- Kinh Bốn Mươi Hai Bài
- (Tứ Thập Nhị Chương Kinh)
- Hòa thượng Thích Trí Quang dịch
- 4
- Dịch Nghĩa Bản ChữaKinh Bốn
Mươi Hai Bài
- (bản chữa lại)
-
- (Tiểu Dẫn)
- Đức Thế tôn thành đạt toàn giác rồi,
đến vườn Lộc uyển chuyển đẩy bánh xe chánh pháp tứ đế, hóa độ
nhóm 5 người cùng thành tựu đạo quả. Sau đó lại có các vị tỷ kheo
trình bày hoài nghi, đức Thế tôn đã huấn dụ, và ai cũng khai ngộ. (Bốn
mươi hai bài sau đây là sao chép một ít lời đức Thế tôn đã nói).
- Lời tiểu dẫn này lấy của bản B, cho
thấy 42 bài kinh này là trích yếu hoặc trích diễm lời Phật từ khi mới
chuyển pháp luân cho đến sau này. Trích yếu trích diễm mà "toát yếu
để hướng dẫn quần chúng".
(1) Đạo Quả
Phật nói, từ biệt cha mẹ, thoát ly gia
đình, nên gọi là sa môn. Thường giữ 250 giới, làm theo tứ đế, thành A
la hán. Kế đó là A na hàm, mạng chung thì sinh lên trên tầng trời mười
chín, ở đó thành A la hán. Kế đó nữa là Tư đà hàm, (mạng chung) thì một
lần lên xuống là thành A la hán. Sau hết là Tu đà hoàn, (mạng chung) thì
bảy lần lên xuống là thành A la hán. Ái dục mà (các bậc thánh giả
này) cắt đứt thì như tay chân đứt rồi không dùng được nữa.
Bài này nói về 4 đạo quả của người
xuất gia, rất quan trọng, chứng tỏ xuất gia không vô hiệu quả. Để giải
thích tương đối rõ ràng, trước hết nói chi tiết của 4 đạo quả, sau
đó nói hành tướng của 4 đạo quả.
Chi tiết của 4 đạo quả là một, 4 đạo
quả, đặc biệt đạo quả A la hán, lấy sự xuất gia và giữ Tỷ kheo giới
làm cơ sở. Về Tỷ kheo giới có 250 điều, nhưng nói tổng quát là "từ
bỏ tất cả hành vi và cử chỉ đáng từ bỏ ở nơi thân và nơi miệng".
Hai, 4 đạo quả là làm theo tứ đế. Làm
theo tứ đế là biết khổ (ý thức con người và thế giới con người là
khổ não, lại ý thức khổ não ấy có thể diệt được) ; là đoạn tập
(hủy diệt nguyên nhân của khổ não ấy, nguyên nhân mà có 2 cách nói : 1.
nguyên nhân ấy đại loại là kiến hoặc tu hoặc, 2. 2 hoặc này tổng
quát lại là ái dục) ; là chứng diệt (thực hiện sự hủy diệt của
nguyên nhân đau khổ, sự ấy gọi là niết bàn) ; là tu đạo (thực hành
phương pháp hủy diệt nguyên nhân đau khổ, phương pháp ấy chủ yếu là
8 thánh đạo). Ở đây phải nói thêm về ái dục và 2 hoặc. Ái dục nói
đích thị là tình ái với tình dục, nói rộng ra là ưa thích và ham muốn.
Ái dục, như vậy, thật ra chỉ là ái. Nói ái không là bao quát đủ cả.
Còn 2 hoặc là kiến hoặc (chủ yếu do thấy biết tứ đế thì hủy diệt)
và tu hoặc (phải tu tập tiếp theo nữa mới hủy diệt). Kiến hoặc gồm
có 10 sử của 3 cõi, chia ra 2 nhóm, nhóm tham, sân, nghi là những tính xấu
bẩm sinh và nhóm thân kiến, biên kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến
là những kiến thức sai lầm. Tu hoặc cũng có 2 nhóm, nhóm tham, sân, si, mạn
của cõi Dục, nhóm tham, si, mạn của 2 cõi Sắc và Vô sắc. Như vậy, cả
2 nhóm tu hoặc chính là tham, sân, si, mạn hay tham, si, mạn của kiến hoặc
còn lại. Cả 2 nhóm đều có 9 bậc ; 9 bậc là nặng, vừa, nhẹ, mà còn
thêm nặng, vừa, nhẹ cho cả 3 bậc ấy nữa. Tất cả kiến hoặc và tu hoặc
như vậy tổng quát lại là ái dục, ái dục là căn bản.
Ba, 4 đạo quả chủ yếu là hủy diệt
ái dục (mà gọi là ái cũng đủ).
