- Ðường vào nội
tâm
- Thích nữ Trí Hải
2
10. CƯ
SĨ THỜI PHẬT
Mỗi khi muốn khích lệ các tỳ kheo
tu tập, đức Thế tôn thường nhắc đến hai vị tỳ kheo lý tưởng là
Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên. Nhưng khi thuyết giảng cho cư sĩ về một
mẫu người tại gia lý tưởng, đức Ðạo sư lại nêu danh hai cư sĩ uyên
bác của Ngài, đó là ưu bà tắc Citta và Hatthaka. Kinh Tăng Chi Bộ, tập I,
kể những bậc thuyết pháp đệ nhất trong đó ba vị được liệt kê đầu
tiên là tỳ kheo Tunna, tỳ kheo ni Dhammadinna và ưu bà tắc Citta. Trong kinh tạng
Pali, không một cư sĩ nào vượt hơn Citta về phương diện thuyết pháp.
Ðể tiện việc phát âm, và để phù
hợp với độc giả người Việt, ta hãy gọi Citta là cư sĩ Tâm trong câu
chuyện về đời ông.
Cư sĩ Tâm là một thương gia giàu có
sở hữu cả một khu làng tên Niga Pathaka và một khu rừng rộng lớn. Ông
cúng khu rừng này cho Tăng đoàn của Phật xây dựng một tinh xá lớn ở
đây.
Một hôm cư sĩ Tâm mời một số các
vị Trưởng lão trong tinh xá về nhà dùng cơm. Sau bữa ăn, cư sĩ thỉnh vị
Thượng tọa thuyết giảng những lời Phật dạy về sự sanh khởi của các
pháp. Vị Thượng tọa không giảng được. Sau ba lần cư sĩ cầu thỉnh, một
vị hạ tọa tỳ kheo trẻ tuổi nhất trong đoàn tên Isidatta, đứng lên xin
phép vị Thượng tọa để giảng cho cư sĩ. Vị Thượng tọa chấp thuận,
và Isidatta tỳ kheo trẻ bắt đầu giải thích rành mạch sự sanh khởi các
pháp. Ông giảng rằng mọi pháp khởi lên đều do từ 18 "giới":
đó là sáu nội xứ hay căn (mắt tai mũi lưỡi thân ý), 6 ngoại xứ hay trần
(sắc thanh hương vị xúc pháp) và sáu thức (sáu cái biết của 6 căn ở
trên).
Sau thời pháp, các tỳ kheo ra về.
Trên đường về tinh xá, vị Thượng tọa tỳ kheo khen ngợi hạ tọa tỳ
kheo về thời pháp vừa rồi:
- Lành thay, hiền giả đã trình bày gọn
và rõ. Lần khác, nếu có dịp, hành giả cứ tự do trình bày.
Vị Thượng tọa chẳng những không
ôm lòng ganh tị với tỳ kheo trẻ, trái lại Ngài cảm thấy hỷ lạc khởi
lên trong tâm trước sự uyên bác của người sư đệ. Vị sư đệ, về phần
ngài, cũng không tỏ lộ chút nào hãnh diện hay kiêu căng trước những lời
ca tụng. (Tương ưng bộ kinh 41,2)
Vào một dịp khác, cư sĩ Tâm hỏi:
"Do nhân gì mà những tà kiến xuất hiện?" Thượng tọa tỳ kheo
cũng không đáp được, và Isidatta xin thay ngài để trình bày. Tỳ kheo
Isidatta bảo: tà kiến khởi lên là do tin tưởng thật có một cái Tôi (gọi
là ngã kiến hay thân kiến). Cư sĩ Tâm hỏi: ngã kiến hay thân kiến do đâu
mà có? Tỳ kheo đáp, kẻ phàm phu do không học tập Phật Pháp, thường xem
năm uẩn - tức những yếu tố vật lý (sắc) và tâm lý (bốn uẩn còn lại)
nơi một con người - là cái "tôi" và "của tôi", do đó tạo
nên một cái ngã tưởng tượng, đó gọi là thân kiến hay ngã kiến.
Cư sĩ Tâm rất hoan hỷ với lời giải
thích ấy, và hỏi quê vị Tỳ kheo ở đâu. Khi vị Tỳ kheo cho biết ở
Avanti, cư sĩ hỏi:
- Vậy tôn giả có biết một người
tên Isidatta ở đấy không? Y là bạn thư từ với tôi. Tôi thường viết
thư đàm luận Pháp với y, và khuyên y xuất gia. Không biết y nghĩ sao về
lời khuyên ấy, lâu nay tôi mất liên lạc.
Ðôi bạn chưa hề gặp nhau, nên khi cư
sĩ Tâm biết vị tỳ kheo chính là Isidatta đã liên lạc thư từ với mình
dạo trước, ông rất vui mừng. Cư sĩ xin được cúng dường các thứ cần
dùng cho Tỳ kheo Isidatta, nhưng vị này cảm ơn và đi biết không bao giờ
trở lại. Ngài đã chứng A La Hán.
Vào những dịp khác, cư sĩ Tâm là người
trả lời những câu hỏi về Pháp do các Tỳ kheo đặt.
Một ngày nọ, một nhóm Tỳ kheo Thượng
tọa đang ngồi trước cổng tinh xá thảo luận vấn đề: những kiết sử
(sự buộc trói) là một hay khác với các dục trưởng dưỡng (sắc thanh
hương vị xúc). Nếu các dục trưởng dưỡng chính là trói buộc, thì chỉ
cần xa chúng là hết trói buộc. Nhưng nếu dục trưởng dưỡng khác với
trói buộc, thì dù xa lánh chúng, cũng không chắc đã hết trói buộc.
Cư sĩ Tâm tình cờ đi qua, nghe lọt sự
bàn cãi của chư tăng về vấn đề, liền xin gia nhập cuộc thảo luận.
Khi được phép phát biểu, ông tuyên bố:
- Bạch chư Ðại Ðức, con tin và biết
chắc chắn rằng: kiết sử và các dục trưởng dưỡng là hai chuyện khác
nhau, không những trên danh từ mà cả về ý nghĩa. Như cái ách buộc chung
cặp bò đen trắng, con bò đen không phải là cái trói buộc con trắng, con
bò trắng cũng không phải là cái trói buộc con đen, nhưng cả hai đều bị
trói buộc bởi cùng một sợi dây giàm của cái ách. Cũng vậy, căn (mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý) không trói buộc được trần, trần cũng không
trói buộc được căn, nhưng cả hai căn và trần đều bị Dục tham trói
buộc vào cái ách khổ.
Chúng tỳ kheo rất hoan hỉ với giải
đáp của cư sĩ đa văn ấy, và cho rằng vị ấy đã đắc Pháp nhãn.
Ðức Phật cũng dạy, sáu nội ngoại
xứ (6 căn 6 trần) là những vật bị trói buộc, nhưng chỉ có Dục tham
là xiềng xích trói buộc chúng. Bởi thế, thật vô ích nếu chỉ xua đuổi
ngoại cảnh, tránh né sắc thanh hương vị xúc, hay chỉ cố gắng đè nén
nội căn (như bưng tai nhắm mắt), bởi vì chính Dục tham mới là yếu tố
trói buộc.
