tình yêu. Chàng đi lang thang trong rừng phần
lớn thì giờ. Chàng trách cứ thời tiệt đã làm cho chàng ra như thế, đấy
là những ngày oi bức với những cơn gió nóng hạt vào mình.
Một ngày xấu trời như thế lại đến.
Những con muỗi kêu vo ve. Dasa vừa mới trải qua một đêm chiêm bao kinh khủng
làm cho chàng khi thức dậy vẫn còn cảm giác sợ hãi đè nặng lên người.
Chàng không còn nhớ đã mơ những gì, nhưng khi thức giấc chàng có cảm tưởng
vừa rơi trở lại vào những giai đoạn khốn nạn, đáng hổ thẹn trong đời
chàng trước đấy. Suốt ngày, chàng đi lui đi tới một cách bồn chồn
quanh gian chòi, hoặc ngồi xổm giữa đất, dáng rầu rĩ. Chàng làm qua loa
những việc vặït vãnh, nhiều lần ngồi xuống tập thiền định, nhưng mỗi
lần như vậy chàng lại bị tóm lấy bởi một cơn bần thần bức rức.
Chàng cảm thấy chân tay co quắp, cảm thấy như kiến bò trên bàn chân, cảm
thấy nóng ran sau gáy, và không thể chịu đựng ngồi yên chỉ trong vài
phút. Thỉnh thoảng, chàng rụt rè hổ thẹn đưa mắt nhìn ông già đang ngồi
bất động, mắt hướng vào bên trong, gương mặt tỏ lộ một sự bình an
bất khả xâm phạm.
Ngày hôm ấy, khi vị ẩn sĩ đứng lên
đi vào chòi, Dasa lại gần ông. Chàng đã chờ đợi giây phút này từ
lâu. Chàng chận đường ông, và thu hết can đảm để nói.
- Bạch thầy, xin thầy tha thứ cho con
vì đã quấy rối sự bình an của thầy. Con cũng đang đi tìm sự bình an,
tịnh lặng, con muốn sống như thầy. Thầy thấy, con còn trẻ, nhưng con đã
giữa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. Ðịnh mệnh đã chơi con những vố
tàn khốc. Con là một thái tử, nhưng lại bị ném ra giữa rừng làm một
đứa chăn bò. Con trở thành mục tử, lớn mạnh và sung sức như một con
bò tơ, với trái tim hồn nhiên vô tội vạ. Rồi mắt con mở ra trước đàn
bà, và khi trông thấy người con gái xinh đẹp nhất, con đã để hết đời
mình mà phụng sự nàng. Không được nàng chắc con chết mất. Con từ giã
đoàn mục tử, cưới nàng, trở thành một thằng con rể làm lụng như trâu
chỉ vì nàng. Nhưng bù lại con được tình yêu của nàng, hay ít nhất con
nghĩ như thế. Rồi đùng một cái, vua đến săn bạn trong vùng con ở, hắn
chính là người đã làm cho con bị vứt ra giữa đường lúc còn bé. Hắn
đến chiếm đoạt luôn Pravati của con, và con đã phải điệng người khi
thấy nàng trong vòng tay hắn. Ðấy là nỗi đau lớn nhất mà con từng biết
đến, nó làm cho con thay đổi hẳn, nó biến đổi cả cuộc đời con. Con
giết tên ấy, và từ đó sống cuộc đời của một kẻ sát nhân đào tẩu.
Mọi người đều tầm nã để giết con, cuộc đời con không có một phút
giây nào an ổn cho đến khi con gặp được nơi này. Con là một kẻ ngu si,
bạch thầy, con đã giết người, và có lẽ còn bị săn đuổi, bị ví bắt.
Con không còn chịu nổi cái cuộc đời kinh khủng đó. Con muốn chấm dứt.
Vị ẩn sĩ đã im lặng lắng nghe
chàng thố lộ với đôi mắt nhìn xuống. Bấy giờ ông mở mắt, tập
trung nhãn lực vào gương mặt Dasa, một cái nhìn sáng, thản nhiên, cương
quyết, gần như khó chịu. Trong khi thăm dò nét mặt của chàng, miệng ông
từ từ vẽ thành một nụ cười, rồi một cái bật cười không thành tiếng.
Ông lạc đầu, nói: "Maya, maya!"
Vô cùng kinh ngạc và hổ thẹn, Dasa
đứng im như phỗng đá. Vị ẩn sĩ trước bữa ăn chiều, đi dạo lui tới
trên con đường nhỏ dẫn vào rừng. Với những bước chân đều đều lặng
lẽ, ông trở về, đi vào chòi. Nét mặt ông trở lại như cũ, hướng về
một cái gì khác hơn thế giới hiện tượng này. Cái cười đã đánh tan
sự phẳng lặng bất động trên gương mặt đó, có nghĩa gì? Nó là thiện
cảm, là chế riễu, an ủy hay chê trách, thánh thiện hay quỷ quyết? Phải
chăng đấy chỉ là cơn nhạo đời của một ông già không còn có thể xử
sự đàng hoàng đứng đắn, hay đó là cái cười của một hiền nhân trước
sự cuồng si của con người? Nó có nghĩa là sự xua đuổi, từ biệt, bác
bỏ? Hay có nghĩa một lời khuyên, một lời mời gọi chàng nên theo gương
ông, và bật cười? Dasa không thể giải nổi sự bí ẩn ấy. Cho đến
khuya, chàng vẫn còn suy nghĩ về ý nghĩa cái cười ấy, với cái cười đó
ông già dường như muốn toát yếu tất cả cuộc đời chàng, hạnh phúc
và đau khổ của chàng. Chàng cũng nghiền ngẫm về hai tiếng
"Maya" mà ông đã thốt lên. Chàng nửa biết, nửa đoán ý nghĩa tổng
quát của danh từ này, và giọng điệu ông già khi nói tiếng ấy hình như
cũng giúp chàng hiểu được. Maya - đó là cuộc đời chàng, tuổi trẻ
chàng, hạnh phúc ngọt ngào của chàng cũng như nỗi đau khổ cay đắng của
chàng. Nàng Pravati xinh đẹp là Maya, tình yêu và những lạc thú nó đem lại
cũng là maya, tất cả cuộc đời là maya. Ðối với con mắt vị ẩn sĩ này,
thì cuộc đời của Dasa, cuộc đời của mọi người, tất cả là Maya,
là một trò chơi trẻ con, một tấn tuồng một trò ảo thuật trống rỗng
được bọc trong một lớp vỏ hào nhoáng, như một cái bọt xà phòng. Ðấy
là một cái gì ta có thể cười khinh bỉ, nhưng không nên xem trọng.
