- Nghi Thức Cầu Siêu
- Thích Nhật Từ tuyển chọn và
biên tập 1994
8
KINH
NGHIỆP BÁO TÁI SANH
Chính tôi được nghe, lúc bấy giờ
tôn giả đồng nữ Ca-diếp cùng với năm trăm vị tỳ-kheo đi từ nước Câu-tát-la
lần đến thôn Tư-ba-ê. Đây là thôn dân cư đông đúc, giàu sang phúc lạc,
cây cối sầm uất, do vua Ba-tư-nặc phong riêng cho bà-la-môn Tệ Túc để
lo phần cúng tế Phạm thiên. Bà-la-môn Tệ Túc là người có kiến chấp
theo ngoại đạo và dạy mọi người rằng: "Không có đời sau, không
có tái sanh, không có quả báo thiện ác." O
Khi đó người trong thôn Tư-ba-ê nhơn nghe tôn giả
đồng nữ Ca-diếp cùng năm trăm vị tỳ-kheo từ nước Câu-tát-la lần đến
nghỉ tại rừng Thi-xá-bà thì họ bàn tán với nhau: "Vị đồng nữ
Ca-diếp này rất có tiếng tăm, đã chứng quả A-la-hán, là bậc trưởng
thượng, tôn túc, kỳ cựu, đa văn, quảng bác, thông minh, duệ trí, có
tài biện luận đối đáp theo từng trường hợp, đàm đạo tài ba, nếu
chúng ta gặp được Ngài thì tốt lắm." Kể từ đó, người trong thôn
ngày ngày đều đi đến chỗ tôn giả Ca-diếp.
Bấy giờ, bà-la-môn Tệ Túc đang ở trên lầu
cao trông thấy từng đoàn người kéo đi, nhưng không biết đi đâu, mới hỏi
người cầm lọng hầu:
- Những người kia kéo nhau từng đoàn đi đâu vậy
?
Người hầu đáp:
- Tôi nghe rằng có đồng nữ Ca-diếp hướng dẫn
năm trăm vị tỳ-kheo đi hóa đạo từ nước Câu-tát-la và đến nghỉ tại
rừng Thi-xá-bà. Ngài là vị tôn túc đã chứng quả A-la-hán. Mọi người
rủ nhau đi đến chỗ Ngài đàm đạo học hỏi.
Nghe nói, bà-la-môn Tệ Túc liền xuống lầu, sai
người hầu chuẩn bị xe cọ⠣ùng mọi người lũ lượt đến rừng Thi-xá-bà.
Đến nơi, họ xuống xe đi bộ đến chỗ tôn giả Ca-diếp. Sau khi thăm hỏi
xã giao xong, họ ngồi qua một bên. Những người cư sĩ và Bà-la-môn trong
thôn lễ bái tôn giả Ca-diếp rồi ngồi, có ngườ詠hỏi han rồi ngồi, có người tự xưng tên mình rồi ngồi,
có người khoanh tay rồi ngồi, có người yên lặng ngồi xuống. O
Lúc đó, bà-la-môn Tệ Túc thưa hỏi tôn giả
Ca-diếp rằng:
- Thưa Tôn giả, chủ thuyết của tôi là không
có đời sau, không có tái sanh, không có quả báo thiện ác, còn chủ thuyết
của Ngài thì thế nào ?
Tôn giả Ca-diếp không trả lời mà hỏi lại:
- Này Hiền giả, mặt trời, mặt trăng ở trên
kia là thuộc về đời này hay đời khác, thuộc về Trời hay Người?
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Mặt trời, mặt trăng là thuộc về đời khác
chứ không phải thuộc về đời này, thuộc về Trời chứ không phải thuộc
về người.
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Do đó có thể biết là có đời sau, có tái
sanh, có quả báo thiện ác. O
Bà-la-môn Tệ Túc nói:
- Tuy Tôn giả nói có đời sau, có tái sanh, có
quả báo thiện ác nhưng theo ý tôi thì tất cả đều không có.
Thưa Tôn giả, nguyên tôi có một người bà con
quen biết, mắc phải bệnh ngặt nghèo, tôi đến nói với người ấy rằng:
"Các sa-môn quan niệm như sau: Những người sát sanh, trộm cướ鰬
tà dâm, nói hai lưỡi, nói lời độc ác, nói dối,
nói thêm bớt, xan tham, tật đố, tà kiến, sau khi qua đời đều đọa vào
địa ngục. Nhưng tôi không tin, vì tôi chưa từng thấy người nào chết rồi
trở lại nói cho biết nơi họ bị đọa vào. Nay anh là bà con với tôi, chẳng
may anh đã tạo đủ mườ詠điều ác. Nếu
quả như lời sa-môn nói thì sau khi qua đời anh phải bị đọa vào trong địa
ngục lớn. Nay tôi chỉ tin vào anh để xét có địa ngục hay không. Anh
nên trở lại nói cho tôi biết thì tôi mới tin."