Bốn, 4 đạo quả lấy niết bàn làm cứu
cánh. Niết bàn ấy là diệt đế mà nói rõ là"ái tận niết bàn"
: cái niết bàn hủy diệt ái dục. Chứng niết bàn ấy là A la hán.
Năm, 4 đạo quả đều do thân người tu
chứng. Thân người, mà quan trọng là thân người ở châu Diêm phù này.
Thân người là nhân loại của cõi Dục. Do vậy, nói 1 lần hay 7 lần lên
xuống là sinh chư thiên của cõi Dục hay sinh nhân loại của cõi Dục, nhưng
thật ra chỉ sinh nhân loại, và bằng thân nhân loại, là tu chứng được
niết bàn. Cũng phải biết rằng, đời này, và thân này, phải xuất gia,
giữ Tỷ kheo giới và tu theo tứ đế, mới thành A la hán. A na hàm và Tư
đà hàm thì phần nhiều cũng là xuất gia mà tu chứng. Chỉ đạo quả Tu
đà hoàn là tại gia (giữ 5 giới) xuất gia (giữ 250 giới) đều tu chứng
được cả.
Sáu, thì gian của 4 đạo quả. Thì gian
này có 2 mặt. Một, nếu chỉ nói tu chứng 4 đạo quả, là nói một đời
này đạo quả nào cũng được tu chứng. Nhưng sự tu chứng của mỗi đạo
quả, ngay trong đời này, vẫn có 2 trường hợp là tiệm chứng (tu chứng
tuần tự) và đốn chứng (tu chứng vượt bậc). Trường hợp đốn chứng
của đạo quả A la hán là như ngài Xá lợi phất, và kỳ hơn nữa là như
ngài Ương quật ma la. Đạo quả A na hàm và đạo quả Tư đà hàm dĩ nhiên
cũng có như vậy. Đặc biệt đạo quả Tu đà hoàn, trong kinh tả không ít
có những người nghe Phật thuyết pháp, chưa rời chỗ mà đã viễn ly trần
cấu. Hai, nếu nói tu chứng niết bàn (thành A la hán) là nói các đời sau.
Trừ A la hán đã chứng niết bàn thì không còn đời nào nữa. Còn A na
hàm chết rồi còn sinh Bất hoàn thiên mới chứng niết bàn; Tư đà hàm chết
rồi còn một đời lên xuống trong chư thiên nhân loại cõi Dục, sau đó
sinh Bất hoàn thiên mới chứng niết bàn. Đặc biệt Tu đà hoàn, chết rồi
còn 7 đời lên xuống trong chư thiên nhân loại cõi Dục, sau đó sinh Bất
hoàn thiên mới chứng niết bàn. Nhưng cái thì gian 7 đời vẫn có tiệm
có đốn. Tiệm thì tuần tự 7 đời mới diệt hết 9 bậc tu hoặc cõi Dục,
nhưng 7 đời là tối đa, không có sự quá 7 đời. Đốn thì có thể một
vài đời đã hết 9 bậc tu hoặc cõi Dục. Như vậy, thì gian tu chứng niết
bàn của tiểu thừa, tối đa, cũng chỉ có 7 đời mà thôi.
Bảy, chỗ ở của 4 đạo quả, thì đó
là 5 Bất hoàn thiên: Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, Sắc
cứu cánh. Năm Bất hoàn thiên này thuộc cõi Sắc, trên đệ tứ thiền, trên
cả Vô tưởng thiên (tầng trời thứ 19, mà ngoại đạo cho là niết bàn).
Tuy vậy, Bất hoàn thiên vẫn như biệt lập 3 cõi. A na hàm (Bất hoàn) sinh
và ở đó. Tư đà hàm sau 1 lần lên xuống chư thiên và nhân loại cõi Dục,
Tu đà hoàn sau 7 lần lên xuống chư thiên và nhân loại cõi Dục, đều thành
A na hàm, cũng sinh và ở Bất hoàn thiên. Chỉ có A la hán siêu xuất 3 cõi,
ái tận niết bàn, thì không còn nói sinh và ở đâu nữa.
Hành tướng của 4 đạo quả. Đạo quả
thứ tư là A la hán ( cúng : thích ứng hiến cúng). Đạo quả ấy, đời
này, tu tứ đế (nói cách khác là đoạn ái dục, là đoạn kiến hoặc tu
hoặc) mà thành. Đạo quả ấy có các phẩm chất tam minh và lục thông. Nhưng
đạo quả ấy chưa phải là Phật quả, là như Phật quả. Vì Phật quả,
ngoài tam minh lục thông, còn có 10 lực, 4 vô úy, 18 bất cọng, v/v, là những
phẩm chất được nói cả trong tiểu thừa, còn có 3 thân, 4 trí, v/v, là
những phẩm chất được nói trong đại thừa.
