- Bồ-tát giới
- Hòa thượng Thích Trí Quang dịch
giải
Chương 2: Chính
Văn Bồ Tát Giới Phạn Võng
- Bồ tát giới Phạn võng
- là giới pháp vô thượng,
- trăm ngàn vạn ức kiếp
- vẫn khó mà gặp được;
- nay con đã thấy nghe
- lại còn được thọ trì,
- nguyện cầu sớm thành tựu
- pháp tánh thân thường trú.
Kính lạy đức Lô xá na như lai. Kính
lạy đức Thích ca mâu ni như lai. Kính lạy Kho tàng Bồ tát giới Phạn
võng.
Kinh Phạn võng, phẩm thứ 10 "
Tâm địa giới Bồ tát của đức Lô xá na tuyên thuyết", phần dưới
Xuất Xứ Gián Tiếp
Của Bồ Tát Giới Phạn Võng
Khi ấy đức Lô xá na đã vì đại
chúng mà khai thị một cách tóm tắt, chỉ bằng đầu sợi lông, về pháp
môn tâm địa, một trong các pháp môn nhiều đến vô lượng không thể
nói hết, như cát của trăm ngàn sông Hằng. Và kết thúc rằng, pháp môn
tâm địa ấy hết thảy chư Phật quá khứ đã nói, chư Phật vị lai sẽ
nói, chư Phật hiện tại đang nói, tất cả Bồ tát trong quá khứ vị lai
và hiện tại đã học sẽ học và đang học. Như lai đã trải qua cả trăm
vô số kiếp tu hành tâm địa ấy, kết quả thành Phật, danh hiệu Lô xá
na. Chư vị Phật đà, các ngài hãy chuyển pháp môn của Như lai đã nói
cho hết thảy chúng sinh, khai thị tâm địa cho họ. Bấy giờ trên Sư tử
tòa sáng chói rực rỡ ở Liên hoa đài, tức Hoa tạng thế giới, đức Lô
xá na phóng ra ánh sáng, khuyến cáo một ngàn đức Thích ca trên một ngàn
cánh hoa, rằng các ngài hãy đem phẩm Pháp môn tâm địa của Như lai mà
đi, nói lại một cách tuần tự phẩm ấy cho một ngàn lần trăm ức đức
Thích ca, và hết thảy chúng sinh, với lời khuyến cáo rằng các người hãy
thọ trì, đọc tụng, nhất tâm mà phụng hành.
Khi ấy một ngàn đức Thích ca
trên một ngàn cánh hoa, và một ngàn lần trăm ức đức Thích ca, đều đứng
dậy từ Sư tử tòa rực rỡ ở Hoa tạng thế giới. Ngài nào cũng cáo
thoái bằng cách khắp mình phóng ra ánh sáng bất khả tư nghị, cùng hóa
hiện vô lượng đức Phật nữa, và cùng trong một lúc dùng vô số sắc
hoa xanh vàng đỏ trắng hiến cúng đức Lô xá na, tiếp nhận và ghi nhớ
trọn vẹn phẩm Pháp môn tâm địa mà ngài đã tuyên thuyết. Rồi các
ngài từ Hoa tạng thế giới ẩn đi. Aẫn rồi nhập định tên Bông hoa
ánh sáng của thể tánh thanh tịnh in như hư không, trở về dưới cây bồ
đề ở châu Diêm phù của thế giới mình, xuất định nói trên, ngồi
trên Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng, và tại Diệu quang đường nói về
mười biển cả thế giới, lại rời chỗ ấy đến Đế thích cung nói về
mười trú, đến Diệm thiên nói về mười hành, đến Đâu suất thiên
nói về mười hướng, đến Hóa lạc thiên nói về mười định, đến Tha
hóa thiên nói về mười địa, đến Sơ thiền nói về mười kim cang, đến
Nhị thiền nói về mười nhẫn, đến Tam thiền nói về mười nguyện, đến
cung Đại tự tại thiên vương thuộc Tứ thiền nói lại phẩm Pháp môn
tâm địa mà bản thân là đức Lô xá na ở Hoa tạng thế giới đã nói.
Toàn thể một ngàn lần trăm ức đức Thích ca đều làm như vậy, không
khác gì nhau, như phẩm Hiền kiếp đã nói.
- Xuất Xứ Trực Tiếp Của Bồ
Tát Giới Phạn Võng
Bấy giờ đức Thích ca mâu ni từ
Hoa tạng thế giới mà khởi đầu ngài đã hiện ra ở đó, hướng về phía
đông, đi vào cung thiên vương, nói xong kinh Ma vương chịu giáo hóa, rồi hạ
sinh ở nước Ca di la thuộc châu Diêm phù, mẹ là hoàng hậu Ma da, cha là
hoàng đế Bạch tịnh, " Như lai tên Tất đạt, bảy năm xuất gia, thành
đạo lúc ba mươi tuổi, danh hiệu Thích ca mâu ni, đầu tiên ngồi Kim cang
tòa đầy bông hoa ánh sáng tại Tịch diệt tràng, cuối cùng đến cung Đại
tự tại thiên vương, tuần tự thuyết pháp cả mười chỗ". Trong khi
thuyết pháp tại cung Đại tự tại thiên vương, đức Thích ca mâu ni nhìn
tràng lưới của các Đại phạn thiên vương, nhân đó nói với họ, rằng
vô lượng thế giới in như mắt lưới, mỗi mỗi khác nhau, vô cùng vô tận
; pháp môn đức Lô xá na dạy cũng y như vậy. Như lai nay đến thế giới
này đã tám ngàn lần, vì cả thế giới Sa bà mà ngồi Kim cang tòa đầy bông
hoa ánh sáng, nói về mười biển cả thế giới, cho đến đến cung Đại
tự tại thiên vương này, tóm tắt khai thị hoàn tất phẩm Pháp môn tâm
địa cho đại chúng ở đây.
Rồi từ cung thiên vương ấy, Như
lai trở xuống, ngồi dưới cây bồ đề của châu Diêm phù, vì hết thảy
chúng sinh phàm phu mê ám trên đất này, nói lại giới pháp duy nhất mà đức
bản thân Lô xá na của Như lai đã nói trong phẩm Pháp môn tâm địa của
ngài, giới pháp mà từ khi mới phát tâm ngài đã thường tụng. Giới pháp
ấy như ngọc kim cang sáng chói, và là bản nguyên của chư Phật, của Bồ
tát, là hạt giống Phật tánh. Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh,
nên toàn bộ thân tâm của chúng sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào
trong giới pháp Phật tánh, và đương nhiên có cái nhân như vậy thì
đương nhiên thực hiện pháp thân thường trú. Về mười Ba la đề mộc
xoa mà Như lai sẽ nói lại như sau đây, khi xuất hiện ở thế giới này,
thì đó chính là giới pháp của Phật pháp, là giới pháp mà hết thảy
chúng sinh trong quá khứ vị lai và hiện tại nên kính phụng thọ trì. Như
lai sắp sửa vì cả đại chúng ở đây mà trùng tuyên phần Giới pháp vô
tận - giới pháp của hết thảy chúng sinh, bản nguyên là tự tánh thanh tịnh.
Xuất Xứ Của Bồ
Tát Giới Phạn Võng Bằng Văn Chỉnh Cú
- Như lai Lô xá na
- an tọa Liên hoa đài
- xung quanh Liên hoa đài
- có cả một ngàn cánh.
- Trên ngàn cánh hoa ấy
- Như lai hiện ngàn Phật,
- tất cả đồng một hiệu
- hiệu Thích ca thế tôn.
- Mỗi cánh hoa nói trên
- có trăm ức thế giới,
- mỗi thế giới lại có
- một đức Thích ca nữa;
- các đức Thích ca này
- cùng trong một thì gian
- ngồi dưới bồ đề thọ
- thành tựu vô thượng giác.
- Ngàn và ngàn trăm ức
- đức Thích ca nói trên,
- toàn thể chỉ là một
- bản thân Lô xá na.
- Một ngàn lần trăm ức
- đức Thích ca như vậy
- cùng tiếp dẫn đại chúng
- số lượng như vi trần,
- tất cả đều đưa đến
- chỗ Như lai an tọa,
- để nghe Như lai tụng
- giới pháp của chư Phật.
- Như lai tụng hoàn tất
- giới pháp của chư Phật
- là cửa ngõ Cam lộ
- tức thì được khai mở.
- Bấy giờ ngàn trăm ức
- đức Thích ca thế tôn
- về lại bồ đề tràng
- ngồi dưới bồ đề thọ,
- cùng tụng lại giới pháp
- của đức Phật bản thân,
- gồm có mười giới nặng
- và bốn tám giới nhẹ.
- Giới pháp ấy in như
- vầng thái dương sáng chói
- ánh trăng rằm quang rạng
- và chuỗi ngọc quí báu;
- hết thảy các Bồ tát
- nhiều như số vi trần,
- đều do giới pháp này
- mà thành Đẳng chánh giác.
- Giới pháp đức bản thân
- Lô xá na đã tụng,
- Như lai cũng tụng lại
- hoàn toàn y như vậy.
- Nên tất cả các người -
- Bồ tát mới tu học,
- hãy hết lòng tôn kính
- thọ trì giới pháp ấy.
- Các người đã thọ trì
- giới pháp như vậy rồi,
- lại đem giới pháp ấy
- chuyền trao cho chúng sinh.
- Vậy tất cả các người
- hãy chú ý lắng nghe
- Như lai tụng chính xác
- giới tạng trong Phật pháp.
- Giới tạng ấy chính là
- Ba la đề mộc xoa,
- nên hết thảy đại chúng
- chí tâm mà thâm tín ;
- thâm tín rằng chính mình
- là đức Phật sẽ thành,
- y như Như lai đây
- là đức Phật đã thành,
- thường thâm tín như vậy
- giới pháp đã đầy đủ.
