Trang tiếng Anh | Đạo Phật Ngày Nay |
...... ... | . | . | . | . | . |
sau khi nghe Như lai thuyết pháp, phần lớn chúng trở thành sợ hãi khiếp đảm, vì bắt đầu nhận chân rằng: "Chúng ta là vô thường, chúng ta là không hằng hữu, chúng ta không hằng sống, chúng ta bị thâu nhiếp trong thân này, điều mà lâu nay chúng ta vẫn tưởng là mình thường còn, hằng hữu, hằng sống. Như vậy này các Tỳ-kheo, là đại thần thông lực của Như Lai đối với chư Thiên và thế giới chư thiên (Tương Ưng III, 103-104). Đức Phật đã cho thấy sự khác biệt vĩ đại giữa học thuyết của Ngài và học thuyết Bà-la-môn và các học thuyết tín ngưỡng thần linh khác ở chỗ Ngài chỉ rõ sự vận hành, vô thường của thế giới và con người kể cả thần linh, Thiên chúa, điều mà theo học thuyết của họ là thường hằng, bất biến. Đức Phật không kế thừa tiền học thuyết. Ngài khẳng khái đánh vào tim óc, tín ngưỡng thần linh của họ, giúp họ nhận thức rõ thực tướng của tất cả sự vật hiện tượng Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã. Trong Kinh Tăng Chi và Kinh Đại-bát- niết-bàn, Đức Phật còn cho thấy sự khác biệt lớn, theo đó Phật giáo vượt lên trên hệ thống nhận thức, tư tưởng của các tiền tôn giáo về phương diện nhân sinh và thế giới:
Trong kinh Tương Ưng, sau khi khai thị tuệ giác và con đường hướng đến tuệ giác cho các Tỳ-kheo, đức Phật đã long trọng tuyên bố nền giáo lý siêu tuyệt, vốn được khám phá bởi sự tự nỗ lực giác ngộ của Ngài, là một nền giáo lý tỉnh thức toàn bích. Nền giáo lý nầy hoàn toàn khác hẳn (không chỉ ở sự tự khám phá mà còn ở nội dung ý nghĩa độc đáo duy nhất của nó) với các tôn giáo trước đó, nhất là Bà-la-môn giáo, tôn giáo tự nguyên thủy đã tôn thờ Thiên Chúa. Lời tuyên bố này là một chứng minh hùng hồn cho sự khác biệt với tôn giáo thần linh, xô lệch giá trị thần linh bất thật. Nó thật sự trở thành con đường cho những ai muốn tự mình giác ngộ trọn vẹn như Ngài:
Chính từ những điểm khác nhau cơ bản giữa Phật giáo và các tôn giáo tiền Phật giáo cũng như các tôn giáo khác, đức Phật đã tuyên ngôn rằng Phạm thiên hay Thiên chúa không thể sánh ví với Ngài, về phương diện nhận thức và cả phương diện tu tập giác ngộ:
Trong bài Kinh Yama, Đức Phật cũng còn cho chúng ta biết giáo lý giác ngộ của Ngài là được khai sáng bởi Ngài. Ngài không tích hợp tư tưởng của ai, không kế thừa ai. Vì nền giáo lý ấy tự nó vươn lên tất cả, đẩy lùi tất cả:
? bài Kinh Verajà, vị Bà-la-môn này bằng phương pháp luận áp đặt, ông đã quy kết Đức Phật là người chủ trương, nào là không hành động, nào là đoạn diệt, nào là yếm thế, nào là hư vô, nào là khổ hạnh. Nhưng với trí tuệ và sự tu chứng, Đức Phật đã cho vị này thấy rõ được những quy kết của ông là sai lạc, vô ích, vì chân lý tự nó chói sáng. Kế đến, Đức Phật dạy rằng đạo quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác của Ngài đạt được không phải là hệ quả của một cái gì cả, ngoài tinh tấn chánh niệm, định tĩnh, nhất tâm. Chính sự tu tập này, Đức Phật trở thành bậc Vô Thượng, bậc đệ nhất Thế Tôn:
Có thể nói, điểm tương đồng duy nhất nếu có chăng giữa Phật giáo với các tôn giáo Ấn Độ nói riêng và các tôn giáo khác nói chung là sự gặp nhau trên từ ngữ, còn nội dung chứa đựng trong nó thì hoàn toàn khác biệt, không thể song hành với nhau, như Đức Phật đã từng dạy:
Cũng chính vì thế mà ở Kinh Phạm Võng, Đức Phật đã dạy: "Này các Tỳ-kheo, thế nào là những pháp sâu kín, khó thấy, khó chứng vi diệu, không thể nhận hiểu bởi lý luận suông ... Những pháp ấy Như Lai đã chứng tri, giác ngộ và tuyên thuyết" (Trường Bộ I, 12). Qua những dẫn chứng sơ bộ trên (nếu có dịp chúng ta sẽ trưng dẫn thêm và phân tích kỹ thêm) chúng ta đã thấy được chân lý của Đức Phật là chân lý của sự giác ngộ tột độ, con đường giải phóng bản ngã, giải phóng thần linh, cởi ách chấp mê (chấp ngã, chấp pháp), dẹp bỏ mọi kiến thủ (thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ). Chân lý ấy, con đường ấy là chân lý, là con đường tỉnh thức viên mãn. Nó chính do Đức Phật khám phá, thể chứng được và thông qua con đường ấy, chân lý ấy đã biết bao lớp người thực hiện thành công sự giác ngộ giải thoát. Chính vì vậy Đức Phật là bậc Vô Sư:
2. Phật giáo Trung Quốc không thể là bộ phận tích hợp của giáo huấn đạo Lão Như đã trình bày nhận xét thứ hai của Mục Sư Choan Seng Song cho rằng Phật giáo Trung Quốc là một bộ phận tích hợp của giáo huấn đạo Lão. Nhưng đó là một nhận xét thiếu tính thuyết phục và sai lầm. Trước nhất, ta hãy nghe ông mượn lời người khác để phản ánh nhận xét của mình qua câu sau đây: "Người ta cũng hay nhấn mạnh rằng đạo Phật rũ bỏ được tính chất ngoại lai đi là nhờ mượn bộ áo đạo Lão mà khoác lên người mình" (tr. 180). Sau đó ông trưng dẫn hai câu nói quen thuộc trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử là "Đạo khả đạo, phi thường Đạo, Danh khả danh, phi thường Danh," mà theo ông, nó hoàn toàn đồng nhất với hai khổ cuối cùng của bài Thiền kệ Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán là "Nhất tức nhất thiết, Nhất thiết tức nhất. Đản năng như thị. Hà lự bất tất. Tín tâm bất nhị. Bất nhị tín tâm. Ngôn ngữ đạo đoạn. Phi cổ lai câm." Ông chỉ dựa trên sự giống nhau về hình thức rồi tiến hành quy nạp, đồng hóa hai nội dung vốn khác biệt với nhau thành một. Vin lấy chỉ mỗi bốn chữ "Ngôn ngữ đạo đoạn," để kết luận Phật giáo Trung Quốc hòa nhập học thuyết của đạo Lão qua hai câu nói về Đạo và Danh vừa nêu thì quả thật là hời hợt. Thực ra tôn chỉ sâu thẳm "ngôn ngữ đạo đoạn" của Thiền tông Trung Quốc có nguồn gốc từ các Kinh điển Bắc truyền Phật giáo lẫn Nam truyền Phật giáo, nghĩa là xuất phát từ Đức Phật như: "Pháp của Như Lai thậm thâm vi diệu khó lãnh hội, dứt bặt ngôn ngữ, tất cả hàng Thanh Văn, Duyên Giác không thể đến được" (Pháp Hoa, 59) hay:
Và ở Kinh Nikàya, Đức Phật nói như sau:
Tôn chỉ này còn được thể hiện xuyên suốt nhất quán qua hình ảnh và sự hành đạo của 28 Vị Tổ Thiền tông Ấn Độ. Nó được kết tụ tuyệt vời và điển hình nhất ở Thiền Sư Mã Minh, Tổ 12 Thiền tông Ấn Độ với câu nói trong tác phẩm Đại Thừa Khởi Tín Luận: "Nhất thiết chư pháp, tùng bản dĩ lai, ly ngôn thuyết tướng, ly danh tự tướng, ly tâm duyên tướng. Tất cánh bình đẳng, vô hữu cao hạ, cố danh Chơn Như." Có nghĩa là "tất cả mọi sự vật hiện tượng, từ bản chất của nó, vốn xa lìa hẳn ngôn ngữ, lời nói, tên gọi [áp đặt] và tồn tại độc lập với tâm [của con người]. Tất cả chúng vốn bình đẳng, không có sự vật nào cao, sự vật nào thấp v.v… nên được mệnh danh là chân như." Ngoài ra, ông cũng không hiểu được mệnh đề "nhất đa tương dung", "nhất tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất" (mệnh đề thứ hai trong Nhất Thừa Thập Huyền Môn) là chủ trương trong Kinh Hoa Nghiêm. Và ông cũng không hiểu được thế nào là Tín Tâm, thế nào là Bất Nhị. Và do vậy mới có sự đánh đồng đáng tiếc. Con đường cũng như phương pháp đồng hóa hai hệ thống giáo nghĩa của Mục Sư Choan Seng Song là có mục đích hẳn hòi. Bất chấp thực tế, ông cho đó là sự kết hợp từ bản năng của đạo Phật:
Rồi trong mệnh đề đồng hóa nầy, ông trở nên lúng túng và tự mâu thuẫn. Có lúc ông bảo: "Đạo Phật hoàn toàn hòa nhập với giáo huấn đạo Lão" (tr. 181), "Đạo Phật rũ bỏ được tính chất ngoại lai đi là nhờ mượn bộ áo đạo Lão mà khoác lên người mình" (tr. 180) và "bằng bản năng, đạo Phật đã tìm cách kết hợp với đạo Lão ở cấp độ cao nhất cũng như bình thường nhất" (tr. 181) như đã trình bày, nhưng có lúc ông lại bảo hai đạo nầy lai tạp nhau để rồi làm dị dạng, bóp méo lẫn nhau:
Như vậy thì quả thực là khó hiểu đến nực cười! Để hoàn tất sứ mệnh đồng hóa này, ông còn cho rằng các vị sư như Pháp Nhã và Khương Pháp Lãng của Phật giáo đã "tiếp biến văn hóa" Lão giáo mà thuật ngữ ông dùng gọi là CÁCH NGHI. Chính vì thế, ông đã định nghĩa:
Nhưng thật ra "cách nghi" là một từ ngữ rất xa lạ với Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền và cả dòng Thiền Trung Quốc nữa. (Sai lầm này do ông phỏng ý lệch lạc của Phùng Hữu Lan trong tác phẩm Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc). Ông diễn tả sự khéo léo hội nhập văn hóa, mượn từ ngữ của các giá trị văn hóa bản địa diễn đạt giáo nghĩa của Phật giáo (vì siêu tuyệt khó tiếp nhận) cho các đối tượng đã ít nhiều in khắc giá trị văn hóa bản địa, vốn không thể sánh bằng Phật giáo, thuật ngữ chuyên môn trong Phật giáo gọi với nhiều từ khác nhau như: phương tiện, khế lý khế cơ, thiện hợp, diệu ứng, tiếp cơ ứng vật, nhậm vận và nhất là tùy duyên bất biến. Quá trình hội nhập văn hóa Phật giáo, từ Phật Thích-ca cho đến các vị Thiền Sư cũng đều mượn dùng hình thức của từ ngữ nhưng chứa tải vào nó nội dung hoàn toàn mới mẻ, có thể xem đó như một hiện tượng mà nói theo cách hiểu quen thuộc ngày nay là "bầu cũ rượu mới." Không thể vin nắm sự giống nhau trên mặt hình thức rồi quy kết nội dung chúng là đồng dạng. Sự quy kết như vậy là việc làm thiếu cẩn trọng, thiếu khoa học. Từ nhận thức chỉ dựa trên sự phỏng đoán, suy luận, không đi sâu vào bản chất nội dung của những thuật ngữ Phật giáo, Mục Sư Choan Seng Song đã truy chụp Phật giáo bằng các quy kết táo bạo nhưng cũng quả thực là không có cơ sở:
Để biện hộ cho lý lẽ của ông, ông tự đặt câu hỏi để tự trả lời:
Mưu tìm một giải đáp cho bài toán tại sao Phật giáo truyền bá rộng rãi ở Châu Á nói chung, Trung Quốc nói riêng theo kiểu của Mục Sư Choan Seng Song như vừa nêu chỉ có giá trị giả thiết trên ốc đảo của sự suy diễn rồi đến loại suy tùy tiện, hoàn toàn không phản ánh đúng được mặt mũi sự thật của công cuộc truyền bá tuyệt vời này. Người Phật giáo có thể giải thích cho ông đáp số của bài toán đó nhưng chưa cần thiết trong bài viết này. Điều mà người Phật giáo cần lưu ý một cách tế nhị với ông là, muốn biết được nguyên nhân đích thực trước tiên người nghiên cứu phải rời bỏ thái độ và não trạng suy diễn và sau là cần phải lội mình trong biển hồ Phật Pháp với thái độ không định kiến. Chính hai yếu tố cơ bản này hình thành nên đáp án hoàn chỉnh nhất. Có thể nói được rằng, ngay từ trong thâm tâm của ông, thái độ cũng như phương pháp "đồng hóa" đã được ông định hình có mục đích rõ rệt. Mục đích đó không phải nhằm tìm hiểu đâu là chân lý thật sự, mà ông vận dụng nó để thực hiện một mưu đồ. Và mưu đồ đó là nhằm biến cải hai - Phật và Lão - thành sự cách nghi của Thiên Chúa, theo đó ông phác họa một mẫu thời trang "Thần học Kitô giáo Châu Á" bất chấp sự siêu việt của các tôn giáo này so với Thiên Chúa giáo. Đây, chúng ta hãy để ý đến cách nói khẳng định của ông: "Lịch sử biến đổi và phát triển của đạo Phật ở Trung Quốc ấy, người Kitô hữu chúng ta chớ lấy làm lạ lùng khó hiểu" (tr. 184). Để từ đó ông phô bày mục đích cuối cùng của ông là đồng hóa để phô trương Thiên Chúa, chứ không phải đơn thuần là nghiên cứu lịch sử Phật giáo:
Về vấn đề đồng hóa nầy, người Phật giáo có thể vạch ra nhiều sai lầm khác của ông nữa. Nhưng việc làm đó quả thật là không cần thiết, mất nhiều thời giờ. |
Cập nhật: 13-6-2000 | Đầu trang |