Nhưng vị ẩn sĩ có thể xua đuổi cuộc
đời chàng bằng cái cười và tiếng "Maya", chứ chàng thì không.
Mặc dù chàng rất muốn trở thành một ẩn sĩ nhạo đời, nhìn cuộc đời
mình chỉ là Maya, mà tất cả cuộc đời ấy vẫn sống dậy trong chàng
vào những ngày đêm bất an ấy. Bấy giờ, chàng nhớ lại tất cả những
gì chàng đã hầu quên đi từ khi đến nơi này. Bây giờ, chàng thấy rất
ít hi vọng học được nghệ thuật trầm tư, nói gì tới chuyện trở
thành ẩn sĩ. Thế thì chàng còn vương vấn nơi này làm gì? Nó chỉ là một
nơi an dưỡng, bây giờ chàng đã lại sức phần nào. Và có lẽ ngoài kia,
cuộc săn tìm kẻ sát nhân cũng đã chấm dứt, chàng có thể tiếp tục cuộc
lữ mà không bị hiểm nguy.
Chàng quyết định ra đi vào hôm sau.
Thế giới này rộng lớn, chàng không thể ở mãi trong chỗ ẩn núp này
được. Quyết định ấy đem lại cho chàng một ít bình an.
Chàng đã định từ giã vào lúc bình
minh, nhưng khi thức dậy, mặt trời đã lên cao, vị ẩn sĩ đã ngồi thiền,
mà chàng không muốn bỏ ra đi không một lời từ giã. Hơn nữa, chàng còn
muốn yêu cầu một điều nơi ông ta. Bởi thế chàng chờ đợi, hết giờ
này đến giờ khác, cho đến khi ông già xả thiền, duỗi tay chân và khởi
sự kinh hành qua lại. Khi ấy Dasa một lần nữa chận đường ông, cúi
chào kính cẩn, và cứ đứng lì ở đấy cho đến khi ông đưa mắt nhìn
chàng dò hỏi. Chàng nói:
- Bạch thầy, con sẽ đi đường của
con. Con sẽ không quấy rầy sự yên tịnh của thầy. Nhưng xin thầy cho con
hỏi một lần cuối. Khi con kể cho thầy nghe cuộc đời con, thầy đã cười
và thốt lên "Maya". Lạy thầy, xin thầy dạy cho con thêm về
"Maya".
Vị ẩn sĩ quay vào lều, đưa mắt ra
hiệu cho Dasa theo ông. Nhặt cái bầu đựng nước lên, ông già trao cho
chàng, ra dấu chàng hãy rửa tay. Dasa vâng lời làm theo. Ðoạn ông già đổ
nước còn lại vào rừng, rồi đưa cái bầu không cho Dasa đi kiếm nước.
Dasa vâng lệnh. Chàng chạy xuống con đường nhỏ dẫn đến suối, tim nhói
đau vì sắp phải từ biệt nơi đây. Trong ánh hoàng hôn, chàng cúi xuống
con suối và thấy gương mặt mình phận chiếu lần cuối trên làn nước.
Chàng từ từ nhúng bầu xuống nước, trong lòng có một cảm giác bất định.
Chàng không thể hiểu tại sao chàng lại hơi đau buồn trong khi chàng tự
ý muốn ra đi, đau buồn về điều ông già đã không mời chàng ở lại một
thời gian nữa, hoặc ở lại suốt đời.
Chàng khom mình xuống dòng suối, uống
một ngặm nước rồi đứng lên, cẩn thận cầm bầu nước cho khỏi đổ.
Chàng sắp sửa trở lại con đường mòn, thì bỗng tai chàng nghe một tiếng
động làm cho chàng vừa thích thú vừa kinh hãi. Ðó là tiếng nói mà
chàng đã bao lần nghe trong mộng, tiếng nói mà chàng nhớ lại nhiều giờ
sau khi tỉnh giấc với nỗi khát khao cay đắng. Giọng nói ấy vỗ về, ngọt
ngào xiết bao, quyến rũ xiết bao, nghe hồn nhiên và kiều diễm làm sao
trong cảnh rừng chiều, đến nỗi tim chàng run lên vì sợ hãi vì mê thích
. Ðó là tiếng của Pravati vợ chàng. "Dasa", nàng gọi với giọng
trìu mến vuốt ve.
Chàng không tin lỗ tai mình, cứ nhìn
quanh dáo dác, tay vẫn giữ bầu nước. Và bỗng chốc nàng xuất hiện giữa
những thân cây, đáng mảnh mai như một cây lau sấy với đôi chân thon
dài - Pravati, người yêu phận trắc mà chàng không thể quên được. Chàng
để rơi bầu nước và chạy đến phía nàng. Tươi cười, hơi thẹn, nàng
đứng trước mặt chàng với đôi mắt bồ câu đen lay láy. Khi lại gần,
chàng thấy nàng mang đôi hài đỏ và chiếc áo đắt tiền. Cánh tay nàng
có một chiếc vòng vàng, và những viên ngọc quý lập lánh trong mái tóc.
Chàng chấm bước lại. Nàng vẫn còn làm tì thiếp của vua chăng? Không phải
chàng đã giết Nala rồi sao? Tại sao nàng vẫn đi tung tăng với những quà
tụng của y như thế? Làm sao nàng dám tới trước chàng với những đồ
trang sức ấy, lại dám gọi trên chàng?
Nhưng nàng yêu kiều diễm lệ hơn bao
giờ cả. Chàng không có thì giờ hỏi cho ra lẽ, và vội ôm ghì lấy
nàng, hôn nàng, và trong khi làm như vậy chàng cảm thấy mọi sự trở lại
với chàng. Một lần nữa tất cả lại là của chàng, tất cả những gì
chàng đã sở hữu: hạnh phúc tình yêu nhục cảm, niềm vui sống, khoái lạc.