- Bất cứ là loài nào
- hễ vốn có tâm tánh,
- thì đều nên lãnh thọ
- giới pháp của chư Phật.
- Chúng sinh mà lãnh thọ
- giới pháp của chư Phật,
- thì kẻ ấy tức thì
- nhập vào cương vị Phật;
- cương vị đã đồng thể
- với chư Phật đại giác,
- thì người ấy đích thực
- là con của chư Phật.
- Vậy tất cả đại chúng
- cung kính mà lắng nghe
- Như lai sẽ tụng lại
- giới pháp của chư Phật.
Qui Định Mấy Điều
Cốt Yếu Về Bồ Tát Giới Phạn Võng
Bấy giờ đức Thích ca mâu ni ngồi
dưới cây bồ đề, thành tựu tuệ giác vô thượng rồi, bắt đầu qui định
về Bồ tát giới, rằng sự hiếu thuận đối với cha mẹ, đại sư, chư
tăng, đối với Tam bảo - sự hiếu thuận phù hợp chánh pháp chí thượng,
sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi là năng lực chế ngự đình
chỉ mọi sự tội lỗi. Đức Thế tôn liền từ miệng vàng phóng ra ánh
sáng vô lượng. Lúc ấy đại chúng có đến trăm vạn ức, các vị Bồ
tát, các vị Phạn thiên trong mười tám tầng trời cõi Sắc, các vị
thiên nhân trong sáu tầng trời cõi Dục, các vị quốc vương của mười sáu
nước cường đại, đều chắp tay, khuynh tận tâm trí, lắng nghe đức Thế
tôn tụng lại giới pháp đại thừa của hết thảy chư Phật.
Đức Thế tôn dạy các vị Bồ
tát, nay Như lai cứ nửa tháng nửa tháng đích thân tụng lại giới pháp của
Phật pháp. Các người, những vị Bồ tát mới phát tâm, cho đến những vị
Bồ tát mười phát thú mười trưởng dưỡng mười kim cang và mười địa,
cũng phải tụng y như vậy. Vì lý do ấy mà ánh sáng giới pháp từ miệng
Như lai tuôn ra. Ánh sáng ấy có lý do chứ không phải không có. Nhưng ánh
sáng ấy không phải xanh vàng đỏ trắng đen, không phải vật lý tâm lý,
không phải khái niệm có không, không phải tính cách nhân quả; mà là bản
nguyên của chư Phật, là căn bản của Bồ tát, căn bản của chính đại
chúng Phật tử các người. Vì vậy, đại chúng Phật tử các người phải
thọ trì, phải đọc tụng, phải khéo học.
Phật tử, lắng nghe cho kyծ Muốn
lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì không cứ quốc vương, vương tử,
tể tướng, bách quan, tỷ kheo, tỷ kheo ni, phạn thiên mười tám tầng trời
cõi Sắc, thiên nhân sáu tầng trời cõi Dục, tất cả dân chúng, những kẻ
hoàng môn, dâm nam dâm nữ, nô bộc tỳ thiếp, quỉ thần trong tám bộ, thần
Kim cang, súc sinh, cho đến những kẻ biến hóa, hễ ai hiểu được tiếng
nói của vị pháp sư truyền giới, thì đều có thể thọ giới và được
giới - đều có thể trở thành người thanh tịnh bậc nhất.
10 Giới Nặng Của Bồ Tát Giới Phạn
Võng
Đức Thế tôn dạy, các Phật tử,
giới pháp nặng có mười điều. Nếu thọ Bồ tát giới mà không tụng mười
giới pháp nặng ấy thì không phải Bồ tát, không phải hạt giống làm Phật.
Vì chính Như lai cũng tụng như vậy, hết thảy Bồ tát thì đã học sẽ học
và đang học. Và như vậy là Như lai đã vắn tắt nói đến tướng mạo Bồ
tát giới. Các người phải học, kính cẩn mà phụng trì.
(1. không được tàn sát)
Phật tử nếu tự mình tàn sát, bảo
người tàn sát, tàn sát bằng phương tiện, bằng cách tán dương sự tàn
sát, bằng sự tán đồng khi thấy kẻ khác tàn sát, cho đến tàn sát bằng
chú thuật - tàn sát với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác
của sự tàn sát; nhưng, đối với bất cứ loài nào, hễ có sinh mạng
thì không được cố ý tàn sát. Là Bồ tát thì phải phát khởi lòng từ
bi và lòng hiếu thuận thường trú, phương tiện cứu giúp và che chở cho
hết thảy mọi loài sinh vật, vậy mà đảo ngược lại, mặc sức khoái
ý mà tàn sát, thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
(2. không được trộm cướp)
Phật tử nếu tự mình trộm cướp,
bảo người trộm cướp, trộm cướp bằng phương tiện, bằng chú thuật
- trộm cướp với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của
sự trộm cướp; nhưng, cho đến tài vật quỉ thần, tài vật có chủ,
tài vật đạo tặc, tài vật công cộng, dẫu bằng cây kim ngọn cỏ mà
thôi, cũng không được cố ý trộm cướp. Là Bồ tát thì phải phát sinh
tâm hiếu thuận và tâm từ bi của Phật tánh, thường xuyên giúp người làm
phước đức và được yên vui, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm
như trên mà còn trộm cướp tài vật của người, thì đó là tội ba la di
của Bồ tát.
(3. không được dâm dục)
Phật tử nếu tự mình dâm dục, bảo
người dâm dục; nhưng, đối với bất cứ nữ nhân nào, cho đến giống cái
trong súc vật, phái nữ trong chư thiên và quỉ thần, hoặc những chỗ
không phải bộ phận sinh thực, đều không được cố ý dâm dục - dâm dục
với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự dâm dục.
Là Bồ tát thì phải sinh tâm hiếu thuận, cứu độ tất cả, bằng cách
đem pháp thanh tịnh mà cho người, vậy mà đảo ngược lại, đã không
làm như trên mà còn nổi dậy sự dâm dục đối với mọi người, không
chừa cả súc vật, đến nỗi đối với mẹ, con gái, chị, em gái, bà con
nội ngoại, cũng hành dâm cả, không còn gì gọi là lòng từ bi, thì đó
là tội ba la di của Bồ tát.
(4. không được vọng ngữ)
Phật tử nếu tự mình vọng ngữ,
bảo người vọng ngữ, vọng ngữ bằng phương tiện - vọng ngữ với nguyên
nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự vọng ngữ, cho đến
không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, vọng ngữ cả thân thể lẫn
tâm trí ; nhưng Bồ tát thì phải thường tự phát sinh ngôn ngữ chân
chính và kiến thức chân chính, lại phát sinh cho người hai thứ ngôn ngữ
chân chính và kiến thức chân chính ấy, vậy mà đảo ngược lại, đã
không làm như trên mà còn làm nổi dậy nơi mọi người những thứ ngôn
ngữ bất chính, kiến thức bất chính và hành động bất chính thì đó
là tội ba la di của Bồ tát.
(5. không được buôn rượu)
Phật tử nếu tự mình buôn rượu,
bảo người buôn rượu - buôn rượu với nguyên nhân, trợ duyên, phương
pháp và động tác của sự buôn rượu; nhưng hết thảy loại rượu đều
không được mua bán, vì lẽ rượu là yếu tố gây ra mọi thứ tội lỗi.
Là Bồ tát thì phải phát sinh cho chúng sinh cái tuệ minh đạt, vậy mà đảo
ngược lại, đã không làm như trên mà còn phát sinh cho người cái tâm
thác loạn, thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
(6. không được nói xấu đồng đạo)
Phật tử nếu tự mình nói xấu những
sự lầm lỡ của những người xuất gia tại gia thọ Bồ tát giới, hay của
các vị tỷ kheo, tỷ kheo ni, lại bảo người khác nói xấu - nói xấu với
nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự nói xấu ; nhưng
Bồ tát nghe những kẻ ác tâm trong hàng ngũ ngoại đạo và nhị thừa
công kích sự phi giáo pháp và phi giới luật trong tổ chức Phật giáo,
thì thường sinh tâm từ bi, giáo hóa những kẻ ác tâm ấy, làm cho họ có
được đức tin đại thừa, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như
trên mà còn tự mình nói xấu những sự lầm lỡ trong tổ chức Phật
giáo, thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
(7. không được khen mình chê người)
Phật tử nếu tự tán dương mình
mà phỉ báng người khác, lại bảo kẻ khác phỉ báng - phỉ báng với
nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự phỉ báng; nhưng
Bồ tát thì phải thay thế hết thảy chúng sinh mà chịu lấy bao nhiêu sự
phỉ báng và tủi nhục, việc xấu thì xoay về nơi mình, việc tốt thì đừa
cho người khác, vậy mà đảo ngược lại, tự khoe cái hay của mình, dấu
cái tốt của người, làm cho họ phải chịu mọi sự phỉ báng, thì đó
là tội ba la di của Bồ tát.
(8. không được tiếc lẫn tài
pháp)
Phật tử nếu tự mình tiếc lẫn,
bảo người tiếc lẫn - tiếc lẫn với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp
và động tác của sự tiếc lẫn; nhưng Bồ tát thì bất cứ người nghèo
thiếu nào đến cầu xin, cũng phải tùy nhu cầu của họ mà cung cấp những
thứ mình có, vậy mà đảo ngược lại, vì tâm địa không tốt, tâm lý hờn
giận, nên đến nỗi một đồng tiền, một cây kim, một ngọn cỏ cũng không
cho ai; có ai đến cầu xin Phật pháp, đã không nói cho họ được một câu
đủ nghĩa, một bài chỉnh cú, một chút bằng hạt bụi, lại còn nhục mạ
họ nữa, thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
(9. không được giận dữ không
nguôi)
Phật tử nếu tự mình giận dữ,
bảo người giận dữ - giận dữ với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp
và động tác của sự giận dữ; nhưng Bồ tát thì phải phát sinh cho người
mọi thứ thiện căn, nhất là đức tính hòa bình, thường phát sinh nơi mình
tâm từ bi và tâm hiếu thuận, vậy mà đảo ngược lại, đã không làm như
trên mà, đối với chúng sinh, thậm chí đối với phi chúng sinh, còn nhục
mạ bằng miệng tiếng độc dữ, da thêm sự đánh đập bằng tay chân và
khí cụ, lòng vẫn chưa nguôi,người ta cầu xin sám hối, tạ tội bằng
ngôn ngữ khả ái, cũng vẫn giận dữ không thôi, thì đó là tội ba la di
của Bồ tát.
