...... ... |
. |
. |
. |
. |
. |
- Kinh Bốn Mươi Hai Bài
- (Tứ Thập Nhị Chương Kinh)
- Hòa thượng Thích Trí Quang dịch
- 2
-
- Dịch Nghĩa Bản A
- Kinh Bốn Mươi Hai Bài (1)
- Thời đại Hậu Hán (2) ,các vị Sa môn
Tây vức là Ca diếp ma đằng và Pháp lan dịch.
-
- Ghi Chú (1)
- Chính văn là chương. Nhưng ở đây chỉ
là 42 bài, hoặc trích yếu hoặc trích diễm của các kinh Phật thuyết.
-
- Ghi Chú (2)
- Chính 17/744, và Thế giới đại sự biểu
của Từ hải, nói rõ là năm thứ 8 niên hiệu Vĩnh bình (65 dl) của hoàng
đế Hiếu minh, thời đại Hậu Hán.
-
- (1)
- Phật nói, từ biệt cha mẹ, xuất gia
hành đạo (3) , nên gọi là sa môn. Thường giữ 250 giới, làm theo tứ đế
(4) , bước tới (5) thanh tịnh, thành A la hán (6) . A la hán là bậc có thể
phi hành, biến hóa (7) , làm tồn tại sinh mạng, làm chấn động thế giới
(8) . Kế đó là A na hàm; A na hàm là mạng chung thì sinh (9) trên tầng trời
mười chín (10) , ở đó thành A la hán. Kế đó nữa là Tư đà hàm; Tư đà
hàm là một lần lên xuống thì thành A la hán. Sau hết là Tu đà hoàn; Tu
đà hoàn là bảy lần lên xuống thì thành A la hán. Ái dục (mà các bậc
thánh giả này) cắt đứt thì như tay chân đứt rồi không dùng được nữa
(11) .
-
- Ghi Chú (3)
- Hầu hết chữ đạo trong kinh này, dầu mượn
chữ Trung hoa mà chủ yếu là chỉ cho tứ đế.
-
- Ghi Chú (4)
- Chính văn là tứ chân đạo hạnh (hạnh của
4 chân lý).
-
- Ghi Chú (5)
- Chính văn là tiến chí (tâm chí bước tới).
Bản B nói tiến chỉ (động tĩnh).
-
- Ghi Chú (6)
- Hãy nói luôn cả 4 đạo quả (cấp độ
tu chứng) của tiểu thừa. Trước hết phải biết 4 đạo quả này là do hủy
diệt kiến hoặc và tu hoặc của 3 cõi mà thành. Kiến hoặc của 3 cõi là
10 sử : tham, sân, si, mạn, nghi (những tính xấu bẩm sinh) và thân kiến,
biên kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến (những kiến thức sai lầm). Tu
hoặc mà của cõi Dục là tham, sân, si, mạn (có 9 bậc, là nặng, vừa, nhẹ,
lại nhân nặng, vừa, nhẹ nữa); của 2 cõi Sắc và Vô sắc là tham, si, mạn
(cũng có 9 bậc, là nặng, vừa, nhẹ, lại nhân nặng, vừa, nhẹ nữa). Biết
kiến hoặc và tu hoặc rồi, bây giờ nói 4 đạo quả. Một, đời này hủy
diệt kiến hoặc của cả 3 cõi thì thành Tu đà hoàn (Dự lưu : dự vào
dòng thánh). Nhưng đạo quả này chưa hủy diệt 9 bậc tu hoặc của cõi Dục,
nên chết rồi phải 7 đời là tối đa, qua lại giữa nhân loại và chư
thiên cõi Dục mà hủy diệt mới thành A na hàm, sinh ở Bất hoàn thiên, hủy
diệt 9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc và Vô sắc mà thành A la hán. Hai, đời
này hủy diệt đến 6 bậc tu hoặc của cõi Dục thì thành Tư đà hàm (Nhất
lai: một lần trở lại). Nhưng đạo quả này còn 3 bậc tu hoặc nữa của
cõi Dục, nên chết rồi phải 1 đời qua lại giữa nhân loại và chư thiên
cõi Dục mà hủy diệt mới thành A na hàm, sinh ở Bất hoàn thiên, hủy diệt
9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc và vô sắc mà thành A la hán. Ba, đời này hủy
diệt hết cả 9 bậc tu hoặc của cõi Dục nên thành A na hàm (Bất lai:
không còn trở lại). Nhưng đạo quả này còn 9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc
và Vô sắc, nên sinh ở Bất hoàn thiên mà hủy diệt là thành A la hán. Bốn,
đời này hủy diệt tất cả kiến hoặc và tu hoặc của 3 cõi thì liền
thành A la hán ( cúng : thích ứng hiến cúng). Nhưng kiến hoặc và tu hoặc
toàn là không biết tứ đế mà có, nên nói hủy diệt kiến hoặc tu hoặc
tức là nói "làm theo tứ đế".