Thưa Tôn giả, nhưng từ khi thác đến nay người
ấy biệt mất không trở lại. Người ấy là người thân của tôi, không
lẽ dối tôi, hứa rồi không trở lại ? Do đó tôi biết chắc không có đời
sau. O
Tôn giả Ca-diếp đáp:
- Thưa Hiền giả, những người có trí nhờ thí
dụ mà hiểu rõ. Ví như một tên đạo tặc thường ôm lòng gian trá, vi phạm
phép cấm của nhà vua, bị người ta rình bắt được rồi đem đến chỗ
vua ngự, tâu rằng: "Người này là tên ăn trộm, xin đại vương hãy
trị nó."
Vua liền sai tả hữu trói người đó đem bêu xấu
ngoài đường, sau đó dẫn ra ngoài thành giao cho tên đao phủ. Thế rồi, kẻ
tả hữu được lệnh liền bắt trói kẻ trộm giao cho tên đao phủ. Tên
trộm đó dùng lời mềm dẻo nói với người giữ tù rằng: "Xin ông
thả cho tôi về thăm bà con xóm làng để nói vài lời từ biệt, sau đó
tôi sẽ trở lại." Bà-la-môn nghĩ sao, người giữ tù kia có chịu thả
cho về không ? O
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Thưa Tôn giả, không.
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Họ cùng là con người, cùng sống ở đời này
mà còn không thả, huống gì người thân của Hiền giả làm đầy đủ mười
điều ác, sau khi thác, đọa vào địa ngục, quỷ ngục không có từ tâm lại
không phải là con người, sống chết là không cùng đời, nếu người kia
dùng lời mềm dẻo cầu xin với quỷ ngục rằng: "Xin ngài tạm thả
tôi trở lại thế gian gặp người bà con để nói lời từ biệt, sau đó
sẽ trở lại," chắc chắn quỷ ngục sẽ không đồng ý. Cứ so sánh
theo đó đủ biết, tại sao Hiền giả còn giữ chặt sự mê lầm, sinh điều
tà kiến như thế.
Hiền giả còn có lý do gì khác để cho rằng không
có đời sau? O
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Thưa Hiền giả, tôi có một người bà con mắc
phải bệnh nặng, tôi đến nói với người ấy rằng: "Các sa-môn cho
là có đời sau: Người nào không sát sanh, không trộm cướ鰬 không tà dâm, không nói dối, không nói lời hai lưỡi,
không nói lời độc ác, không nói sai, không nói thêm bớt, không tham lam,
không tật đố, không tà kiến thì sau khi thác đều được sanh về cõi trời.
Tôi vốn không tin điều này vì tôi chưa từng thấy người nào chết rồi
trở lại cho tôi biết chỗ họ được hóa sanh. Nay anh là bà con của tôi,
lại tạo đủ mườ詠điều thiện, nếu quả
như lời các sa-môn nói là đúng thì sau khi thác sanh anh sẽ được sanh cõi
trời. Giờ đây tôi chỉ còn tin theo anh để quyết định. Nếu anh được
hóa sanh thì anh phải nhớ trở lại báo cho tôi biết, sau đó tôi sẽ
tin." Nhưng thưa Tôn giả, từ khi thác đến nay anh ấy không trở lại.
Anh ta là bà con của tôi, không lẽ dối tôi hứa rồi không trở lại, nên
tôi biết chắc không có đời sau. O
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Thưa Hiền giả, ví như có người rớt xuống
hầm xí đầu mình chìm ngấm, được vua cho người hầu cận vớt lên, lấy
tro xoa thân ba lần rồi dùng nước tẩy sạch. Sau đó lấy nước thơm tắm
gội thân thể thật sạch sẽ rồi cho mặc y phục cực kỳ sang trọng. Tiếp
theo người ta đem thức ăn trăm vị ngon ngọt cho người ấy ăn, sau đó
đưa người ấy đến ở một ngôi nhà cao, hưởng năm thứ dục lạc, người
ấy có muốn rớt vào hầm xí nữa không?
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Thưa Tôn giả, đấy là một chỗ hôi thối
còn muốn trở xuống làm gì?
