Tiến
về trung nguyên:
Pháp môn Đông Sơn,
dưới sự chỉ đạo và nhờ các hoạt động của Đạo Tín và Hoằng Nhẫn, gây
được sự chú ý của mọi người. Sau đó, với Pháp Như (638-689), nó lại
được phát triển rộng rãi ở trung nguyên. Đặc biệt dưới thời Tắc
Thiên Vũ Hậu 624-705, trị vì 684-705), người đã lợi dụng thanh thế
của Phật Giáo để lên ngôi hoàng đế, pháp môn Đông Sơn đã được sự
quan tâm của hoàng thất cũng như cấp quí tộc và sĩ đại phu đến độ
Thần Tú (? - 706) và Huệ An (tức Lão An, 651-739) đã được mời vào
nội cung để cúng dường. Kể từ đó, môn hạ của Thần Tú (tức là Bắc
Tông, đói với Nam Tông là môn hạ của Huệ Năng) như Phổ Tịch (tức
Thiên Chiếu thiền sư, 651-739) và Nghĩa Phúc (Đại Trí thiền sư,
658-736) có cơ hội đưa tông phái mình đến chỗ hưng thịnh.
Hết đời Tắc Thiên Vũ
Hậu, qua các đời hoàng đế Trung Tông (trị vì 684-710), Duệ Tông (trị
vì 710-712) và Huyền Tông (trị vì 712-756) nghĩa là suốt giai đoạn
Thịnh Đường (713-770), Bắc Tông vẫn tiếp tục chiếm ưu thế đến nỗi có
được danh hiệu "Lưỡng kinh pháp chủ, tam đế quốc sư" để xưng tụng
Phổ Tịch, người mà sau khi Thần Tú mất rồi, đã trở thành một tiêu
biểu của dòng Thiền trung nguyên. (Chữ dùng này thấy chép trong Bồ
Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận. Lưỡng kinh ám chỉ Trường An và
Lạc Dương, còn tam đế tức là 3 vua Trung Tông, Duệ Tông và Huyền
Tông).
Về Ngọc
Tuyền Thần Tú:
Ông người vùng Trần Lưu Úy Thị
(tỉnh Hà Nam), họ Lý. Lúc trẻ theo học nhiều thứ nhưng sau (năm 625)
xuất gia và trở thành đệ tử của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ở Đông Sơn. Sau
khi thầy mất, ông về trụ trì chùa Ngọc Tuyền thuộc Kinh Châu, giáo
hóa nhiều người. Danh tiếng đồn vang trung nguyên, năm 701, Tắc
Thiên Vũ Hậu mới mời ông đến Lạc Dương để tổ chức cúng dường. Sau đó
với tư cách "tam đế quốc sư" (bậc thầy của ba Hoàng Đế là Vũ Hậu,
Duệ Tông và Trung Tông), ông hoạt động bố giáo ở hai kinh Trường An
và Lạc Dương, cuối cùng mất ở chùa Thiên Bảo Tự ở Lạc Dương vào năm
706, tương truyền lúc đó tuổi đã hơn trăm. Trung Tông ban thụy hiệu
Đại Thông thiền sư, và để tán dương công đức của ông, vua mới sắc
cho xây Độ Môn Tự ở Kinh Châu. Có bài văn bia Đường Ngọc Tuyền Đại
Thông Thiền Sư Bi Minh Bình Tự do đại quan và thi nhân cung đình nổi
tiếng đời ấy là Trương Duyệt soạn. Tuy pháp môn Đông Sơn tiến được
vào trung nguyên là do nỗ lực không ngừng của Pháp Như và Huệ An
nhưng việc Thần Tú được phong làm "đế sư" có ảnh hưởng vô cùng to
lớn đối với sự hưng thịnh của môn phái. Sau đó Thần Tú và môn hạ sẽ
bố giáo rộng rãi khắp trung nguyên, quyền uy của họ thì những người
khác trong nhóm "Hoằng Nhẫn thập đại đệ tử" cũng phải thừa nhận.
Về sự phân
biệt Nam Tông Bắc Tông:
Hình như Nam Tông là cái tên
từ xưa tất cả những ai thừa kế tư tưởng của Đạt Ma và Huệ Khả đều tự
xưng. Nguyên lai của cách xưng hô này, nếu dựa theo bài viết về Pháp
Trùng trong Tục Cao Tăng Truyện thì nó đến từ chữ "Nam Thiên
Trúc nhất thừa tông", có nghĩa là "Một giáo lý ở phía nam Ấn
Độ". Do đó, như đã thấy chép trong Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị
Phi Luận, thì việc Thần Tú và môn hạ là những người thuộc Bắc Tông
có "tiếm xưng" cho mình là Nam Tông cũng không có gì đáng làm lạ.
Thế nhưng đến lúc Hà Trạch Thần Hội (684-758) xuất hiện thì, ý nghĩa
của chữ Nam Tông đã thay đổi rất nhiều. Điều đó có nghĩa là trong
quá trình phê phán Thần Tú và môn hạ, Thần Hội đã dùng chữ Nam Tông
theo cái nghĩa "Tông phái thiền ở phía nam Trung
Quốc". Phía nam này trỏ vùng đất phía nam Ngũ Lĩnh, nó còn là ranh
giới của giáo lý thu lại trong những lời chỉ dạy của tôn sư Huệ Năng
(638-713). Theo chủ trương của Thần Hội, đây mới chính là Nam Tông
và nhóm Thần Tú, hoạt động trong vùng lưỡng kinh, không có tư cách
gì để chiếm đoạt cái tên đó. Thuyết ấy sau này đã được chấp nhận một
cách rộng rãi từ khi đến lượt hệ phái thiền của Huệ Năng gặp hồi
hưng thịnh. Rốt cuộc, lối gọi thiền Huệ Năng là Nam Tông, thiền Thần
Tú là Bắc Tông trở thành thông dụng. Tuy Bắc Tông là chữ trước kia
những phái khác mượn để chê bai Thần Tú và môn hạ, nhưng ngày nay,
vì tiện lợi, người ta đã dùng nó để chỉ hẳn nhóm ấy mà không có ý
phê phán nào. Không riêng cho một nhóm Thần Tú, chữ Bắc Tông ấy còn
bao hàm tất cả hệ phái xuất phát từ cửa Hoằng Nhẫn nhưng đứng ngoài
nhóm Huệ Năng và sau đó là nhóm Ngưu Đầu Tông của Pháp Trì
(635-702). Quyển sách này cũng áp dụng cách gọi ấy nhưng dùng chữ
Bắc Tông theo nghĩa hẹp, giới hạn nó trong khung Bắc Tông của hệ
phái Thần Tú-Phổ Tịch.