(10. không được phỉ báng Tam bảo)
Phật tử nếu tự mình phỉ báng
Tam bảo, bảo người phỉ báng - phỉ báng với nguyên nhân, trợ duyên, phương
pháp và động tác của sự phỉ báng; nhưng Bồ tát nghe cái tiếng của những
kẻ ngoại đạo hay những người ác tâm buông một lời phỉ báng đến Phật
thì đã thấy như tim mình bị ba trăm mũi nhọn đâm vào, huống chi chính
miệng mình phỉ báng; đã không phát sinh sự tín ngưỡng và lòng hiếu thuận
cho mọi người mà còn đảo ngược lại, giúp thêm vào sự phỉ báng của
những kẻ ác tâm, những người tà kiến, thì đó là tội ba la di của Bồ
tát.
Các nhân giả khéo học, như thế
đó là mười giới pháp nặng của Bồ tát, các nhân giả phải học. Trong
đó nhất nhất không được phạm vào bằng một hạt bụi, huống chi phạm
đủ cả mười giới pháp. Ai phạm thì người đó thân hiện tại không thể
phát bồ đề tâm, phẩm vị quốc vương và luân vương đã mất, lại mất
phẩm vị tỷ kheo tỷ kheo ni, mất các Bồ tát vị mười phát thú mười
trưởng dưỡng mười kim cang và mười địa, bao nhiêu thành quả vi diệu
và thường trú của Phật tánh cũng mất tất cả, sa vào ba đường dữ,
đến nỗi hai kiếp ba kiếp không nghe được cái tiếng Cha mẹ hay danh hiệu
Phật pháp tăng. Vì lẽ ấy, nhất nhất không nên phạm. Bồ tát các người
đang học bây giờ, sẽ học về sau, đã học trong quá khứ, đối với mười
giới pháp nặng như vậy phải cung kính phụng trì, như Như lai sẽ nói rộng
rãi trong phẩm Tám vạn uy nghi.
48 Giới Nhẹ Của Bồ Tát Giới Phạn
Võng
Đức Thế tôn dạy các vị Bồ
tát, Như lai đã nói mười giới pháp nặng rồi, bốn mươi tám giới pháp
nhẹ bây giờ Như lai sẽ nói.
(1. không được bất kính thầy bạn)
Phật tử nếu sắp nhận địa vị
quốc vương, địa vị luân vương, địa vị bách quan, thì trước đó phải
lãnh thọ Bồ tát giới. Những người như vậy sẽ được quỉ thần hộ
trì, được chư Phật hoan hỉ. Lãnh thọ Bồ tát giới rồi, phải sinh tâm
hiếu thuận và tâm tôn kính ; khi thấy các vị thượng tọa, hòa thượng,
xà lê, các vị đại đức, thấy các người cùng một sở học, cùng một
kiến giải, cùng một sở hành, thì hãy đứng lên, đón tiếp, thi lễ, hỏi
han. Là Bồ tát mà đảo ngược lại, sinh tâm kiêu ngạo, tâm khinh lờn,
tâm ngoan cố, tâm giận dữ, không chịu đứng lên, đón tiếp, thi lễ, hỏi
han, mọi sự nhu cầu cũng không cung phụng đúng với chánh pháp; trong khi lẽ
đáng nên hy sinh cả bản thân, địa vị, con cái, của báu và tài vật
linh tinh mà hiến cúng các ngài. Nếu không làm như vậy thì phạm tội kinh
cấu.
(2. không được uống các thứ rượu)
Phật tử nếu cố ý uống rượu,
mà rượu thì dẫn ra vô số lầm lỗi; tự tay mình trao rượu cho người
khác uống mà năm trăm đời kiếp cánh tay không có, huống chi chính mình tự
uống. Cũng không được chỉ bảo cho mọi người uống rượu hay luyện tập
cho các sinh vật khác uống, huống chi chính mình uống lấy. Nên bất cứ rượu
gì cũng không được uống. Nếu cố ý tự uống hay bảo người khác uống
thì phạm tội khinh cấu.
(3. không được ăn các thứ thịt)
Phật tử nếu cố ý ăn thịt,
nhưng thịt nào cũng không được ăn. Ăn thịt thì hỏng mất hạt giống
Phật tánh vốn rất từ bi, mọi loài sinh vật thấy thì bỏ chạy. Vì lý
do ấy, tất cả Bồ tát không được ăn dùng bất cứ thứ thịt gì của
sinh vật nào. Ăn thịt thì tội lỗi vô lượng. Nếu cố ý ăn thì phạm tội
khinh cấu.
(4. không được ăn đồ cay nồng)
Phật tử thì không được ăn năm
loại cay nồng là tỏi, kiệu, hành, nén, hẹ. Năm loại ấy, trong bất cứ
thức ăn nào cũng không được ăn. Nếu cố ý ăn thì phạm tội khinh cấu.
(5. không được không khuyên sám hối)
Phật tử nếu thấy ai phạm tám giới,
năm giới, mười giới, các giới khác, bảy tội nghịch, và những tội
ác bị tám tai nạn, thấy tất cả tội phạm giới như vậy đều phải
khuyên và chỉ cho họ cách thức sám hối. Là Bồ tát mà không khuyên và
chỉ cho họ cách thức sám hối, lại cùng họ cư trú, cùng họ nhận đồ
hiến cúng, cùng họ bố tát và đồng chúng thuyết giới mà không cử tội
để khuyên và chỉ cách cho họ sám hối, thì phạm tội khinh cấu.
(6. không được không cầu chánh
pháp)
Phật tử nếu thấy các vị pháp sư
đại thừa, các vị cùng học cùng hiểu và cùng làm về đại thừa, đến
tăng phường, đến nhà cửa, thành thị, thôn ấp của mình, và dẫu ở xa
cách trăm dặm ngàn dặm mà đến đi nữa, cũng tức thì đứng lên, đón rước,
tiễn đưa, kính lạy, hiến cúng. Mỗi ngày hiến cúng ba lần, và giả sử
tốn đến vài ba lạng vàng đi nữa, hết thảy đồ uống, đồ ăn, đồ nằm,
đồ ngồi, đồ mặc, thầy thuốc, thuốc, đều cung đốn cho vị pháp sư.
Mọi sự nhu cầu của vị ấy cung phụng đủ cả. Mỗi ngày ba lần, phải
thường thỉnh cầu vị pháp sư thuyết pháp cho. Mỗi ngày kính lạy ba lần
mà vẫn không nổi dậy trong lòng sự giận dữ, phiền bực. Vì pháp mà mất
mạng đi nữa cũng vẫn cầu pháp không chán. Nếu không như vậy thì phạm
tội khinh cấu.
(7. không được không đi nghe pháp)
Phật tử thì bất cứ chỗ nào có
diễn giải kinh luật nói về giới pháp, chỗ ấy dầu là nhà to cửa lớn
mà có đặt chỗ diễn giảng, các vị Bồ tát mới học cũng phải đem
kinh luật đến mà lắng nghe, tiếp nhận và thưa hỏi nơi vị pháp sư.
Trong núi rừng, dưới đại thọ, nơi tăng địa, trong tăng phường, bất cứ
chỗ nào có giảng thuyết giới pháp thì càng đến để lắng nghe, tiếp
nhận. Nếu không đến thì phạm tội khinh cấu.
(8. không được phản đại thừa
giới)
Phật tử nếu có tư tưởng phản
bội kinh luật thường trú của đại thừa, cho rằng kinh luật ấy không
do Như lai tuyên thuyết, và đảo ngược lại, thọ trì những kinh luật của
nhị thừa thanh văn và ngoại đạo ác kiến mà nội dung gồm có giới
pháp và lý thuyết phủ nhận Phật tánh, thì phạm tội khinh cấu.
(9. không được không giúp bịnh tật)
Phật tử nếu thấy bất cứ người
bịnh tật nào cũng phải giúp đỡ thường xuyên y như phụng sự Phật đà.
Bởi lẽ trong tám đám ruộng sinh trưởng phước đức, sự chăm sóc bịnh
tật là đám ruộng tốt nhất. Nếu cha mẹ, đại sư, chư tăng, hay đệ tử
bị bịnh tật, bị thiếu các bộ phận nơi cơ thể, bị hàng trăm thứ bịnh
dày vò, thì mình phải chăm nuôi cho lành mạnh. Là Bồ tát mà vì tâm lý
tàn nhẫn, tâm lý giận ghét, nên không chăm sóc bịnh tật cho người, đến
nỗi nơi tăng phường, nơi thành thị, thôn ấp, nơi hoang dã, núi rừng, nơi
đường sá, thấy bịnh nhân cũng không cứu giúp, thì phạm tội khinh cấu.
(10. không được tàng trữ khí cụ)
Phật tử thì không được tàng trữ
dao, gậy, cung, tên, giáo, mác, và những khí giới chiến đấu khác. Bao
nhiêu dụng cụ để bẫy lưới săn bắn, sát hại sinh vật, cũng không
được tàng trữ. Là Bồ tát thì đến nỗi kẻ giết cha mẹ mình, mình cũng
không giết lại để báo thù, huống chi đối với người khác và vật
khác. Nên không được tàng trữ khí giới và dụng cụ tàn sát. Nếu cố
ý tàng trữ thì phạm tội khinh cấu.