-
- Ghi Chú (7)
- A la hán phần ít có lục thông (6 khả năng
đặc biệt): thiên nhãn (thị giác thần kỳ), thiên nhĩ (thính giác thần kỳ),
tha tâm (biết tâm lý người), túc mạng (biết các đời trước), thần cảnh
(biến hiện đa dạng), lậu tận (hết mọi sơ hở). Phi hành và biến hóa
chỉ là nói về thần cảnh.
-
- Ghi Chú (8)
- Chính văn là thiên địa (trời đất), mượn
chữ của Trung hoa.
-
- Ghi Chú (9)
- Đúng chính văn thì phải nói hồn linh
sinh. Hồn linh (phần thiêng của hồn) là mượn chữ của Trung hoa. Chữ đúng
phải là nghiệp thức (tâm thức huân tập nghiệp). Các thánh giả hủy diệt
nghiệp mà thành, nên các dịch giả đại danh sau này không nói chủ từ
này, mà chỉ nói sinh. Sinh là sinh ra chứ không phải sinh đến. Nói chính
xác thì phải nói như vậy. Vì đâu cũng là Tâm cả; quả báo này biến mất
thì quả báo khác hiện ra, như thế gọi là sinh.
-
- Ghi Chú (10)
- Tầng trời 19 là Vô tưởng (mà ngoại đạo
cho là niết bàn). Trên tầng trời ấy là 5 Bất hoàn thiên (Vô phiền, Vô
nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, Sắc cứu cánh), thuộc cõi Sắc, mà vẫn
như không lệ thuộc 3 cõi, và là chỗ của các thánh giả A na hàm (Bất
hoàn) cư trú.
-
- Ghi Chú (11)
- a. Câu này là nói niết bàn của tiểu thừa.
Ái dục (nói xác là tình yêu và tình dục, nói rộng là ưa thích và ham muốn)
là bao quát tất cả kiến hoặc và tu hoặc, và xác nhất thì chỉ gọi là
Ái. Nên niết bàn tiểu thừa gọi đủ là ái tận niết bàn.
- b. Trọn bài này có nghĩa xuất gia thì lịch
trình tu chứng là 4 đạo quả, với mục đích tối hậu là ái tận niết
bàn của La hán - niết bàn mà căn bản là tuân giữ Tỷ kheo giới và tu
theo tứ đế. Và 41 bài sau có thể nói toàn là cho thấy ái dục tại sao
phải diệt, ái dục diệt như thế nào, và ái dục diệt thì hiệu quả
là những gì.
-
- (2) Phật nói, cạo
bỏ râu tóc, làm bậc sa môn, tiếp nhận lấy đạo, thì hãy rời bỏ tài
sản thế gian, khất thực (12) vừa đủ. Mỗi ngày đứng bóng ăn một bữa,
mỗi đêm dưới cây ngủ một lần, thận trọng đừng thêm. Làm cho người
u mê tồi tệ chính là ái dục (13) .
-
- Ghi Chú (12)
- Chính văn là khất cầu (cầu xin), nói rộng
cho thức ăn, thức uống, đồ nằm, đồ mặc, dược phẩm. Nhưng ở đây
nói hẹp là khất thực: khất cầu thức ăn.
-
- Ghi Chú (13)
- Ái dục, trước hết, là không thiểu dục
tri túc về ăn và ngủ.