Phản ứng đối với Thiền Bắc Tông:
Một trong những lý
do làm cho Thiền Bắc Tông được giới quí tộc, sĩ đại phu trung nguyên
chấp nhận có lẽ vì về một mặt nào đó, tư tưởng của tông phái họ có
chỗ hợp lưu với dòng chảy chính của giáo lý nhà Phật. Thế nhưng, đây
không hẳn là một đặc tính cố hữu của pháp môn Đông Sơn, nó là một
thứ tư tưởng Đông Sơn mà Thần Tú và môn hạ đã làm biến chất. Hồi đó,
Thần Tú, lãnh tụ của nhóm, trụ trì ở chùa Ngọc Tuyền vùng Kinh Châu,
nơi đây từng là căn cứ của nhóm Ngọc Tuyền Thiên Thai. Tông Thiên
Thai đã được phát triển rộng rãi nhờ hai vị tăng Hoằng Cảnh
(634-712) và Huệ Chân (673-751). Nên biết rằng tăng Giám Chân
(688-763), học trò của Hoằng Cảnh đã được mời đến Nhật Bản như một
luật sư (tăng nhân chuyên môn về giới luật Phật giáo) và việc nghiên
cứu về giới luật được nhóm Ngọc Tuyền Thiên Thai hết sức cổ võ. Phổ
Tịch (học trò Thần Tú) đã từng theo học Hoằng Cảnh, lại nữa, học giả
Mật Giáo và Thiên Thai đương thời như Nhất Hành (683-727) và Thủ
Chân (700-770) đều thờ Phổ Tịch làm thầy. Những điều đó cho thấy môn
hạ của Hoằng Cảnh và môn hạ của Thần Tú thường xuyên giao lưu, cho
nên néu có ảnh tưởng đối với nhau về mặt tư tưởng cũng là việc dễ
hiểu.
Giao lưu
giữa Bắc Tông và các tông phái khác:
Hai tăng Nhất Hành và Thủ Chân
vừa là học trò Phổ Tịch vừa theo học giới luật và giáo lý Thiên Thai
với Huệ Chân, vừa tìm hiểu Mật Tông qua Thiện Vô Úy (637-737). Riêng
về Huệ Chân, tuy là đệ tử của Từ Mẫn Tam Tạng Huệ Nhật nhưng lại thờ
Thừa Viễn, một học trò Thiền học của Xử Tịch (665-732), làm thầy.
Trong cuốn Thiện Vô Úy Tam Tạng Thiền Yếu (tiền bán thế kỷ thứ 8)
của Thiện Vô Úy, có sự xuất hiện của Kính Hiền (660-723), học trò
của Thần Tú. Cũng vậy, Đạo Tuyền (701-760), người được mời sang Nhật
dạy giới luật như Giám Chân, lại là đệ tử của Phổ Tịch. Như thế, ta
biết được rằng giữa Thiền Bắc Tông, Mật Tông, Thiên Thai Tông, Luật
Tông, thật khó lòng chối cãi sự quan hệ mật thiết qua giao lưu giữa
người với người. Trong số những văn thư tìm thấy ở Đôn Hoàng đã có
Nam Thiên Trúc Quốc Bồ Đề Đạt Ma Thiền Ngữ Quán Môn, một bản văn pha
trộn lẫn tư tưởng Thiền và Mật Giáo. Đây cũng là một bằng chứng có
những trước tác đã ra đời nhờ có sự giao lưu giữa các luồng tư tưởng
nói trên. Hơn nữa, vị tổ của tông Thiên Thai Nhật Bản, cao tăng Tối
Trừng (767-822) đã từng tự cho mình là người truyền thừa Viên - Mật
- Thiền- Giới - Tứ Chủng (tức là bốn luồng tư tưởng Thiên Thai, Mật
Giáo, Thiền Bắc Tông và Ngưu Đầu Tông cũng như Viên Đốn Giới). Tư
tưởng "tứ chủng tương thừa" này của Tối Trừng rõ ràng đã nhất trí
với khuynh hướng "chư tông dung hợp" lúc đó được coi như là mới mẻ
nhất ở Trung Quốc. Mặt khác, tuy không liên quan gì đến Bắc Tông
nhưng việc người nhận pháp tự của Lục Tổ Huệ Năng là Nam Nhạc Hoài
Nhượng (677-744) về sau đã xuất gia và tu học ở cửa Hoằng Cảnh, thầy
của Huệ Chân, cũng là một sự kiện đáng cho ta chú ý.
Thiền Bắc Tông nếu
được phát triển mạnh mẽ cũng là do sự bố giáo tích cực của tăng lữ
Bắc Tông. Việc tạo ra nghi thức tiếp nhận Bồ Đề Giới là phương tiện
giúp cho thanh thế của tông phái ngày càng lớn. Trong Đại Thừa Vô
Sinh Phương Tiện Môn, bộ sách cơ sở truyền bá tư tưởng của nhóm Thần
Tú - Phổ Tịch, phần đầu trong lời tựa đã nhắc đến "Thụ Bồ Tát Nghi
Thức". Đây là một bằng chứng về việc đó. Tuy nhiên nếu đọc các trước
tác của Nam Tông như Lục Tổ Đàn Kinh (thế kỷ thứ 8) hay Nam Dương
Hòa Thượng Đốn Giáo Giải Thoát Thiền Môn Trực Liễu Tính Đàn Ngữ cũng
như nhìn vào các hoạt động của Hà Trạch Thần Hội, Vô Tướng (684-762)
ở Tịnh Chúng Tự, Vô Trú (714-774) ở Bảo Đường Tự, thì phương pháp bố
giáo như thế rất phổ biến trong thời kỳ đầu của Thiên Tông. Thật ra,
việc ban bố và nhận lãnh Bồ Tát Giới không chỉ giới hạn trong phạm
vi Thiền Tông mà thôi, cho nên có lẽ còn phải giải thích sức lôi
cuốn của nó bằng những lý do khác nữa.
Một trong những lý
do ấy là tính đặc dị của hệ tư tưởng và phương pháp tu hành của phái
Thần Tú - Phổ Tịch. Đối với giới vương hầu quí tộc, nó tỏ ra hết sức
mới mẻ và kích thích được họ. Về câu hỏi tại sao pháp môn Đông Sơn
đã bành trướng rộng rãi và cuồng nhiệt ở vùng lưỡng kinh như vậy,
chắc phải giải thích bằng tính hiếu kỳ của người đời. Thời ấy, có
rất nhiều nhân vật nổi tiếng giao du với Bắc Tông. Trong nhóm họ, ta
có thể kể ra chẳng hạn Trương Duyệt (667-730), người viết văn bia
Thần Tú, Vương Tấn (699-781), học trò Phổ Tịch, Lý Ung (678-747),
người viết văn bia Phổ Tịch và Nghiêm Đĩnh Chi (673-742) đã qui y
với Đại Trí thiền sư Nghĩa Phúc và sau cũng viết văn bia về ông.
