Đối với hương linh và tang quyến chưa tường tận về giáo
lý nghiệp báo và tái sanh của đạo Phật thì ta nên tụng Kinh Cúng Thí
Người Mất và Kinh Nghiệp Báo Tái Sanh.
Việc tụng kinh phù hợp với căn cơ của hương linh và
tang quyến sẽ giúp cho kẻ còn lẫn người mất được nhiều lợi lạc.
Tuy nhiên, chúng ta nên linh động trong việc chọn kinh nào thật sự thích hợp
để tụng, không nhất thiết phải y theo hoàn toàn hướng dẫn có tính
cách đề nghị trên đây. Do đó, chúng ta có thể luân phiên tụng một
trong sáu Kinh để giúp cho hương linh và tang quyến biết rõ được toàn bộ
lời dạy của Phật về quy luật vô thường, sanh tử và tái sanh. Được
như vậy thì lợi lạc sẽ nhiều hơn.
III. Nội dung của các kinh trong
Nghi thức cầu siêu
1. Kinh
thế giới cực lạc
Bản kinh này do thiền sư Nhất Hạnh dịch và ấn hành
trong nghi thức tụng niệm của Làng Mai. Tựa đề của bản dịch ghi là Kinh
A-di-đà. Chúng tôi đã sửa lại tên kinh phù hợp với nội dung và chủ
đề của kinh.
Như tên gọi của nó, kinh này giới thiệu về cảnh giới
cực lạc của đức Phật A-di-đà. Đây là thế giới vắng bóng hoàn toàn
mọi khổ đau; một thế giới thanh tịnh, an lạc và lý tưởng. Sinh hoạt
căn bản của chúng sanh trong thế giới này là thiền định. Các loài chim
và âm thanh gió, cây cũng đều là các phương tiện tuyên dương pháp âm của
đức Phật để hóa độ chúng sanh trở về con đường chánh pháp. Ánh
sáng trí tuệ của Phật A-di-đà cũng như thọ mạng của ngài là vô lượng
không thể tính đếm. Các chúng sanh trong cõi này đều là những bậc
không còn thối chuyển về đạo đức và trí tuệ.
Để được tái sanh về thế giới này, đức Phật dạy hành
giả phải tu tập thiền niệm Phật "nhất tâm bất loạn." Với phương
pháp trì danh niệm Phật, an trú vào trong định, tâm xa lìa mọi điên đảo
vọng tưởng, hành giả sẽ được tái sanh về thế giới cực lạc, khi nhắm
mắt lìa đời. Điểm cần chú ý trong kinh này là pháp môn niệm Phật
"nhất tâm bất loạn" là một pháp thiền định. Khi tâm an trú
vào trong định, sự niệm Phật đã trở thành niệm tâm và niệm thiền. Với
hành trang này, người ta sẽ có thể tái sanh về thế giới của Phật
A-di-đà theo tâm nguyện.
2.
Kinh quy luật cái chết
Kinh này do tỳ-kheo Thích Tâm Tịnh tóm lược từ kinh Tăng
Chi II, 60-63, bản dịch của HT Thích Minh Châu, năm 1988. Bài kinh này kể lại
câu chuyện thương tâm về sự qua đời đột ngột của hoàng hậu
Ma-li-kha, vợ của vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) trong khi vua đang nghe đức Phật
thuyết pháp. Trước hung tin đó, đức vua bất giác sửng sờ, mất hết thần
sắc. Đức Phật liền dạy rằng có 4 sự kiện như một quy luật không từ
một ai, đó là, già, bệnh, chết và hoại diệt. Ngoài ra, đức Phật còn
dạy cách khắc phục cơn đau sanh ly tử biệt này với một nhận thức như
sau:
"Không phải chỉ riêng ta lâm vào cảnh âm dương chia cách
này, phàm các loài hữu tình có đến phải có đi, có sanh tất có diệt,
có hợp phải có tan. Quy luật này không loại trừ một ai."
Bài kinh này như một tuyên ngôn về quy luật sống chết
là lẽ thường. Người Phật tử khi đứng trước cảnh đau thương đó phải
biết phát khởi chánh tín, không nên khóc lóc, than thở, mà trái lại nên
bình tỉnh, niệm Phật trợ tiến hương linh, giúp hương linh vãng sanh một
cách nhẹ nhàng và không còn vướng bận.
3.
Kinh nhổ mũi tên sầu muộn
Bài kinh này do cư sĩ Phan Khắc Nhượng chuyển thơ từ kinh
Tăng Chi II, 63- 68, bản dịch của HT Thích Minh Châu, năm 1988. Duyên khởi của
kinh này cũng gần giống với kinh quy luật cái chết. Khi hay tin hoàng hậu
Bha-đa thăng hà, đức vua Mun-đa sửng sốt, bỏ bê việc triều chính, đau
khổ tột cùng. Vua tẫn liệm hoàng hậu bằng loại quan tài đặc biệt,
được bao bọc bằng nhiều lớp, những mong giữ thi thể của hoàng hậu
được lâu. Nhờ có đại thần Pi-ja-ka hướng dẫn, đức Vua đã đến gặp
tôn giả Nan-đa để cầu mong ngài cứu giúp. Tôn giả đã từ tốn giảng
dạy về quy luật của cái chết, và khuyên đức vua:
- "An lòng gác chuyện sầu bi,
- tử sinh sinh tử có chi bận lòng!"