Ví dụ của cư sĩ Tâm rất xác đáng:
Bò đen dụ cho sáu nội căn vì khó biết khó thấy. Bò trắng dụ cho sáu
ngoại trần, vì hiện rõ dễ thấy.
Một dịp khác, cư sĩ Tâm đàm luận
với một lãnh tụ giáo phái lõa thể là Nathaputta (Ni kiền tử). Ông này bảo:
- Bạn có tin rằng có một cảnh giới
hoàn toàn không có tư tưởng?
- Không, tôi không tin có một chuyện
như thế.
Vị lõa thể rất hài lòng trước câu
trả lời ấy, vì không hiểu được ý nghĩa thực của nó. Ông tưởng sẽ
chinh phục được cư sĩ nổi danh này theo giáo phái mình, phấn khởi tuyên
bố:
- Ðúng thế, thưa bạn. Tôi cũng nghĩ
rằng, dừng lại dòng tư tưởng tuôn chảy thì chẳng khác nào lấy tay ngăn
giòng nước sông Hằng lại. Quả thế, không thể nào làm ngưng dòng tâm
thức.
Cư sĩ Tâm hỏi:
- Theo ý bạn, lòng tin và sự thực chứng
bằng kinh nghiệm, cái nào đáng giá hơn?
- Dĩ nhiên là sự thực chứng bằng
kinh nghiệm có giá trị hơn chứ.
- Vậy thì tôi đã biết, đã thực chứng
một điều rằng, trong bốn thiền, thì ba thiền sau là không có tư tưởng.
Bởi thế đối với tôi, không phải là chuyện tin tưởng nữa, mà là thực
chứng bằng kinh nghiệm, lời dạy của Thế tôn.
Khi ấy lõa thể ngoại đạo cực lực
thống trách cư sĩ Tâm, vì lúc đầu đã nói "không tin có chuyện ấy".
Cư sĩ Tâm hỏi:
- Lúc đầu, bạn khen tôi đúng, bây
giờ bạn lại chê tôi ngu. Vậy thực sự, tôi ngu hay đúng?
Lõa thể không trả lời.
Một lần khác, cư sĩ Tâm gặp lõa thể
Kassapa và hỏi:
- Bạn thực hành lõa thể như vậy đã
bao lâu?
- Ba mươi năm.
- Bạn đã chứng đắc những trạng
thái hỉ lạc hay có trí tuệ siêu phàm chưa?
- Chưa. Còn bạn, bạn đã quy y Phật
bao lâu?
- Ba mươi năm.
- Thế bạn đã chứng được cái gì?
- Tôi đã chứng bốn thiền, và nếu
tôi chết trước khi đức Thế tôn nhập Niết bàn, thì chắc chắn Ðấng
Ðạo sư sẽ nói về tôi như sau: Cư sĩ Tâm không còn bị trói buộc vào
cõi nào trong dục giới.
Ðiều ấy khiến vị lõa thể hiểu rằng
cư sĩ đã chứng quả Bất hoàn, thứ ba trong bốn quả thánh. Vị khổ hạnh
rất đỗi kinh ngạc khi thấy một cư sĩ tại gia lại có thể đạt một
trình độ tu chứng cao như vậy. Ông suy rằng, ở cương vị xuất gia ông
sẽ càng dễ chứng hơn nhiều. Do đó ông nhờ cư sĩ giới thiệu đến Phật
để xin xuất gia thụ giới. Chẳng bao lâu ông chứng quả A La Hán,
Cư sĩ Tâm còn dẫn dắt ba người bạn
nữa xuất gia đắc quả, một người trong đó là Isidatta đã nói. Cả ba
đều vượt hơn cư sĩ về quả chứng.
Khi cư sĩ bệnh nặng, chư thiên xuất
hiện khuyên ông hãy trú tâm vào ngôi vị Chuyển luân vương trong đời kế
tiếp. Ông trả lời:
- Không, tôi không làm vua Chuyển
luân. Tôi đang hướng đến cái gì còn cao cả hơn, hạnh phúc hơn ngôi vị
ấy. Tôi đang hướng đến Niết bàn.
Quyến thuộc vây quanh ông trong lúc
ấy, vì không trông thấy chư thiên nên tưởng ông nói nhảm. Ông trấn an
mọi người:
- Ta đang nói chuyện với phi nhân,
các ngươi đừng sợ.
Rồi ông dặn dò:
- Sau khi ta chết, các con cháu hãy
luôn luôn đặt niềm tin vững chắc vào Pháp, và giữ sự cúng dường hầu
hạ Ðấng Ðạo sư cùng thánh chúng của ngài.
Nói xong, ông nhắm mắt an tường nhập
định.
-ooOoo-
11. BỒ TÁT THÂN NAI
Thuở Phật tại thế, có nhà triệu
phú sinh được người con gái xinh đẹp đã trồng căn lành từ vô lượng
kiếp, có trí tuệ của bậc xuất trần thượng sĩ. Khi lớn lên nàng
không màng chuyện chồng con, mà muốn xuất gia trong Pháp và Luật của Phật.
Nàng xin cha mẹ:
- Thưa cha mẹ, con không ưa đời sống
gia đình, xin cha mẹ cho con xuất gia, sống đời giải thoát như Phật Thế
tôn.
Ông bà triệu phú kinh hoảng bác ngay
lời nàng:
- Này con yêu dấu, đừng nói bậy.
Nhà ta đại phú, con muốn cúng dường bố thí bao nhiêu cha mẹ cũng không
cấm. Nhưng con là con gái cưng độc nhất của cha mẹ, không đời nào cha
mẹ lại cho phép con xuất gia.
Bị từ chối, cô gái suy nghĩ: "Vậy,
khi nào cha mẹ gả chồng, ta sẽ xin chồng xuất gia." Và cha mẹ đã chọn
người rể xứng đáng, gả nàng. Cô gái theo về nhà chồng, thâm tâm vẫn
nuôi ý định xuất gia. Vào một ngày hội lớn trong nước, mọi người đều
trang sức lộng lẫy, nhưng cô gái vẫn không đeo đồ nữ trang, y phục vẫn
đơn giản như thường ngày. Chồng nàng hỏi:
- Tại sao em không trang điểm phấn
son gì cả? Hôm nay là ngày hội vui cả nước, em không tham dự sao?
- Thân này là đãy da chứa toàn ô uế,
phấn son trang điểm cho nó chẳng khác gì trang hoàng một cái thùng phân.
- Em nói nghe như là người đã thoát
vòng tục lụy. Vậy sao em không vào chùa tu luôn đi?
- Nếu được phép, em sẽ xuất gia
ngay bây giờ.
- Vậy thì được, cho phép em xuất
gia.
Nàng hoan hỉ cảm ơn, và chồng nàng
đưa nàng tới một ni viện dưới sự lãnh đạo của Ðề bà đạt đa
(Devadatta). Ðề bà đạt đa đã gây chia rẽ trong tăng chúng, bằng cách
đưa ra năm điều luật khắc khe hơn giới luật Phật chế, và nhờ vậy
thâu được một số đông đệ tử mới của Phật về phái mình, những
người có khuynh hướng cực đoan, khoái khổ hạnh.