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Thưa Hiền giả, chư thiên cũng thế. Họ cho cõi
Diêm Phù này là nơi tanh hôi bất tịnh, còn hơn cả hầm xí. Người bà
con quen biết của Hiền giả đã tạo đủ mười điều thiện, dĩ nhiên
được sanh lên cõi trời, hưởng thú vui ngũ dục vô cùng, liệu họ có chịu
trở lại cõi hầm xí Diêm Phù này để báo cho Hiền giả biết không. Cứ
so sánh theo đó đủ biết, xin Hiền giả chớ giữ chặt sự mê lầm tà kiến
như thế! O
Bà-la-môn Tệ Túc nói:
- Thưa Tôn giả, tôi có lý do khác để biết không
có đời sau. Nguyên tôi có một người bà con mắc bệnh trầm trọng, tôi
đến nói với người ấy rằng: "Các sa-môn bảo có đời sau. Người
nào tu mười điều lành, giữ năm giới thì sau khi thác được sanh lên
cõi trời Đao Lợi. Tôi cũng không tin điều này vì tôi chưa từng thấy ai
chết rồi trở lại nói cho biết chỗ họ được hóa sanh. Nay anh là chỗ
bà con, đầy đủ năm giới, mười điều lành, nếu sau khi thác anh được
sanh về cõi trời ấy thì anh hãy trở lại nói cho tôi biết, sau đó tôi sẽ
tin."
Thưa Tôn giả, nhưng từ khi thác đến nay người
ấy không trở lại. Anh ta là bà con với tôi không lẽ nói dối hứa rồi
không trở lại, nên tôi biết chắc không có đời sau. O
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Ở cõi này một trăm năm chỉ bằng một ngày
một đêm ở cõi trời Đao Lợi. Cõi Đao Lợi cũng lấy ba mươi ngày làm một
tháng, mười hai tháng làm một năm, họ sống lâu mọⴠngàn năm như thế.
Vậy Hiền giả nghĩ sao, khi bà con Hiền giả được sanh lên cõi trời Đao
Lợi, họ nghĩ rằng: "Ta mới sanh lên cõi này, vậy ta hãy vui thú trong
vài ba ngày và sau đó trở lại báo tin cho bà con hay cũng không muộn."
Như vậy, liệu Hiền giả có gặp được bà con ấy không ?
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Thưa Tôn giả, không. Khi ấy tôi chết lâu rồi,
làm sao gặp được. Nhưng tôi không tin rằng cõi trời Đao Lợi sống lâu
như thế. O
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Thưa Hiền giả, ví như có người khi mới sanh
ra đã bị mù không biết gì về màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng; sự vật
thô, tế, dài, ngắn; đồng thời cũng không thấy mặt trời, mặt trăng,
tinh tú, gò, khe, hang. Do đó, nếu được hỏi về màu sắc, kích thước của
sự vật thì người mù sẽ đáp: "Không có màu sắc, kích thước gì cả;"
cho đến mặt trăng, tinh tú, núi non, gò, khe, hang, người mù cũng nói
không có. Hiền giả nghĩ sao, người mù trả lời như thế có đúng không?
Này Hiền giả, cũng như thế. Sự sống lâu của
cõi trời Đao Lợi là có thật, chẳng phải vì Hiền giả không thấy mà
nó trở nên không. O
Bà-la-môn Tệ Túc vẫn chưa tin. Ông nói:
- Thưa Tôn giả, nguyên ở trong thôn tôi, khi bắt
được kẻ trộm cướp, họ đem đến tôi và nói: "Người này là kẻ
trộm, xin ngài hãy trị nó!" Tôi bảo: "Hãy trói hắn lại và bỏ
vào trong một cái vạc đậy nắp, trét kín với một lớp đất dày, không
để cho thần thức tiếp xúc với bên ngoài." Sau đó, bảo người nổi
lửa đốt hắn. Lúc ấy, vì tôi muốn biết chỗ tẩu thoát của thần thức
hắn, nên tôi bảo người hầu đi quanh cái vạt và nhìn kỹ, nhưng không
thấy chỗ thần thức chui ra. Sau đó tôi lại mở cái vạt ra, cũng không
thấy chỗ thần thức qua lại. Do đó, tôi biết chắc không có đời sau.
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Thưa Hiền giả, khi Hiền giả ngủ nghỉ ở trên
lầu cao nằm mộng thấy núi rừng, sông ngòi, vườn nhà, ao tắm, quốc ấp,
đường xá thì những người thân cận Hiền giả lúc đó có thấy thần
thức của Hiền giả đi ra đi vào không?
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Thưa Tôn giả, họ không thể thấy những gì
tôi nằm mơ.
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Hiền giả còn sống mà thần thức ra vào còn
không thể thấy, huống là người chết. Do đó, phải có đời sau và quả
báo thiện ác. O
Thưa Hiền giả, có những tỳ-kheo từ đầu hôm
đến cuối hôm không ngủ, chỉ lo siêng năng tu về đạo phẩm giác ý và
dùng sức tam-muội tu luyện thiên nhãn, nhờ sức thiên nhãn mà quán thấy
chúng sanh thác chỗ này sanh về chỗ kia, thác chỗ kia sanh về chỗ này, tuổi
thọ dài ngắn, nhan sắc tốt xấu, tùy theo hành động mà thọ quả báo,
theo đó mà biết con đường thiện hay ác. Hiền giả không thể dùng con mắt
thịt để thấy hết chỗ thọ sanh của chúng sanh, thế mà lại bảo là
không có đời sau. Đó là cái nhìn sai lầm, nguy hiểm, cần phải xóa bỏ.