-
- (3) Phật nói,
chúng sinh do mười sự mà lành, cũng do mười sự mà ác. Đó là thân có
3, miệng có 4, ý có 3. Thân có 3 là sát sinh, trộm cướp, dâm dục. Miệng
có 4 là ly gián, mắng chưởi, dối trá, thêu dệt. Ý có 3 là ganh ghét, tức
giận, u mê. (Mười sự này là ác, bỏ mười sự này là lành). Không tín
ngưỡng 3 ngôi tôn quí (14) , lấy tà làm chánh, (nên mới làm mười ác). Tại
gia giữ năm giới, không biếng nhác, không lùi bước, giữ đến mười sự
thì chắc chắn đắc đạo (15) .
-
- Ghi Chú (14)
- Chính văn là Tam tôn (Tam bảo).
-
- Ghi Chú (15)
- Với ý nghĩa bài này, Phật pháp cho thấy
con người do chính hành vi của mình định đoạt lấy đời mình.
-
- (4) Phật nói, người có lỗi
mà không tự hối, ngưng liền, thì lỗi dồn lại nơi thân mình như nước
đổ về biển cả, thành ra càng sâu càng rộng. Có lỗi mà biết là trái,
đổi ác làm lành, thì mỗi ngày lỗi hết dần đi, sau đó thế nào cũng
đắc đạo (16) .
-
- Ghi Chú (16)
- Lỗi là biểu hiện của ái dục, phải biết
hối cải.
-
- (5) Phật nói, có người không
hiểu Như lai, đem điều ác đến cho Như lai. Như lai đem lòng từ trong 4
tâm vô lượng (17) mà nâng đỡ, cứu độ cho họ. Họ đem điều ác đến
lại, Như lai lại đáp bằng điều lành. Bởi vì khí lực phước đức là
ở chỗ ấy, còn khí lực tội ác thì tự hại mình. Có người nghe phong cách
của Như lai là giữ đại nhân từ, ác đến thì trả lành, nên đến mắng
Như lai. Như lai yên lặng, không trả lời, thương họ làm thế là vì si cuồng.
Mắng rồi, Như lai hỏi, ông đem lễ vật biếu người, người không nhận
thì lễ vật ấy đem về đâu? Đem về cho tôi. Vậy ông mắng Như lai, Như
lai không nhận thì ông cũng tự nhận lại, gây họa cho mình. Vang ứng theo
tiếng, bóng tùy theo hình, không thể tránh khỏi. Hãy thận trọng, đừng làm
ác (18) .
-
- Ghi Chú (17)
- Chính văn là tứ đẳng (4 đức tính phổ
cập tất cả, đồng đẳng hết thảy).
-
- Ghi Chú (18)
- Phải nhẫn điều ác. Phải bỏ điều
ác. Bài này răn cả đôi bên. Và chính sự nhẫn điều ác là răn dạy, cảm
hóa cho điều ác được bỏ.
-
- (6) Phật nói, người ác hại
người hiền thì như ngửa mặt lên trời mà nhổ nước dãi, nước dãi
không bẩn trời mà lại bẩn mình; như ngược gió tung bụi, bụi không dơ
người mà lại dơ bản thân. Người hiền không thể hại được mà bản
thân tất bị tai hại vì lỗi lầm của mình.
-
- (7) Phật nói, hành đạo thì
phải chăm lo bác ái. Mà bác ái bố đức thì không gì hơn bố thí. Bền
chí mà thờ đạo như vậy thì phước rất lớn (19) .
-
- Ghi Chú (19)
- Bài 9 bản B là chữa bài này. Chữa như
hay mà ý không bằng.
-
- (8) (Phật nói,) thấy người
bố thí, hãy giúp một cách vui vẻ, thì cũng được phước báo. Hỏi, phước
ấy có giảm bớt đi không? Phật nói, như lửa nơi một cây đuốc, hàng
ngàn hàng trăm người đem đuốc đến lấy lửa ấy mà nấu ăn, soi sáng,
lửa ấy vẫn như cũ. Phước ấy cũng như vậy (20) .
-
- Ghi Chú (20)
- Ở chỗ khác còn nói người này chuyền lửa
cho người kia, chuyền mãi vô cùng.
-
- (9) Phật nói, đãi cơm một
trăm người thường không bằng một người tốt. Đãi cơm một ngàn người
tốt không bằng một người giữ 5 giới. Đãi cơm một vạn người giữ 5
giới không bằng một vị Tu đà hoàn. Hiến cơm trăm vạn Tu đà hoàn
không bằng một vị Tư đà hàm. Hiến cơm ngàn vạn Tư đà hàm không bằng
một vị A na hàm. Hiến cơm một ức A na hàm không bằng một vị A la hán.