Đạo quả thứ ba là A na hàm (Bất lai:
không còn trở lại). Đạo quả ấy, đời này, đoạn kiến hoặc của 3 cõi
và đoạn 9 bậc tu hoặc của cõi Dục, nên chết rồi không sinh lại cõi Dục
nữa; nhưng còn 9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc và Vô sắc, nên sinh lên Bất
hoàn thiên, ở đó đoạn 9 bậc tu hoặc ấy mới thành A la hán.
Đạo quả thứ hai là Tư đà hàm (Nhất
lai: một lần trở lại). Đạo quả ấy, đời này, đoạn kiến hoặc của
3 cõi và 6 bậc tu hoặc của cõi Dục ; nhưng còn lại 3 bậc tu hoặc của
cõi Dục và 9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc và Vô sắc, nên chết rồi phải
một lần sinh lại trong chư thiên hay nhân loại của cõi Dục, để đoạn
3 bậc tu hoặc còn lại của cõi ấy, thành A na hàm, sinh Bất hoàn thiên,
ở đó đoạn 9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc và Vô sắc, mới thành A la
hán.
Đạo quả thứ nhất là Tu đà hoàn (Dự
lưu: dự vào dòng thánh). Đạo quả ấy, đời này, đoạn kiến hoặc của
3 cõi, còn lại tu hoặc của 3 cõi, nên chết rồi, 7 lần là tối đa, sinh
lại trong chư thiên hay nhân loại của cõi Dục mà đoạn 9 bậc tu hoặc của
cõi ấy, thành A na hàm, sinh Bất hoàn thiên, ở đó đoạn 9 bậc tu hoặc của
2 cõi Sắc và Vô sắc, mới thành A la hán.
Đạo quả thứ nhất khá quan trọng, nên
phải nói thêm vài điều. Một, đạo quả ấy, như đã nói, xuất gia tại
gia đều có thể tu chứng, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch mà
thôi. Hai, đạo quả ấy đã không còn đọa lạc ác đạo nữa. Ba, kiến
hoặc của 3 cõi mà đạo quả ấy đoạn là 10 sử. Trong 10 sử, tham, sân,
si, mạn, 4 thứ ấy bị"làm cho mỏng" đi, không đủ sức tạo ra
ác nghiệp đọa lạc ác đạo nữa (nhưng sẽ thành tu hoặc của 3 cõi). Đặc
biệt phải tận diệt là nghi. Nghi đây là đối với tứ đế. Đạo quả
này chủ yếu là tín tâm vững chắc, xác nhận và xác tín tứ đế, không
còn hoài nghi nào nữa. Điều này quan trọng đến nỗi làm cho đạo quả này
được gọi là kiến đạo vị (của tiểu thừa). Khi nghi bị đoạn, nghĩa
là khi đã xác nhận và xác tín tứ đế, thì không còn nữa 5 kiến chấp
sau đây, toàn là tùy thuộc vào nghi: thân kiến (cho thân là ngã, hoặc cho
có cái ngã biệt lập mà chủ đạo thân), biên kiến (cho thân chết rồi
còn mãi hay mất hẳn), giới thủ (cố chấp những cách nói là diệt khổ
mà thật ra không diệt được), kiến thủ (cố thủ kiến thức sai lầm trên
đây, cho là kiến thức đúng đắn), tà kiến (phủ nhận nguyên lý nhân quả
tội phước, vô tín ngưỡng).
Nói tóm, 4 đạo quả trên đây là mục
đích của Phật giáo tiểu thừa, nên bài 1 rất quan trọng. Từ đây sắp
đi, có thể nói hầu hết, bằng cách nói đa dạng, cho thấy những gì
liên hệ đến sự đoạn trừ ái dục ẫ đến sự tu chứng 4 đạo quả.
(2) Biết Vừa Đủ
Phật nói, cạo bỏ râu tóc, làm bậc sa
môn, thì hãy rời bỏ tài sản thế gian, khất thực vừa đủ. Mỗi ngày
đứng bóng ăn một bữa, mỗi đêm dưới cây ngủ một lần, thận trọng
đừng thêm. Làm cho người u mê tồi tệ chính là ái dục.
Chủ yếu trong sự tu chứng 4 đạo quả,
đầu tiên, là thiểu dục (ít ham muốn những gì chưa có) và tri túc (biết
vừa đủ những gì đang có). Bài này nói về thiểu dục tri túc đối với
những nhu cầu cần thiết của đời sống xuất gia. Bởi vì ái dục, trước
hết, là không thiểu dục tri túc đối với những nhu cầu ấy.