Mọi ý nghĩ của chàng đã đời khỏi khu rừng và vị ẩn sĩ: những khóm
rừng, chòi lá, thiền định bây giờ đã tan biến, đã bị lãng quên.
Chàng để ý gì nữa đến cái bầu nước mà chàng phải mang về cho vị
ẩn sĩ. Nó vẫn ở đấy, nơi chàng làm rớt, trong khi vội vã chạy đến
Pravati. Và nàng cũng khởi sự kể cho chàng rõ đầu đuôi tại sao nàng đến
đây, và tất cả những gì xẩy ra bấy lâu.
Câu chuyện của nàng thật lạ lùng
thú vị như chuyện thần tiên. Dasa lao mình vào đời sống mới cũng như
chuyện thần tiên. Bây giờ Pravati lại là của chàng, tên khả ố Nala đã
chết, sự săn tìm kẻ sát nhân đã chấm dứt từ lâu. Hơn thế nữa,
Dasa, vị thái tử chăn bò, đã được công bố là người kế vị chính thức.
Tại kinh đô, một người bà la môn già và một mục tử già đã khơi dậy
câu chuyện gần bị lãng quên, về sự lưu đày của chàng, chuyện ấy
bây giờ trở thành câu chuyện nóng bỏng ở cửa miệng mọi người. Chàng,
kẻ bị săn đuổi khắp nơi để trị tội hành thích vua, bây giờ lại
được tìm kiếm hăng say hơn, để đưa lên ngôi báu.
Mọi sự thật giống như một giấc
chiêm bao, nhưng cái điều làm chàng thích thú và ngạc nhiên hơn cả, là sự
tình cờ tốt đẹp đã dun dủi để Pravati lại là người gặp chàng đầu
tiên trong số những người được phái đi tìm. Ở bìa rừng, chàng thấy
những lều trại đã được dựng lên, mùi khói và thịt nướng xông khắp.
Pravati được đoàn hộ tống tung hô nhiệt liệt, và một bữa tiệc lớn
bắt đầu ngay khi nàng giới thiệu Dasa, chồng nàng. Trong đám đông có một
người xưa kia là bạn mục tử của Dasa, chính người này đã đưa Pravati
và tùy tùng của nàng đến đấy, vì anh ta nghĩ có lẽ Dasa ưa lẩn khuất
nơi những vùng mà chàng vốn yêu mến lúc còn thơ. Anh ta cười lớn khi nhận
ra chàng, và chạy tới toan ôm chàng, nhưng sực nhớ bây giờ chàng đã
làm vua, anh bèn lùi lại kính cẩn cúi chào. Dasa đỡ người anh ta lên, siết
chặt anh, gọi tên anh và hỏi anh muốn được thưởng công như thế nào.
Người mục tử chỉ muốn được một con bò cái tơ. Dasa liền thưởng
cho anh ta ba con từ đàn bò tốt nhất.
Càng lúc càng nhiều người đi đến
yết kiến tân vương: những quan chức, những bà la môn trong triều, những
người thợ săn của vua. Chàng nhận lời chào mừng của họ. Bữa ăn được
bày ra trong tiếng nhắc tiếng kèn sáo vang rền. Tất cả cảnh tượng
tưng bừng của cuộc lễ đối với Dasa dường như là một giấc mộng.
Chàng không thể nào ngờ được đấy là sự thực. Trong hiện tại, cái
có thực duy nhất đối với chàng có lẽ là Pravati, người vợ trẻ mà một
lần nữa chàng được ôm siệt trong tay.
Ðám rước vương giả từ từ di chuyển
về kinh. Sứ giả được phái đi trước để loan tin về triều rằng tân
vương đang trên đường hồi cung. Kinh thành rộn rịp tiếng quân nhắc khi
Dasa và đoàn tùy tùng tiến đến. Một đoàn diễn hành gồm những người
bà la môn vấn toàn trắng ra đón chàng, dẫn đầu là quan tế tự, người
kế vị bà la môn Vasudeva ngày xưa đã gởi chàng cho đoàn mục tử. Vị
bà la môn ấy từ trần cách đấy không lâu. Những bà la môn bắt đầu
tung hô vị vua mới, hát thánh ca, và đưa chàng vào cung điện, nơi đấy
những đám lửa tế thần được đốt lên. Dasa được đưa đến chỗ ở
mới của chàng. Lại thêm những cuộc vui, chào mừng, chúc tụng, diễn văn.
Ngoài cung thành, dân chúng cũng ăn mừng vui vẻ cho đến quá nửa đêm.
Hàng ngày, Dasa được hai vị bà la
môn dạy dỗ và chàng tiếp nhận nhanh chóng những kiến thức cần thiết
cho một người trị nước. Chàng tham dự những lễ tế, tuyên bố những
phán quyết, và tập luyện chiến đấu. Một bà la môn tên Gopala dạy
chàng về chính trị, ông ta giải thích vương hệ của chàng và những đặc
quyền của vương hệ ấy, cho chàng biết những người con trai của chàng
trong tương lai sẽ có những quyền hành như thế nào, và những ai là kẻ
thù của chàng. Kẻ thù chính yếu là mẹ của Nala, người đàn bà ngày xưa
đã tước ngôi và âm mưu giết chàng, người mà bây giờ đương nhiên phải
thù ghét kẻ đã giết con mình. Bà ấy đã trốn qua nước khác, sống dưới
sự che chở của vua láng giềng Govinda. Dòng họ vua này vốn thù nghịch với
dòng họ chàng từ thuở khai thiên lập địa. Họ đã gây chiến với tổ
tiên chàng, chiếm vài vùng đất đai thuộc lãnh thổ của chàng. Ngược lại,
láng giềng phía Nam, vua Gaipali thì rất thân với cha chàng và thù nghịch với
Nala. Bởi thế, nhiệm vụ quan trọng của chàng bây giờ là sang thăm và tặng
quà ông ta, mời dự cuộc săn bạn đại quy mô sắp tới. Pravati thích ứng
với thói vương giả rất nhanh. Nàng có cung cách của một bà hoàng, và
khi mặc áo đẹp đeo trang sức vào, nàng trông thật lộng lẫy, như là cũng
thuộc dòng dõi vua chúa. Họ sống nhiều năm hạnh phúc với nhau, được
quần chúng yêu mến. Và cuối cùng, khi Pravati sinh hạ một trai sau nhiều năm
chờ đợi, thì hạnh phúc chàng thật là vẹn toàn. Tất cả những gì
chàng sở hữu, đất đai, vương vị, lâu đài, kho lẫm, gia súc, bây giờ
có tầm quan trọng mới dưới mắt chàng, chúng càng thêm chói sáng, càng tăng
giá trị. Tài sản đã làm cho chàng hài lòng vì có thể phung phí cho
Pravati chưng diện, vì nàng càng kiều diễm gấp bội khi đeo trang sức ngọc
ngà vào. Bây giờ tài sản ấy lại làm chàng yêu thích hơn nữa, càng quan
trọng hơn, vì nó là di sản sau này sẽ dành cho Ravana con trai chàng, nó là
hạnh phúc tương lai của con chàng.