Không khí sôi nổi ấy
đã gây ra một kích thích lớn đối với những nhà truyền giáo Tịnh Độ
Tông, lúc đó vừa mới trở nên hưng thịnh nhờ những nỗ lực của Thiện
Đạo (613-681). Lý do là từ khi có pháp môn Đông Sơn, những người
theo Thiền Tông phủ định hoàn toàn giá trị phương pháp tu hành mà họ
gọi là của "người ốm đau", "kẻ ngu muội", nói cách khác, phép tu
theo lối niệm Phật để có cái tâm thanh tĩnh (tịnh tâm) và sau đó chờ
cho Phật độ vãng sanh cực lạc. Việc Thiền Tông bành trướng được thế
lực rộng lớn như thế chắc chắn không phải là điều mà những nhà tu
Tịnh Độ Tông phái Thiện Đạo mong mỏi.
Vì lý do trên, phái
Tịnh Độ bắt đầu biện bác để đối kháng lại Thiền Tông. Để hiểu điều
đó, ta có thể xem trước tác nhan đề Thích Tịnh Độ Quần Nghi Luận
(Giải thích những điểm nghi ngờ về phái Tịnh Độ, khoảng cuối thế kỷ
thứ 7) do Hoài Cảm (năm sinh năm mất không rõ), một đệ tử của Thiện
Đạo, viết ra. Tuy nhiên quyển sách đáng chú ý nhất vẫn là Tịnh Độ Từ
Bi Tập của Từ Mẫn Tam Tạng Huệ Nhật (680-748) bởi vì trong đó, ngoài
việc đưa ra những phản biện từ phía tông Tịnh Độ lại còn có những
luận cứ sâu sắc và thú vị nhằm phê phán Thiền Tông mà trước kia chưa
ai viết được. Đó là những thông tin vô cùng hữu ích cho những ai
muốn tìm hiểu bộ mặt của Thiền Tông buổi đầu.
Nhân nói về
Tịnh Độ Từ Bi Tập của Từ Mẫn Tam Tạng Huệ Nhật:
Huệ Nhật sinh năm 680 ở Lai
Châu thuộc tỉnh Sơn Đông, tục danh họ Tân. Năm 702, mến mộ Nghĩa
Tĩnh Tam Tạng (635-713) vừa đi Ấn Độ về, ông theo dấu, lấy đường
biển sang bên đó tu học. Sau khi tìm thăm các di tích Phật giáo, ông
định đi đường bộ về nước. Tương truyền, lúc đang ở trên đường đi,
ông đã nhìn thấy được Quan Âm ở một hòn núi lớn phía đông bắc vương
thành nước Kiến Đà La. Mãi đến năm 719, ông mới về tới Trường An,
mang những đồ vật thu thập bên đó dâng lên vua Huyền Tông (trị vì
712-756) và được tứ hiệu Từ Mẫn Tam Tạng. Sau đó, ông tập trung tham
gia hoạt động bố giáo ở khu vực Trường An và Lạc Dương nhưng nhân vì
có Thừa Viễn (712-802), học trò cũ của ông, đang ở Quảng Châu (tỉnh
Quảng Đông) nên Huệ Nhật tìm cách đi xuống tận đó. Ông mất năm 748,
thọ 69 tuổi. Về trước tác, ngoài Lược Chư Kinh Luận Niệm Phật Pháp
Môn Vãng Sanh Tịnh Độ Tập (lược xưng Tịnh Độ Từ Bi Tập), ông còn
viết Bàn Châu Tam Muội Tán, Bàn Châu Tán, Yếm Thử Ta Bà Nguyện Sinh
Tịnh Độ Tán, Tây Phương Tán vv.... Tịnh Độ Từ Bi Tập chỉ còn bản
truyền lại nhưng không được toàn hảo, do Ono Genmyô (Tiểu Dã, Huyền
Diệu) tìm được ở chùa Đồng Hoa, Triều Tiên vào năm 1925. Tổ bản của
nó là bản của Nguyên Chiếu (1048-1116) đời Tống nhưng khi nó vừa mới
ra đời đã gặp sự chống đối của Đại Mai Sơn Pháp Anh thiền sư (? -
1131) về nội dung nên đã bị lệnh quan bắt phải phế bản. Vì cớ đó, tổ
bản không được truyền lại. May mắn là ngay trước khi ấy, có một bản
đã được truyền sang Cao Lệ (thuộc Hàn Quốc bây giờ) vào tay của
Nghĩa Thiên (1055-1101) cho nên mới có bản Triều Tiên cho đời
sau.Theo lời tựa, nó gồm 3 quyển, quyển đầu nêu ra những lối nghĩ
sai lầm của người đương thời, đặt vấn đề về chúng, quyển thứ hai
chứng minh qua lý luận tính chính thống của lối tu bằng niệm Phật
theo Tịnh Độ Tông, quyển cuối trả lời mọi nghi vấn về giáo phái Tịnh
Độ và nói lên sự ưu việt của việc niệm Phật. Tuy có thất thoát phần
nào nhưng sách ấy được xem như một ghi chép quí giá có một không hai
liên quan đến Thiền Tông.
Tư tưởng của thiền Bắc Tông với hệ phái Thần Tú - Phổ Tịch:
Muốn hiểu hệ tư
tưởng chủ yếu của Thiền Bắc Tông với hai đại sư Thần Tú và Phổ Tịch,
phải tìm đọc những luận thuyết về cương yếu như Quán Tâm Luận, Đại
Thừa Vô Sinh Phương Tiện Môn, Đại Thừa Ngũ Sinh Bắc Tông (đều ra đời
vào tiền bán thế kỷ thứ 8), các minh văn trên bia liên quan đến các
nhân vật Bắc Tông cũng như các đăng sử đã được nhắc đến bên trên:
Lăng Già Sư Tư Ký (khoảng năm 715) và Truyền Pháp Bảo Ký (khoảng
720).