Khất thực, chính văn là khất cầu (cầu
xin), nói rộng cho cả 5 thứ nhu cầu của đời sống xuất gia, là đồ
ăn, đồ uống, đồ nằm, đồ mặc, dược phẩm. Nhưng ở đây nói hẹp
là khất thực: khất cầu đồ ăn. Đừng thêm, có 2: một, mỗi ngày không
ăn thêm một bữa nữa, mỗi đêm không ngủ thêm 1 lần nữa; hai, ngay trong
1 bữa và 1 lần mà không ngồi ăn 2 lần, không nằm ngủ 2 giấc. Riêng việc
ngủ mỗi đêm 1 lần dưới đại thọ là hạnh đầu đà, không phải như
ăn mỗi ngày 1 bữa là thường sự của mọi người xuất gia.
(3) Nghiệp
Phật nói, chúng sinh do 10 sự mà ác, cũng
do 10 sự mà lành. Mười sự là thân có 3, miệng có 4, ý có 3. Thân có 3
là sát sinh, trộm cướp, dâm dục. Miệng có 4 là ly gián, mắng chưởi, dối
trá, thêu dệt. Ý có 3 là tham lam, tức giận, u mê. (Mười sự này là mười
ác, bỏ mười ác là mười lành). Tại gia giữ 5 giới, không biếng nhác,
không lùi bước, giữ đến 10 lành thì chắc chắn đắc đạo.
Căn bản của ý thức tu hành là nhận thức
chính bản thân. Bản thân tạo ra nghiệp (hành vi, động tác). Nghiệp có 3
thành 10: thân 3, miệng 4, ý 3. Mười nghiệp như vậy dữ ở đó mà lành cũng
ở đó. Dữ là thập ác. Bỏ thập ác là thập thiện. Mọi cuộc đời (quả
báo) khổ vui đều do ác và thiện (nghiệp nhân) ấy. Nhận định này cho
thấy có 2 nguyên tắc. Một, cuộc đời con người do chính hành vi con người
định đoạt. Hai, hành vi ấy, và cuộc đời ấy, cần phải và có thể
thay đổi. Ý thức tu hành bài này nói là như vậy.
Về thập ác, tất cả ái dục (tất cả
kiến hoặc tu hoặc) đều bao gồm trong đó, nhất là trong tham, đặc biệt
là trong si. Như vậy tất cả đạo quả đều do thập thiện mà thành. Và
thập thiện là do ngũ giới bước tới. Như vậy ngũ giới là căn bản, thập
thiện là hoàn thành, đối với các đạo quả. Chữ đắc đạo có nghĩa là
chứng 4 đạo quả, là chứng ái tận niết bàn.
(4) Sám Hối
Phật nói, con người có lỗi mà không tự
hối, ngưng liền, thì lỗi dồn lại nơi thân mình như nước đổ về biển
cả, thành ra càng sâu càng rộng. Có lỗi mà biết là trái, đổi ác làm
lành, thì mỗi ngày lỗi hết dần đi, sau đó thế nào cũng đắc đạo.
Sám hối tuy không phải chính âm mà lại
quá thông dụng, nên ở đây vẫn dùng chữ ấy, với nghĩa chính là có lỗi
thì "xin người chịu đựng mà tha thứ cho" , "xin dung thứ
cho". Nói thật dễ hiểu, và sát nhất, sám hối là "hối hận mà
xin lỗi, xin chừa".
Về hình thức thì sám hối có 2. Một,
đối diện người sống, như luật tạng chỉ. Hai, đối trước chư Phật,
như nghi thức làm. Cả 2 hình thức đều có ý nghĩa xin hộ trì cho tội hết
phước sinh. Về nội dung thì sám hối như bài này nói: tự hối, ngưng liền,
biết là trái, đổi ác làm lành, mỗi ngày lỗi hết dần đi.
(5) Nhẫn Điều Ác; hoặc: Đừng Ác Với
Người
Phật nói, có người xúc phạm Như lai bằng
điều ác, Như lai đem lòng đại từ mà nâng đỡ, cứu độ cho họ. Bởi
vì khí lực phước đức là ở đó, còn khí lực tội ác chỉ tự hại. Lại
có người cố đến mắng Như lai. Như lai không trả lời, thương họ làm
thế là vì si cuồng. Mắng rồi, Như lai hỏi, ông đem lễ vật biếu người,
người không nhận thì lễ ấy đem về đâu ? Đem về cho tôi. Vậy ông mắng
Như lai, Như lai không nhận thì ông cũng tự đem tai họa về cho mình. Nên,
hãy thận trọng, đừng làm ác.
Bài này văn khí là răn phải bỏ điều
ác, nhưng rõ ràng Phật còn lấy mình làm gương mà răn phải nhẫn điều
ác. Nhẫn mà còn hiểu và thương cho điều ác của người. Sức mạnh của
phước đức là như vậy, không như sức mạnh của tội ác chỉ tự hại
mình. Thêm nữa, chính sự nhẫn điều ác là răn dạy, cảm hóa cho điều
ác được bỏ.