Với pháp thoại gần gủi nhưng sâu xa, đức vua đã giác
ngộ được quy luật vô thường sanh tử, trở nên trầm tỉnh và an lạc.
Sau thời pháp thoại, đức vua từ giã tôn giả ra về, làm lễ hỏa táng
hoàng hậu và bắt đầu mọi việc triều chính trở lại.
Câu chuyện này cho chúng ta thấy con người thường chỉ
đau thương trước sự tử biệt của người thân mình trong khi dửng dưng
trước hàng trăm triệu ngàn cảnh âm dương cách biệt của người khác.
Bài kinh nhắn nhủ chúng ta nên bình tỉnh trước cơn sống chết, lo tang lễ
một cách giản đơn nhưng chu đáo, đúng với tinh thần chánh pháp, để
cho người qua đời và người còn sống đều được lợi lạc.
4.
Kinh vô thường, khổ não và vô ngã
Kinh này do cố HT Hộ Tông dịch, ấn hành trong kinh Nhật
Tụng, hệ Nam Tông, (Thành hội Phật giáo HCM xuất bản năm 1990), trang
55-78. Bài kinh được chuyển ngữ theo thể thơ song thất lục bát, rất
tài tình và độc đáo.
Nội dung kinh nhằm phân tích về thuộc tính của mọi sự
vật hiện tượng trên đời là không thường còn, không có thực thể và
dẫn đến đau khổ. Nguyên lý vô thường của mọi sự vật được ghi nhận
trên chiều thời gian, trong khi nguyên lý vô ngã được đánh dấu về mặt
không gian của sự vật. Nói cách khác thuộc tính đôi này không tách rời
nhau: mọi sự vật hiện tượng không phải là ngã, không có thực thể và
do đó trở nên vô thường, mong manh, giả tạm, có đó rồi mất đó. Hiện
tượng sanh diệt, chóng vánh này thường dẫn đến cảm giác đau khổ ở
con người.
Thông qua ba nguyên lý này, bài kinh dạy chúng ta nên sống
an trú trong từng phút giây hiện tại, không để cho các kinh nghiệm đau khổ
hay hạnh phúc của quá khứ lôi kéo và chi phối, cũng như không hướng vọng
về tương lai chưa đến. Lối sống an trú trong hiện tại một mặt giúp
chúng ta xã bỏ được tất cả thế giới kinh nghiệm, mặt khác giúp
chúng ta sống an nhiên tự tại trong mọi thăng trầm và biến cố của cuộc
đời. Nhờ đó, vĩnh viễn xa lìa được các nghiệp ác, bất thiện, an
trú trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc.
5.
Kinh cúng thí người mất
Bài kinh này do tỳ-kheo Thích Tâm Tịnh tóm lược từ kinh
Tăng Chi III, bản dịch của HT Thích Minh Châu, năm 1988. Bài kinh là một cuộc
pháp thoại giữa đức Phật và bà-la-môn Janussoni, một người chuyên làm
lễ hiến tế người chết. Bà-la-môn này hỏi đức Phật rằng sự cúng
kiếng cho người đã qua đời có lợi ích hay không và người chết có nhận
được sự cúng dường đó hay không? Đức Phật trả lời rằng chỉ khi nào
có sự tương xứng thì người chết mới nhận được của cúng cho họ.
Theo đức Phật chỉ có một trường hợp tương xứng duy
nhất là nếu người chết tái sanh vào loài ngạ quỹ, loại chúng sanh sống
bằng sự cúng kiếng của người còn sống, thì họ sẽ nhận được sự
cúng đó. Chúng sanh nào khi sống làm nhiều điều ác độc, chết bị đọa
vào ngạ quỹ hoặc các loài động vật. Tại đây, các chúng sanh đó
không thể nhận được sự cúng của người thân, vì họ có sự sống
riêng. Tương tự, chúng sanh nào khi sống do làm điều thiện, lúc chết
được tái sanh làm người hay chư thiên thì cũng không nhận được sự cúng
của người thân, vì tại thế giới loài người và loài trời, họ có sự
sống khác biệt, được cha mẹ của họ nuôi nấng.