Thiếu phụ khi xuất gia, hoàn toàn
không biết mình đã mang thai. Sau khi thọ giới cụ túc, bụng càng ngày
càng lớn. Chúng tỳ kheo ni trông thấy, bèn đi mách với Ðề bà. Ðề bà
ra lệnh trục xuất ngay, vì cho là cô ấy phạm giới. Cô cực lực phản
đối, bảo:
- Tôi xuất gia với đức Ðạo sư, không
phải xuất gia với sự lãnh đạo của Devadatta. Xin cho tôi đến yết kiến
đức Phật Thế tôn.
Chúng ni bèn đưa nàng đến trước Phật.
Phật biết nàng vô tội, song vì nàng ở trong tăng đoàn Ðề Bà, nên ngài
muốn làm sáng tỏ vấn đề trước vua Ba tư nặc để quần chúng khỏi dị
nghị, cho rằng Ngài tranh giành đệ tử. Một phiên xử công khai được
triệu tập để xét xử nội vụ. Nhiều trưởng giả, đại thần, mệnh
phụ tham dự, trong đó có bà Visakha là một phụ nữ nổi tiếng. Bà được
đề cử để khám xét thiếu phụ tỳ kheo ni. Sau khi khám, bà công bố cô
có thai khi còn là gia chủ, và do đó cô vô tội. Phiên xử kết thúc mỹ
mãn, tỳ kheo ni được trở về chùa. Ðến kỳ khai hoa nở nhụy, cô hạ
sanh một bé trai được nuôi trong chùa. Khi vua Ba tư nặc đi dạo chơi ngang
chùa, nghe tiếng trẻ khóc bèn hỏi quan hầu cận:
- Quái lạ, sao trong chùa lại có tiếng
trẻ khóc nhỉ?
- Tâu đại vương, đó là hài nhi của
vị ni cô được triều đình tuyên bố vô tội dạo trước.
Vua nhớ ra, bèn xin Phật cho đưa đứa
bé về cung để hoàng hậu và các cung nữ nuôi giùm. Ðến kỳ đặt tên,
hài nhi có tên là "hoàng tử Ca Diếp", được nuôi dạy chung với
các hoàng tử. Khi lên bảy, hoàng tử Ca Diếp xin Phật xuất gia. Sau khi thụ
đại giới, trưởng lão Ca Diếp trở thành vị thuyết pháp đệ nhất
trong tăng đoàn của Phật. Trưởng lão ni mẹ của ngài và ngài đều chứng
quả A La Hán.
Một hôm, tại Diệu pháp đường
trong tinh xá Kỳ hoàn, chúng tỳ kheo đang ngồi ca tụng ân đức Thế tôn,
đã cứu được hai mẹ con và lại còn đặt lên ngôi vị thánh. Ðức Phật
đi vào biết chuyện, dạy:
- Này các tỳ kheo, không phải trong đời
này Như lai đã cứu hai mẹ con Ca Diếp, mà trong đời kiếp lâu xa khi còn
làm súc sanh, ta cũng đã từng cứu hai mẹ con ấy.
Rồi Ngài kể lại chuyện tiền thân
ngài làm Nai chúa như sau.
Thuở ấy đức Phật làm một con nai
chúa tể cả đàn nai trong rừng. Nai chúa có bộ lông và đôi mắt tuyệt
đẹp. Vị vua trị vì lúc bấy giờ rất khoái thịt nai, ngày nào cũng bắt
dân chúng vào rừng săn bẫy nai đem về cung cấp cho đầu bếp nhà vua. Vì
phải bỏ bê việc nhà vào rừng săn nai hàng ngày, dân chúng bàn nhau huy động
toàn lực để bắt hết tất cả nai trong rừng về, vây lại trong vườn
thượng uyển để đầu bếp mỗi ngày vào đó mà bắt nai, khỏi phiền
nhiễu tới dân chúng. Ðàn nai của Bồ tát bị tóm trọn, cùng với một
đàn nai khác cũng do một nai chúa cầm đầu, là tiền thân của Devadatta.
Khi cả hai đàn nai đều bị bắt về
ngự uyển, vua đến xem, và trông thấy hai con nai chúa xinh đẹp, liền bảo
đầu bếp chừa lại đừng giết. Những con khác thì cứ mỗi ngày làm thịt
cho vua dùng. Từ đấy hàng ngày tên thợ săn và đầu bếp của vua lại đến,
dùng cung nỏ bắn hạ một con trong hai đàn nai để về làm thịt. Mỗi khi
thợ săn đến, hai đàn nai chạy tán loạn, thợ săn bắn tên vào chúng,
nhiều con bị trúng thương, phải chịu đau đớn nhiều ngày trước khi chết.
Thảm kịch tái diễn hàng ngày, khiến cho đàn nai hãi hùng khủng khiếp. Bồ
tát nai liền họp tất cả đàn mình và đàn nai Ðề bà để thương nghị:
- Ðể tránh tình trạng kinh hoàng cho
hai bầy nai, chúng ta hãy luân phiên bắt thăm, ngày hôm nay đàn nai tôi nạp
một mạng, ngày mai đàn nai anh nạp một mạng. Như vậy những nai còn lại
được sống yên ổn, cho đến khi tới phiên mình nạp mạng.
Toàn thể đều chấp thuận sự sắp
đặt ấy. Một hôm, đến lượt đàn nai Ðề bà bốc thăm, trúng phiên một
chị nai có bầu sắp sinh. Nai mẹ khẩn khoản với nai chúa:
- Xin hãy tha cho tôi, nếu tôi bị giết
thì chết tới hai mạng chứ không phải một, Như vậy không công bằng.
Tôi sẽ xin nạp mình sau khi sanh nở xong.
Nai Ðề bà nhất quyết không chịu.
Nai mẹ bèn đến cầu cứu nai Bồ tát. Bồ tát nói:
- Ðược, chị yên tâm trở về đi.
Ngày mai, chị khỏi phải đến nạp mạng.
Nai mẹ mừng rỡ cảm ơn ra về. Hôm
sau, khi tên đầu bếp của vua đi đến chỗ hành quyết nai, thì thấy Bồ
tát nai chúa đang nằm kê đầu trên cái thớt chờ lát đao chặt xuống.
Ðôi mắt Nai trong sáng đượm buồn, nhưng bình an. Nai ngước nhìn tên đầu
bếp với vẻ thương xót, không lộ vẻ gì là sợ sệt, thù hận. Ðầu bếp
ngạc nhiên hỏi:
- Này bồ đi, sao nằm đó? Vua bảo
tha chết cho bồ kia mà. Ðàn nai của bồ chết tiệt cả rồi sao?
- Không phải đâu, đầu bếp. Ðàn
nai tôi còn nhiều, nhưng hôm nay tới phiên một chị nai có bầu nạp mạng.
Nếu chị ấy chết thì chết cả mẹ lẫn con. Tôi không nỡ bảo ai thay thế
chị, vì ai cũng tham sống sợ chết cả. Do vậy tôi nạp mình thay cho chị.