Mười giới pháp nhẹ như vậy các
người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong sáu phẩm sau Như lai
sẽ nói rõ.
(11. không được làm kẻ quốc tặc)
Phật tử thì không được vì lợi
lộc hay vì ác ý, làm sứ thần cho quốc gia mà liên minh quân sự, động
binh đánh nhau, tàn hại vô số sinh mạng. Là Bồ tát thì sự qua lại trong
quân binh còn không được có, huống chi cố ý làm tên quốc tặc. Nếu cố
ý làm thì phạm tội khinh cấu.
(12. không được buôn bán tàn nhẫn)
Phật tử nếu cố ý buôn bán lương
dân, buôn bán nô bộc tỳ thiếp, buôn bán súc vật, buôn bán quan quách và
những dụng cụ tẩn liệm; nhưng mọi sự buôn bán ấy chính mình còn
không được làm, huống chi chỉ bảo người khác. Nếu cố ý tự làm hay
chỉ bảo người khác thì phạm tội khinh cấu.
(13. không được phỉ báng không thật)
Phật tử nếu vì tâm địa độc
ác mà, một cách không có sự thật, phỉ báng những người hiền lương,
những vị thiện đức, những bậc pháp sư, đại sư hòa thượng, đại
sư xà lê, quốc chúa, quí nhân, rằng phạm bảy tội nghịch, mười giới
nặng ... Nhưng, đối với những người nên coi như cha mẹ chú bác anh em
trong hàng lục thân ấy, mình phải phát sinh tâm hiếu thuận, tâm từ bi, vậy
mà đảo ngược lại, đã không làm như trên, lại còn gia thêm sự trái
ý, sự tổn thương, khiến họ hãm vào tình trạng khổ tâm, thì phạm tội
khinh cấu.
(14. không được cố ý thiêu đốt)
Phật tử nếu vì tâm địa tàn ác
mà phóng lửa lớn, đốt cháy núi rừng, đồng nội; tháng tư đến tháng
chín cũng phóng lửa; phóng lửa đến nỗi có thể cháy lan đến cả nhà cửa,
phòng ốc, thành thị, thôn ấp, tăng phường, ruộng vườn và cây cối của
người, cháy lan đến vật quỉ thần, vật công hữu. Nhưng hết thảy đều
là vật có chủ, không được cố ý thiêu đốt. Nếu cố ý thiêu đốt thì
phạm tội khinh cấu.
(15. không được chỉ dạy sai lệch)
Phật tử thì với những người cùng
là Phật tử như mình, với ngoại đạo, với kẻ ác, với bà con, với những
người quen biết tốt, với ai cũng hướng dẫn cho họ thọ trì kinh luật
đại thừa, hướng dẫn cho họ lý giải được nghĩa ý của kinh luật ấy,
làm cho họ phát bồ đề tâm; mười tâm phát thú, mười tâm trưởng dưỡng,
mười tâm kim cang, ba mươi tâm ấy nhất nhất hướng dẫn cho họ hiểu rõ
pháp dụng thứ tự. Nếu là Bồ tát mà vì tâm lý xấu xa, tâm lý hiềm
ghét, một cách rất vô lý chỉ dạy cho người kinh luật của nhị thừa
thanh văn và học thuyết của ngoại đạo tà kiến thì phạm tội khinh cấu.
(16. không được nói pháp rối loạn)
Phật tử thì bằng tâm nguyện tốt
đẹp, trước tiên học tập uy nghi và giới pháp của kinh luật đại thừa,
lý giải một cách sâu rộng nghĩa lý và ý vị của uy nghi và giới pháp
ấy. Rồi thấy các vị Bồ tát mới học mà có người từ trăm dặm ngàn
dặm đến cầu học kinh luật đại thừa, thì phải nói cho họ, một cách
đúng như chánh pháp, về những khổ hạnh như thiêu đốt thân phần, cánh
tay, ngón tay. Nếu thấy họ tỏ ý e ngại sự thiêu đốt ấy, mặc dù đã
được bảo là thiêu đốt để hiến lên chư Phật đi nữa, thì biết
không phải là Bồ tát xuất gia; Bồ tát xuất gia thì dẫu đến hổ lang,
sư tử và quỉ thần đang đói, cũng nên xả thịt hay tay chân của mình
mà cung cấp. Sau khi nói những pháp khổ hạnh rồi, nhất nhất tuần tự
nói cho họ về giới pháp chính yếu, làm cho tâm của họ mở rộng, ý của
họ giải tỏa. Nếu là Bồ tát mà vì ý niệm lợi lộc nên điều đáng
giải đáp không giải đáp, nói một cách rối loạn văn nghĩa của kinh luật
đại thừa, không có thứ tự trước sau, nói tóm, nói một cách phỉ báng
Tam bảo, thì phạm tội khinh cấu.
(17. không được ỷ thế ham cầu)
Phật tử nếu tự mình vì đồ
ăn, vì thức uống, vì tiền của, vì quyền lợi, vì danh vọng, thân cận
với quốc vương, vương tử, tể tướng, bách quan, rồi ỷ thế làm oai,
yêu sách, hành hung, chiếm đoạt tiền tài sản vật của người một cách
ngang ngược; nhưng mọi sự cầu lợi như vậy là ham cầu tàn ác, ham cầu
quá đáng, vậy mà còn chỉ bảo kẻ khác ham cầu nữa, không còn gì là từ
bi, là hiếu thuận, thì phạm tội khinh cấu.
(18. không được mù mờ làm thầy)
Phật tử nếu học và tụng Bồ
tát giới thì ngày đêm sáu buổi nắm giữ giới ấy trong trí, lý giải ý
nghĩa giới ấy, nghĩa là lý giải về tánh của Phật tánh. Là Bồ tát mà
không lý giải được một câu đủ nghĩa, một bài chỉnh cú, lý do của
giới pháp cũng không rành, lại nói dối trá rằng lý giải được, như vậy
là tự lừa đảo mình và lừa đảo người khác. Nên, nhất nhất mù mờ,
giới pháp giáo pháp nào cũng không hiểu, vậy mà làm pháp sư truyền thọ
giới pháp cho kẻ khác, thì phạm tội khinh cấu.
(19. không được phỉ báng giữ giới)
Phật tử nếu vì tâm lý xấu và
ác, thấy vị tỷ kheo giữ giới tay nâng lư hương thực tập Bồ tát hạnh,
mà đâm thọc bên này bên kia, phỉ báng vu khống người thánh thiện,
không từ điều xấu nào mà không dựng đứng lên, thì phạm tội khinh cấu.
(20. không được không cứu phóng
sinh)
Phật tử thì phải đem tâm từ bi
mà thực hành sự phóng sinh. Phải nghĩ như vầy: tất cả nam tính là cha
ta, tất cả nữ tính là mẹ ta, ta đời đời kiếp kiếp không khi nào
không sinh ra từ cha mẹ ấy. Nên sáu đường chúng sinh đều là cha mẹ của
ta, ta giết mà ăn là giết mà ăn cha mẹ của mình. Lại cũng giết mà ăn
chính thân cũ của mình, vì lẽ hết thảy thể cứng thể lỏng và sức
nóng sức động toàn là thân thể cũ của ta. Vì nghĩ như vậy nên thường
phóng sinh. Đời đời thọ sinh, đó cũng là một sự thực có tính cách bất
biến, nên càng phải chỉ bảo khuyến khích mọi người phóng sinh. Khi thấy
thế nhân tàn sát sinh vật thì phải tìm cách cứu hộ, giải thoát khổ nạn
cho chúng. Rồi thời thường phải giáo hóa, giảng nói Bồ tát giới cho người
để cứu hộ chúng sinh. Gặp ngày chết của cha mẹ anh em thì phải cung thỉnh
pháp sư diễn giảng kinh luật của Bồ tát giới. Cái phước ấy giúp cho
người chết được thấy chư Phật, hoặc sinh trong nhân loại hay trên chư
thiên. Nếu không làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Mười giới pháp nhẹ như vậy các
người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong phẩm Diệt trừ tội
lỗi Như lai sẽ nói rộng rãi về mỗi một giới pháp ấy.
(21. không được giận dữ báo
thù)
Phật tử thì không được đem sự
giận dữ trả lại sự giận dữ, không được đem sự đánh đập trả lại
sự đánh đập, cũng không được giữ tâm niệm trả thù những kẻ tàn
sát cha mẹ anh em bà con của mình hay những kẻ sát hại quốc chúa. Tàn
sát sự sống để trả thù sự sống là điều không thuận với đạo hiếu.
Không nuôi nô bộc tỳ thiếp mà đánh đập mắng chưởi, ngày ngày ba nghiệp
bùng dậy, nhất là tội lỗi khẩu nghiệp lại càng vô lượng, huống chi
cố làm đến bảy tội nghịch. Là Bồ tát xuất gia mà không có tâm từ
bi, cố giữ ý niệm trả thù đến nỗi trong hàng bà con cũng quyết không
tha, thì phạm tội khinh cấu.
(22. không được kiêu ngạo không học)
Phật tử nếu mới xuất gia, chưa
lý giải gì, mà tự thị thông minh, tự thị cao sang, tự thị tuổi tác, tự
thị dòng họ, tự thị giai cấp, kiến thức to lớn, phước đức to lớn,
giàu có to lớn, đủ cả thất bảo, ỷ thị những thứ ấy mà kiêu ngạo,
không chịu học hỏi kinh luật với các vị pháp sư đã học hỏi trước
mình. Các vị pháp sư ấy có thể có người dòng họ nhỏ, tuổi tác nhỏ,
giai cấp nhỏ, nghèo nàn, thấp thỏi, các giác quan không hoàn chỉnh, nhưng
thật là người có đức, lý giải thấu đáo hết thảy kinh luật. Nếu
các vị Bồ tát mới học mà dòm ngó dòng họ và giai cấp, không chịu đến
học hỏi đệ nhất nghĩa nơi vị pháp sư ấy, thì phạm tội khinh cấu.