Theo những tài liệu
này, Bắc Tông nhấn mạnh đến giá trị tuyệt đối của phép tu hành gọi
là "quán tâm", cho rằng các phép tu hành khác đều vô hiệu khi đứng
trước nó. Họ đặt trọng tâm vào thể nghiệm ngộ đạo của người tu hành
bằng phương pháp này, gọi nó là cảnh giới "đốn siêu bồ đề". Do đó,
khác với lối nghĩ thông thường của người đời sau, trong giai đoạn
thiền Bắc Tông, không còn nghi ngờ gì nữa, đã có tư tưởng "đốn ngộ"
rồi. Rõ ràng khái niệm "quán tâm" của Bắc Tông đã thừa kế tư tưởng
"thủ tâm" của Pháp môn Đông Sơn. Không những thế, chủ trương"niệm
Phật" là một thành tố trọng yếu, đã chứng tỏ một lần nữa có sự liên
tục giữa hai giáo lý (tuy rằng họ không đề cập tới kết quả của việc
niệm Phật là vãng sinh cực lạc).
Thiền Bắc Tông rất
lưu ý đến lối chú thích kinh điển rất đặc thù của mình mà họ gọi là
"quán tâm thích", còn đọc là "tâm quán thích". Những câu chữ của
kinh điển, theo họ, phải được hiểu sao cho ăn khớp với những hiện
tượng đang xãy ra trong tâm. Ví dụ trong Đại Thừa Vô Sinh Phương
Tiện Môn có viết những câu điển hình như sau:
Tuy có cuốn kinh
mang tên Diệu Pháp Liên Hoa, thế nhưng hỏi thử "diệu pháp" là gì?
"Diệu pháp" chính là cái "tâm", còn "liên hoa" là "sắc" vậy. Nếu
"Tâm" là "như", nó cũng là "trí" nữa, còn nếu "sắc" là "như", nó lại
là "tuệ". Tóm lại, kinh ấy có nghĩa là "kinh của trí tuệ".
Một mặt, thiền Bắc
Tông coi trọng một cách tuyệt đối thể nghiệm "ngộ" bằng phương pháp
quán tâm, nhưng mặt khác, vì không thể phủ nhận quyền uy của kinh
điển nên họ bắt buộc đứng trên lập trường của kinh điển để giải
thích chữ "ngộ" theo một cách riêng, và đã cố gắng tìm cách hòa hợp
được hai lối hiểu đó.
Cùng với thời gian,
lối hiểu như trên của Bắc Tông càng ngày càng được phổ biến. Không
những thế, nó còn khoác thêm phần nào tính cách nội tâm và thần bí
hóa. Chính ra tính cách này đã có sẳn trong giáo lý Thiên Thai Tông,
nhờ có những giao lưu giữa người và người mà Bắc Tông đã tiếp nhận
ảnh hưởng. Ta có thể rút ra từ đó một nhận định căn bản: sở dĩ Thiền
Tông và Thiên Thai Tông có cùng cơ sở là vì hai hệ phái đều ra đời
để giải quyết những vấn đề tâm linh chung của thời đại họ sống.
Ngoài ra, có một
điểm đáng chú ý nơi thiền Bắc Tông mà Lăng Già Sư Tư Ký đã đề cập
tới, đó là phương pháp giáo huấn gọi là "chỉ sự vấn nghĩa". Vị thầy
thường chỉ một vật cụ thể rồi đặt câu hỏi, giúp học trò hiểu vấn đề
một cách cao siêu hơn mức độ nhận thức thông thường và nhờ đó đạt
đến cảnh giới của "ngộ". Xin đơn cử ví dụ sau đây trong chương nói
về Thần Tú. Ông thấy chim bay qua, mới đặt một loạt câu hỏi cho đệ
tử kiểu như "Đó là cái gì đấy?", hay "Ngồi trên ngọn cây ẻo lả, mất
thăng bằng, ngươi có thể tọa thiền chăng?" hoặc là "Ngươi có đi
xuyên qua bức tường không?". Về nội dung thì những câu hỏi đó sau
này rất giống "công án" về sau. Có điều là vào thời đó, chúng đã
được sử dụng như thế nào thì đến bây giờ vẫn không ai rõ.
Như thế, ta thấy
dòng chính trong thiền Bắc Tông là tư tưởng của nhóm Thần Tú - Phổ
Tịch. Thế nhưng qua các văn bản chủ chốt của thiền Bắc Tông trong đó
có Đại Thừa Ngũ Phương Tiện, ta thấy họ cũng chấp nhận những dị biệt
của các hệ phái chứng tỏ tư tưởng của tông này có nhiều biến thể
(variations) chứ không phải đồng nhất. Hơn nữa, ngoài Thần Tú, Hoằng
Nhẫn còn nhiều học trò khác cho nên tuy tóm gọn lại một chữ Bắc Tông
Thiền, nên hiểu rằng bên trong, tư tưởng của nhóm người này cũng rất
đa dạng.
Văn bản Bắc
Tông của hệ phái Thần Tú - Phổ Tịch:
Quán Tâm Luận có bản Đôn
Hoàng, bản Triều Tiên và truyền bản của Nhật Bản. Truyền bản này có
tên Quán Tâm Phá Tướng Luận hay Phá Tướng Luận. Tương truyền sách ấy
được soạn bởi Đạt Ma hay Thần Tú nhưng có thể hiểu đây là một thứ
cương lĩnh (cương yếu thư) do môn hạ của Thần Tú trước tác. Việc gán
nó cho Đạt Ma có lẽ mãi về sau mới xảy ra. Nội dung của nó giảng
giải phương pháp tu hành gọi là "quán tâm" trình bày theo lối vấn
đáp.
Mặt khác, Đại Thừa Vô Sinh
Phương Tiện Môn và Đại Thừa Ngũ Phương Tiện Bắc Tông, là hai trong
những văn bản được gọi dưới tên chung Đại Thừa Ngũ Phương Tiện. Về
cơ bản, nội dung của chúng giống nhau nhưng quyển trước có hình thức
cổ xưa trong khi quyển sau mới mẻ hơn. Nhóm văn bản này đều viết
theo một mục lục, khởi đầu với lời tựa rồi đến 5 chương "Tổng Thái
Phật Thể", "Hiển Bất Tư Nghị Môn", "Minh Chư Pháp Chính Tính", "Tự
Nhiên Vô Ngại Giải Thuyết Đạo" rồi sau trích dẫn các kinh điển như
Đại Thừa Khởi Tín Luận, Duy Ma Kinh, Tư Ích Kinh...dùng một thủ pháp
đặc dị là "quán tâm thích" để giải thích và khai triển chúng, phần
nhiều là khác xa đối với ý nghĩa ban đầu. Tuy đại cương tư tưởng
trong Đại Thừa Ngũ Phương Tiện hầu như ta đã bắt gặp nơi Thần Tú
nhưng có cảm tưởng chúng đã được chỉnh lý lại bởi những người thuộc
hệ phái Phổ Tịch. Ngoài ra, Tĩnh Giác, tác giả Lăng Già Sư Tư Ký, đã
viết sách chú thích nhan đề Chú Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh. Bên
cạnh đó, Kim Cương Tạng Bồ Tát Chú, một cuốn kinh mà toàn bộ được
chú thích bằng phương pháp "quán tâm thích" cùng với Kim Cương Bát
Nhã Kinh Chú, Quán Thế Âm Kinh Tán đều là những tác phẩm có liên hệ
mật thiết với dòng chính của thiền Bắc Tông.