O
Bà-la-môn Tệ Túc nói:
- Tuy Ngài đã dẫn dụ chứng minh có đời sau,
nhưng theo chỗ tôi thấy thì vẫn không có.
Nguyên là trong thôn tôi có lần bắt được kẻ
trộm, tôi liền bảo người hầu cận trói hắn lại rồi lột da để tìm
thần thức. Sau đó tôi lại sai người hầu cắt thịt hắn ra từng mảnh
để tìm thần thức hắn nhưng không thấy thần thức đâu cả. Tôi lại
sai người hầu đập xương chảy tủy tìm thần thức trong tủy, nhưng vẫn
không thấy. Thưa Tôn giả, vì duyên cớ đó nên tôi biết chắc là không
có đời sau.
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Thưa Hiền giả, về một kiếp xa xưa trong quá
khứ, có một quốc độ điêu tàn hoang phế, lúc đó có đoàn buôn dắt năm
trăm cổ xe đi đến quốc độ này, bỗng gặp một phạm-chí tu đạo thờ
lửa, thường ở trong một khu rừng, những người buôn đều xin ngủ trọ,
rồi sáng mai từ giã lên đường. Phạm-chí thờ lửa lúc ấy thầm nghĩ:
"Ta hãy đến chỗ những người buôn ngủ hồi hôm xem thử họ còn bỏ
sót gì không?" Thế rồi ông ta liền đến chỗ họ nghỉ, nhưng đều
không thấy gì cả, chỉ trừ có một đứa con nít mới sanh được một tuổi
đang ngồi khóc một mình. Phạm-chí thầm nghĩ: "Ta đâu nỡ nhẫn tâm
thấy đứa bé này chết trước mặt. Hay là ta có thể mang đứa bé này về
nhà nuôi." Tức thì ông bồng đứa bé về nuôi. Sau thời gian mười
năm nuôi dưỡng, đứa bé mỗi ngày một lớn. Một hôm phạm-chí có việc
phải đi xa, mới dặn đứa bé: "Ta có chút việc tạm đi khỏi ít
hôm, ngươi khéo giữ gìn đống lửa này, đừng cho lửa tắt. Nếu lửa có
tắt thì hãy lấy hai thanh củi cọ vào nhau để lấy lửa đốt lên."
Căn dặn xong phạm-chí ra đi. Sau khi ông ta đi, đứa bé ham chơi không thường
xuyên coi lửa, do đó lửa tắt. Đứa bé đi chơi về trông thấy lửa tắt
áo não than thầm: "Ta dại quá, khi cha ta đi có dạy đủ cách giữ gìn
lửa một cách cẩn thận, không cho tắt. Nhưng vì ta ham chơi đến nỗi để
cho lửa tắt, bây giờ phải làm sao đây?" Khi đó đứa bé vội vàng bới
tro tìm lửa nhưng không thấy lửa, bèn dùng búa chẻ củi tìm lửa nhưng
cuối cùng vẫn không thấy lửa. Thế rồi lại chặt củi thành từng
khúc, bỏ vào trong cối giã để tìm lửa nhưng vẫn không thấy. Sau đó phạm-chí
trở về và hỏi đứa bé: "Trước khi đi, ta có dặn ngươi coi chừng
lửa để lửa khỏi tắt, ngươi có coi không?" Đứa bé đáp: "Vì
con chạy đi chơi, không thường xuyên coi chừng lửa, do đó nay lửa tắt hết."
- "Ngươi làm cách nào để lấy lửa lại?" - "Lửa phát ra từ
củi nên con dùng búa chẻ củi ra để tìm lửa nhưng không thấy lửa đâu.
Sau đó con chặt củi thành khúc nhỏ bỏ vào cối giã để tìm lửa, nhưng
vẫn không có".
Lúc đó phạm-chí dùng hai thanh củi cọ với
nhau thì lửa phát ra, đồng thời ông ta chất củi lên đốt và bảo đứa
bé: "Muốn tìm lửa phải làm đúng cách này, không nên chẻ củi hay
giã nát củi mà tìm lửa, như thế thì làm sao có lửa".