Hiến cơm mười ức A la hán không bằng một vị Bích chi phật. Hiến cơm
trăm ức Bích chi phật không bằng đem giáo huấn của Tam bảo mà hóa độ
song thân một đời. Hóa độ song thân ngàn ức đời không bằng hiến cơm
một người học tập theo Phật, nguyện được như Phật để cứu vớt chúng
sinh (20B) . Hiến cơm người như vậy thì phước sâu dày nhất. Còn phụng
thờ trời đất quỉ thần thì không bằng hiếu thảo cha mẹ: cha mẹ là
thần linh bậc nhất (21) .
-
- Ghi Chú (20B)
- Là người phát bồ đề tâm.
-
- Ghi Chú (21)
- a. Bài 11 bản B chữa đoạn chót, kém hẳn
ở đây.
- b. Câu chót, có vài bản có lẽ cũng thấy
quan trọng, nên không bỏ, lại tách ra làm 1 bài, đề bài 12 (Vạn 59/50B
và 80A).
-
- (10) Phật nói, người có 5 sự
khó: nghèo nàn mà bố thí mới khó, giàu sang mà học đạo mới khó, liều
mình mà chắc chết mới khó (22) , được nhìn thấy kinh Phật mới khó,
sinh ra gặp đời Phật mới khó (23) .
-
- Ghi Chú (22)
- Chính văn là chế mạng bất tử. Bản của
Chân tông hoàng đế viết phán mạng bất tử, và chú thích, bất là tất
viết sai, thêm nữa, ngữ âm Tây nhung nói tất là bất (Vạn 59/28A). Như vậy
viết đúng là phán mạng tất tử, và dịch liều mình mà chắc chết.
Phán là dứt bỏ.
-
- Ghi Chú (23)
- Bài 12 bản B nói đến 20 sự khó, rõ
ràng là thêm thắt.
-
- (11) Có vị sa môn hỏi Phật,
nhờ gì mà đắc đạo (25) ? Làm sao biết đời trước? Phật nói, đạo siêu
việt tất cả sắc thái. Đòi biết đạo là vô ích. Chính yếu là phải cố
thủ chí nguyện mà tu hành. Rồi như lau kính, dơ hết thì sáng lộ, thấy
được hình ảnh: hủy diệt ái dục, giữ sự thanh tịnh (26) , thì thấy
đạo, thì biết đời trước.
-
- Ghi Chú (25)
- Đạo là mượn chữ Trung hoa. Ở đây, đạo
chỉ cho diệt đế (nói theo tiểu thừa), cho chân như (nói theo đại thừa).
Đắc đạo là thể hội diệt đế hay chân như ấy.
-
- Ghi Chú (26)
- Chính văn là không: trống không ái dục.
-
- (12) Phật nói, lành là
gì, là chỉ hành đạo. Lớn là gì, là chí nguyện phù hợp với đạo. Mạnh
nhiều là gì, là nhẫn nhục; nhẫn nhục thì không thù oán, tất được
người trọng. Sáng nhất là gì, là dơ bẩn của tâm trí được trừ hết,
hành vi của tội ác được diệt sạch, ngay từ bên trong mà sáng không tì
vết, thì vô thỉ đến giờ (27) , vũ trụ có gì, dầu chưa manh nha, cũng
biết, thấy và nghe cả: được tuệ giác biết toàn bộ (28) mới là sáng
nhất.
-
- Ghi Chú (27)
- Chính văn là trời đất chưa có, cho đến
ngày nay (mượn chữ Trung hoa).
-
- Ghi Chú (28)
- Chính văn là nhất thế trí.
-
- (13) Phật nói, có ái dục
thì không thấy đạo. Như nước đã đục mà còn bỏ vào 5 màu, ra sức quấy
lên, thì ai đến trên nước ấy cũng không thấy hình ảnh. Ái dục giao
xen, làm bẩn tâm trí nên không thấy đạo: nước lóng, dơ hết, trong lắng
không bẩn thì tự thấy hình ảnh. Lại nữa, dưới chão là lửa dữ,
trong chão nước sôi lên, và đậy trên là vải, thì ai đến soi vào cũng
không thấy hình bóng: tâm trí vốn có 3 độc (29) sôi sục bên trong, 5 cái
(30) che đậy ở ngoài, thì không bao giờ thấy đạo. Phải hết cả dơ bẩn
của tâm trí thì biết xuất xứ của nghiệp thức (31) , biết sống chết
về đâu, biết thế giới chư Phật ở đâu (32) .