Lạc thú chính yếu của Pravati là lễ
lạc, những cuộc diễn hành, nghi vệ hào nhoáng, sự xa hoa lộng lẫy, những
đồ vật sang trọng, và một đám đông người hầu. Dasa thì chỉ thích
vui với khu vườn. Chàng sai mua những cây hoa quý về trồng, và nuôi đầy
vườn những chim vẹt, chim ngũ sắc. Một trong những thú vui hàng ngày của
chàng là cho chim ăn và nói chuyện với chúng. Thêm vào đó, sự học hỏi
cũng lôi cuốn chàng. Chàng tỏ ra là một học trò hiếu hạnh đối với
những vị bà la môn. Chàng học đọc học viết, thuộc lòng nhiều bài thơ
và ngạn ngữ, và có một thư ký riêng có biết tài chép kinh trên lá bối.
Với bàn tay khéo của người này, chàng đã thành lập được một thư viện
nhỏ. Ở đây thỉnh thoảng chàng mời những bà la môn học giả và tư tưởng
gia xuất sắc trong số những thầy tu đến để tranh luận về những vấn
đề thần học, về sự tạo thiên lập địa, về kinh Vệ đà, về năng lực
của tế tự của khổ hạnh, v.v. Những vị nào xuất sắc về biện tài sẽ
được tụng thưởng. Có người được thưởng một con bò cái để dắt
theo về, sau khi thành công trong cuộc tranh biện. Có một vẻ gì vừa buồn
cười vừa cảm động khi thấy những học giả uyên bác ấy, mới phút trước
chứng tỏ một tri kiến sâu xa trời biển, mà phút sau lại ra về phồng mũi
với vẻ kiêu căng rỗng tuếch vì phần thưởng, hoặc gây gổ nhau.
Nhìn chung, Dasa không khỏi thỉnh thoảng
xem mọi sự thuộc đời sống và bản chất con người như là một cái gì
vừa lạ lùng vừa khả nghi, vừa cảm động vừa lố bịch; cũng như những
bà la môn minh triệt kia đồng thời vừa thông minh vừa ngu đần, đáng muốn
mà cũng đáng khinh. Mỗi khi ngắm nhìn những hoa sen trong ao, những bộ
lông chim sặc sỡ, những chạm trổ sáng chói của cung điện, chàng thấy
chúng thật thần tiên, rực rỡ với ngọn lửa của bất diệt, nhưng khi
khác hoặc đồng thời, chàng cũng thấy chúng có vẻ gì không thực, khả
nghi, đang hướng đến hủy diệt, đang tan biến vào hư vô, vào càn khôn hỗn
độn. Hệt như chàng là thái tử, rồi thành mục tử, rồi tụt xuống bực
thấp nhất một tên sát nhân, một kẻ ngoài vòng pháp luật, rồi cuối
cùng lại là thái tử trở lại, như được dẫn dắt bởi một năng lực
vô hình, với những ngày mai luôn luôn bất định... Cứ thế cái trò huyễn
hóa của cuộc đời đâu đâu cũng chứa đựng cùng lúc sự cao sang và
hèn hạ, vĩnh cửu và cái chết, vinh quang và vô nghĩa. Ngay cả Pravati xinh
đẹp yêu kiều là thế, mà đôi lúc chàng cũng thấy không còn gì là
duyên đáng; nàng mang quá nhiều vòng xuyến, có quá nhiều vẻ đắc thắng
kiêu hãnh trong đôi mắt nàng, làm bộ tịch quá, nỗ lực quá lố để đi
đứng cho ra vương giả.
Còn cần thiết với chàng hơn cả khu
vườn và sách vở, là con trai chàng, sự hoàn mãn của tình yêu và cuộc
đời chàng, đối tượng của hạnh phúc và tình âu yếm. Cậu bé mảnh
mai có đôi mắt bồ câu giống mẹ, và ưa trầm tư mơ mộng như cha. Mỗi
khi nhìn cậu bé đứng rất lâu trước một gốc cây trong vườn, hay ngồi
trên thảm đăm chiêu nhìn một tảng đá, chàng thấy cậu rất giống
chàng. Lần đầu tiên Dasa nhận ra tình yêu nồng nàn của mình đối với
cậu bé, khi chàng phải giã từ cậu trong một thời gian bất định. Ðó
là một ngày kia, sứ giả từ vùng biên giới trở về báo tin quân của
Govinda đã xâm nhập bờ cõi, đánh phá cướp bóc, dắt bò đi và bắt
luôn một số thần dân của chàng. Dasa tức tốc chuẩn bị cuộc chinh phạt.