Ðầu bếp cứ việc hạ đao đi.
Người đầu bếp trở về tâu vua
chuyện lạ. Nhà vua đích thân theo ông đến vườn nai, thấy Nai chúa vẫn
nằm kê đầu trên thớt, đôi mắt long lanh như hai viên ngọc ngước nhìn
vua. Do năng lực từ tâm của Bồ tát, vua phát sinh một lòng thương vô hạn.
Vua ngồi xuống bên nai:
- Này nai chúa, hãy đứng dậy. Ta tha
chết cho ngươi.
- Tâu đại vương, ngài tha chết cho
tôi, nhưng còn những nai khác trong vườn thì sao?
- Ta cũng tha luôn tất cả nai trong vườn.
- Nai trong vườn được tha, còn tất
cả loài nai thì sao?
- Ta cũng tha giết tất cả loài nai.
- Loài nai được tha, nhưng các loài
thú khác trên mặt đất thì sao?
- Ta cũng tha nốt.
- Loài thú trên đất được tha,
nhưng cá dưới nước thì sao?
- Ta cũng tha luôn loài cá.
- Loài dưới nước được tha, còn
loài chim bay trên không thì sao?
- Loài chim bay cũng được tha luôn.
- Lành thay, đại vương. Tất cả chúng
sinh đều tham sống sợ chết, bởi thế không nên giết hại, đánh đập,
gieo rắc sự sợ hãi. Ngài hãy sống với từ tâm, thì đời này được an
lạc, giấc ngủ nhẹ nhàng, sống không bệnh tật, chết được an lành,
sinh lên các cõi trời trường thọ.
Nhờ bồ tát Nai cảm hóa, từ đấy
nhà vua phát tâm ăn chay, không còn ý tưởng giết hại.
Nai mẹ được bồ tát cứu, về sau
sanh hạ một chú nai con kháu khỉnh, đó là tiền thân hoàng tử Ca Diếp
ngày nay. Nai mẹ chính là tỳ kheo ni được Phật giải oan trong kiếp hiện
tại, còn nhà vua là tiền thân của A nan tôn giả.
-ooOoo-
12. BÀI PHÁP TRÊN NÚI
Một thời, cách thành Vương Xá không
xa, có ba anh em dòng họ Kasyapa (Ca Diếp) theo đạo thờ lửa sống trong những
biệt thự dọc sông Ni Liên. Người anh cả tên Uruvilva (Ưu Lâu Tần Loa)
già trên 120 tuổi, anh thứ là Gaya (Già Da) và em út là Nadi (Na đề) cả
hai đều đã trên trăm tuổi. Họ đã tu luyện lâu năm và biết phép thần
thông biến hóa nên được rất đông đồ đệ, kể cả vua Bimbisara (Bình
sa). Tuy vậy, họ không có giáo lý nào để dạy dỗ người bỏ ác làm
lành, sống lương thiện, mà chỉ chuyên biểu diễn phép lạ để lòe
thiên hạ, và tổ chức những lễ tế thần lửa.
Lúc bấy giờ, đức Thế tôn đang ở
thành Vương Xá. Sau khi độc cư thiền định, Ngài quan sát thấy đã đến
thời để cảm hóa anh em Ca Diếp vào chánh đạo. Một khi những người
tinh tấn thờ lửa có đông đồ đệ ấy được cảm hóa, họ sẽ đắc
đạo nhanh chóng, và những đệ tử của họ cũng sẽ nối gót theo họ mà
ra khỏi rừng tà kiến. Sau khi suy nghĩ như vậy, đức Thế tôn mang y bát
đi đến trú xứ của Ưu Lâu Tần Loa, người anh cả. Ngài đi bộ một mình,
không tùy tùng thị giả. Ngài bước đi bình dị và oai phong như sư tử chúa,
đến trước tư thất của vị Bà la môn già thờ lửa vào lúc trời sẫm
tối, và ngỏ lời xin nghỉ lại một đêm. Ca Diếp nhìn Ngài từ đỉnh đầu
đến gót chân, thầm nghĩ: "Sa môn con nhà ai mà đẹp trai, tuấn tú đến
thế! Tiếc thay y không phải là đồ đệ của ta." (Ðấng Ðạo sư lúc
ấy chỉ mới trên ba mươi tuổi, sau khi đạt chánh giác không bao lâu).
Rồi ông từ chối không để Ngài ở
lại, lấy cớ đã hết chỗ. Nhưng đức Thế tôn vẫn không nao núng, Ngài
đứng im lặng. Bà la môn nghĩ, "có lẽ cần phải hăm dọa thì sa môn
này mới chịu đi." Và lên tiếng:
- Nhà đã hết chỗ, chỉ còn cái điện
thờ thần lửa, nhưng có một con độc long to bự trong đó, ai vào sẽ bị
nó phun độc chết tươi.
Ðức Thế tôn nhũn nhặn đáp:
- Cũng được, hãy cho bần tăng trú
ngụ một đêm trong đó.
Không biết từ chối cách nào khác,
Ca Diếp bất đắc dĩ phải để Ngài ở lại, với hy vọng người khách
không mời này sẽ bị trừng phạt đích đáng về tội bất kính đối với
thần lửa như vậy. Nhưng Ca Diếp và đồ đệ ngạc nhiên xiết bao lúc
sáng hôm sau, họ vào điện thờ định đem xác vị sa môn trẻ ra, thì
không những vị ấy không bị độc long làm hại mà còn cảm hóa được nó.
Con rắn phủ phục một bên Ngài, trong khi Ðức Thế tôn lấy tay xoa đầu
nó như xoa đầu một đứa trẻ. Bà la môn Ca Diếp lấy làm kinh ngạc, thầm
phục sa môn, nhưng chưa biết đấy là Ðức Phật, Ðấng Chánh đẳng giác.
Ông ta nghĩ rằng vị sa môn này chắc có biết ít chú thuật bùa phép. Ðối
với đạo bà la môn thì tế tự và bùa phép là việc chính, ai kiện toàn
được những thứ ấy đuợc xem là bậc thánh. Nhưng Phật giáo thì không
thế, đối với đức Phật, thần thông, tế tự không quan trọng, mà cái
điều làm cho con người trở thành một bậc thánh chính là trí tuệ thấy
được sự vật một cách như thật, không bị che lấp bởi ngu si, ngã mạn,
tà kiến. Ðó là những điều mà đức Phật muốn dạy cho anh em Ca Diếp,
nhưng trước hết Ngài phải dùng phương tiện thần thông biến hóa để
nhiếp phục ông ta, vì đó là sở trường của họ. Ưu Lâu Tần Loa bắt
đầu cảm thấy khoái vị sa môn trẻ, ông mời Ngài ở lại trong nhà, với
dụng ý thâu làm đồ đệ và như thế ông sẽ có thêm một số đông đệ
tử theo gót vị sa môn tài hoa khả ái này. Ðức Thế tôn nhận lời. Ngài
ở lại nhà Ca Diếp bốn hôm, lần lượt thi triển những thần thông vượt
ngoài khả năng Ca Diếp, làm cho ông ta phải thú nhận thần thông mình thua
xa thần thông của Phật. Khi ấy đức Thế tôn mới bảo ông:
- Này Ca Diếp, ngươi sẽ không bao giờ
trở thành một bậc thánh nhờ vào những phép lạ. Chỉ có người nào đạt
đến trí tuệ rốt ráo mới đáng gọi là bậc thánh chân thật.