-
- Ghi Chú (29)
- Là 3 độc tố tham, sân, si (nói xác là
dâm, nộ, si).
-
- Ghi Chú (30)
- Là 5 sự che đậy: ham muốn, tức giận,
ngủ nghỉ, háo động, hoài nghi.
-
- Ghi Chú (31)
- Chính văn là hồn linh. Coi lại ghi chú 9 .
-
- Ghi Chú (32)
- Dịch đủ: biết thế giới chư Phật,
nơi đạo đức, ở đâu.
-
- (14) Phật nói, học đạo thì
như cầm đuốc vào trong nhà tối, tối hết mà sáng còn: học đạo mà thấy
thánh đế (33) thì ngu si diệt hết, được sự thấy toàn thể.
-
- Ghi Chú (33)
- Đế là chắc chắn, chân lý. Thánh đế là
chân lý được thấy bởi các thánh giả. Thánh đế là tứ đế.
-
- (15) Phật nói, Như lai nhớ gì,
nhớ đạo. Như lai làm gì, làm đạo. Như lai nói gì, nói đạo. Như lai nhớ
đến thánh đế (34) thì không bỏ qua phút chốc nào cả (35) .
-
- Ghi Chú (34)
- Là đạo nói trên.
-
- Ghi Chú (35)
- Bài 18 bản B là chữa bài này. Nhưng chữa
không bằng, văn và ý như hay mà hồn hàm.
-
- (16) Phật nói, nhìn trời đất
hãy nhớ vô thường, nhìn núi sông hãy nhớ vô thường, nhìn vạn hữu
hình thái phong phú hãy nhớ vô thường (36) . Giữ tâm trí như vậy thì đắc
đạo mau chóng.
-
- Ghi Chú (36)
- Bài 19 bản B chữa 3 điều này gọn hơn,
nhưng điều 3 không hợp đạo lý vô thường như ở đây.
-
- (17) Phật nói, việc làm mỗi
ngày là thường nhớ đạo, hành đạo, thì thành đạt đức tin, phước
được vô lượng (37) .
-
- Ghi Chú (37)
- Nhớ đạo, hành đạo mới là đức tin:
đức tin của Phật giáo là như vậy.
-
- (18) Phật nói, một cách chín chắn và thuần
thục, hãy tự nghĩ nhớ, trong cơ thể, 4 đại (38) đều có tên riêng,
không có cái ngã (39) ký sinh ở đó. Ký sinh ở đó đi nữa thì cũng không
vĩnh cửu, sự việc chỉ như ảo thuật mà thôi.
-
- Ghi Chú (38)
- Tứ đại có 2 loại: loại tứ đại thật,
loại tứ đại chỉ là tùy tăng. Tứ đại thật là kiên (cố thể) thấp
(dịch thể) noãn (nhiệt lực) động (động lực). Tứ đại tùy tăng là
đất (cố thể tăng nhiều hơn) nước (dịch thể tăng nhiều hơn) hỏa
(nhiệt lực tăng nhiều hơn) phong (động lực tăng nhiều hơn). Tứ đại
thật mới là loại Phật học nói đến.
-
- Ghi Chú (39)
- Ngã là khái niệm chủ tể (tự chủ và
chỉ huy).
-
- (19) Phật nói, vì ái dục
mà cầu hoa danh (40) thì cũng như đốt hương, hơi thơm nghe được thì hương
đã tự đốt rồi. Người thiếu trí tuệ mới ham hoa danh tầm thường, không
cố thủ sự chân thật của đạo hạnh. Hoa danh tai họa cho bản thân, sự
hối hận theo liền sau nó.
-
- Ghi Chú (40)
- Hoa danh: danh tiếng hoa hòe.
-
- (20) Phật nói, con người đối
với tiền tài và sắc đẹp thì y như trẻ con ham một chút mật ngọt nơi
lưỡi dao, liếm vào, không đủ myՠvị một bữa ăn mà có cái họa đứt
lưỡi.