(6) Hại Hiền Chỉ Tự Hại
Phật nói, người ác hại người hiền
thì như ngửa mặt lên trời mà nhổ nước dãi, nước dãi không thấu trời
mà lại rơi xuống nhằm mình ; lại như ngược gió tung bụi, bụi không đến
người mà lại làm dơ bản thân. Người hiền không thể hại được, mà
bản thân tất bị tai hại vì lỗi lầm của mình.
Học tập theo Phật, bị hại thì thương
mà không giận, tự chủ thì cao, tâm trí thì rỗng, ác mấy cũng không làm
bẩn họ được.
(7) Phước To Lớn
Phật nói, hành đạo thì bác ái, bác ái
thì không gì hơn bố thí. Phụng hành đạo như vậy thì phước rất lớn.
Bác ái là mượn chữ Trung hoa. Chữ chính
xác là đại bi. Đại bi thì bố thí. Bố thí đứng trước trong sự lợi
tha, nên phước rất lớn. Bản B diễn dịch chữ bác ái thành bác văn ái
đạo thì đi thật quá xa.
(8) Phước Tùy Hỷ
Phật nói, thấy người bố thí, hãy
giúp một cách vui vẻ, thì cũng được phước ấy. Hỏi, phước ấy có giảm
bớt đi không? Phật nói, như lửa nơi một cây đuốc, hàng ngàn hàng trăm
người đem đuốc đến lấy lửa ấy mà nấu ăn, soi sáng, lửa ấy vẫn
như cũ. Phước ấy cũng như vậy.
Không những lửa một cây đuốc lấy mãi
không hết, mà người này còn chuyền cho người kia, chuyền mãi không
cùng. Cái phước tùy hỷ là như vậy. Tùy hỷ là mừng theo, là tán thành,
tán trợ. Phước, cũng như tội, tự làm, bảo người làm, thấy người làm
mà tùy hỷ, cả 3 đều như nhau. Như nhau mà có khi còn hơn, vì trong lòng
tùy hỷ thì vui vẻ, chân thành.
(9) So Sánh Về Phước
Phật nói, đãi cơm người thường không
bằng người tốt, đãi cơm người tốt không bằng người giữ 5 giới. Đãi
cơm người giữ 5 giới không bằng Tu đà hoàn, (cho đến) hiến cơm A la hán
không bằng Bích chi phật. Hiến cơm Bích chi phật không bằng đem giáo huấn
của Tam bảo hóa độ cha mẹ -- nên thờ trời đất quỉ thần không bằng
hiếu với cha mẹ, vì cha mẹ là thần linh bậc nhất. Hóa độ cha mẹ không
bằng hiến cơm người học tập đức Phật mà nguyện cứu độ chúng
sinh.
Phước lớn hơn, ngoài lý do vì đối tượng
hiến cúng, còn vì lý do tâm lý bình đẳng. Lý do sau thì không kể đối
tượng thế nào, mà chân thành thì phước vẫn như nhau.
Đoạn chót của bài này, bản B chữa bằng
cách bỏ có thêm có. Thêm thì đem Phật ra mà so sánh. Nhưng Phật thì
ngoài tầm so sánh. So sánh như bản B không hợp tình lý chút nào hết. Đó
là thêm, còn bỏ thì bỏ cái hiếu với cha mẹ mà đoạn này đề cao. Bỏ
như vậy thật sai quấy.
(10) Khó Mới Quí
Phật nói, người có 5 sự khó: nghèo
nàn mà bố thí mới khó, giàu sang mà học đạo mới khó, liều mình mà chắc
chết mới khó, được nhìn thấy kinh Phật mới khó, sinh ra gặp đời Phật
mới khó.
Những sự khó mới quí được nói ở đây
rất sát với người hành đạo, nhất là hành đạo ở cấp độ bình thường.
Bản B thêm đến 20 sự, tựu trung có 2 điều đáng nói, ấy là"nhịn
sắc đẹp ái dục mới khó" và "gặp được thiện tri thức mới
khó". Tu hành thì thiện tri thức là yếu tố rất quan trọng. Thiện
tri thức là bạn tốt, là thầy bạn tốt, thương mà khéo trong sự giúp
ta.
Trong 5 sự khó mới quí, sự sinh ra gặp
đời Phật phải nói rõ thêm. Gặp đời Phật thì trên 25 bách kỷ rồi
có ai gặp được. Nhưng không gặp sinh thân của Phật mà vẫn gặp được
di thân của ngài, hơn nữa, gặp được giới thân và pháp thân của ngài,
có điều gặp mà biết tôn thờ, thuận tùng, mới khó với quí.