Thưa Hiền giả, Hiền giả cũng như thế, không
theo đúng phương pháp, lại đi lột da người để tìm thần thức, làm sao
tìm được. Điều quan trọng hơn là không phải vì Hiền giả không thấy
mà việc tái sanh hay quả báo thiện ác không có. O
Bà-la-môn Tệ Túc vẫn chưa tin. Ông thưa tôn giả
Ca-diếp rằng:
- Có lần nọ, thôn tôi bắt được kẻ trộm. Tôi
bảo người hầu đem người này đi cân, sau đó giết chết một cách êm
thắm, không làm mất một chút da thịt, rồi đem cân người ấy trở lại.
Nhưng lần này thấy nặng hơn lần trước. Thưa Tôn giả, thân người ấy
khi sống thần thức đang còn, nhan sắc tươi đẹp, nói năng được mà
đem cân thì nhẹ; trái lại, khi thác thần thức không còn, nhan sắc cũng
không, nói năng không được mà đem cân thì nặng, vì lý do đó nên tôi biết
là không có đời sau. O
Tôn giả Ca-diếp bảo Bà-la-môn Tệ Túc rằng:
- Xin hỏi Hiền giả, như người cân sắt, khi sắt
nguội đem cân thì nặng, như khi sắt nóng đem cân thì nhẹ. Tại sao sắt
có màu đỏ sáng, mềm mại mà lại nhẹ? Tại sao không có màu đỏ sáng
và cứng mà cân lại nặng ?
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Sắt nóng có màu đỏ sáng, mềm mại nên nhẹ;
sắt nguội không có màu đỏ sáng và cứng nên nặng.
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Con người cũng thế, khi sống thì có nhan sắc,
mềm mại cho nên nhẹ; nhưng khi thác không có nhan sắc và cứng cho nên nặng.
Do đó, có thể biết chắc có đời sau. O
Bà-la-môn Tệ Túc thưa:
- Nguyên tôi có người bà con mắc phải bệnh nặng,
khi đó tôi đến bảo đỡ người bệnh nằm nghiêng về phía tay phải, người
ấy vẫn còn liếc ngó, co duỗi như thường. Thế rồi tôi đỡ người ấy
nằm nghiêng bên trái, rồi lật sấp, lật ngửa, người ấy vẫn còn co duỗi,
liếc ngó, nói năng như thường. Sau đó liền tắt thở, tôi lại bảo người
đỡ cho tử thi nằm nghiêng tay phải, tay trái, lật sấp, lật ngửa, nhìn
kỹ thì không thấy co duỗi, liếc ngó hay nói năng gì cả. Do đó, tôi biết
chắc không có đời sau. O
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Những người có trí nhờ thí dụ mà hiểu. Thưa
Hiền giả, xưa có một quốc đọ⬠không có ai từng nghe tiếng ốc
tù-và. Hôm nọ có người sành nghề thổi tù-và đến nước này, đi vào
trong thôn, cầm ốc thổi ba tiếng rồi bỏ xuống đất.
Khi đó trai gái trong thôn nghe tiếng, giật mình,
đều đến hỏi: "Thứ tiếng gì mà trong trẻo, bi ai vang xa như vậy?"
Người chủ chỉ vào vỏ ốc nói: "Tiếng của cái đó." Người
trong thôn nghe vậy lấy tay vỗ vào vỏ ốc và nói: "Ngươi hãy kêu
lên, ngươi hãy kêu lên!" Nhưng vỏ ốc vẫn không kêu, tức thời người
chủ cầm vỏ ốc lên thổi ba tiếng, rồi bỏ xuống đất. Người trong thôn
trầm trồ: "Đấy là tiếng tuyệt diệu mà chúng ta nghe khi nãy, chứ
không phải do sức vỏ ốc mà có, phải có tay, có miệng, có hơi thổi nó
mới kêu." Con người cũng thế, cần phải có sức sống, có tri giác,
có tinh thần và hơi thở ra vào mới có thể co duỗi, liếc ngó, nói năng
được. Xin Hiền giả hãy từ bỏ quan niệm sai lầm đó đi. Đừng cố chấp
ôm nó, chỉ thêm khổ não. O
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Thưa Tôn giả, tôi không thể bỏ được. Vì từ
khi sanh ra đến giờ, tôi đã được huấn luyện và thường xuyên đọc tụng,
luyện tập kiên cố, thì đâu có thể bỏ được.
Lúc ấy, tôn giả Ca-diếp kể rằng:
- Thuở xa xưa có một quốc độ mà người dân
ở biên cương nước đó điêu tàn. Trong nước ấy có hai người: một anh
có trí, một anh thì ngu. Họ bảo nhau: "Tôi là bạn thân anh, chúng ta
hãy cùng nhau ra ngoài thành bứt lúa hoang về làm của." Rồi họ cùng
đi. Khi đến một xóm hoang, thấy có cây gai mọc đầy trên mặt đất, họ
cùng nhau lấy đem về.