Ca Diếp phủ phục dưới chân Ngài,
xin Ngài tha thứ, và xin làm đệ tử Ngài. Ðức Thế tôn khuyên ông ta nên
hỏi ý kiến 300 đồ đệ ông trước đã. Ca Diếp hội ý với đồ đệ,
và tất cả đều công nhận sự vĩ đại của Thế tôn và đều xin qui y.
Họ còn mạnh dạn bày tỏ ý chí cải tà quy chánh bằng cách ném hết dụng
cụ thờ lửa xuống nước, cho trôi theo dòng sông Ni Liên (Neranjana). Hai người
em của Ca Diếp sống ở hạ lưu con sông, với đồ chúng riêng, một hôm
trông thấy đồ thờ thần lửa của anh cả đang trôi theo giòng, vội vã
tìm tới nhà anh xem đã xẩy ra tai nạn gì. Họ kinh ngạc xiết bao khi thấy
anh cả cùng 500 đồ đệ đã cạo tóc đắp y. Ưu Lâu Tần Loa bảo hai em:
- Con đường chúng ta theo bấy lâu nay
không phải là chánh đạo, bây giờ anh đã rõ. Muốn chấm dứt khổ sanh tử,
chỉ có giáo pháp của đức Thế tôn, bậc Chánh đẳng giác. Vì lý do đó
anh đã quy y Phật. Các em cũng nên suy nghĩ lại và can đảm dứt khoát như
anh, vì gặp được đức Phật ra đời là chuyện rất khó.
Hai người em cùng số đồ đệ thấy
anh cả đã theo Phật nên cũng xin cạo tóc xuất gia. Sau khi cả ngàn đồ
chúng anh em Ca Diếp xuất gia, đức Thế tôn đưa họ về thành Vương xá.
Trên đường đi, Ngài dừng lại trên đỉnh núi Gaya, từ đó trông xuống
xuyên qua một cách đồng, Ngài có thể trông thấy rừng Uruvilva, sông Ni
Liên và núi Pragbodhi. Ðưa tay chỉ xuống dãy rừng núi trùng điệp, Ngài dạy
các tân đệ tử:
- Hỡi các tỳ kheo, tất cả thế gian
đang bốc cháy dữ dội, các ngươi nên hiểu. Con mắt chúng bốc lửa, và
khi nhìn sự vật bằng con mắt bốc lửa của chúng, thì bất cứ gì chúng
thấy đều trông như đang bốc cháy. Lỗ tai chúng bốc lửa, nên khi nghe
âm thanh bằng lỗ tai bốc lửa của chúng, bất cứ gì chúng nghe đều như
đang bốc lửa. Mũi chúng bốc lửa, nên khi ngửi bằng lỗ mũi bốc lửa của
chúng, thì bất cứ mùi gì chúng ngửi đều như bốc lửa. Lưỡi chúng bốc
lửa, nên khi nếm bằng cái lưỡi bốc lửa, chúng cảm thấy những vị
chúng nếm đều bốc lửa. Thân của chúng bốc lửa, nên bất cứ gì thân
ấy chạm xúc đến đều như bốc lửa. Tâm chúng bốc lửa, nên khi suy tưởng
với tâm bốc lửa, mọi sự mà chúng nghĩ đến đều như bốc lửa đối
với chúng. Và, hỡi các tỳ kheo, lửa gì nơi chúng đang bốc cháy? Ta nói
chính là lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sanh, lửa già lửa bệnh, lửa chết,
lửa sầu bi khổ ưu não... Khi các ngươi không còn bám víu những ngọn lửa
ấy, thì các ngươi có thể giải thoát khỏi những đau khổ mê muội trói
buộc các ngươi vào thế gian này.
Bài giảng trên đỉnh núi Gaya không
những tóm thu cốt tủy đạo Phật, mà nó còn cho ta thấy đường lối giáo
dục của Ðấng Thiên nhân sư, bậc thầy siêu việt. Ðường lối ấy là
"lấy độc trị độc" hay "đối trị tất đàn" và "vị
nhân tất đàn" trong bốn biến thí (hai cái còn lại là Thế giới tất
đàn và đệ nhất nghĩa tất đàn). Ðối với người khoái thần thông,
Ngài sử dụng thần thông để giáo hóa; đối với người thờ lửa, Ngài
lấy ví dụ ngọn lửa tham, lửa sân, lửa si đang đốt cháy tâm can con người
và Thế giới. Tất cả không không ngoài mục đích cuối cùng là đưa họ
đến đệ nhất nghĩa tất đàn, ra khỏi vô minh khổ ách nhờ trí tuệ thấy
Như thật, chân lý khách quan chi phối vạn pháp, không còn bị che mờ vì lớp
kính màu của ngã chấp và cuồng vọng.
-ooOoo-
13. PHẬT ÐỘ NÀNG GÁNH NƯỚC
(thuật theo Hòa thượng Trí Nghiêm kể)
Một buổi sáng, tôn giả Anan một
mình trên đường về tinh xá Kỳ viên, gặp một cô gái đang gánh đôi
thùng đầy nước. Ðang lúc khát, tôn giả tiến lại xin:
- Này chị, cho bần tăng ít nước uống.
Cô gái đặt thùng nước xuống, đỡ
lấy bình bát của tôn giả, múc đầy nước cúng dường. Khi đến gần, cô
bỗng chú ý vẻ đẹp siêu phàm của tôn giả, và liền bị một tiếng
sét ái tình giáng xuống. Tôn giả đã đi xa, mà cô gái vẫn còn đứng đó,
theo dõi bóng người cho đến khi ngài khuất dạng về hướng Kỳ viên.
"Anan, Anan..." cô lẩm bẩm để ghi nhớ cái tên mà cô hỏi vội
sau khi trao bát nước. Về nhà, cô bảo mẹ:
- Thưa mẹ, khi nào mẹ gả chồng cho
con, thì mẹ gả con cho ông Anan mẹ nhé. Con chỉ muốn có ông Anan mà thôi,
ngoài ra con không ưng ông nào hết.
- Anan là ông nào? (bà mẹ ngạc
nhiên)
- Cái ông khoác áo vàng đó!
- Hừ, con cái lẩn thẩn chưa. Biết
bao nhiêu là đàn ông mặc áo vàng, ta biết ông nào với ông nào.
- Con chỉ muốn ông Anan! Con chỉ yêu
ông Anan! Mẹ đi tìm ông Anan cho con, không thì con chết! Hu hu hu.
Cô gái bỏ ăn, rầu rĩ suốt mấy ngày
liền vì bệnh tương tư. Bà mẹ quá yêu cô con một, bèn qua nhà hàng xóm
hỏi dò.
- Này, bà con cô bác có ai biết ông
Anan áo vàng là ông nào không?