Lúc sắp lên ngựa, chàng ôm con vào lòng, hôn trán nó. Tình yêu con bừng
cháy trong tim như lửa đốt. Mãnh lực của cơn đau làm chàng ngạc nhiên,
và suốt đoạn đường hành quân dài, những suy tư đã chín mùi thành hiểu
biết. Chàng suy nghĩ về lý do tại sao chàng ngồi trên yên ngựa, phi nước
đại một cách khẩn trương tiến đến vùng biên giới. Năng lực nào,
chàng tự hỏi, khiến chàng nỗ lực hăng hái như thế? Nghĩ cho cùng,
chàng nhận thấy rằng gia súc hay người có bị bắt đi bớt một ít cũng
không phải là điều quan trọng đối với chàng. Sự việc kẻ thù coi nhẹ
uy quyền chàng cũng không đủ để khơi dậy niềm giận dữ nơi chàng,
thúc đẩy chàng hành động. Ðối với chàng, thái độ tự nhiên hơn có lẽ
là cho bỏ qua mẩu tin ấy với một nụ cười trắc ẩn. Nhưng làm như vậy,
chàng biết, sẽ phạm một điều bất công lớn đối với viên sứ giả,
người đã chạy hụt hơi về để báo tin cho chàng đến nỗi gần kiệt sức
ngã quơ. Và làm như vậy cũng bất công đối với những thần dân đang bị
giặc bắt làm tù binh, làm nô lệ. Rồi những thần dân khác dù chưa bị
hại, cũng sẽ lấy làm bất mãn trước thái độ thụ động của chàng,
đã không tích cực bảo vệ xứ sở. Ðối với họ, lẽ đương nhiên là
nếu họ bị xâm phạm thì vua phải che chở và trả thù cho họ. Chàng hiểu
rằng mình có bổn phận phải hành quân để trả thù. Nhưng có thực là bổn
phận chăng? Có biết bao nhiêu là bổn phận mà chúng ta thường bê trễ, lơ
là, nhưng trong lòng lại không một chút áy náy? Lý do nào làm cho cái phận
sự trả thù này lại không phải là một phận sự tầm thường không thể
xao lãng, lý do nào khiến chàng không phải chỉ làm phận sự cho xong một
cách miễn cưỡng, mà trái lại, làm một cách hăng hái, say mê? Vừa khi
câu hỏi ấy khởi lên, trái tim chàng đã trả lời tức khắc, vì một lần
nữa nó lại run lên vì nỗi đau mà chàng cảm thấy lúc chia ly với con. Nếu
chàng đang làm vua, mà không có phản ứng nào khi bờ cõi bị xâm lấn,
thì sự cướp bóc tàn bạo sẽ lan dần đến kinh đô và đánh ngay vào nơi
hiểm yếu, nhất là con chàng. Chúng sẽ bắt cậu bé, người kế vị, đem
đi để giết hay hành hạ nó. Ðấy là nỗi đau cùng cực nhất đối với
chàng, còn đau đớn hơn gấp bội cái chết của Pravati. Ðó là lý do làm
chàng hăm hở phi nước đại, làm chàng chứng tỏ là một bực minh quân:
không phải vì quan tâm đến chuyện mất trâu mất bò, đất đai, không phải
vì thương yêu gì thần dân, cũng không phải vì muốn xứng đáng truyền
thống kiêu hùng của ông cha gì cả. Mà chỉ vì tình yêu nồng nàn, đau khổ,
phi lý đối với đứa con trai, vì nỗi sợ hãi cũng rất nồng nàn phi lý,
là sẽ đau đớn vô cùng nếu mất con. Trong khi cỡi ngựa, chàng đã hiểu
ra như thế. Tuy nhiên, chàng đã không trừng phạt được những quân lính
của Govinda đến cướp bóc, vì chúng đã chạy thoát về mang theo những
chiến lợi phẩm. Và bây giờ muốn tỏ sự cương quyết của mình, chàng
phải xâm lăng lại đất đai kẻ thù, tàn phá một khu làng biên giới,
mang về một ít trâu bò và nô lệ.
Chàng đã đi nhiều ngày. Trên đường
cỡi ngựa thắng trận trở về, chàng lại rơi vào một cuộc trầm tư, và
đến hoàng cung lặng lẽ buồn sâu. Bởi vì trong khi suy nghĩ, chàng đã nhận
thấy mình hoàn toàn bị trói buộc, bị vướng bẫy không hi vọng thoát
ra. Toàn thể con người chàng và hành động chàng đều bị mắc kẹt vào
một mạng lưới yêu ma quỷ quái. Trong lúc khuynh hướng trầm mặc, yêu
thích đời sống hồn nhiên nơi chàng càng ngày càng tăng trưởng, thì từ
một nguồn suối khác, cũng tăng trưởng tình yêu đối với Ravana, nỗi lo
ngại cho mạng sống và tương lai cậu bé. Tình yêu ấy thúc giục chàng hăng
say hành động để vướng vào mâu thuẫn xung đột càng ngày càng trầm trọng.
Từ tình yêu ấy, tăng thêm sự xung đột trong lòng chàng, từ tình yêu ấy,
tăng thêm chiến tranh. Trong nỗ lực đem lại công bằng, chưa gì chàng đã
xâm phạm một đàn bò, khủng bố một khu làng, bắt bớ những thường dân
vô tội. Dĩ nhiên, từ hành động ấy sẽ nảy sinh một trận trả đũa, một
cuộc bạo động mới, và cứ thế tiếp tục mãi cho đến khi toàn thể cuộc
đời chàng, toàn thể quốc gia lao mình vào cuộc chiến tranh bạo động.
Chính viễn tượng ấy làm cho chàng đâm ra trầm mặc ưu tư trên đường
thắng trận trở về.
Chàng đã đoán đúng. Nước láng giềng
thù nghịch không để chàng yên. Những cuộc xâm phạm, cướp bóc gia tăng.
Dasa lại phải lên đường hành quân trả thù và tự vệ, và khi kẻ thù
rút lui, quân của chàng lại trả đũa bằng cách đánh phá dân chúng của
nước nghịch ở vùng biên giới. Càng ngày cảnh tượng kị binh càng trở
nên quen thuộc với dân trong thành. Ở nhiều làng biên giới bấy giờ
luôn có những đạo binh canh phòng cẩn mật. Những hội nghị quân sự chuẩn
bị chiến tranh làm cho tâm trí xáo trộn. Chàng mất hết những ngày an ổn;
chàng không hiểu nổi cuộc chiến dai dẳng này sẽ có lợi gì; chàng đau
buồn cho số phận những nạn nhân, cho sinh mạng những người chết. Chàng
buồn, vì phải xa dần khu vườn và sách vở. Chàng tiếc rẻ sự an tịnh
tâm hồn và những ngày yên ổn trong đời chàng đã mất. Chàng thường nói
những điều ấy với Gopala người bà la môn, và đôi khi với vợ chàng.