Tính đa dạng của thiền Bắc Tông
Trong số những môn
đệ của Hoằng Nhẫn, người có tư tưởng cách tân hơn cả có lẽ là Tào
Khê Huệ Năng (về sau sẽ được tôn xưng là Lục Tổ Đại Giám Huệ Năng)
dù những lời giáo huấn của chính Huệ Năng ra sao, đến nay vẫn chưa
ai thực sự biết rõ. Còn như Huệ An, người cũng được Tắc Thiên Vũ Hậu
trọng vọng như Thần Tú, về mặt tư tưởng cũng có điểm khác với Thần
Tú. Ngược lại, Huệ An lại có nhiều điểm chung với Huệ Năng.
Nam Nhạc Hoài
Nhượng, kẻ về sau sẽ đóng vai trò quan trọng trong lịch sử Thiền
Tông, trước đó cũng nhờ Huệ An mà có cơ hội đến thọ giáo với Huệ
Năng. Thế rồi, trước khi Huệ An mất, ông cũng chỉ thị cho đệ tử là
Tĩnh Tạng đến tu học với Huệ Năng. Cũng nên nhắc đến Bảo Đường Tự Vô
Trú, trước theo học môn đệ của Huệ An là cư sĩ Trần Sở Chương (năm
sinh năm mất không rõ), sau đó đã tham học ở cửa Thái Nguyên Tự Tại
(năm sinh năm mất không rõ), một môn đệ khác của Huệ Năng, rồi xuất
gia sau đó. Những sự kiện nói trên chứng minh rằng thiền pháp của
Huệ An và Huệ Năng có nhiều điểm tương đồng và hình như giữa hai ông
đã có một sự tin tưởng đối với nhau.
Gần đây lại có người
nêu ra việc Hầu Mạc Trần Diễm (660-714), một người có tên trong hệ
phổ Bắc Tông nhưng lại có nhiều điểm hết sức gần gũi Hà Trạch Thần
Hội. Nhân vì ông vừa theo học Thần Tú lẫn Huệ An, có thể phỏng đoán
rằng nhờ theo học Huệ An nên tư tưởng của ông mới tiên tiến như thế.
Sự xuất hiện của Hầu
Mạc Trần Diễm và Trần Sở Chương là những cư sĩ mà đã đạt đến cảnh
giới cao để có thể chỉ đạo về thiền cho người đã xuất gia là một
điều đáng chú ý. Nó cho ta thấy một điều thú vị là tuy mới xuất
hiện, Thiền đã lôi cuốn được sự chú ý của mọi người, ngay cả những
người thế tục bình thường.
Hầu Mạc
Trần Diễm là ai?
Một nhân vật xưa nay ít ai chú
ý nhưng kể từ khi xuất hiện trước tác của ông mang tên Đốn Ngộ Kim
Cương Bát Nhã Tu Hành Đạt Bỉ Ngạn Pháp Môn Yếu Quyết (năm 712, bản
Đôn Hoàng, có một đôi chỗ đã được dịch sang tiếng Tây Tạng) và Hầu
Mạc Trần Đại Sư Thọ Tháp Minh (kim thạch văn) thì tư tưởng và truyện
ký sơ lược về ông mói được biết đến. Theo đó, ông người quê Trường
An, bỏ công tu hành trên hai mươi năm trên ngọn Tung Sơn. Ông theo
học Huệ An và Thần Tú, rốt cuộc nhận pháp tự của Thần Tú với pháp
danh là Trí Đạt. Sau đó, ông truyền giáo cho tăng ni và cư sĩ chủ
yếu ở các vùng Trường An, Lạc Dương, Sơn Tây, Hà Bắc. Ông là người
sinh ra trước Thần Hội một thế hệ mà đã nhấn mạnh về đốn ngộ, chú
trong kinh Kim Cương và để lại tác phẩm viết theo lối vấn đáp, tư
tưởng lại có nhiều chỗ tương tự với Thần Hội, người ta bắt đầu nhận
thức trở lại vai trò của ông trong những năm gần đây.
Trong số môn đệ của
Hoằng Nhẫn, những người có thể so sánh với Huệ Năng và Huệ An là hai
nhân vật tên Trí Sằn (609-702) và Tuyên Thập (năm sinh năm mất không
rõ. Các ông đã khai sinh ra ở Tứ Xuyên một môn phái riêng. Đặc biệt
từ cửa Trí Sằn có Xử Tịch (665-732) và Vô Tướng (684-762) vốn có
công phổ biến giáo nghĩa ở địa phương này. Nhân vì Vô Tướng là dòng
dõi hoàng tộc Tân La họ Kim cho nên được gọi là Kim Hòa Thượng. Tên
tuổi ông cả người Tây Tạng cũng biết. Môn phái của hai ông lấy Tịnh
Chúng Tự ở Thành Đô làm cơ sở, do đó, có tên là Tịnh Chúng Tông. Đề
tử của Vô Tướng là Tịnh Chúng Tự Thần Hội (720-794) và Huệ Nghĩa Tự
Thần Thanh (năm sinh năm mất không rõ) là người đã viết Bắc Sơn Lục
(khoảng năm 806). Sau đó, hệ phổ của Tịnh Chúng Tự còn được nối tiếp
như sau: Tịnh Chúng Tự Thần Hội truyền cho Ích Châu Nam Ấn (Duy
Trung, ? - 821?), ông này có hai đồ đệ là Toại Châu Đạo Viên (? -
807 hay 822?), và Đông Kinh Thần Chiếu (776-838).