(11) Thấy Đạo, Biết Đời Trước
Sa môn hỏi Phật: nhờ gì mà thấy đạo?
mà biết đời trước? Phật nói, đạo siêu việt tất cả sắc thái. Chỉ
muốn thấy đạo thì không bao giờ thấy được. Chính yếu là phải cố
thủ chí nguyện mà tu hành, thì như lau kính, dơ hết sáng lộ, thấy được
hình ảnh: diệt sự ái dục, giữ sự thanh tịnh, thì thấy đạo, thì biết
đời trước.
Đạo ở đây là diệt đế (niết bàn,
nói theo tiểu thừa), là chân như (nói theo đại thừa). Đạo ấy siêu việt
mọi khái niệm. Đối với đạo ấy, đòi biết không ích gì. Cốt yếu
là phải hành đạo, như lau kính, dơ hết, sáng lộ, thì thấy hình ảnh:
ái dục hết, thanh tịnh hiện, là biết đạo, biết đời trước.
Thường cái biết của Phật giáo được
ví dụ như đèn sáng soi đồ. Nhưng ví dụ như vậy ít chính xác, vì nếu
vậy thì đèn tắt là hết soi. Ví dụ như kính hiện hình có phần rõ hơn.
Kính sáng vì bản chất vốn sáng, lại được lau sạch, hình ảnh có thì
hiện ra, không thì kính vẫn sáng.
(12) Lành, Lớn, Mạnh, Sáng
Phật nói, lành là gì, là hành đạo. Lớn
là gì, là chí hợp với đạo. Mạnh là gì, là nhẫn nhục. Sáng là gì,
là dơ bẩn của tâm trí được trừ hết, hành vi của tội ác được diệt
sạch, được nhất thế trí mới gọi là sáng.
Tuệ giác, nói theo Trí độ luận, cuốn
27, thì có 3: 1. nhất thế trí (biết bản thể), của Nhị thừa; 2. đạo
chủng trí (biết đạo pháp), của Bồ tát; 3. nhất thế chủng trí (biết
toàn bộ: bản thể, hiện tượng, đạo pháp). Bài này nói nhất thế trí
thì có 2 cách hiểu : một, hiểu là riêng thì trí ấy là trí thứ 1, dịch
tuệ giác biết bản thể; hai, hiểu là chung thì trí ấy là cả 3 trí, cũng
dịch tuệ giác biết toàn bộ. Bài này nói tuy có thể có cả 2 nghĩa,
nhưng nghĩa thứ 1 nhiều hơn, vì ở đây nói cả Nhị thừa.
(13) Lý Do Không Thấy Được Đạo
Phật nói, có ái dục thì không thấy đạo.
Như nước đã đục mà còn bỏ màu vào, ra sức quấy lên, thì ai đến trên
nước ấy cũng không thấy hình ảnh. Ái dục giao xen, làm bẩn tâm trí
nên không thấy đạo. Lại nữa, dưới chão là lửa dữ, trong chão nước
sôi lên, trên chão đậy bằng vải, thì ai đến soi vào cũng không thấy
hình ảnh: tâm trí vốn có 3 độc sôi sục bên trong, 5 cái che đậy ở ngoài,
thì không bao giờ thấy đạo. Phải hết cả dơ bẩn của tâm trí, thì biết
xuất xứ của nghiệp thức, biết sống chết về đâu, biết thế giới chư
Phật ở đâu.
Ba độc là tham sân si (hay dâm nộ si, tật
nhuế si). Năm cái: 5 sự che đậy tâm trí, đó là tham dục (ham muốn) sân
nhuế (tức giận) thùy miên (ngủ nghỉ) trạo cử (háo động) nghi pháp
(hoài nghi). Nghiệp thức, chính văn bản A là hồn linh, chữ cổ. Lý do vì
sao không thấy đạo, bài này nói thật rõ.
(14) Học Đạo
Phật nói, học đạo thì như cầm đuốc
vào trong nhà tối, tối hết mà sáng còn: học đạo mà thấy thánh đế thì
ngu si diệt hết, được sự thấy toàn thể.
Thánh đế, chính văn là đế, tức 4 thánh
đế, tứ đế; chính văn bài 1 còn nói là tứ chân đạo hạnh. Đế là chắc
chắn, chân lý. Thánh đế là chân lý được nhìn thấy bởi các bậc
thánh giả. Đạo trong bài này là chỉ cho tứ đế, đặc biệt là diệt đế
(niết bàn) trong tứ đế ấy.
(15) Nhớ Đạo
Phật nói, Như lai nhớ gì, nhớ đạo.
Như lai làm gì, làm đạo. Như lai nói gì, nói đạo. Như lai nhớ đến thánh
đế thì không bỏ qua phút chốc nào cả.