-
- (21) Phật nói, con người
ràng buộc vào vợ con bảo vật và nhà cửa thì còn hơn gông cùm xích
khóa của lao ngục. Lao ngục còn có ngày được phóng thích, vợ con ái dục
thì nhảy vào miệng cọp cũng cam tâm, đâu có cái ngày phóng thích.
-
- (22) Phật nói, ái dục không
gì hơn sắc đẹp. Sắc đẹp tạo ra ái dục thì không gì lớn bằng. Nhờ
chỉ có một cái như vậy, giả sử có cái thứ hai thì thiên hạ không
còn ai hành đạo được nữa.
-
- (23) Phật nói, con người đối
với ái dục thì cũng như cầm đuốc lửa mà đi ngược gió, ngu mà không
bỏ đuốc xuống thì tất bị cháy tay. Độc tố dâm nộ si ở ngay trong
thân tâm, không đem đạo mà trừ cái họa ấy cho sớm thì tất phải có
tai ương, in như người ngu tự đốt tay vì ham cầm đuốc lửa.
-
- (24) Thiên thần hiến ngọc nữ
cho Phật để thử nghiệm ý ngài, quan sát đạo ngài. Ngài nói, cái đãy
da chứa đầy dơ bẩn kia, đến đây làm gì ? Có thể vừa ý thế tục, nhưng
không kích động được bậc lục thông (41) . Hãy đi đi, Như lai không cần
dùng. Thiên thần rất kính trọng, nhân đó hỏi Phật về ý đạo. Ngài giảng
giải cho, liền thành đạt đạo quả Tu đà hoàn.
-
- Ghi Chú (41)
- Lục thông: coi lại ghi chú 7. Trong lục
thông, căn bản là lậu tận: không còn sơ hở ẫ ái dục không còn để rỉ
lọt ra.
-
- (25) Phật nói, hành đạo thì
như cái cây ở trong dòng nước, hãy theo dòng nước mà trôi đi, không mắc
bờ bên kia, không mắc bờ bên này, không bị người vớt lấy, không bị
quỉ thần ngăn chận, không bị nước xoáy làm đứng lại, không bị thối
rã, thì Như lai bảo đảm cây ấy vào được biển cả. Hành đạo cũng vậy,
không bị ái dục mê hoặc, không bị tà ngụy quấy phá (41B) , tinh tiến
mà không do dự, thì Như lai bảo đảm người ấy đắc đạo.
-
- Ghi Chú (41B)
- Đúng chính văn là lừa đảo, nhưng quấy
phá thì rộng hơn.
-
- (26) Phật bảo các vị sa
môn, thận trọng, đừng tin ý của các người, ý của các người không
bao giờ tin được. Thận trọng, đừng tiếp xúc sắc đẹp, tiếp xúc thì
tai họa có liền. Được tuệ giác La hán rồi mới nên tin ý của các người.
-
- (27) Phật bảo các vị sa
môn, thận trọng, đừng nhìn phụ nữ. Phải nhìn thì thận trọng, đừng
nói chuyện. Phải nói chuyện thì sắc lịnh cho tâm trí đi theo nẻo chánh,
rằng ta là sa môn, ở trong cuộc đời dơ bẩn này ta phải như đóa sen
không dính bùn lầy. Già thì coi như mẹ, lớn thì coi như chị, trẻ thì
coi như em, nhỏ thì coi như con. Cẩn trọng mà giữ uy nghi, ý thức càng phải
đúng thánh đế. Phải xét từ đầu đến chân, thấy trong đó không có
gì là thân thể, mà chỉ chứa toàn đồ dơ bẩn gớm ghiếc : phải xét như
vậy mà [sinh tâm độ thoát ], giải tỏa ý thức (41C) .
-
- Ghi Chú (41C)
- Ở đây bản B có 1 câu quan trọng: mà
sinh tâm độ thoát, giải tỏa ý thức.
-
- (28) Phật nói, hành đạo thì
phải từ bỏ tình dục. Hãy như cỏ gặp lửa, lửa đến thì phải tránh:
người hành đạo gặp ái dục thì phải tránh cho xa.