Trong số những trứ
tác của Tịnh Chúng Tông có Bát Nhã Tâm Kinh Sớ (bản Đôn Hoàng, giữa
thế kỷ thứ 8) được gán cho Trí Sằn. Tư tưởng của ông cũng được đề
cập đến trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao của Khuê Phong Tông Mật
(780-841) cũng như trong cuốn đăng sử của tông Bảo Đường nhan đề
Lịch Đại Bảo Pháp Ký (hậu bán thế kỷ thứ 8). Theo các tư liệu đó,
mỗi năm, người trong tông này thiết lập đạo tràng vào một ngày giờ
nhất định, tụ tập đông đảo các nhà tu hành dù là tại gia hay là xuất
gia lại để thực hành nghi lễ niệm Phật và tọa thiền. Mục đích là để
chỉ đạo mọi người đạt đến chỗ "vô ức" (không nhớ tới), "vô niệm"
(không nghĩ tới), "mạc vọng"(không trông mong tới), gọi đó là "tam
cú ngữ", xem nó đồng dạng với "tam học" tức là giới, định, tuệ (tuy
vậy, trung tâm của tư tưởng đó hình như vẫn đóng khung ở trong mỗi
một chữ "vô niệm"). Hình như tư tưởng "tam cú"này là một sáng tạo
của tăng Vô Tướng và cũng có thể xem nó như một nét đặc thù của tông
phái ông lãnh đạo. Theo Tông Mật, phái của Tuyên Thập cũng làm theo
một nghi thức tương tự như vậy nhưng trong dịp này, họ hay dùng
hương, và có lẽ ấy là một trong những điểm khác nhau.
Khi các giáo phái
nói trên bành trướng ở miền Tứ Xuyên, đặc biệt là vào buổi đầu, nghi
thức niệm Phật được xem hết sức trọng yếu. Đệ tử của Từ Mẫn Tam Tạng
Huệ Nhật là Nam Nhạc Thừa Viễn (712-802) thời trẻ cũng đến hỏi đạo
Xử Tịch, và từ cửa của ông đã xuất hiện Pháp Chiếu (năm sinh năm mất
không rõ) là người nổi tiếng vì đại thành được "ngũ hội niệm Phật".
Riêng môn phái của Tuyên Thập, không rõ có giáo lý gì, nhưng họ được
Tông Mật gọi là Nam Sơn Niệm Phật Thiền Tông, cũng thực hành nghi lễ
truyền pháp có nghi thức niệm Phật. Do đó có thể hiểu việc niệm Phật
lúc ấy được người đi tu xem như hết sức hệ trọng. Duy có điểm cần
chú ý là chính việc niệm Phật này vốn là một phương pháp tu hành chủ
yếu của pháp môn Đông Sơn, từ đó suy ra, chắc những người thời này
cũng cứ thế mà tiếp tục theo dấu người đi trước.
Những thiền gia
hoằng pháp ở vùng Tứ Xuyên có mối quan hệ đáng chú ý đối với Tịnh Độ
Giáo nhưng đồng thời họ cũng liên quan mật thiết với các giáo phái
Phật Giáo khác nữa. Về sau sẽ có dịp nhắc lại nhưng việc một người
như Khuê Phong Tông Mật coi như là kẻ có tham vọng gộp hai phái Hoa
Nghiêm và Thiền Tông làm một, đã dần dần tạo lập được mối liên hệ
với những người từ Nam Ấn trở về sau để hoàn thành được hệ tư tưởng
của mình, là một điều rất quan trọng. Lại nữa, cũng không nên quên
rằng thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất (709-788) ở trung nguyên thời trẻ cũng
từng thờ Xử Tịch (phái Tứ Xuyên) làm thầy.
Bát Nhã Tâm
Kinh Sớ:
Quyển Bát Nhã Tâm Kinh Sớ tức
sách chú thích về kinh Bát Nhã, bản Đôn Hoàng, được xem là do Trí
Sằn (609-702) soạn, thế nhưng nội dung của nó hết sức giống tác phẩm
của Kỷ Quốc Tự Huệ Tịnh (578-?). Phải chăng có ai đã cải biên và gán
nó cho Trí Sằn. Hình thức của kinh này có được như ngày nay ta thấy
là do công trình của những người thuộc Tịnh Chúng Tông, vốn tôn sùng
Trí Sằn như giáo tổ.
Thật ra, nguồn gốc của cuốn
kinh nói trên là một câu chuyện hết sức phức tạp, lịch sử hình thành
của nó đã bắt đầu trước cả thời này rồi. Trước hết, ngay cả trong
bản được truyền vào đất Nhật ( Huệ Tịnh Sớ, Tục Tạng Bản) ở cuối
sách đã thấy in tiếp theo một bộ phận của Tu Tâm Yếu Luận (tương
truyền của Hoằng Nhẫn), hình như đã được người của Thiền Tông buổi
đầu gìn giữ và truyền lại. Nhân vì tác phẩm vẫn có một mối liên quan
mật thiết với họ nên nội dung từ từ đã có sự đổi khác, nếu ta so với
các bản Đôn Hoàng có tên như Đôn Hoàng Bản Huệ Tịnh Sớ hay Long Cốc
Đại Học Bản Bát Nhã Tâm Kinh Sớ. Điều này chứng tỏ rằng sách chú sớ
của tăng Huệ Tịnh (Huệ Tịnh Sớ) đã được chấp nhận rộng rãi. Tác giả
Huệ Tịnh lại là người có tài văn chương nên còn có thể giải thích sự
phổ cập của nó phần nào cũng nhờ vào cả văn thể lẫn nội dung. Mặt
khác, việc sách ấy có nhiều dị bản tự thể nó là một đề tài thú vị,
nhưng điều đáng chú ý hơn cả là giữa các bản Tục Tạng Bản Huệ Tịnh
Sớ và bản của Long Cốc Đại Học và Trí Sằn Sớ, ta thấy có một sự phát
triển về mặt tư tưởng. Hơn nữa, qua các bản đó, ta thấy có dấu vết
ảnh hưởng tư tưởng của nhóm Thần Tú - Phổ Tịch lẫn nhóm Tịnh Chúng
Tông. Nói tóm lại, sự phát triển từ Huệ Tịnh Sớ đến Trí Sằn Sớ là ví
dụ điển hình về việc một văn bản nguyên lai được viết ra không dính
dáng gì đến Thiền Tông, đã được người của Thiền Tông giữ gìn và
truyền lại đời sau, rồi nhờ đó mà được chỉnh đốn để đạt đến chỗ hoàn
chỉnh.
Tiết 2: Hà Trạch Thần Hội xuất hiện:
|
Hà Trạch Thần Hội là người thế nào?
Thiền Bắc Tông đến
thời Phổ Tịch coi như đạt đến chỗ cực thịnh. Thế nhưng vào đúng thời
điểm ấy, nhân vật sẽ tạo ra một cuộc biến đổi lớn trong Thiền Tông
đã xuất hiện. Đó là Hà Trạch Thần Hội (684-758).