Khi đi ngang qua thôn cũ, họ thấy có đống chỉ
gai. Người trí nói: "Chỉ gai đã làm thành, nhỏ, nhẹ, đáng lấy hơn."
Người ngu nói: "Tôi đã lấy gai bó buộc chặt chẽ, bỏ thì uổng
quá."
Đoạn người trí bỏ cây gai đổi lấy một gánh
chỉ gai đem về. Họ lại cùng nhau tiến bước, bỗng gặp một đố鮧
vải gai. Người trí nói: "Vải gai đã làm
thành nhỏ, nhẹ, đáng lấy hơn." Người ngu nói: "Tôi đã lấy
cây gai bó buộc chặt chẽ, khi nãy còn chưa bỏ, bây giờ bỏ thì phí sức
quá."
Người trí liền bỏ gánh chỉ gai mà lấy vải
gai. Họ cùng nhau tiến bước, bỗng gặp một đố鮧 cây kiếp bối. Người trí nói: "Thứ cây kiếp bối
này rất quý giá, nhỏ, nhẹ, đáng lấy hơn." Người ngu nói: "Tôi
mang cây gai đã xa. Nay bỏ thì uổng quá."
Lúc ấy người trí liền bỏ vải gai mà lấy
cây kiếp bối. Họ cùng tiến bước, lại gặp chỉ kiếp bối, gặp bạch
diệp, gặp đồng trắng, rồi gặp bạc, gặp vàng.
Người trí nói: "Nếu không có vàng thì ta sẽ
lấy bạc, nếu không có bạc thì ta hãy lấy đồng hoặc lấy chỉ gai, nếu
không có chỉ gai ta hãy lấy cây gai. Nhưng nay tại thôn này có rất nhiều
vàng mà vàng là hơn hết trong các vật này. Vậy ta nên bỏ cây gai, bỏ bạc
để cùng nhau lấy vàng mỗi người một gánh đem về".
Người ngu nói: "Nếu anh muốn lấy thì lấy,
tùy ý. Tôi đã tốn công quá nhiều. Tôi không thể bỏ cây gai để đổi
lấy cái gì khác."
Thế rồi người trí một mình bỏ bạc lấy một
gánh vàng mang về. Đến nhà, bà con từ xa vừa trông thấy anh ta về, gánh
nhiều vàng thì vui mừng nghinh đón; người được vàng thấy bà con nghinh
đón lại càng vui mừng hơn. Trong khi đó, người ngu gánh cây gai về nhà,
bà con trông thấy không vui mừng, không nghinh tiếp nên anh càng thêm buồn
khổ. O
Thưa Hiền giả, Hiền giả nên từ bỏ quan niệm
sai lầm ấy đi, chớ để thêm khổ não. Như người gánh gai cứ chấp chặt
ý ngu, không chịu lấy vàng, gánh gai đem về, mệt nhọc uổng công mà
không có giá trị, bà con không vui và suốt đời phải chịu nghèo cùng,
càng thêm buồn khổ. O
Bà-la-môn Tệ Túc đáp:
- Thưa Tôn giả, tôi nhất định không bỏ quan
niệm sai lầm ấy. Vì tôi nhờ quan niệm sai lầm ấy mà dạy dỗ nhiều người,
đem lại nhiều lợi ích, vua chúa các nơi đều nghe tên tôi, đều biết rõ
tôi là hàng học giả chủ trương đoạn diệt.
Tôn giả Ca-diếp nói tiếp:
- Những người có trí nhờ thí dụ mà hiểu
rõ.
Về thuở xa xưa có một quốc độ mà nhân dân
ở biên cương đều điêu tàn. Lúc đó có một đoàn người buôn mang theo
một ngàn cỗ xe đi ngang qua nước này. Họ thiếu lương thực, không đủ
cung cấp. Người chủ buôn suy nghĩ: "Chúng ta nên phân thành hai nhóm.
Nhóm thứ nhứt đi trước dẫn đường." Người dẫn đường nhìn thấy
một người thân thể to lớn, mắt đỏ, mặt đen, xoa bùn khắp cả mình từ
đằng xa đi lại, bèn hỏi:
- Người từ đâu lại ?
- Tôi từ thôn phía trước đến.
- Chỗ người có nhiều nước, gạo, củi, rau không?
- Chỗ tôi có nước, gạo, củi, rau dư dả. Lúc
tôi đi giữa đường bỗng gặp trời mưa to nên ở thôn kia lại càng có
nhiều nước, gạo, củi, rau.
Người ấy lại bảo thương chủ:
- Nếu trên xe ngươi có chở gạo, rau thì bỏ xuống
vì tại thôn ấy có nhiều gạo, rau, không cần chở cho nặng xe.