-
- (29) Có người bực vì tình
dục không ngừng, dùng dao búa mà đoạn âm (42) . Phật nói, đoạn âm đâu
bằng đoạn tâm. Tâm như pháp quan, pháp quan không có thì cũng không có
công sai. Tâm tà không ngừng thì đoạn âm ích gì, chỉ đem lại cái chết
mà thôi. Thế nhân nhận thức đảo ngược là như người khờ trên đây.
-
- Ghi Chú (42)
- Trừ bỏ bộ phận sinh thực nam.
-
- (30) Có một dâm nữ hẹn với
nam nhân. Đến hẹn nam nhân không đến. Dâm nữ tự hối, rằng
- Dục tình, ta biết ngươi,
- gốc của ngươi là ý,
- ý sinh vì tư tưởng.
- Ngày nay ta không còn
- tư tưởng nữa đến ngươi,
- thì ngươi hết sinh ra (43)
- Phật đang đi, nghe vậy, bảo
các vị sa môn, nhớ lấy, đấy là bài chỉnh cú của đức Phật Ca diếp,
được lưu hành trong dân gian.
-
- Ghi Chú (43)
- Bài 31 bản B chữa phần sau của bài này.
Nếu không phải để hiểu sao cũng được thì văn với ý cũng khá.
-
- (31) Phật nói, con người
do ái dục mà lo buồn, do lo buồn mà sợ hãi. Không ái dục thì không lo buồn,
không lo buồn thì không sợ hãi.
-
- (32) Phật nói, hành đạo là
như một người chiến đấu với muôn người. Mặc áo giáp, cầm vũ khí,
tiến ra chiến trường. Nhưng rồi có kẻ khiếp đảm, tự lui mà chạy;
có kẻ nửa đường bỏ về; có kẻ quyết chiến mà chết; có kẻ đại
thắng mà về, thiên chuyển lên cao. Ấy vậy, những ai kiên trì tâm chí,
tinh nhuệ bước tới, không mê hoặc vì lời tiếng tầm thường, cuồng dại,
thì chiến thắng ái dục, đánh bại xấu ác, đắc đạo chắc chắn.
-
- (33) Có vị sa môn ban đêm tụng
kinh tiếng nghe rất buồn, có vẻ hối tiếc, lưỡng lự, muốn trở về thế
tục. Phật gọi mà hỏi, khi ông ở nhà thì đã làm gì? Thưa, thường đánh
đàn. Giây đàn dùi thì thế nào? Thưa, không kêu. Giây đàn căng thì thế
nào? Thưa, mất tiếng. Căng dùi vừa phải thì thế nào? Thưa, âm điệu phát
ra đủ cả. Phật nói, học đạo cũng phải như vậy, giữ cho tâm trí chừng
mực thì đạo phải được.
-
- (34) Phật nói, hành đạo
cũng như luyện sắt, tuần tự mà luyện, càng luyện càng loại hết quặng
đi, thì làm đồ rất tốt. Học đạo mà từ từ, trừ khử một cách sâu
xa dơ bẩn trong tâm, thì tinh tiến đắc đạo. Thái quá thì cơ thể mệt mỏi,
cơ thể mệt mỏi thì tâm ý bực bội, tâm ý bực bội thì tu hành lùi bước,
tu hành lùi bước thì tội lỗi xuất hiện.
-
- (35) Phật nói, hành đạo
cũng thấy khổ, không hành đạo cũng thấy khổ. Nhưng con người từ sinh
đến già, từ già đến bịnh, từ bịnh đến chết, khổ biết bao nhiêu.
Tâm ý bực bội, tích lũy tội lỗi, thì sinh tử không ngừng, cái khổ
này mới khó nói cho hết.
-
- (36) Phật nói, thoát đường
ác mà được làm người là khó, được làm người mà làm đàn ông là
khó, làm đàn ông mà đủ giác quan là khó, đủ giác quan mà sinh xứ trung
tâm (44) là khó, sinh xứ trung tâm mà được thờ Phật pháp là khó, được
thờ Phật pháp mà gặp quân vương đạo đức (45) là khó, gặp quân vương
đạo đức mà sống trong gia đình bồ tát (46) là khó, sống trong gia đình
bồ tát mà tín ngưỡng Tam bảo, gặp nhằm đời Phật là khó (47) .
-
- Ghi Chú (44)
- Là những xứ có Phật giáo, ít nhất cũng
có văn hóa tốt.