(23. không được không truyền kinh
giới)
Phật tử nếu, sau khi Như lai nhập
niết bàn rồi, muốn đem tâm nguyện tốt đẹp lãnh thọ Bồ tát giới mà
bằng cách tự nguyện lãnh thọ giới ấy trước hình tượng Phật đà,
hình tượng Bồ tát, thì phải bảy ngày sám hối trước hình tượng Phật
đà, hình tượng Bồ tát, hễ thấy được tướng tốt thì thọ giới là
được giới. Nếu chưa thấy được tướng tốt, thì phải hai lần hay ba
lần bảy ngày, cho đến một năm, phải sám hối cho thấy được tướng tốt.
Thấy được tướng tốt rồi thì có thể thọ giới trước hình tượng
Phật đà, hình tượng Bồ tát. Nếu không thấy được tướng tốt, thì dẫu
thọ giới trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, cũng không
thể gọi là được giới. Nếu lãnh thọ Bồ tát giới bằng cách hiện diện
đối trước vị pháp sư đã thọ giới ấy trước mình, thì không cần phải
thấy được tướng tốt, tại sao, vì vị pháp sư ấy đã do các vị pháp
sư trước nữa truyền giới cho nhau, và nay truyền lại cho mình, nên không
bắt buộc phải thấy tướng tốt. Và thọ giới trước vị pháp sư như vậy
thì được giới liền, được bởi cái tâm cùng cực cẩn trọng phát sinh
trong lúc ấy. Nếu trong vòng ngàn dặm, không ai có thể làm vị pháp sư
truyền thọ Bồ tát giới, thì người muốn thọ giới ấy có thể tự
nguyện mà lãnh thọ trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, nhưng
với điều kiện phải sám hối thấy được tướng tốt. Nếu là vị
pháp sư mà tự thị sự lý giải của mình đối với kinh luật và giới
pháp đại thừa, chỉ làm bạn với quốc vương, vương tử và bách quan,
còn các vị Bồ tát mới học đến xin hỏi hoặc nghĩa ý của khế kinh,
hoặc nghĩa ý của giới luật, vị pháp sư ấy vì tâm lý khinh miệt, tâm
lý xấu xa, tâm lý kiêu ngạo, không nhất nhất giải đáp một cách tốt
đẹp những câu của họ thưa hỏi, thì phạm tội khinh cấu.
(24. không được học các sách
khác)
Phật tử nếu có chánh pháp đại
thừa trong kinh luật Như lai đã dạy, chánh pháp đủ cả chánh kiến,
chánh tánh, chánh pháp thân, mà không nỗ lực học hỏi tu tập, lại bỏ
chánh pháp quí báu như thất bảo ấy mà học tập sách vở phủ nhận Phật
tánh của nhị thừa, ngoại đạo và thế tục, như các bộ a tỳ đàm,
các luận thuyết hỗn tạp, những thi văn truyện ký, thì thế là làm mất
Phật tánh, làm cản đạo nghiệp, chứ không phải thực hành Bồ tát đạo.
Nếu cố ý học tập thì phạm tội khinh cấu.
(25. không được lạm dụng gây rối)
Phật tử nếu, khi Như lai nhập niết
bàn rồi, làm chủ sự thuyết pháp, làm chủ sự hành đạo, làm chủ nơi
tăng phường, làm chủ sự giáo hóa, làm chủ sự tọa thiền, làm chủ sự
đi lại, thì phải phát sinh tâm từ bi, khéo hòa giải mọi sự mâu thuẫn,
khéo hộ vệ vật của Tam bảo, đừng sử dụng vô độ như là của
riêng. Nếu trái lại, làm cho Tăng chúng rối loạn vì sự tranh chấp, mặc
sức sử dụng của Tam bảo, thì phạm tội khinh cấu.
(26. không được không đãi khách tăng)
Phật tử nếu đã ở trước trong
tăng phường, sau thấy các vị tỷ kheo hay tỷ kheo bồ tát, đến nơi tăng
phường, đến nơi nhà cửa, thành thị hay thôn ấp của mình, đến nơi nhà
của quốc vương thiết lập, đến nơi chỗ đang kiết hạ an cư, hay nơi
chỗ đang thiết lập đại hội cầu phước, thì mình là chư tăng ở trước,
phải đón rước, tiễn đưa, và hiến cúng ẩm thực; phòng ở, đồ nằm,
giường giây hay giường cây, mọi sự đều cung cấp. Nếu không có sẵn,
thì dẫu phải bán mình, bán cả con cái, cũng gắng mà cung phụng những thứ
các vị ấy cần dùng. Rồi nếu có thí chủ đến thỉnh chư tăng, thì
các vị khách tăng ấy cũng có đồng phần, nên vị chủ tăng phường phải
y theo thứ tự mà mời các vị khách tăng ấy thọ thỉnh. Nếu chư tăng
ở trước chỉ thọ thỉnh riêng, không mời các vị khách tăng, thì vị chủ
tăng phường tội lỗi vô lượng, không khác gì loài vật, không phải sa
môn, không phải dòng giống họ Thích. Nếu cố ý làm như vậy thì phạm tội
khinh cấu.
(27. không được thọ thỉnh riêng
biệt)
Phật tử thì trường hợp nào cũng
không được thọ thỉnh riêng biệt, thu đồ hiến cúng về cả nơi mình.
Đồ hiến cúng là thuộc về chư tăng mười phương. Nếu thọ thỉnh riêng
biệt thì ấy là lấy vật của chư tăng mười phương thu về nơi mình ; lại
xâm phạm đến vật của Phật đà, thánh giả, đại sư, chư tăng, cha mẹ
và bịnh nhân trong tám ruộng phước, vì lẽ mình chỉ dùng cho mình mà
thôi, nên phạm tội khinh cấu.
(28. không được thỉnh tăng riêng
biệt)
Phật tử thì dầu xuất gia thọ Bồ
tát giới, dầu tại gia thọ Bồ tát giới, hay vị trí thí chủ nào, khi muốn
thỉnh chư tăng để hiến cúng cầu nguyện, cũng phải đến tăng phường,
hỏi vị tri sự mà bạch rằng muốn theo thứ tự thỉnh chư tăng để hiến
cúng cầu nguyện. Như vậy là thỉnh được Hiền thánh tăng mười
phương. Nếu thỉnh riêng biệt như thế nhân, thì thỉnh năm trăm vị tăng
La hán và Bồ tát, cũng không bằng thỉnh một vị tăng phàm phu trong thứ
tự của chư tăng. Thỉnh riêng là nề nếp của ngoại đạo, bảy đức Phật
không có qui chế thỉnh riêng. Sự ấy không thuận với đạo hiếu. Nếu cố
ý thỉnh riêng thì phạm tội khinh cấu.
(29. không được sống bằng tà mạng)
Phật tử nếu vì độc ác và vụ
lợi mà buôn bán dâm nam dâm nữ, tự tay làm đồ ăn, tự xay tự giã, coi
tướng nam nữ, đoán mộng tốt xấu, đoán thai trai gái, làm các chú thuật,
xảo thuật, luyện tập chim săn thú săn như luyện chim ưng, pha chế thuốc
độc bằng trăm ngàn thứ độc hợp lại, độc rắn, độc vàng bạc sống,
độc sâu cổ, không còn gì là từ bi, hiếu thuận. Nếu cố ý làm thì phạm
tội khinh cấu.
(30. không được bất kính hảo thời)
Phật tử nếu vì tâm lý bất lương,
chính mình phỉ báng Tam bảo bằng cách tỏ ra thiết cốt với Tam bảo, nhưng,
mở miệng ra là nói về không mà việc làm thì toàn ở trong có: kinh lý
cho thế nhân, vì thế nhân mà mai mối nam nữ, kết hợp sắc dục, tạo ra
đủ thứ hệ lụy; sáu ngày chay trong mỗi tháng, hay ba tháng chay trong mỗi
năm, cũng sát sinh trộm cướp, phá trai phạm giới, thì phạm tội khinh cấu.
Mười giới pháp nhẹ như vậy, các
người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong phẩm Thiết chế giới
luật Như lai đã giải thích đầy đủ.
(31. không được không cứu không
chuộc)
Phật tử nếu, sau khi Như lai nhập
niết bàn, trong thời kỳ dữ dội, thấy ngoại đạo và những kẻ tàn
ác, những kẻ đạo tặc, chiếm đoạt và đem bán hình tượng Phật đà,
hình tượng Bồ tát, những hình tượng mà mình tôn thờ như cha mẹ, bán
kinh bán luật, bán các vị tỷ kheo, tỷ kheo ni, bán bồ tát mới phát bồ
đề tâm, cho quan lại sai sử hay cho kẻ khác làm nô bộc tỳ thiếp - Nếu
là Bồ tát thì thấy những sự tình ấy phải phát sinh tâm từ bi, tìm mọi
phương cách mà cứu hộ, đi khắp nơi khuyến hóa mọi người để kiếm
tiền của mà chuộc hình tượng của Phật đà và Bồ tát, chuộc các vị
tỷ kheo, tỷ kheo ni, và bồ tát mới phát tâm, chuộc kinh chuộc luật. Nếu
không chuộc như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(32. không được tổn hại chúng
sinh)
Phật tử thì không được cất chứa
buôn bán dao gậy cung tên, buôn bán bình thường mà dùng dụng cụ cân lường
nhẹ và nhỏ, dựa vào uy thế của quan quyền mà chiếm đoạt tài vật của
người, giam cầm và phá hoại sự thành công của người bằng tâm địa
độc hại, nuôi lớn những loài mèo chồn heo chó. Nếu cố ý làm những
việc như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(33. không được tà tâm làm quấy)
Phật tử thì không được bằng tâm
lý đen tối mà xem sự đấu sức của nam nữ, của quân trận, của tướng
sĩ, của giặc cướp ... Không được xem nghe ca vũ, không được cờ bạc,
không được bói toán, không được làm liên lạc cho đạo tặc. Những việc
như vậy nhất nhất không được làm. Nếu cố ý làm thì phạm tội khinh
cấu.