Thần Hội trước tiên
là đệ tử của Thần Tú, sau thành ra môn hạ của Tào Khê (tỉnh Quảng
Đông) Huệ Năng. Sau khi Huệ Năng qua đời, ông về trụ trì chùa Long
Hưng ở Nam Dương (tỉnh Hà Nam). Từ khi bước chân vào trung nguyên,
ông tích cực triển khai hoạt động truyền giáo, chủ trương rằng Thần
Tú chỉ là một nhánh phụ (bàng hệ), chính Huệ Năng, ông thầy sau này
của mình, mới là người chính thức tiếp nối giáo nghĩa của Hoằng
Nhẫn. Thuyết này đã gây nên một tiếng vang rất lớn.
Để chính thống hóa
Huệ Năng, phương pháp của Thần Hội là đưa ra những lý thuyết mới như
"Tây thiên hệ phổ" và "Truyền y thuyết". Ông đem những điều đó ra hô
hào trong những cuộc hội họp thảo luận về tôn giáo (tông luận) ở
Hoạt Đài (tỉnh Hà Nam) cũng như ở nhiều nơi khác.Ông còn viết Bồ Đề
Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận (giữa thế kỷ thứ 8) để phục vụ cho
mục đích đó. Có lẽ vì ông là một người có nhân cách hấp dẫn nên qui
tụ được đông đảo tín đồ. Sau đó, với sự giúp đỡ tận tình của Binh bộ
thị lang Tông Đỉnh (năm sinh năm mất không rõ), ông dời ra Lạc Dương
là một nơi đô hội và trụ trì ở Hà Trạch Tự. Nhân đó ông có tên Hà
Trạch Thần Hội.
Hoạt động của Thần
Hội va chạm phải hệ phái Thần Tú-Phổ Tịch, lúc ấy đã xác định được
uy thế ở trung nguyên, làm cho ông lâm vào cảnh khó khăn, có lúc bị
đuổi đi và vận mệnh tưởng như đến chỗ tiêu vong. Thế nhưng, thừa dịp
loạn An-Sử bột phát (755-763), do khéo dùng ngón đòn chính trị, ông
lại trở về địa vị trung tâm, rốt cuộc không những thành công trong
việc đưa tên tuổi Huệ Năng lên hàng chính thống (Lục Tổ) mà còn làm
cho mình được thừa nhận như là Thất Tổ, đệ tử đích truyền của Huệ
Năng.
Truyện ký
về Hà Trạch Thần Hội:
Ông họ Cao, người Tương Dương.
Buổi đầu theo học Thần Tú ở chùa Ngọc Tuyền ở Kinh Châu.Đến khi Thần
Tú được mời vào cung, ông xuống vùng Lĩnh Nam theo Huệ Năng ở Tào
Khê.Sau đó, ông trở về miền bắc ít lâu, thụ giới tăng rồi trở lại
Tào Khê, tiếp tục học với Huệ Năng. Năm 720, sau khi thầy mất, ông
về trụ trì ở Long Hưng Tự, Nam Dương. Năm 732, ở Hoạt Đài có mở Vô
Già Đại Hội nơi chùa Đại Vân. Trong khi thảo luận, ông lên tiếng
công khai chỉ trích Thần Tú và quảng bá lập trường của mình. Được sự
giúp đở của Tông Đỉnh, năm 745, ông vào chùa Hà Trạch ở Lạc Dương.
Không bao lâu, ông dùng tư liệu trong lần thảo luận ở Hoạt Đài, viết
nên tác phẩm Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận và một lần nữa
phổ biến quan điểm chỉ trích Bắc Tông. Năm 753,bởi Lư Dịch sàm báng,
ông bị biếm đi Dặc Dương (Giang Tây) và Võ Đương (tỉnh Hồ Bắc). Thế
nhưng, khi loạn An Sử bùng nổ, nhờ quyên góp được nhiều tiền thụ
giới của tín đồ (gọi là hương thủy tiền) giúp vào việc quân cho nhà
vua, ông được hoàng đế Túc Tông (trị vì 756-762) luận công mời vào
cung làm lễ cúng dường, lại cho xây thiền vũ (đền thiền) ở chùa Hà
Trạch để tu hành. Thần Hội mất năm 758, thọ 75 tuổi, được vua ban
thụy hiệu Chân Tông đại sư, công nhận là Thất Tổ. Các học trò đàn
con đàn cháu và người đời sau lấy tên chỗ ông ở để mệnh danh tông
phái của ông là Hà Trạch Tông. Ông có nhiều người ủng hộ trong đó có
cả thi nhân, họa gia và thiền gia nổi tiếng Vương Duy (701? - 761).
Về trước tác, ngoài tác phẩm đã nói, ông còn để lại Nam Dương Hòa
Thượng Đốn Giáo Giải Thoát Thiền Môn Trực Liễu Tính Đàn Ngữ, Nam
Dương Hòa Thượng Vấn Đáp Tạp Trưng Nghĩa, Đốn Ngộ Vô Sinh Bát Nhã
Tụng, Sư Tư Huyết Mạch Truyện. Trong số văn thư tìm được ở thạch
động Đôn Hoàng lại có thấy các tác phẩm văn học của tục giới nói về
Nam Tông như Nam Tông Ngũ Canh Chuyển mà người ta ngờ rằng có thể có
liên quan đến Thần Hội và suy định rằng có khi ông đã dùng văn học
thế tục để làm phương tiện truyền giáo.
Thuyết mới
Thần Hội đưa ra:
Những người theo Hà Trạch Tông
đề xướng ra nhất nhiều thuyết mới (tân thuyết) nhưng trong số đó
không ai biết thuyết nào do chính Thần Hội, thuyết nào do chư đệ tử
đưa ra. Thường người ta xem các thuyết Tây Thiên Bát Tổ, thuyết
Truyền Y, thuyết Nam Đốn Bắc Tiệm là của Thần Hội. Riêng về "đốn
ngộ" thì có dính líu tới một số vấn đề khác về lập trường nên không
thể nói một cách dứt khoát chứ những thuyết khác đều là bịa đặt cả
và điều này chứng minh tính tình khá đặc biệt của Thần Hội. Đặc biệt
là Truyền Y Thuyết, theo đó, Bồ Đề Đạt Ma trao áo cà sa lại cho các
vị tổ sư đời sau và hiện thời, nó nằm trong tay Huệ Năng ở Tào Khê.