-
- Ghi Chú (45)
- Là lãnh tụ quốc gia mà có đạo đức. Có
đạo đức thì có chính sách tốt. Chính sách ấy mới lợi cho dân, nhất
là cái lợi tín ngưỡng không bị phá hoại. Bài 36 bản B bỏ điều này,
thật đáng trách.
-
- Ghi Chú (46)
- Là gia đình mà gia phong có truyền thống
vị tha.
-
- Ghi Chú (47)
- Cũng như bài 10, bài này của bản B (bài
36) cũng thêm, nhưng không
- sát bằng.
-
- (37) Phật hỏi một vị sa
môn, sinh mạng con người tồn tại trong bao lâu, thưa, trong vài ngày, Phật
nói, ông chưa hành đạo. Phật hỏi một vị sa môn khác, sinh mạng con người
tồn tại trong bao lâu, thưa, trong một bữa ăn, Phật nói, ông cũng chưa hành
đạo. Phật hỏi một vị sa môn khác nữa, sinh mạng con người tồn tại
trong bao lâu, thưa, trong hơi thở ra hay vào, Phật nói, hay thay, ông đáng
được gọi là người hành đạo.
-
- (38) Phật nói, đệ tử của
Như lai sống cách Như lai mấy ngàn dặm mà lòng nhớ giới luật của Như
lai, thì đắc đạo chắc chắn; còn sống bên cạnh Như lai mà lòng mang tà
ý, thì không bao giờ đắc đạo. Sự thực là ở nơi sự hành đạo, gần
mà không hành đạo thì đâu có được muôn một trong sự lợi ích.
-
- (39) Phật nói, như ăn mật
(47B) thì ở giữa hay hai bên đều ngọt, người hành đạo hãy ý thức
kinh pháp của Như lai cũng vậy, mọi ý nghĩa đều thích thú, làm theo là
đắc đạo.
-
- Ghi Chú (47B)
- Chính văn là mật (mật ong). Nhưng tôi ngờ
là thạch mật (đường phèn). Nếu là thạch mật thì phải dịch: như ăn
đường phèn thì trong ngoài đều ngọt.
-
- (40) Phật nói, người hành
đạo có năng lực bạt nhổ gốc rễ ái dục. Ngắt lấy chuỗi ngọc đang
treo thì ngắt từng hạt cũng có lúc lấy hết, và xấu ác mà hết thì là
đắc đạo (48) .
-
- Ghi Chú (48)
- Bài này nói tiệm tu mà chắc chắn đắc
đạo. Nhưng tiệm trừ xấu ác mà ví dụ như ngắt từng hạt ngọc thì cũng
hơi lạ -- nếu tôi hiểu và dịch không lầm.
-
- (41) Phật nói, sa môn hành đạo
là như contrâu mang nặng, đi trong bùn sâu, mệtnhọc đến mấy cũng không
dám ngoái nhìn hai bên, mà phải đi cho mau, rời khỏi bùn sâu, mới được
nghỉ ngơi. Samôn coi ái dục còn hơn bùn sâu, nên thẳng tắp một mạch
mà hành đạo, mới có thể thoát khỏi mọi sự khổ lụy.
-
- (42) Phật nói, Như lai coi cái
ngôi vương hầu như khách trọ (49) , coi cái quí vàng ngọc như sỏi đá,
coi cái đẹp tơ lụa như giẻ rách (50) .
-
- Ghi Chú (49)
- Dịch sát là khách qua đường, ý nói tạm
bợ, ở và đi rất mau chóng và bất thường.
-
- Ghi Chú (50)
- Bài 42 bản A này có vẻ thiếu. Nhưng thêm
như bài 42 bản B lại có vẻ thừa. Nên "coi cái trò phải trái như sáu
con rồng cùng múa" và "coi sự sinh diệt của tất cả các pháp như
cái cây trải qua bốn mùa" mà thiếu đi thì cũng đáng tiếc.
- Vu Lan 2537, 13-15/7.
Chân thành cảm
ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã
phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI
font. Thích Nhật Từ 29-4-2000
| Dẫn Nhập | Dịch Nghĩa Bản
A | Dịch Nghĩa Bản B | Dịch
Nghĩa Bản Chữa 1 & 2
|
|
|