(34. không được rời bồ đề tâm)
Phật tử thì phải nghiêm trì giới
pháp, bằng cách trong mọi cử động đi đứng nằm ngồi và ngày đêm sáu
buổi đều phải đọc tụng giới pháp ấy, và giữ với lòng bền chắc
như ngọc kim cương, giữ như giữ chiếc phao nổi khi bơi qua biển cả, giữ
với quyết chí của vị tỷ kheo bị buộc bằng cỏ, vĩnh viễn phát sinh nơi
mình đức tin cao đẹp của đại thừa, là tự biết chắc mình là Phật sẽ
thành như chư Phật là Phật đã thành, tâm bồ đề không một thoáng nào
rời khỏi tâm trí. Như vậy mà nếu nổi lên một ý niệm của tâm lý nhị
thừa hay ngoại đạo thì phạm tội khinh cấu.
(35. không được không phát đại
nguyện)
Phật tử thì phải thường phát khởi
mọi lời nguyện, như nguyện hiếu thuận cha mẹ, đại sư, chư tăng, Tam bảo;
nguyện gặp được vị pháp sư tuyệt hảo và các vị thiện tri thức đồng
một sở học, để luôn luôn dạy cho mình kinh luật đại thừa và các bồ
tát vị là mười phát thú, mười trưởng dưỡng, mười kim cang và mười
địa, làm cho mình lý giải và thực hành chính xác ; nguyện kiên trì giới
pháp của Phật, dầu phải mất tánh mạng đi nữa, một thoáng cũng không
để rơi mất khỏi tâm trí cái niệm kiên trì ấy. Nếu là Bồ tát mà
không phát khởi mọi lời nguyện như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(36. không được không phát đại
thệ)
Phật tử thì phát khởi mười lời
nguyền rộng lớn rồi, để kiên trì giới pháp của Phật, lại có những
lời thề như sau. Thà đem thân này gieo xuống hố lửa, núi dao, quyết
không phá hủy giới pháp của tam thế chư Phật bằng cách làm sự bất tịnh
với bất cứ nữ nhân nào. Lại thề rằng thà bị lưới sắt nóng ngàn lớp
quấn lấy thân thể, quyết không đem cái thân phá giới mà mặc y phục của
tín đồ hiến cúng; thề rằng thà miệng phải nuốt viên sắt nóng hay
dòng lửa dữ đến cả trăm ngàn đời, quyết không đem cái miệng phá giới
mà ăn thực phẩm của tín đồ hiến cúng; thề rằng thà thân này phải nằm
trong lưới sắt đỏ hay trên đất sắt nóng, quyết không đem cái thân
phá giới mà nằm ngồi giường ghế của tín đồ hiến cúng; thề rằng
thà thân này một đời vài đời chịu hàng trăm mũi giáo đâm vào, quyết
không đem cái thân phá giới mà dùng dược phẩm của tín đồ hiến cúng;
thề rằng thà thân này gieo vào vạc sắt nóng đến cả trăm ngàn đời,
quyết không đem cái thân phá giới mà ở phòng ốc, nhà cửa, vườn tược
và đất đai của tín đồ hiến cúng. Lại thề rằng thà thân này bị
chùy sắt giáng đập từ đầu đến chân nát như bụi nhỏ, quyết không
đem cái thân phá giới mà nhận sự cung kính lễ bái của tín đồ. Lại
thề rằng thà bị cả trăm cả ngàn khí cụ bằng sắt nóng móc mất đôi
mắt đi, quyết không đem đôi mắt ấy với tâm phá giới mà nhìn vào sắc
đẹp; thề rằng thà một đời hai đời bị cả trăm cả ngàn dùi sắt đâm
vào hai tai, quyết không đem hai tai ấy với tâm phá giới mà nghe đến tiếng
hay; thề rằng thà bị cả trăm cả ngàn dao bén cắt mất mũi đi, quyết
không đem cái mũi ấy với tâm phá giới mà ngửi đến hơi thơm; thề rằng
thà cái lưỡi bị cả trăm cả ngàn dao bén cắt đứt, quyết không đem cái
lưỡi ấy với tâm phá giới mà nếm vào mùi ngon; thề rằng thà thân này
bị chặt bị xả bởi búa sắc, quyết không đem cái thân ấy với tâm
phá giới mà chạm vào chỗ ưa thích. Lại phát khởi lời thề như sau, thề
làm cho hết thảy chúng sinh đều thành Phật đà. Nếu là Bồ tát mà
không phát khởi những lời thề như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(37. không được mạo hiểm tai nạn)
Phật tử thì thường mỗi năm phải
có hai kỳ thực hành đầu đà, mùa đông mùa hạ phải tọa thiền an cư.
Thực hành đầu đà thì thường dùng nhánh dương để làm tăm, đậu để
rửa, ba pháp y, bình, bát, tọa cụ, tích trượng, lư hương, đãy lọc nước,
khăn tay, dao con, đồ lấy lửa, nhíp, giường giây, kinh luật Bồ tát giới
và tượng Phật Bồ tát. Là Bồ tát thì khi thực hành đầu đà và khi đi
du hóa, dầu đi lại cả trăm dặm ngàn dặm đi nữa, mười tám vật ấy vẫn
thường mang theo mình. Hai kỳ đầu đà là từ rằm tháng giêng đến rằm
tháng ba, từ rằm tháng tám đến rằm tháng mười, trong hai kỳ ấy, mười
tám vật cũng thường mang theo mình như hai cái cánh với con chim. Bố tát tụng
giới thì các vị Bồ tát mới học đã phải nửa tháng nửa tháng bố
tát, tụng mười giới nặng và bốn mươi tám giới nhẹ ; khi tụng thì đối
trước tượng Phật Bồ tát mà tụng; một người bố tát thì một người
tụng, mà hai ba cho đến hàng trăm hàng ngàn người cũng chỉ một người
tụng ; người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp, ai cũng mang pháp y
chín điều bảy điều hay năm điều. Kiết hạ an cư thì nhất nhất phải
làm cho đúng phép. Khi thực hành đầu đà thì đừng đến chỗ tai nạn ;
chỗ nguy hiểm, chỗ quốc chúa tàn bạo, chỗ đất quá cao thấp, chỗ cây
cỏ rậm rạp, chỗ cọp beo sư tử, chỗ hay bị nạn nước lửa gió, chỗ
có đạo tặc, chỗ đường sá đầy rắn độc, những chỗ tai nạn như vậy
đều không được đến đó. Thực hành đầu đà, cho đến kiết hạ an
cư, đều không được đến ở những chỗ tai nạn như vậy. Nếu cố ý
đến thì phạm tội khinh cấu.
(38. không được ngồi không thứ tự)
Phật tử thì sự ngồi phải có thứ
tự đúng như chánh pháp, nghĩa là ai thọ giới trước thì ngồi trước,
ai thọ giới sau thì ngồi sau. Không kể già trẻ, tỷ kheo tỷ kheo ni, quí
nhân quốc vương vương tử, cho đến hoàng môn nô bộc tỳ thiếp, tất cả
đều nên ai thọ giới trước ngồi trước, ai thọ giới sau thì tuần tự
mà ngồi. Đừng như ngoại đạo ngu si, già cũng như trẻ không trước không
sau, ngồi hỗn tạp như binh nô. Trong chánh pháp của Như lai, người trước
ngồi trước, người sau ngồi sau. Nếu là Bồ tát mà ai nấy không ngồi
theo thứ tự đúng như chánh pháp, thì phạm tội khinh cấu.
(39. không được không làm lợi lạc)
Phật tử thì thường khuyến hóa mọi
người kiến thiết tăng phường, tạo lập núi rừng, ruộng vườn, xây dựng
tháp Phật, thiết lập những chỗ để mùa đông mùa hạ tọa thiền an cư,
nói tóm, tất cả những cơ sở hành đạo đều nên kiến thiết. Là Bồ
tát thì lại phải diễn giảng cho mọi người về kinh luật đại thừa.
Những lúc tật bịnh, quốc nạn, giặc giã, những ngày mạng vong của cha
mẹ, anh em, của đại sư hòa thượng và đại sư xà lê thì từ ngày ấy
cho đến ngày tam thất và chung thất, cũng nên trì tụng và diễn giảng
kinh luật đại thừa. Những lúc làm chay cầu phước, đi lại làm ăn mà
có thể bị lửa dữ thiêu đốt, nước lớn trôi chìm, gió bão thổi bạt
thuyền bè nguy khốn trong sông to biển cả đầy nạn la sát, thì trước đó
cũng nên đọc tụng giảng nói kinh luật đại thừa. Cho đến hết thảy
khổ báo là ba ác, bảy nghịch, tám nạn, gông cùm, xiềng xích, trói buộc,
đa dâm, đa sân, đa si, đa bịnh, đều nên giảng nói kinh luật đại thừa.
Nếu vị Bồ tát mới học không làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Chín giới pháp nhẹ như vậy các
người phải học, phải cung kính phụng trì, như Như lai sẽ nói rõ trong
phẩm Phạn đàn.