Có người đã từng cúng dường tôn
giả, đáp:
- Biết. Tôn giả Anan là đệ tử và
là em của Phật, đẹp trai lắm.
- Vậy à? Thế ông ta ở đâu?
- Ở chùa Kỳ viên ấy.
Bà mẹ lần dò đến chùa Kỳ viên,
và hỏi thăm lần ra manh mối. Trở về, bà bảo con gái:
- Mẹ đã tìm ra ông ấy rồi. Con rán
dậy mà ăn uống đi, mẹ sẽ tìm cách mời ổng về cúng dường một bữa.
Rồi mẹ sẽ tính cho con. Thế nào chắc ổng cũng bằng lòng, vì con gái mẹ
xinh đẹp Thế kia. Vả lại, mẹ còn kế này nữa. (bà kề tai nói nhỏ)
Cô vui vẻ trở dậy ăn uống. Bà mẹ
đến tinh xá Kỳ viên, mời tôn giả A nan về nhà thọ thực. Ðến ngày thọ
trai, tôn giả đắp y ôm bát tới nhà hai mẹ con. Sau khi thọ trai, bà mở lời:
- Thưa sa môn, tôi có đứa con gái muốn
gả cho một mình sa môn thôi. Nó không ưng ai ngoài ông ra hết. Vậy, xin
ông hãy hoàn tục cưới con tôi. Tôi cho không, khỏi tốn đồng xu nào hết.
Tôn giả A nan sững sờ, lúng túng. Kẹt
là lỡ ăn tại nhà người ta... Ðang tiến thối lưỡng nan, bỗng cô gái
đi ra khóa trái cửa lại, xách chìa khóa trở vào. Bà mẹ thì bưng ra một
lò lửa đặt ngay giữa nhà, than hồng hừng hực. Tôn giả lấm lét nhìn
lò lửa, rồi nói:
- Chúng tôi là sa môn đệ tử đức
Phật. Thầy tôi dạy, người xuất gia phải giữ gìn giới cấm, không được
làm việc dâm dục.
Bà mẹ trở giọng đanh thép:
- Tùy ý sa môn. Một đàng là có vợ
đẹp, một đàng là lò lửa đó, muốn đàng nào?
Thấy nguy, tôn giả thầm kêu cứu Phật:
"Lạy đức Thế tôn, con đang gặp nạn, Ngài nỡ bỏ con sao?"
Từ hương thất, động lòng từ, đức
Thế tôn sai hai đệ tử đem thần chú Lăng nghiêm đến giải vây cho tôn
giả. Nguyên vì Anan bị bùa lực của bà Ma đăng già, mẹ cô gái, nên
không ra khỏi nhà bà được. Khi hai vị đệ tử Phật đi đến với thần
chú Lăng nghiêm, bùa lực Ca tì ca la của bà ấy mất công hiệu. Anan thong
thả ra về.
Cô gái mất Anan, lăn khóc thảm thiết.
Cô chạy theo đến chùa Kỳ viên, tìm Phật để đòi lại Anan cho bằng
được. Ðức Phật hỏi:
- Ngươi muốn đòi Anan làm gì?
- Tôi muốn ông ấy về làm chồng.
- Cũng được. Nhưng hình thức ngươi
khác, ông ấy khác, làm sao được? Ngươi phải giống như Anan, cạo trọc
đầu, thì ta mới giao Anan cho ngươi.
- Ðược, vậy tôi sẽ ra phố cạo
tóc.
Thấy cô gái quá si, đức Phật lại
dùng kế hoãn binh:
- Khoan đã, ngươi phải về xin mẹ có
bằng lòng cho ngươi cạo không đã chứ. Ta không chấp nhận ngươi cạo tóc,
nếu không có mẹ đồng ý.
Cô gái trở về xin mẹ. Bà nổi trận
lôi đình:
- Con cái gì ngu ngốc! Cái tóc là vóc
con người, mày cạo trụi lũi cái đầu đi thì còn nước nôi gì nữa? Hử?
Thiếu gì chồng, mà mày lại nhất quyết đòi cho được cái lão sa môn trọc
đầu khó tính ấy, hở đồ ngu? Ta nhất quyết không cho mày cạo tóc.
Thế là hai mẹ con thi nhau bỏ ăn, nằm
vạ. Cô gái không ngớt khóc lóc. Bà mẹ luôn mồm nguyền rủa.
Bà con lối xóm bu đông, kẻ bàn ra,
người nói vào, để khuyên lơn bà mẹ.
- Này chị Ba, chi bằng chị cứ cho
cô ấy cạo tóc đi, để được chồng. Nghe nói ông Anan là con vua, thế
nào mai mốt cũng lên làm vua. Con chị sẽ được làm hoàng hậu, chẳng
sung sướng lắm sao?
Bà mẹ nghe bùi tai, liền bằng lòng.
Cô gái cạo trụi đầu tóc, trang điểm làm cô dâu để đến chùa Kỳ
viên. Bao nhiêu kiềng xuyến hoa tai được đeo hết vào người cô, phấn
son lòe loẹt đúng điệu cô dâu, chỉ khác một điều là cái đầu trọc
lóc. Bà con bấm bụng cười thầm, tiễn đưa cô dâu đến tinh xá.
Ðức Phật cũng ngạc nhiên không
kém. Từ ngày thành đạo tới nay, Ngài chưa từng trông thấy cảnh tượng
nào ngộ nghĩnh tức cười hơn. Tưởng là dùng kế hoãn binh, để bà mẹ
ngăn cản cô ấy, nào ngờ bây giờ nó dẫn xác trở lại đòi Anan cho bằng
được. Thật là một phen bối rối cho đức Thế tôn. Chỉ còn một cách
là ... thuyết pháp giáo hóa thử xem sao, chứ để nó bắt Anan đi thì còn
gì! Ngài chúm chím mở lời:
- Này, con yêu Anan ở điểm nào?
Cô gái trả lời một mạch:
- Con yêu đôi mắt, cái mũi, cái miệng,
tay chân thân hình giọng nói cử chỉ tướng đi của ông Anan.
Ðức Phật nghĩ, "Con nhỏ này tuy
si mê, mà khá thành thực. Có gì nói nấy. Hay lắm, tâm ngay thẳng là đạo
tràng. Nó còn ngây thơ lắm, chưa biết gì đến cấu uế của sinh tử."
Ngài dịu dàng bảo:
- Này con, tất cả những gì con yêu nơi
Anan đều không sạch. Trong thân thể người ta, tất cả đều bất tịnh hôi
thối. Ông Anan cũng như mọi người, như ta và như con. Thân con có sạch
không?
Cô gái cúi mặt đứng im. Phật bồi
thêm:
- Vả chăng, có chồng thì phải sanh
con đẻ cái. Mà sanh con thì trần truồng, xấu xí. Con đường hiểm sanh tử
ấy, chỉ có kẻ ngu mới dấn thân vào!
Nghe động tới sự trần truồng, cô
gái cảm thấy hổ thẹn cực độ, tâm nhàm chán lên tuyệt đỉnh. Ngay tại
chỗ, cô chứng quả Dự lưu, nghĩa là vào dòng thánh nhân.