Thể theo lời người ấy, họ đều bỏ gạo rau
để cho xe nhẹ đi mau tới nơi. Nhưng họ đi một ngày, hai ngày, ba ngày
cho đến bảy ngày cũng không thấy gì cả. Lúc ấy đoàn người buôn đã
lâm vào nơi đồng vắng và bị quỷ bắt ăn thịt cả.
Về sau, nhóm thứ hai tiếp tục lên đường,
người chủ buôn đi đầu, lại gặp người mắt đỏ mặt đen, thoa bùn khắp
người. Người chủ đoàn hỏi và được người mắt đỏ ấy trả lời
như trường hợp nhóm thứ nhứt. Lần này, người chủ đoàn thận trọng
hơn, ông bảo với những người trong đoàn: "Hãy giữ kỹ lương thực,
chớ vất bỏ. Bao giờ được lương thực mới, rồi sau đó hãy bỏ. Vì
sao? Vì đồ mới, đồ cũ phải có tiếp tục, mới mong ra khỏi cánh đồng
trống này." Thế nên cả đoàn người buôn cứ chở xe nặng mà đi.
Đi được một ngày như thế nhưng không thấy nước rau đâu cả, tiếp tục
đi ngày thứ hai, thứ ba cho đến ngày thứ bảy cũng không thấy có nước
đâu cả. Họ chỉ thấy xương cốt ngổn ngang của đoàn người đi trước
bị quỷ ăn bỏ lại.
Này Hiền giả, người mắt đỏ mặt đen kia chính
là quỷ La-sát. Những người nghe theo lời nó suốt đời chịu khổ, chẳng
khác nào đoàn người buôn thứ nhất vì không có trí tuệ nên nghe lời người
dẫn đường, do đó phải thiệt mạng. Này Hiền giả! Trái lại, những
sa-môn, bà-la-môn tinh tấn có trí tuệ, họ có dạy gì, nếu ai nghe theo suốt
đời được an vui, như đoàn người buôn thứ hai, đã nhờ có trí tuệ
nên khỏi bị tai nạn.
Này Hiền giả, Hiền giả nên bỏ quan niệm sai
lầm ấy đi, chớ để suốt đời chỉ thêm khổ não.
Bà-la-môn Tệ Túc vẫn nhất quyết không từ bỏ
quan điểm của mình. Tôn giả Ca-diếp tiếp tục dẫn dụ:
- Trong kiếp xa xưa có một quốc độ mà nhân
dân ở biên cương đều điêu tàn. Lúc đó có một người thích nghề
nuôi heo, đi đến một thôn vắng khác, thấy có nhiều phân khô liền nghĩ
thầm: "Nơi đây có nhiều phân mà đàn heo ta ở nhà đang đói, ta nên
lấy cỏ gói phân này đội lên đầu đem về." Nghĩ vậy anh ta liền lấy
cỏ gói phân lại và đội đi. Đi được nửa đường gặp trời mưa to,
phân rỉ nước khắp mình mẩy. Mọi người thấy vậy đều chê anh ta là
điên cuồng: "Thứ phân nhơ ấy, giả sử trời mát mẻ cũng không ai
đội huống là đội đi giữa cơn mưa." Anh ta nổi giận mắng lại:
"Các ngươi là đồ ngu, không biết heo ta ở nhà đang đói, nếu các ngươi
biết thì không ai nói ta ngu đâu."
Này Hiền giả, Hiền giả nên từ bỏ quan niệm
sai lầm ấy đi, chớ giữ chặt sự mê lầm mà suốt đời phải chịu khổ
đau. Cũng như người ngu kia đội phân đi bị người khác chê, khi được
can gián thì trở lại mắng nhiếc người ta là ngu si.
Này Hiền giả, thuở xưa, ở thôn Tư-ba-ê này
có một người phạm-chí kỳ cựu, tuổi đã một trăm hai mươi, có hai người
vợ, một người có con trước, một người mới mang thai.
Chẳng bao lâu, phạm-chí qua đời. Mẹ con người
vợ lớn nói với người vợ nhỏ rằng: "Bao nhiêu của báu này đều
giao hết cho chúng tôi cả, ngươi không có phần nào." Người vợ nhỏ
nói: "Chị hãy chờ một thời gian ngắn, tôi sẽ sanh, nếu là con trai
thì phải có một phần gia tài, nếu là con gái thì chị đem gả chồng để
lấ鹠tiền của." Nhưng người vợ lớn
cứ nài nỉ đến ba lần, đòi chia gia tài cho được. Người vợ nhỏ vẫn
trả lời như trước. Con của người vợ lớn cứ ép bức mãi, người vợ
nhỏ nổi giận lấy dao bén tự mổ bụng mình để coi trong bụng con trai
hay là con gái.