(40. không được chọn lựa truyền
giới)
Phật tử thì khi cho người thọ Bồ
tát giới không được chọn lựa. Hết thảy quốc vương, vương tử, tể
tướng bách quan, tỷ kheo tỷ kheo ni, thiện nam tín nữ, dâm nam dâm nữ, phạn
thiên mười tám tầng trời cõi Sắc, thiên nhân sáu tầng trời cõi Dục,
những kẻ vô căn, hai căn, hoàng môn, nô bộc, tỳ thiếp, tất cả quỉ thần,
ai cũng được thọ Bồ tát giới cả. Phải dạy người thọ Bồ tát giới
nhuộm pháp y bằng hoại sắc cho hợp với chánh pháp. Hoại sắc là nhuộm
tất cả pháp y và ngọa cụ bằng màu sắc phá hủy các màu sắc chính là
xanh vàng đỏ trắng đen tía. Mọi thứ y phục khác cũng nhuộm hoại sắc
như vậy. Nói tổng quát, tại bất cứ quốc độ nào, dân chúng ở đó
ăn mặc ra sao thì vị tỷ kheo ăn mặc phải khác với lối ăn mặc ấy.
Khi sắp thọ Bồ tát giới, vị pháp sư bồ tát phải xét hỏi người ấy,
rằng thân hiện tại có làm bảy tội nghịch không ? Vị pháp sư bồ tát
không được cho những người thân hiện tại làm bảy tội nghịch được
thọ Bồ tát giới. Bảy tội nghịch là làm cho thân Phật xuất huyết, giết
cha, giết mẹ, giết hòa thượng, giết xà lê, phá kiết ma tăng và pháp
luân tăng, giết thánh giả. Nếu có bảy tội nghịch thì kẻ ấy thân hiện
tại không thể được Bồ tát giới. Ngoài ra, ai cũng có thể thọ và được
giới ấy. Cái phép của người xuất gia là không lạy quốc vương, không
lạy cha mẹ, không lạy bà con, không lạy quỉ thần, nên không thiên vị
hoặc khước từ ai hết, hễ ai hiểu được tiếng nói của vị pháp sư bồ
tát, từ trăm dặm ngàn dặm vẫn đến cầu Bồ tát giới, mà vị pháp sư
ấy vì tâm lý xâu xa, tâm lý ghét giận, không truyền ngay cho họ giới
pháp mà tất cả chúng sinh đều có phần thì phạm tội khinh cấu.
(41. không được vụ lợi làm thầy)
Phật tử nếu giáo hóa cho người
phát sinh đức tin đại thừa rồi, mình là Bồ tát làm vị pháp sư chỉ bảo
cho người, thì thấy người ấy muốn thọ Bồ tát giới, mình phải chỉ
bảo cách thỉnh hai vị đại sư là hòa thượng và xà lê. Hai vị đại
sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm bảy tội nghịch là bảy tội
cản trở sự thọ và được Bồ tát giới. Nếu thân hiện tại phạm bảy
tội nghịch thì vị pháp sư không được cho người ấy thọ Bồ tát giới
; nếu không phạm bảy tội nghịch thì được cho họ thọ. Nếu người nào
phạm mười giới pháp nặng thì phải chỉ bảo người ấy sám hối bằng
cách đối trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, ngày đêm
sáu buổi tụng mười giới pháp nặng và bốn mươi tám giới pháp nhẹ, cực
kỳ khẩn thiết lễ bái ba ngàn đức Phật thuộc ba thì gian quá khứ hiện
tại và vị lai, cầu cho thấy được tướng tốt. Dầu một lần bảy ngày
hay ba lần bảy ngày, cho đến một năm, cũng phải làm sao cho thấy được
tướng tốt. Tướng tốt là thấy được Phật đến xoa trên đỉnh đầu,
thấy ánh sáng của Phật, thấy hoa sen của Phật, hoặc thấy các tướng kỳ
lạ khác, thì tội lỗi tức thì tan biến. Nếu không thấy được những
tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối cũng không có cái ích lợi làm cho
người ấy thân hiện tại được lại giới pháp, nhưng có cái ích lợi
thọ lại giới pháp ấy. Nếu ai phạm bốn mươi tám giới pháp nhẹ thì
chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối diện mà phát lộ, thì tội
lỗi tức thì tan biến. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như bảy tội
nghịch. Làm pháp sư chỉ bảo thì trong các cách trên đây nhất nhất phải
thấu hiểu. Nếu không thấu hiểu sự đúng sai và tội nặng nhẹ của giới
pháp đại thừa, không lý giải đệ nhất nghĩa đế, tập chủng tánh, trưởng
dưỡng tánh, bất hoại tánh, đạo chủng tánh, chánh pháp tánh, trong tất
cả các tánh của Bồ tát vị như vậy không thấu rõ quán hạnh nhiều ít
và ra vào như thế nào, cho đến mười thành phần thiền định và bao
nhiêu pháp hạnh khác, cũng nhất nhất không thấu hiểu nghĩa ý trong đó ;
mà, là Bồ tát, lại vì quyền lợi, vì danh vọng, vì ham hố đồ đệ với
tâm lý ham cầu xấu xa và quá đáng, làm ra như thấu hiểu tất cả, thì
ấy là tự lừa dối mình lại lừa dối kẻ khác. Vậy mà cố ý truyền Bồ
tát giới cho người thì phạm tội khinh cấu.
(42. không được thuyết giới ác
nhân)
Phật tử thì không được vì quyền
lợi mà nói giới pháp vĩ đại của hàng ngàn đức Phật trước những kẻ
chưa thọ giới Bồ tát giới, những kẻ ngoại đạo và ác nhân. Trước
những kẻ phủ nhận Phật tánh cũng không được nói. Trừ quốc vương,
không được nói với ai cả. Những kẻ ngoại đạo và ác nhân không lãnh
thọ giới pháp của chư Phật thì như loài vật, đời đời sinh ra ở đâu
cũng không gặp được Phật pháp tăng, như cây như đá không có tâm hồn,
nên gọi là ngoại đạo và ác nhân. Còn những kẻ phủ nhận Phật tánh
thì khác gì đầu gỗ. Là Bồ tát mà trước những kẻ như vậy nói đến
giáo pháp và giới pháp của bảy đức Phật đà thì phạm tội khinh cấu.
(43. không được cố tâm phạm giới).
Phật tử nếu đã đem đức tin đại
thừa mà xuất gia và lãnh thọ giới pháp chính yếu của chư Phật rồi, lại
cố ý sinh tâm vi phạm giới pháp phát sinh tuệ giác vô lậu như vậy, thì
không nên nhận mọi sự hiến cúng của thí chủ, không đáng đi đất của
quốc gia, uống nước của quốc gia. Cả năm ngàn quỉ dữ thường án trước
mặt kẻ ấy mà bảo với nhau, rằng đó là tên giặc lớn. Vào phòng ốc,
thành thị, thôn ấp, nhà cửa, thì bọn quỉ thường quét dấu chân của
người ấy đi. Thế nhân ai cũng nhục mạ, rằng đó là tên giặc trong Phật
pháp. Chúng sinh không ai muốn nhìn. Kẻ phạm giới có khác gì loài vật,
đầu gỗ. Nếu cố ý vi phạm giới pháp chính yếu của chư Phật thì phạm
tội khinh cấu.
(44. không được không trọng kinh
luật)
Phật tử thì thường phải nhất tâm
mà thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa, lột da làm giấy, thích huyết
làm mực, rút tủy làm nước, chẻ xương làm bút, để sao chép giới pháp
của chư Phật. Lại sao chép mà giữ bằng giấy vỏ cây như giấy gió, giấy
dạ, bằng lụa, lụa trắng, lụa tơ trần, bằng thẻ tre. Rồi thường
đem bảy thứ quí báu, hay những thứ tạp ngọc vô giá, thơm và đẹp, làm
hộp làm đãy mà tôn trí kinh luật đại thừa ấy. Nếu không hiến cúng
đúng cách như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(45. không được không có giáo
hóa)
Phật tử thì tâm đại bi phải
thường xuyên nổi dậy, khi vào những nơi thành thị, thôn ấp hay nhà cửa,
thấy bất cứ ai cũng đều nói lên như thế này : các người nên lãnh thọ
ba qui y và mười giới pháp. Nếu thấy tất cả cầm thú thì bất cứ bò
ngựa heo dê, đều nên tâm nghĩ miệng nói như sau : cầm thú các con, các
con nên phát bồ đề tâm. Là Bồ tát thì đến bất cứ chỗ nào, dầu là
núi non, rừng rú hay khe suối, đồng nội, cũng làm cho hết thảy chúng
sinh phát bồ đề tâm. Nếu Bồ tát mà không giáo hóa chúng sinh như vậy
thì phạm tội khinh cấu.
(46. không được thuyết không đúng
phép)
Phật tử thì thường đi giáo hóa
với tâm niệm đại bi mà mình thường phát khởi. Nhưng, dẫu vào nhà tín
đồ hay nhà quyền quí, đối với bất cứ tập thể nào, người xuất gia
cũng không được đứng mà thuyết pháp cho người tại gia. Phải ngồi lên
chỗ cao, ở trước mặt họ. Pháp sư tỷ kheo thì dẫu thuyết pháp cho cả
bốn chúng, cũng không được đứng đất mà nói. Khi thuyết pháp thì vị
pháp sư phải được mời ngồi chỗ cao, hương hoa hiến cúng ; còn bốn
chúng thính giả thì ngồi chỗ thấp, bằng ý niệm như hiếu thuận đối
với cha mẹ mà kính thuận những lời giáo huấn của vị pháp sư, lại kính
thuận liên tục như các đạo sĩ thờ lửa giữ lửa không tắt. Nếu người
thuyết pháp mà thuyết không đúng phép như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(47. không được kềm chế phi lý)
Phật tử như quốc vương, thái tử,
bách quan hay bốn bộ, đã đem đức tin đại thừa lãnh thọ giới pháp của
chư Phật rồi, lại tự thị quyền quí cao sang mà phá hoại giáo pháp và
giới pháp của Như lai, bằng cách đặt ra qui chế để kềm chế bốn bộ
đệ tử của Như lai, không cho họ xuất gia, hành đạo, cũng không cho họ
tạo lập hình tượng, chùa tháp và truyền bá kinh luật. Lại đặt chức
thống quản để chế ngự chư tăng, lập sách tịch để kiểm kê chư
tăng. Tỷ kheo bồ tát thì để cho đứng đất, bạch y cư sĩ lại tự ngồi
chỗ cao, làm nhiều điều phi chánh pháp, tạo thành tình trạng như bắt
binh nô thờ chủ. Nhưng tỷ kheo bồ tát chính là bậc để cho mọi người
kính trọng, có đâu lại bị đem làm kẻ sai sử cho quan quyền một cách
trái với giáo pháp, trái với giới pháp. Nếu hàng quốc vương bách quan
đã đem tâm lý tốt đẹp lãnh thọ giới pháp của chư Phật rồi, thì đừng
làm những tội lỗi phá hoại Tam bảo như vậy. Nếu cố ý làm những biện
pháp phá hoại Tam bảo thì phạm tội khinh cấu.