-ooOoo-
14. KHÔNG RƯỢU MÀ SAY
(Thuật theo chuyện kể của Hòa thượng
Trí Nghiêm)
Vào một buồi chiều tịnh mịch ở Kỳ
viên tinh xá, sau khi giảng pháp cho chư tăng và cư sĩ khắp nơi tụ về, Ðức
Thế tôn vào Hương thất an nghỉ. Vừa đặt lưng xuống, Ngài bỗng nghe tiếng
đập cửa thình thịch và tiếng khè khè của một gã say rượu thừa lúc
cổng mở, đã lẻn vào tinh xá. Hắn vừa đập cửa vừa gọi:
- Ông Phật đi, ông Phật! Cho tui làm
Phật với! Tui cũng muốn ... làm Phật! Khà khà! Bộ chỉ mình ông làm Phật
được mà thôi à? Há?
Ðức Thế tôn ngồi dậy ra mở chốt.
Thấy gã say dơ dáy, y phục tả tơi, Ngài động lòng trắc ẩn gọi thị
giả A Nan:
- Này, A Nan, ông tắm rửa, cạo tóc
và cho nó một cái y sạch. Rồi tìm chỗ cho nó nằm nghỉ.
A Nan vâng lệnh. Sau khi tắm rửa sạch
sẽ, cạo tóc đắp y, gã say được đưa đến một gốc cây im mát trong
tinh xá. Gã đánh một giấc ngon lành cho đến sáng hôm sau. Khi tỉnh dậy,
hắn bỡ ngỡ nhìn quanh thấy toàn thầy tu mặc áo vàng đi bách bộ, dòm lại
mình cũng đang đắp y, sờ đầu nghe trụi lũi, hắn kinh hoàng không biết
mình là ai, vội vàng bỏ chạy một mạch ra phía cổng. Các tỳ kheo đuổi
theo bắt lại. Nhưng một số khác biết chuyện, ngăn bạn:
- Này, chư hiền, để cho hắn chạy.
Hắn chỉ là một gã say, hôm qua Thế tôn bảo tôn giả A Nan tắm rửa cạo
tóc đắp y vào cho hắn đấy.
- Thật Thế sao? Tại sao đức Thế tôn
làm chuyện lạ nhỉ? Biết hắn say mà vẫn độ cho hắn xuất gia?
- Hãy để hắn đi cho khuất, rồi chúng
ta sẽ đến thỉnh giáo đức Thế tôn về việc này.
Thế là họ kéo nhau đến Hương thất
đức Phật, bạch hỏi:
- Bạch đức Thế tôn, chúng con không
hiểu vì nguyên nhân gì Ngài lại độ cho một gã say như thế? Xin Ðấng
Thiện Thế giải rõ cho chúng con.
- Này các tỳ kheo, các ông dường
như trách ta vì đã độ cho một gã say. Nhưng ta hỏi các ông, trong lúc hắn
say, tại sao không cầu chuyện gì khác, mà lại cầu làm Phật? Như thế là
hắn đã gieo một cái nhân tốt đẹp, ta phải giúp duyên cho hắn, vì ta
không hẹp gì mà không cho hắn làm Phật. Vả lại, có bao nhiêu người
"tỉnh" biết cầu làm Phật như hắn? Vậy thì ai tỉnh, ai say? Huống
chi, hắn có nhậu rượu vào mà say, thì bất quá chỉ say vài tiếng đồng
hồ rồi tỉnh lại. Cho nên, bệnh say của hắn, ta không cho là trầm trọng.
Trái lại, biết bao kẻ trên thế gian này, dù không uống rượu mà vẫn
say, không phải say vài tiếng đồng hồ như hắn, mà say muôn kiếp ngàn đời
chưa tỉnh. Cái bệnh say đó, say trong vô minh ái dục, Ta mới gọi là một
chứng bệnh trầm kha!
-ooOoo-
15. VỌNG MỸ NHÂN
Vào một ngày đẹp trời, vua Pasenadi
(Ba tư nặc) xứ Kosala dạo chơi trong vườn ngự. Khi nhìn ngắm những gốc
đại thụ ở nơi tịnh mịch, với những tàn lá tỏa rộng che bóng mát thật
khả ái, đẹp mắt, vua bỗng nhớ đến đức Thế tôn, và nghĩ: "Những
gốc cây khả ái, đẹp mắt, ở nơi vắng vẻ thoáng gió, xa hết mọi tụ
hội huyên náo, thích hợp cho trầm tư này, chính là nơi Thế tôn thường
ngự tòa. Chúng ta hãy đi đảnh lễ đức Thế tôn." Rồi vua quay sang
người hầu tên Kàràyana bảo:
- Này Kàràyana, ta nhớ đức Thế tôn.
Ngươi có biết hiện gi? Ðấng Chánh đẳng giác đang ở đâu không?
- Tâu Ðại vương, lành thay đại
vương nghĩ đến đức Phật Thế tôn. Ngài cùng với đại chúng du hành khắp
nơi, rày đây mai đó không có trú xứ nhất định. Thật là một cuộc đời
mây bay hạc lánh khó tìm dấu vết. Nhưng may thay, lúc này Ngài đang dừng
chân tại thị trấn Meladumpa, cách đây không xa lắm, có thể đi và về nội
trong một ngày.
- Thế thì ngươi hãy cho thắng cỗ
xe, để chúng ta đi yết kiến đức Thế tôn.
- Thưa vâng, tâu đại vương.
Vua cùng các quan hầu cận đi đến thị
trấn Phật đang trú. Vua đi bộ vào ngôi tinh xá. Lúc bấy giờ một số đông
tỳ kheo đang bách bộ ngoài trời, vua hỏi:
-Thưa chư đại đức, đức Thế tôn
hiện ở đâu? Chúng tôi muốn yết kiến Ngài.
Các tỳ kheo chỉ vào một gian nhà mà
bảo:
- Thưa đại vương, gian nhà cửa đóng
kín kia là nơi Thế tôn đang nghỉ. Hãy im lặng đến gần, bước vào hành
lang thật nhẹ, sau khi tằng hắng, hãy gõ cửa. Ðức Thế tôn sẽ mở cửa
cho đại vương.
Ðến trước cửa, vua cỡi vành khăn
đội đầu, và trao thanh kiếm hộ thân cho quan hầu cận. Quan hiểu ý, dừng
lại chỗ vua trao kiếm. Vua tằng hắng rồi gõ cửa. Ðức Thế tôn mở cửa.
Sau khi bước vào gian nhà, vua quỳ xuống đảnh lễ dưới chân Phật, lấy
tay sờ chân Phật rồi tự xưng tên mình:
- Bạch Thế tôn, con là vua Pasenadi xứ
Kosala.
Thế tôn hỏi:
- Do duyên cớ gì mà đại vương hạ
mình tột bực trước thân này như thế?
Vua thưa:
- Bạch Thế tôn, trong khi con thấy những
sa môn bà la môn các giáo phái khác hành trì phạm hạnh chỉ một thời
gian, rồi trở về thụ hưởng dục lạc, thì các vị tỳ kheo đệ tử Phật
thực hành phạm hạnh viên mãn cho đến trọn đời. Do vậy con nghĩ: Thế
tôn thực là bậc Chánh đẳng giác, Pháp được Thế tôn khéo giảng, chư
Tăng đệ tử khéo hành trì.