Khi cúng kiếng cho người thân như vậy, dù trong trường hợp
người thân quyến của người cúng không bị đọa vào ngạ quỹ, người
phát tâm cúng kiếng đó cũng gặt hái nhiều lợi ích. Nhân đây, đức Phật
dạy về lợi ích của bố thí và cúng dường. Người tu hạnh bố thí dù
cho có làm ác khi chết bị tái sanh vào các loài thú, như voi, ngựa, v.v…
cũng được phước báu hơn các loài thú khác. Do quả báo của bố thí,
chúng sẽ được chủ nhân chăm sóc, cho ăn uống và trang phục đầy đủ
hơn các con thú khi còn làm người không biết bố thí và cúng dường.
Tương tự, nếu người sống biết bố thí và cúng dường lại còn tu tập
nhiều hạnh lành, xa lánh điều tội lỗi, thì khi còn sống thì được mọi
người kính nễ, thương yêu, khi qua đời thì được tái sanh làm chư thiên
để hưởng phước báo. Nói chung trong mọi trường hợp, hạnh bố thí
cúng dường đều mang lại nhiều giá trị đạo đức cho người thực hành.
6.
Kinh nghiệp báo tái sanh
Kinh này là bản tóm tắt của tỳ-kheo Thích Tâm Tịnh từ
bản dịch của Viện Cao Đẳng Phật Học Huệ Nghiêm, từ Trường A Hàm I,
kinh thứ 7, tr 329- 364, ĐTKVN. Tựa kinh trong nguyên tác bản dịch là Kinh Tệ
Túc. Chúng tôi đổi thành kinh nghiệp báo tái sanh để phù hợp với
chủ đề của kinh.
Bài kinh này là một cuộc đối thoại đầy triết lý, diễn
ra sau khi đức Phật niết-bàn chẳng bao lâu, giữa đồng nữ Ca-diếp và
bà-la-môn Tệ Túc, về các bằng chứng của tái sanh. Bà-la-môn Tệ Túc là
người chủ trương không có đời sau, không có quả báo thiện ác. Ông vận
dụng "chủ nghĩa kinh nghiệm" để phủ bác không có nghiệp báo
và tái sanh. Trong suốt cuộc đời của ông, ông chưa từng chứng kiến cảnh
một người nào, ngay cả người thân của ông, làm nhiều điều tội lỗi,
sau khi chết bị đọa vào địa ngục rồi trở về mách bảo ông rằng họ
bị đọa đầy trong ngục khổ. Ông cũng biện luận rằng cũng chưa từng
gặp một người nào làm nhiều thiện và đạo đức khi chết được tái
sanh vào cõi trời, trở về báo cho ông rằng phước báo làm lành là có.
Và còn nhiều cách lý luận khác nữa để phủ định nhân quả báo ứng.
Nữ tôn giả Ca-diếp đã vận dụng nhiều phương tiện để
chứng minh ngược lại. Đối với trường hợp thứ nhất tôn giả cho rằng
người bị đọa địa ngục do vì nghiệp báo nên không thể có dịp trở
về báo với người thân trên dương thế. Đối với trường hợp thứ
hai, người sanh cõi trời do hưởng các an lạc và hạnh phúc cõi trời,
không còn thiết tha với cõi ta-bà đầy đau khổ nên không muốn trở về
mách bảo. Đó là chưa nói đến sự khác nhau về thời gian và không gian,
do đó khó mà trở về trái đất để mách bảo được. Sau khi đưa ra nhiều
bằng chứng cụ thể và sinh động, nữ tôn giả Ca-diếp đã thuyết phục
được bà-la-môn Tệ Túc tin vào nhân quả báo ứng và khuyến khích vị
bà-la-môn này làm nhiều điều bố thí và tế lễ không có máu thịt của
chúng sanh, để gặt hái các quả báo hạnh phúc và an vui ngay hiện đời và
đời sau.
IV. Kết luận
Với sáu bài kinh căn bản của hai truyền thống Phật giáo
Nam tông và Bắc tông, nghi thức cầu siêu không chỉ giới thiệu pháp môn
niệm Phật như thiền định để giúp người quá cố được tái sanh về
cảnh giới cực lạc của Phật A-di-đà, mà còn giới thiệu các kinh dạy
về cách khắc phục và vượt qua cơn đau vô thường "sanh ly tử biệt"
hay "âm dương xa cách." Các phương pháp này một mặt khẳng định
cái già, bệnh và chết là một quy luật không loại trừ một ai, mặt
khác khuyên dạy tất cả mọi người, nhất là thân quyến của người chết
nên bình tỉnh, không than khóc, sầu thảm, mà trái lại niệm Phật, tạo
nhiều phước lành, hồi hướng cho người quá vãng, để giúp cho người
chết một hành trang tốt trong lúc tái sanh. Được như vậy, chắc chắn rằng
cuộc đời sẽ bớt đi các tình trạng đau thương, sầu thảm cũng như những
hậu quả của nó, do cái chết gây ra; thế giới sẽ không còn cảnh bi lụy
do không hiểu được quy luật của sanh tử, sống chết chập chùng.