Có nên nhờ một vị vua lân cận làm trung gian hòa giải không? Về phần
chàng, chàng sẽ sẵn sàng nhượng một ít đồng cỏ làng mạc để đam lại
hòa bình. chàng thất vọng và hơi giận tức khi cả hai người, Gopala và vợ
chàng, đều nhất quyết không chịu nghe một chuyện như thế.
Sự bất đồng quan điểm giữa chàng
với Pravati đưa đến một trận gây gổ kịch liệt, và chấm dứt bằng sự
không nhìn mặt nhau. Chàng cố thuyết phục nàng bằng những lời hơn thiệt,
song nàng làm như thể mỗi lời chàng nói ra không phải là chống chiến
tranh mà là chống nàng! Nàng nói dông dài cho chàng hiểu rằng quân giặc sẽ
lợi dụng tính hiếu hòa của chàng để bắt buộc chàng ký hết thỏa ước
này đến thỏa ước khác, mỗi lần lại phải nhượng bộ đất và dân,
mà cuối cùng chúng cũng không thỏa mãn, sẽ trở lại gây chiến và cướp
tất cả những gì còn lại. Nàng không quan tâm đến trâu bò làng mạc,
mà đến số phận của toàn dân, sự tồn vong của tất cả mọi người.
Nếu Dasa không biết bổn phận của mình đối với vương quốc, với con với
vợ, thì nàng phải dạy cho chàng. Mắt nàng long lên, tiếng nàng the thé,
đã lâu chàng mới lại trông thấy nàng đẹp làm sao, dữ dằn làm sao. Nhưng
chàng chỉ cảm thấy buồn sầu.
Những cuộc xâm lăng của quân thù
ở vùng biên giới vẫn tái diễn, chỉ tạm ngưng trong mùa mưa. Bấy giờ
trong triều chia hai phe rõ rệt. Phe muốn hòa rất ít, ngoài Dasa chỉ vỏn vẹn
thêm vài vị bà la môn già, những người trí thức ham thiền định. Phe hiếu
chiến của Pravati và Gopala chiếm đa số những tu sĩ, bà la môn và toàn thể
võ quan. Cả nước hăng say vũ trang, và có tin báo nước láng giềng Govinda
cũng đang luyện tập binh mã. Trưởng đoàn thợ săn dạy cho thái tử
Ravana cách bắn cung, mẹ cậu đưa cậu đi xem mọi cuộc duyệt binh ứng
chiến.
Trong thời gian ấy, Dasa thỉnh thoảng
nhớ tới khu rừng nơi chàng đã ẩn náu với vị ẩn sĩ già đăm chiêu
thiền định. Ðôi khi chàng cảm thấy muốn đến viếng người, hỏi ý kiến
người. Nhưng chàng không biết ông ta còn sống không, cũng không biết ông
có chịu nghe và khuyên bảo chàng hay không. Nhưng dù ông còn sống và có
khuyên bảo chàng, thì mọi sự cũng sẽ đi con đường của nó không gì
thay đổi được. Thiền định và trí tuệ thật tốt, đó là những việc
cao quý, nhưng chúng chỉ phát triển bên lề cuộc đời. Khi bạn đang bơi
trong dòng đời và vật lộn với sóng gió, thì những hành động và khổ
đau của bạn không dính dấp gì đến trí tuệ cả, chúng tự đến, như
thể định mệnh bảo ta phải hành động và đau khổ. Ngay cả những thượng
đế cũng không sống mãi trong an bình vĩnh cửu và trí tuệ vĩnh cửu. Họ
cũng phải trải qua những hiểm nguy là sợ hãi, chiến đấu, đánh nhau;
chàng đã biết điều ấy từ nhiều chuyện kể về những vị trời ngày
xưa.
Bởi thế Dasa nhượng bộ, chàng
không cãi cọ với Pravati nữa. Chàng điểm lại binh mã, chờ đợi chiến
tranh đến, thấy trước nó trong những giấc mộng, và khi thân thể gầy
mòn, gương mặt sám đen, chàng thấy hạnh phúc cũng phai tàn, niềm vui cũng
tan biến. Chỉ còn lại tình yêu đối với đứa con trai, một tình yêu tăng
theo với nỗi lo sợ của chàng, trước cảnh vũ trang tập dượt.
Sự thách thức của Govinda càng ngày
càng trắng trợn và thường xuyên hơn. Hội đồng chiến tranh của chàng
chỉ còn bất đồng về điểm nên đáp lại cuộc phá phách sắp tới của
kẻ thù bằng một cuộc chinh phạt, hay nên chờ chúng vi phạm trầm trọng
hơn mới ra tay, để cho những nước trung gian có thể thấy bên nào lỗi
trước.
Nhưng kẻ thù của chàng đã ra tay trước,
bằng một cuộc tấn công đại quy mô, khiến cho Dasa và tất cả quân thiện
chiến của chàng phải tức tốc phi ngựa đến biên giới. Trong khi đó,
quân lực chính quy của Govinda đã xâm nhập, bao vây kinh thành. Khi hay tin,
Dasa vội quay ngựa lại. Chàng biết vợ con đang bị vây khốn, những trấn
chiến đẫm máu đang diễn ra tại các nẻo đường trong kinh đô. Chàng vội
vã thúc ngựa trở về, đánh một trận xáp lá cà với địch cho đến khi
trời tối, chàng ngã quị kiệt sức vì máu chảy từ nhiều vết thương
trên cơ thể.
Khi tỉnh dậy, chàng thấy mình bị bắt
làm tù binh. Cuộc chiến đã thất bại. Thành phố và cung điện đã ở
trong tay kẻ thù. Chàng bị trói dẫn đến trước Govinda, hắn chào chàng một
cách khinh bỉ, và cho dẫn chàng tới một phòng khác trong cung, thư viện của
chàng. Tại đây, đang ngồi thẳng đuột với gương mặt lạnh như băng, là
Pravati vợ chàng. Quân lính vũ trang canh gác sau lưng nàng. Nằm vắt trên
hai gối nàng là con trai của họ, như một cành hoa đã gãy; con chàng với
thân thể mảnh mai đang nằm chết, mặt xám ngắt, y phục đầy máu. Người
đàn bà không quay lại khi chàng được dẫn vào phòng. Nàng không thấy
chàng, chỉ ngồi mở lớn mắt nhìn chòng chọc vào thi hài nhỏ bé, đôi mắt
nàng đã hết thần sắc. Nhưng Dasa thấy nàng như khác lạ, biến đổi hẳn.