Này Hiền giả, người mẹ tự mổ bụng mình lại
hại luôn đứa con trong bào thai. Nay Hiền giả cũng thế, đã tự giết
mình còn muốn giết kẻ khác. Chỉ có sa-môn, bà-la-môn nào siêng tu thiện,
giới đức đầy đủ, nếu sống lâu ở đời mới đem lại nhiều lợi
ích an lạc cho cả trời, người. O
Thưa Hiền giả, nay tôi sẽ đem dẫn dụ cuối cùng
để Hiền giả thấy rõ sự tai hại của quan niệm sai lầm. Thuở xưa tại
thôn Tư-ba-ê này có hai người giỏi về nghề luyện bi. Một hôm hai người
đấu nghề với nhau, một người thắng cuộc, một người thua cuộc. Thế
rồi, người thua cuộc nói với người thắng cuộc rằng: "Thôi, hôm
nay chúng ta nghỉ, ngày mai đấu lại." Nói xong người thua cuộc trở về
nhà lấy những hòn bi tẩm thuốc độc rồi đem phơi khô. Sáng hôm sau, anh
ta mang những hòn bi đó đến chỗ người thắng cuộc yêu cầu đấu lại.
Trước khi chơi, người thua cuộc lấy một hòn bi đã tẩm thuốc độc
trao cho người thắng cuộc, người thắng cuộc lấy nuốt, người thua cuộc
lại trao nữa, người thắng cuộc tiếp tục nuốt. Lúc ấy người thắng
cuộc bị chất độc thấm làm rung động cả thân.
Kể xong tôn giả Ca-diếp khuyên bà-la-môn Tệ
Túc rằng:
- Xin Hiền giả nên mau bỏ quan niệm sai lầm, chớ
để mê muội mãi lại càng thêm khổ sở, như người chơi bi kia nuốt độc
mà không biết.
Lúc đó bà-la-môn Tệ Túc thưa tôn giả Ca-diếp
rằng:
- Thưa Tôn giả, ngay thí dụ đầu tiên về mặt
trăng, tôi đã hiểu rồi, sở dĩ tôi tráo trở không chấp nhận liền là
vì tôi muốn thấy trí tuệ biện tài của Ngài để thêm vững chắc lòng
tin. Nay tôi xin tín thọ quy y với Ngài.
Tôn giả Ca-diếp đáp:
- Hiền giả chớ quy y với tôi mà nên quy y với
đấng Vô Thượng Tôn, như tôi đã quy y.
Bà-la-môn Tệ Túc thưa:
- Hiện nay đấng Vô Thượng Tôn đang ngự ở đâu?
Tôn giả Ca-diếp đáp:
- Đức Thế Tôn thầy tôi đã diệt độ chưa
bao lâu.
Bà-la-môn Tệ Túc nói:
- Nếu Đức Thế Tôn còn, chẳng quản xa gần
tôi cũng tìm đến gặp Ngài và quy y lễ bái. Nhưng nay Đức Thế Tôn đã
diệt độ, vậy tôi xin quy y Đức Như Lai đã diệt độ, quy y Pháp và quy
y chúng Tăng. Xin Tôn giả hãy chấp nhận tôi là kẻ ưu-bà-tắc ở trong
chánh pháp. Từ nay về sau tôi nguyện trọn đời không sát sanh, không trộm
cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Tôi nay sẽ đại
bố thí cho tất cả."
Tôn giả Ca-diếp nói:
- Nếu Hiền giả sát hại chúng sanh, đánh đập
tôi tớ để mở hội bố thí, điều đó chẳng phải là phúc thanh tịnh.
Nếu giết hại chúng sanh, đánh đập tôi tớ để mở hội bố thí và bố
thí cho hạng người tà kiến thì đó chẳng phải là tạo phúc thanh tịnh.
Ví như trên đất cạn nhiều sạn sỏi, nhiều chông gai mà đem gieo giống
vào, chắc chắn không gặt hái được gì. Trái lại, nếu mở hội đại
thí mà không giết hại chúng sanh, không đánh đập tôi tớ, đem lòng hoan
hỷ mở hội bố thí, bố thí cho hạng người thanh tịnh thì Hiền giả sẽ
thu được nhiều phúc lớn. Cũng như ruộng tốt đúng mùa mà gieo giống, tất
nhiên sẽ thu hoạch được nhiều tốt đẹp."
Bấy giờ, bà-la-môn Tệ Túc, thiếu niên phạm-chí,
chúng bà-la-môn và các cư sĩ v.v… trong thôn Tư-ba-ê nghe tôn giả Ca-diếp
nói pháp xong đều hoan hỷ phụng hành. OOO
| Mục lục | Phần vào khóa le㠼 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | Phần hồi hướng |