Chữ đạo của bài này cũng là chữ đạo
của bài 14 ở trên. Đặc biệt chính văn bài này còn nói tứ đế là đế
đạo (đạo lý chắc chắn).
Bài 18 bản B là chữa bài này, mà đi quá
xa, nói như cao mà kém thấy rõ, nhất là kém cho sự tu niệm.
(16) Quán Vô Thường
Phật nói, nhìn trời đất hãy nhớ vô
thường, nhìn núi sông hãy nhớ vô thường, nhìn vạn hữu hãy nhớ vô thường.
Giữ tâm trí như vậy thì đắc đạo mau chóng.
Vô thường là diễn biến liên tục. Vô
thường mới có các pháp và các pháp liên tục. Vô thường là vô cái ảo
tưởng thường còn, không phải có cái thường còn để mà vô. Quán vô thường,
đổi bỏ cái nhìn, cái hy vọng còn mãi, cái sự quên đi diễn biến liên
tục, là nền móng của cả quan niệm và ý niệm, không phải chỉ khái niệm,
của người hành đạo. Vô thường dễ nhận thức nhất, dầu tạo được
cái nhìn vô thường cho quen thì không phải một sớm một chiều. Nên phải
cố mà tập.
Cũng nên biết vô thường có sát na, có
nhất kỳ. Sát na vô thường là diễn biến trong từng đơn vị thì gian ngắn
nhất (như sự thoạt hiện hay thoạt biến của một ý nghĩ). Nhất kỳ vô
thường là diễn biến trong từng giai đoạn (thay đổi hình thức này
thành hình thức khác). Vô thường nhất kỳ là kết quả của sát na vô thường.
Chết là nhất kỳ vô thường của con người.
(17) Đức Tin
Phật nói, việc làm mỗi ngày là thường
nhớ đạo, hành đạo, thì thành đạt đức tin, phước được vô lượng.
Tín căn (đức tin) là 1 trong 5 cái gọi
là 5 thiện căn: tín (đức tin) tiến (nỗ lực) niệm (chánh niệm) định
(chuyên chú) tuệ (minh sát). Năm thiện căn này là phước của người hành
đạo, như những cái rễ mà từ đó có ra bao nhiêu thiện căn và phước
đức khác. Nhưng đức tin mà nói thành đạt do nhớ đạo hành đạo hằng
ngày, thì đức tin ấy không phải chỉ là sự tin tưởng của tín ngưỡng.
Nói thật đúng và xác, đức tin ở đây là không còn hoài nghi gì nữa về
tứ đế.
(18) Nhớ Vô Ngã
Phật nói, một cách chín chắn và thuần
thục, hãy tự nghĩ nhớ, trong cơ thể, 4 đại đều có tên riêng, không
có gì là ngã, sự thể chỉ như ảo thuật.
Bài này nói vấn đề quan trọng, vấn đề
ngã. Ý thức tu chứng đặt trên khái niệm vô ngã. Vậy ngã là gì, tại
sao vô ngã, học đạo cần phải biết, ở bất cứ cấp độ nào.
Ngã là khái niệm phát sinh và diễn tiến
như sau. Mở đầu là cho con người có một đấng chủ tể. Đấng ấy tự
hữu, chủ động và chỉ huy. Con người có và sống do sự chủ động và
chỉ huy ấy. Sự tái sinh của con người cũng vậy. Đấng ấy là ngã.
Khái niệm này gọi là nhất thần luận. Kế đó, thấy chỗ hớ và ấu trĩ
của vấn đề, vấn đề bèn được suy luận đấng ấy là bản thể. Mỗi
con người là một phần của bản thể ấy. Bản thể ấy là ngã. Khái niệm
này gọi là phiếm thần luận. Cả 2 khái niệm này là cái ngã ly uẩn
(ngã ở ngoài con người).
Rồi suy luận con người là diễn biến.
Diễn biến thì phải có cái gì ở trong con người mà chủ động và chỉ
huy. Cái gì ấy có 3 thuyết: nguyên tử, tinh thể, linh hồn. Ba cái ấy là
ngã. Khái niệm này là thắng ngã hay thần ngã. Lại suy luận thân thể là
cái ta = cái tổng thể thống nhất và bất biến. Diễn biến chỉ là sự
phản ứng, không thể chi phối cái ta. Cái ta ấy là ngã. Khái niệm này gọi
là bản ngã. Tất cả 3 khái niệm này là cái ngã tức uẩn (ngã ở trong
con người).
Phật giáo thì không chấp nhận như vậy.
Phật giáo nói phải như thật tri kiến. Trước hết, thấy con người là một
tổ hợp mà nói đại thể là danh sắc (tâm lý vật lý). Sắc có 4 đại,
gọi là sắc uẩn. Danh là 4 uẩn tiếp theo.