Một lát sau, chàng mới nhận ra rằng tóc nàng mới hôm qua đen nhánh mà
bây giờ đã trở màu. Nàng có vẻ như ngồi đấy đã lâu, lặng câm với
thi hài đứa bé trên đầu gối.
"Ravana!" Chàng kêu lên.
"Ravana, con ơi!" Chàng quỳ xuống, mặt áp vào đầu đứa bé đã
chết. Chàng quỳ trong tư thế cầu nguyện trước người đàn bà câm lặng
và xác đứa con. Chàng khóc cả hai. Chàng ngửi thấy mùi máu me và tử
khí hòa lẫn mùi nước hoa trên tóc con chàng. Với cái nhìn câm nín,
Pravati nhìn chòng chọc vào hai cha con.
Có ai lay động vai chàng. Ðấy là một
viên quan của Govinda đến bảo chàng đứng dậy. Những người lính dẫn
chàng ra ngoài. Chàng đã không nói một lời nào với Pravati, nàng cũng không
nói gì với chàng. Hai tay bị trói, chàng được đặt lên xe đưa đến một
khu trại trong lãnh thổ của Govinda. Ở đây người ta nới lỏng dây trói
cho chàng. Một người lính đem lại một gàu nước đặt trên đá. Cửa đã
khóa lại, chàng bị nhốt một mình. Một vết thương trên vai chàng đau nhức
như lửa đốt. Chàng sờ soạng tìm gàu nước, thấm ướt tay và mặt.
Chàng muốn uống nhưng lại thôi, vì chàng nghĩ như thế này chết nhanh hơn.
Còn bao lâu nữa, hỡi trời, còn bao lâu nữa. Chàng mong mỏi được chết
đi, như cổ họng khát cháy của chàng đang mong uống nước. Chỉ có chết
mới làm lắng xuống nỗi đau khổ hành hạ tâm can chàng. Chỉ có chết mới
xóa nhòa được hình ảnh người mẹ với xác đứa con trên gối. Trong cơn
đau khổ, may thay, vì quá mệt mỏi chàng ngã quỵ và thiếp ngủ.
Khi tỉnh lại sau cơn ngủ ngắn ngủi,
chàng cố dụi mắt mà không được. Cả hai tay chàng đang bận nắm chặt
một vật gì. Chàng cố sức mở mắt ra, thì thấy mình không còn ở giữa
bốn bức tường nhà tù nữa. Ánh sáng lục tuôn tràn trên lá và rêu.
Chàng chớp mắt liên hồi. Ánh sáng đập vào chàng như một vố đánh thật
mạnh, mặc dù lặng lẽ. Một cơn rùng mình vì kinh hãi chạy khắp người
chàng từ sau gáy dọc xuống xương sống. Chàng chớp mắt một lần nữa,
và mở lớn đôi mi.
Chàng đang đứng giữa một khu rừng,
hai tay cầm một bầu đầy nước. Dưới chân chàng, lòng suối phận chiếu
những màu nâu lục. Xa hơn rụng phong kia, chàng nhớ lại, là gian chòi của
vị ẩn sĩ đang chờ chàng đem nước về, người đã cười một cách lạ
lùng, người mà chàng đã yêu cầu dạy cho chàng thêm về Maya.
Chàng đã không thua trận, cũng không
có đứa con nào chết. Chàng cũng không từng làm vua hay làm cha ai cả.
Ðúng hơn, vị ẩn sĩ đã đáp lại lời yêu cầu của chàng, đã dạy cho
chàng về Maya. Lâu đài vườn tược, thư viện, và quân lính, những lo âu
của vương nghiệp và của người làm cha, chiến tranh và ghen tuông, tình
yêu và nghi kỵ, tất cả những thứ đó không là gì cả. Không, không phải
hoàn toàn không, mà là huyễn. Dasa đứng đấy, rã rời, những giọt nước
mắt lăn xuống má. Tay chàng run rẩy, làm nghiêng bầu nước tràn ra chảy
xuống đôi chân. Chàng cảm thấy như ai vừa chặt bớt tay chân mình, lấy
bớt một cái gì từ nơi đầu mình. Bỗng chốc, những năm dài chàng đã
sống, những kho báu chàng nâng niu, lạc thú chàng đã hưởng, nổi đau chàng
đã chịu, những kinh hoàng chàng đã trải, nổi tuyệt vọng chàng đã nếm
cho đến mé bờ cái chết, tất cả những thứ ấy đã tuột khỏi chàng,
trở thành số không, tan biến. Nhưng không phải hoàn toàn là không! Vì ký
ức vẫn còn đó. Những hình ảnh vẫn còn trong trí chàng. Chàng vẫn còn
thấy được Pravati đang ngồi, cao và cứng đơ, tóc trở màu hoa râm một
cách đột ngột, đứa con trai trên vế nàng, như thể chính nàng vừa giết
nó. Ðứa trẻ nằm như miếng mồi của một con thú, đôi ống chân thỏng
xuống một cách què quặt trên gối nàng.
Ôi thật mau chóng, thật tàn khốc, thật
kinh khủng và trọn vẹn làm sao, bài học chàng đã học về Huyễn hóa. Mọi
sự bị xáo trộn một cách kỳ lạ, những năm dài chĩu nặng đã được
thu gọn lại thành chốc lát. Tất cả thực tại rộn ràng đó chỉ là một
giấc chiêm bao. Vậy thì có lẽ chàng cũng đã chiêm bao tất cả những gì
xẩy ra trước đây, câu chuyện về hoàng tử Dasa, về cuộc đời du mục,
về cuộc hôn nhân, về việc báo thù, về sự ẩn náu của chàng bên vị
ẩn sĩ. Tất cả những việc này đều là những hình ảnh, như những hình
người ta có thể ngắm trên bức tranh chạm trổ của một lâu đài ở đầy
hoa, tinh tú, chim, khỉ, và những thiên thần có thể được trông thấy giữa
những khóm lá. Và những gì chàng đang kinh nghiệm ngay lúc này, những gì
chàng đang thấy trước mắt sau khi tỉnh dậy từ chuyện làm vua, chuyện
chiến tranh và bị cầm tù, những gì chàng thấy trong khi đang đứng bên bờ
suối, cái bầu nước chàng vừa làm đổ một ít, cùng với tất cả những
suy tư của chàng về mọi sự, phải chăng tất cả cũng đều là một thứ
mộng huyễn như nhau? Ðó không phải là ảo tưởng, là Maya sao? Và mọi sự
mà chàng còn sẽ trải qua trong tương lai, sẽ thấy bằng mắt và sờ bằng
tay, cho đến lúc chết - tất cả đó có chút gì khác nhau với kinh nghiệm
trước? Tất cả đều là trò chơi, là giả huyễn, bọt nước, chiêm bao.