(48. không được phá hoại đạo pháp)
Phật tử nếu đã đem tâm lý tốt
đẹp mà xuất gia rồi, lại vì danh vọng và quyền lợi nên trước mặt
quốc vương và bách quan, nói về giới pháp của chư Phật mà lại nói một
cách rất phi lý, làm cho các vị tỷ kheo tỷ kheo ni và những người thọ
Bồ tát giới bị trói buộc bằng những hình thức lao tù, những biện
pháp quân dịch. Như thế đó là con sâu trong thân sư tử tự ăn thịt sư
tử, không phải con sâu ở ngoài: chính những kẻ Phật tử như trên tự
phá Phật pháp, không phải ngoại đạo ma vương mà phá được. Nên người
lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì phải ái hộ giới pháp ấy như
người mẹ thương đứa con một, như người con thờ cha mẹ, không được
vi phạm. Là Bồ tát thì khi nghe cái tiếng của ngoại đạo và ác nhân
đem lời nói ác phỉ báng phá hoại giới pháp của chư Phật, lúc ấy
khác nào tim mình bị ba trăm mũi nhọn đâm vào, thân mình bị ngàn lưỡi
dao vạn cây gậy đánh đập chém chặt. Thà là chính mình vào trong địa
ngục cả trăm kiếp, chứ không muốn một lần phải nghe cái tiếng của kẻ
ác đem lời ác phỉ báng phá hoại giới pháp của chư Phật, huống chi tự
phá hoại giới pháp của chư Phật bằng cách tạo điều kiện khuyến khích
kẻ khác phá hoại Phật pháp, không còn gì gọi là tâm hiếu thuận. Nếu
cố ý làm như vậy thì phạm tội khinh cấu.
Chín giới pháp nhẹ như vậy, các
người phải học, phải cung kính phụng trì.
Các Phật tử, bốn mươi tám giới
pháp nhẹ như trên đây, các người hãy thọ trì như chư Bồ tát quá khứ
đã tụng, chư Bồ tát vị lai sẽ tụng, chư Bồ tát hiện tại đang tụng.
Kết Thúc Về Phần Bồ Tát Giới -
Phần Giới Pháp Vô Tận
Các Phật tử, hãy nghe cho kyծ Giới
pháp gồm có mười điều nặng và bốn mươi tám điều nhẹ như trên đây,
các đức Phật đà trong ba thì gian đã tụng sẽ tụng và đang tụng. Như
lai nay cũng tụng y như vậy. Đại chúng các người, không cứ quốc vương,
vương tử, bách quan, tỷ kheo, tỷ kheo ni, thiện nam, tín nữ, hễ lãnh thọ
Bồ tát giới thì phải thọ trì, đọc, tụng, giảng thuyết và viết chép
đối với cuốn kinh nói về giới pháp của Phật tánh thường trú, truyền
bá cho chúng sinh trong tất cả thì gian, làm cho sự cảm hóa của giới
pháp này được liên tục mãi, không bao giờ đứt đoạn. Như vậy thì
các người sẽ được thấy ngàn đức Phật, đức Phật nào cũng trao tay
cho, đời đời không sa vào đường dữ, tám nạn, thường sinh trong nhân
loại hay chư thiên. Và như vậy là hôm nay, ở dưới cây bồ đề này, Như
lai đã tóm tắt khai thị giới pháp của cả bảy đức Phật. Đại chúng
các người hãy nhất tâm mà học giới pháp ấy, và hoan hỉ mà phụng
hành, như Như lai đã nhất nhất khai thị phong phú trong phần Khuyến học
của phẩm Vô tướng thiên vương. Bấy giờ ba ngàn người học tập Bồ tát
đạo trong số thính giả hiện diện lúc ấy, nghe đức Thế tôn tự tụng
lại giới pháp như vậy, ai cũng tâm tâm kính thuận, hoan hỉ phấn chấn
mà thọ trì.
Kết Thúc Toàn Bộ Phẩm Bồ Tát
Tâm Địa Giới - Phẩm Pháp Môn Tâm Địa
Bấy giờ đức Thích ca mâu ni nói
xong phần Giới pháp vô tận trong phẩm Pháp môn tâm địa của đức bản
thân Lô xá na ở Hoa tạng thế giới đã nói, thì một ngàn và một ngàn lần
trăm ức đức Thích ca khác cũng nói y như vậy. Sự từ cung Đại tự tại
thiên vương xuống đến cây bồ đề, trải qua mười chỗ thuyết các
pháp phẩm cho hết thảy Bồ tát, và cho đại chúng nhiều đến số lượng
không thể nói hết, được thọ trì, đọc tụng và giảng nói, cũng như
nhau. Nói tóm, một ngàn và một ngàn lần trăm ức thế giới, Hoa tạng thế
giới, và các Hoa tạng thế giới khác nhiều như vi trần, cũng diễn về tất
cả kho tàng chánh pháp của chư Phật là kho tàng tâm, kho tàng địa, kho tàng
giới, kho tàng vô lượng hạnh nguyện, kho tàng nhân quả Phật tánh thường
trú. Và như vậy là chư Phật đã nói hoàn tất về tất cả kho tàng
chánh pháp. Hết thảy chúng sinh trong một ngàn và một ngàn lần trăm ức
thế giới đều thọ trì, hoan hỉ và phụng hành. Nếu khai thị một cách
rộng lớn các nghĩa tướng của tâm địa thì phải như trong phẩm Phật
hoa quang vương đã nói.
Phụ Lục Kết Thúc Bồ Tát Giới Bằng
Văn Chỉnh Cú
- Những người thông minh thật
- thì đức tính nhẫn nhịn
- và khả năng tuệ giác
- cả hai đều mạnh mẽ.
- Nhờ đó thọ trì được
- giới pháp Bồ tát này,
- từ nay đến thành Phật
- thường được năm lợi ích:
- Một là được chư Phật
- thương tưởng hộ trì luôn.
- Hai là khi lâm chung
- chánh kiến, tâm hoan hỉ.
- Ba là sinh chỗ nào
- cũng làm bạn Bồ tát.
- Bốn là công đức tụ
- giới độ thành tựu cả.
- Năm là trong đời này
- và các đời sau nữa
- đủ cả phước và tuệ
- của giới pháp tự tánh.
- Giới pháp như thế này
- là sở hành của Phật,
- với chỗ sở hành ấy
- trí giả hãy khéo nghĩ:
- Tâm hạnh như ngoại đạo
- trước tướng và chấp ngã,
- thì giới pháp như vầy
- không thể nào tín thọ.
- Tuệ giác của thanh văn
- diệt tận chứng niết bàn,
- cũng không phải là chỗ
- gieo giống giới pháp này.
- Muốn nuôi lớn mầm mống
- lúa tuệ giác bồ đề
- để ánh sáng tuệ ấy
- chiếu tỏa cả thế gian,
- thì cần phải thường xuyên
- yên tịnh tâm trí mình
- mà quán sát thật tướng
- của tất cả các pháp
- siêu việt mọi khái niệm
- đối lập nhau như sau:
- phát sinh với tiêu diệt
- vĩnh cửu với hư vô
- đồng nhất với mâu thuẫn
- xuất hiện với biến dạng.
- Bằng sự quán sát ấy
- nỗ lực mà trang hoàng:
- việc Bồ tát phải làm
- phải tuần tự học tập.
- Với tất cả các vị
- tu học còn tiếp tục
- tu học đã hoàn tất
- đừng sinh tâm phân biệt,
- thì đó : đệ nhất nghĩa,
- cũng gọi là đại thừa.
- Mọi hý luận lầm lỗi
- đều bặt dấu ở đây,
- và từ đây xuất phát
- trí toàn giác của Phật.
- Thế nên các Phật tử
- hãy nổi đại dũng mãnh:
- đối với giới của Phật
- giữ như giữ ngọc sáng.
- Các bồ tát quá khứ
- đã học về giới ấy,
- vị lai thì sẽ học,
- như hiện tại đang học.
- Giới ấy chư Phật làm,
- giới ấy chư Phật khen,
- và tôi hôm nay đây
- đã kính theo chư Phật
- mà tụng lại giới pháp
- phước đức vô lượng ấy,
- hồi hướng cho chúng sinh
- để cùng nhau xoay về
- trí toàn giác của Phật,
- cầu nguyện cho các vị
- được nghe giới pháp này
- chóng thành đạt trí Phật.
Kính lạy đức Lô xá na như lai. Kính
lạy đức Thích ca mâu ni như lai. Kính lạy kho tàng Bồ tát giới Phạn
võng.
-oOo-
Chân thành cảm ơn quý cư sĩ Nguyễn Văn Củng, Đoàn Viết
Hiệp và Nguyễn Anh Tuấn đã phát tâm chuyển tác phẩm này từ dạng Help
File, VPS font sang dạng Word, VNI font. Thích Nhật Từ 29-4-2000
| Giới
thiệu | I & II | IIIa | IIIb
| IIIc | IIId | IIIe | IV
| Phu lục |