Nên hiểu tứ đại đã. Tứ đại là
kiên (cố thể) thấp (dịch thể) noãn (nhiệt lực) động (động lực) --
Tứ đại không phải đất nước gió lửa; 4 thứ này là tứ đại giả
danh, chỉ do tứ đại tùy tăng. Tứ đại là vật lý của thân thể và vũ
trụ của thân thể. Gồm lại là sắc uẩn (cảm giác được khách quan
hóa).
Nay nói thân thể con người. Thì thân thể
ấy là 5 uẩn nếu phân tích ra, là danh sắc nếu tổng hợp lại. Thân thể
như vậy là một hợp thể diễn biến liên tục. Sự diễn biến chính là
động tác của hợp thể ấy. Động tác ấy vừa là động lực, vừa là
phản ứng. Động tác ấy là Nghiệp. Chính Nghiệp diễn biến mà liên tục
vì nhân quả -- Nhân quả là các yếu tố và các giai đoạn tự tương quan
và tác động lẫn nhau, và được gọi là sự liên tục. Sự liên tục
này tạo ra ấn tượng và khái niệm gọi là ngã. Sự thực, nghiệp tự
nó là động lực, không có gì chủ động và chỉ huy. Như vậy gọi là
khái niệm vô ngã. Từ khái niệm này mà thấy khái niệm ngã chỉ là ảo
tưởng. Nhưng ảo tưởng mà thành sự tự ý thức. Cái ảo tưởng tự ý
thức ấy chính là cái ngã của ta. Vô ngã là vô cái ảo tưởng ngã ấy,
không phải có cái ngã để mà vô. Phật giáo còn cho thấy ảo tưởng về
ngã là ý thức, tự ý thức về ngã là mạt na, cái được ảo tưởng và
tự ý thức là ngã là a lại da. Tất cả đều là nghiệp, liên hệ đến
nghiệp, không có cái ngã nào biệt lập, độc lập, duy nhất và bất biến.
Nghiệp như vậy, tức thân thể (danh sắc) diễn biến liên tục như vậy,
lưu chuyển là luân hồi, hoàn diệt là giải thoát. Nói dễ hiểu, nghiệp
như cánh tay : chỉ xuống gọi là ngược, chỉ lên gọi là xuôi. Đại thừa
không cho niết bàn không còn động tác gì hết, mà động tác ấy, bấy giờ,
gọi là"bất tư nghị nghiệp". Đức ngã trong 4 đức niết bàn của
đại thừa không phải là ngã, mà là cái phẩm chất tự tại của niết
bàn.
Trong cấp độ sơ khởi của sự học đạo
và hành đạo, bài này nói thân là danh sắc ẫ Nói danh sắc là nói ngũ uẩn,
chỉnh hơn chỉ nói tứ đại. Danh sắc tự nó là sự sống, là cuộc sống;
là tự thể không biệt lập, đối lập. Biết như vậy thì khái niệm cái
ngã, cái ta ích kỷ và cố định, khái niệm ấy sẽ không còn: không còn
cái gốc của ái dục nữa.
Chữ ảo thuật nói trong bài này là như
vật liệu được ảo thuật ra bồ câu. Vậy vật liệu là có, ảo thuật
cũng vẫn có, cái có do yếu tố, cái có giả. Từ cái có giả ấy mà,
không thấy vật liệu, không biết ảo thuật, cho bồ câu là có thật. Cái
có này mới không có. Thân thể là có, có giả. Cái có không có chính là
ngã.
(19) Danh Tiếng Hoa Hòe
Phật nói, vì ái dục mà cầu danh tiếng
hoa hòe thì cúng như đốt hương, người ta nghe được hơi thơm thì hương
đã tự đốt rồi. Người thiếu trí tuệ mới ham danh tiếng tầm thường,
không cố giữ sự chân thật của đạo hạnh. Cái họa danh tiếng là đem
lại sự ân hận tiếp theo sau đó.
Danh với lợi là tai họa cho sự hành đạo.
Trong 2 thứ, danh có vẻ dễ bị mắc vào hơn, nhất là mắc vào dưới nhiều
dạng trá hình. Người hành đạo, tuổi càng cao có vẻ càng lụy không ít
vì danh. Vì danh mà bán cả đạo, vất cả đời mình đi, ngày nay vẫn có
kẻ như vậy.
Chân thành cảm ơn quý
cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm
chuyển tác phẩm này từ dạng Help File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích
Nhật Từ 29-4-2000
| Dẫn Nhập | Dịch Nghĩa Bản
A | Dịch Nghĩa Bản B | Dịch
Nghĩa Bản Chữa 1 & 2
|