Toàn thể lăng kính muôn mặt của cuộc đời với đủ cung bực lạc thú
và khổ sầu này, tất cả chỉ là mộng huyễn, Maya. Dasa vẫn đứng trơ
ra đấy. Bầu nước lại bị nghiêng, đổ ra một ít làm ướt chân chàng
và ngấm vào đất. Bây giờ chàng phải làm gì? Múc đầy nước trở lại,
mang về cho vị ẩn sĩ, để lại bị ông ta cười nhạo nữa về những gì
chàng đã chịu đựng trong giấc chiêm bao ư? Ðiều ấy không làm chàng
khoái lắm. Chàng đổ hết nước trong bầu, ném nó trên rêu, rồi ngồi xuống
thảm cỏ xanh mà khởi sự suy tư nghiêm trọng. Chàng đã quá ngấy chán
cái trò mộng mơ này, trò chơi quỉ quái với những lạc thú và đau khổ
nghiền nát tim mình, làm cho máu mình đông lại, chỉ để đột nhiên bừng
mắt dậy thấy tất cả chỉ là Maya, và mình chỉ là một tên ngốc.
Chàng đã chán ngấy mọi thứ. Bây giờ
chàng không còn ham vợ con gì nữa, không ham ngai vàng, chiến thắng hay trả
thù, không ham hạnh phúc hay trí khôn, không ham quyền lực hay đức hạnh gì
nữa hết. Chàng chỉ mong được an tịnh, được chấm dứt sự hỗn loạn
này. Chàng không còn mong muốn gì ngoài ra là chận đứng bánh xe quay bất
tận này, chấm dứt cảnh tượng diễn biến đến vô cùng này, dập tắt
tất cả. Chàng muốn tìm sự ngơi nghỉ, muốn dập tắt mình đi. Ðó
chính là điều chàng mong mỏi trong khi sấn tới kẻ thù trong trận chiến
đấu cuối cùng, đánh vung vít và bị đánh trở lại, chém ra những vết
thương và nhận những vết thương, cho đến khi ngã gục. Nhưng rồi thì
sao? Rồi thì có một giai đoạn ngắn ngủi bất tỉnh nhân sự, hay ngủ
quên, hay cái chết, nhưng liền sau đó ta lại tỉnh dậy, lại phải nhận
mạch sống vào trong tim, lại phải để cho dòng thác lũ những hình ảnh
ghê rợn, dễ yêu, kinh khiếp một lần nữa trút vào nhãn thức ta bất tận,
không thể thoát khỏi, cho đến lần bất tỉnh kế tiếp, cái chết kế tiếp.
Có lẽ đó chỉ là một sự tạm ngưng, một lúc ngơi nghỉ, một dịp để
lấy lại hơi thở mà thôi. Không thể nào có sự dập tắt. Nó cứ tiếp
diễn bất tận.
Nỗi bất an làm chàng đứng lên lần
nữa. Nếu không có sự nghỉ ngơi nào cho cái vòng lẩn quẩn khốn nạn
này, nếu mong ước tha thiết nhất của chàng không thể thực hiện, thì
sao bằng cứ múc đầy bầu nước mà mang về cho ông già cho xong, mặc dù
ông ta không có quyền gì ra lệnh chàng. Ðấy là một dịch vụ chàng được
nhờ vả, một phận sự phải làm. Chàng có thể cứ vâng lời và thi hành
phận sự ấy như thế còn tốt hơn là cứ ngồi lì ở đấy mà trầm tư
về những cách tự hủy. Nói cho cùng, thì vâng lời và phục vụ vẫn tốt
hơn và dễ hơn nhiều, vô hại hơn nhiều, so với sự ra lệnh và nhận
trách nhiệm. Chàng biết được chừng ấy. Ðược rồi, Dasa, hãy lượm bầu,
múc đầy nước rồi mang về cho thầy đi.
Khi chàng về tới chòi, vị thầy đón
chàng bằng cái nhìn lạ lùng như dò hỏi, như thương cảm, lại như cái
nhìn của một cậu bé ranh mãnh xí gạt được một đứa bé khác. Cái anh
chàng mục tử hoàng gia này, gã lãng tử bỗng dưng sa vào chốn này, y chỉ
có ra suối lấy nước rồi trở về không hơn mười lăm phút. Vậy mà đồng
thời, y cũng đã ở tù về, đã mất một bà vợ, một đứa con trai, một
vương quốc, đã sống trọn một đời người và đã thoáng thấy bánh xe
sinh tử. Có lẽ y đã có dịp được thức tỉnh hơn một lần về trước,
nếu không y đã không lai vãng tới đây và lưu lại đây lâu đến thế.
Nhưng bây giờ dường như y đã được thức tỉnh đúng mức, và đã có căn
cơ thuần thục để bắt đầu cuộc hành trình dài. Cần phải mất nhiều
năm chỉ để dạy cho y cách ngồi và thở.
Chỉ bằng một cái nhìn ấy, cái
nhìn chứa đựng mối tương giao sư đệ, chỉ với độc một cái nhìn ấy,
vị ẩn sĩ nhân hậu nhận chàng làm môn sinh. Cái nhìn ấy đã đánh tan tất
cả những tư duy vô ích trong đầu người đệ tử. Nó buộc chàng vào nếp
sống kỷ luật và phục vụ. Từ đó chàng không bao giờ rời khỏi khu rừng.