Lại nữa, bạch Thế tôn, trong các tập
thể ở thế gian, con thường thấy vua chúa cãi lộn với vua chúa, bà la
môn cãi lộn với bà la môn, gia chủ cãi lộn với gia chủ. Trong gia đình,
cha mẹ anh chị em cũng thường gây gổ nhau. Còn trong Pháp và Luật của Thế
tôn, con thấy các tỳ kheo sống với nhau thuận hòa, không tranh cãi, hòa hợp
như nước với sữa, nhìn nhau bằng con mắt ái kính. Bạch Thế tôn, con
không thấy một nơi nào khác có phạm hạnh viên mãn thanh tịnh như thế.
Do vậy con kính ngưỡng Thế tôn.
Lại nữa, bạch Thế tôn, khi du hành,
con thường gặp các sa môn gầy gò khốn khổ bạc nhược không đẹp mắt
chút nào. Con hỏi, và được họ trả lời rằng, tâu đại vương, chúng
tôi bị bệnh gia truyền. Trái lại, con thấy các tỳ kheo đệ tử Phật luôn
luôn hoan hỉ, các căn thoải mái, tịch tịnh, khinh an. Do vậy, con kính ngưỡng
Thế tôn và nghĩ, Pháp được Thế tôn khéo giảng, chư Tăng khéo an trú
trong Pháp ấy.
Lại nữa, bạch Thế tôn, con là vua cả
nước, có quyền sinh sát trong tay, vậy mà khi con ngồi xử kiện đôi lúc
có người dám ngắt lời con, mặc dù con đã ra lệnh không được ngắt lời.
Còn trong khi Thế tôn thuyết pháp, thì không một ai gây tiếng động. Một
lần, có một vị cư sĩ ho lên trong khi Thế tôn thuyết pháp, và đã bị
người ngồi cạnh khẽ đập vào đầu gối. Con nghĩ, thật là vi diệu, hội
chúng của Thế tôn được huấn luyện không cần đến gươm giáo gậy gộc.
Lại nữa, bạch Thế tôn, con thấy
nhiều học giả thật uyên bác, muốn đến chất vấn Thế tôn, bàn sẵn
những lời kích bác, nhưng khi đến trước Thế tôn, thì họ câm lặng,
và sau khi được Pháp thoại của Thế tôn làm cho hoan hỉ, phấn khởi, tất
cả đều xin quy y Thế tôn, trở thành đệ tử. Do vậy con kính nguỡng Thế
tôn.
Lại nữa, bạch Thế tôn, con có hai
quan giữ ngựa, ăn cơm của con, đi xe của con, nhờ con mà sống, chính con
đem lại danh dự cho chúng. Vậy mà chúng không hạ mình với con như với
Thế tôn. Có một lần, trên đường hành quân, con và hai quan giữ ngựa
vào nghỉ đêm trong một căn nhà hẹp giữa rừng. Sau khi cùng nhau thảo luận
về Pháp của Thế tôn giảng cho đến quá nửa đêm, họ nằm xuống ngủ,
để đầu hướng về nơi mà họ được nghe là Thế tôn đang ngự tòa,
và trở chân về hướng con nằm. Bạch Thế tôn, khi ấy con nghĩ, thật sự
những người này chắc phải ý thức một sự thù thắng trong giáo lý Thế
tôn, nên mới có thái độ tôn trọng tột mức đến nỗi coi nhẹ mạng sống
như vậy. Do thế, con lại càng kính ngưỡng đức Thế tôn.
Và bạch Thế tôn, Thế tôn cùng thuộc
dòng Sát đế l?i, cùng ở nước Kosala, cùng tuổi tám mươi như con. Do vậy
con sẵn sàng hạ mình tột bực đối với Thế tôn và biểu lộ tình thân
ái.
Kể xong những lý do trên, vua Pasenadi
đảnh lễ Thế tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi kiếu từ. Sau khi
vua ra về, Phật kể lại câu chuyện trên cho các tỳ kheo, và dạy:
- Này các thầy, đấy là các pháp
trang nghiêm, các thầy nên học tập. Các pháp ấy là căn bản của phạm hạnh.
LỜI BÀN: Ðọc xong kinh Pháp trang
nghiêm, kẻ hậu bối không khỏi cảm khái vài ý nghĩ.
1. Vua Ba tư nặc trước cảnh đẹp
thiên nhiên, phi tần mỹ nữ không nhớ, rượu ngon thịt béo không nghĩ, mà
chỉ nhớ tưởng đến Thế tôn, tha thiết như nhớ cha mẹ, và tức tốc
tìm đến nơi để đảnh lễ ngài. Thật là một vị vua hiền, xứng đáng
được sinh đồng thời Phật. Và đức Phật chúng ta cũng may mắn hơn Khổng
phu tử nhiều. Vì trong lúc đó thì bậc thánh ở Trung hoa phải than phiền
về ông vua bê bối say mê nàng Nam tử: "Nhà vua trọng sắc hơn trọng
đức." Nhưng đối với vua Ba tư nặc ngày xưa, cũng như với Phật tử
chúng ta ngày nay, thì đức Phật quả là NGƯỜI ÐẸP CỦA MUÔN ÐỜI VÀ VẠN
LOẠI. Do đó có câu: "Vọng mỹ nhân hề, thiên nhất phương."
2. Trong bảy lý do vua kể vì sao mà
vua kính ngưỡng Phật, thì hết năm lý do liên hệ đến tư cách người đệ
tử, là: sống phạm hạnh trọn đời (trên nguyên tắc, không kể ngoại lệ),
không cãi lộn, lóng tai chí thành nghe Pháp, nhan sắc vui hòa, và biết tôn
kính Thầy (hai quan giữ ngựa kính Phật hơn vua). Ðủ thấy tư cách người
theo Phật thực quan trọng, gọi là "nhân năng hoằng đạo, phi đạo hoằng
nhân".
3. Về chuyện hai quan giữ ngựa. Vua
thấy hai bề tôi phạm tội khi quân, dám ngủ quay chân về hướng mình,
mà không vội nổi sân đòi chém đầu, lại lần dò tìm hiểu lý do tại
sao chúng lại kính Phật hơn mình, trong khi mình là người cầm giữ sinh mạng
chúng. Thái độ ấy quả là thái độ của một vị vua có trí.
4. Về điểm cuối cùng, vua ngưỡng mộ
Phật vì ngài cùng một "ca líp" với mình. Ðó là kiểu suy tư của
một hạng người mà đối với họ, Phật tánh quả có Nam Bắc. Họ sẽ
không chịu quy y với một chàng bán củi như Lục tổ Huế Năng khả kính
của chúng ta. Có lẽ vì vậy, mà Phật phải giáng sanh vào dòng vua chúa,
để độ cho hạng vương giả. Tất cả đều là phương tiện của Bồ tát
để độ sanh: khi cần ngồi xe bò thuyết pháp, cứ ngồi xe bò.