Rõ ràng là ông đã bày đặt ra để chủ trương vai trò chính thống của
mình và hạ giá Thiền Bắc Tông lúc ấy đã có thanh thế mạnh mẻ ở vùng
lưỡng kinh. Còn như thuyết Tây Thiên Bát Tổ thì đó là lần đầu tiên
mà chuyện các thầy của Đạt Ma bên Thiên Trúc có những ai được đem ra
thảo luận chứ trước nào ai nghĩ tới. Thuyết này vốn có chép trong
lời tựa của Đạt Ma Đa La Thiền Kinh nói về hệ phổ của Đạt Ma Đa La
(là người thuộc Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ và là một nhân vật không
phải là Bồ Đề Đạt Ma). Người ta đã vụng về chuyển đổi nó và sử dụng
như hệ phổ của Bồ Đề Đạt Ma. Ở đây chúng ta lại thấy rằng Thần Hội
đã dùng ý chí, cố sức ép uổng để chứng minh cho được tính chính
thống của mình (Hệ phổ này chép trong Phó Pháp Tạng Nhân Duyên
Truyện kết hợp được với thuyết Tây Thiên Nhị Thập Cửu Tổ Thuyết,
chắc cũng lại là một sáng tác của Thần Hội lúc vãn niên). Những
thuyết này nhắm đánh vào Bắc Tông, vốn không có căn cứ gì cả thế mà
nhờ những hoạt động của Thần Hội và chư để tử, dần dần được mọi
người tin theo. Đồng thời hai phái Hồng Châu Tông và Thạch Đầu Tông,
tự xưng là thừa kế Huệ Năng cũng nhìn nhận thuyết nói trên, thêm
thắt một chút đến mức độ làm cho nó thành một "định thuyết", một "sự
thực lịch sử". Điểm này cũng cho ta thấy rằng vai trò của Thần Hội
trong lịch sử Thiền Tông quả là vô cùng to lớn.
Tư tưởng của Thần Hội:
Cho dù có muốn trách
Hà Trạch Thần Hội phê phán Bắc Tông và đặt bao nhiêu thuyết mới là
để thỏa mãn lòng háo thắng của mình đi nữa, ta cũng không thể nào
phủ định việc giữa hệ phái của ông và hệ phái Thần Tú-Phổ Tịch thực
sự có những dị biệt về mặt lập trường tư tưởng. Trong tác phẩm Bồ Đề
Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận, Thần Hội đã trình bày như sau:
Giờ đây, cái mà
tôi muốn cãi "Không phải thế!" là lời phát biểu sau đây của thiền sư
Thần Tú chứ không phải điều gì khác cả: " Hãy tập trung tâm hồn,
nhập định để cho những máy động của cái tâm ngừng lại và hãy nhìn
thế giới trong sáng không gợn. Khi tâm máy động thì nhận thức được
ngoại giới, khi tâm thu về bên trong sẽ giác ngộ"....Lời giáo huấn
này chỉ đáng dạy kẻ ngu muội thôi!...Cho nên, kinh điển mới có câu
"Tọa thiền chính là làm cho bên trong bên ngoài không thấy cái tâm ở
đâu cả". Tọa thiền như thế đó may ra mới được Phật chấp nhận. Cho
đến nay, sáu đời tổ sư làm gì có lấy một người chỉ bảo rằng: "Hãy
tập trung tâm hồn và nhập định, để cho những máy động của cái tâm
ngừng lại và hãy nhìn thế giới trong sáng không gợn. Khi tâm máy
động thì nhận thức được ngoại giới, khi tâm thu về bên trong sẽ giác
ngộ" đâu nào!
Hơn nữa, trong Nam
Dương Hòa Thượng Đốn Ngộ Giải Thoát Môn Trực Liễu Tính Đàn Ngữ, ta
lại thấy chủ trương sau đây của ông (rõ ràng trong đoạn văn này, ông
phê phán Đại Thừa Vô Sinh Phương Tiện Môn, tác phẩm cơ sở của Bắc
Tông):
Hỡi các bạn! Đừng
nghĩ bất cứ gì về điều thiện hay điều ác cả. Chớ có tập trung tâm
hồn hay ngừng máy động cái tâm. Chớ có làm những chuyện như đem cái
tâm mà nhìn chính cái tâm. Bị trói buộc vào cái nhìn đã là sai rồi,
còn như cúi mặt xuống để khỏi phóng ra một cái nhìn thì lại bị ràng
buộc vào việc nhìn hay không nữa, nên cũng sai nốt. Thu cái tâm lại
là không nên mà đưa mắt nhìn xa hay nhìn gần cũng không nên. Mọi sự
đều sai lầm cả. Không thấy trong kinh điển có dạy: "Không nhìn mới
là hành động của Bồ Tát, bởi vì nó không sinh ra ức và niệm" hay sao
chứ? Đây mới là con tâm bản thanh tĩnh.
Có lẽ Thần Hội cho
rằng những công phu mà Bắc Tông dựa trên đó để tu hành đều là vòng
vo phiền toái và cảm thấy bực dọc khó chịu. Chắc chính vì lẽ đó cho
nên mới có lối hiểu tọa thiền phải là thế nào như những điều chép
trong Bồ Đề Đạt Ma Nam Tông Định Thị Phi Luận:
Viễn Pháp Sư nói
: "Hai vị tôn sư tức là Thiền Sư Phổ Tịch ở Tung Nhạc và Thiền Sư
Hàng Ma Tạng ở Đông Nhạc,vị nào cũng khuyến khích người ta tọa
thiền. Rồi họ còn cho rằng: "Hãy tập trung tâm hồn và nhập
định, để cho những máy động của cái tâm ngừng lại và hãy nhìn thế
giới trong sáng không gợn. Khi tâm máy động thì nhận thức được ngoại
giới, khi tâm thu về bên trong sẽ giác ngộ"và lấy đó làm giáo lý.
Còn như ông thì cớ sao, miệng nói Thiền mà không bao giờ bảo phải
tọa thiền gì cả vậy?Nếu không thuyết giáo bằng những lời lẽ như
trên, thì làm cách nào để giải thích sự tọa Thiền?"
Hòa thượng mới
trả lời: "Nếu dạy cách tọa Thiền bằng câu nói: ""Hãy tập
trung tâm hồn và nhập định, để cho những máy động của cái tâm ngừng
lại và hãy nhìn thế giới trong sáng không gợn. Khi tâm máy động thì
nhận thức được ngoại giới, khi tâm thu về bên trong sẽ giác ngộ,
khắc sẽ gây cản trở cho việc tìm thấy bồ đề (chân lý). Tọa Thiền ư?
Đối với tôi, khi không một chút vọng niệm nào khơi dậy trong tâm -
ấy là tọa - và khi tìm thấy được bản tính của mình - ấy là thiền. Do
đó, tôi không bao giờ giải thích phương pháp tọa thiền cũng như
không bao giờ nói "phải ngừng những máy động của cái tâm và nhập
định"chi chi cả. Nếu lời hai vị tôn sư kia là đúng thì khi Xâlipta
(Xá Lợi Phất) tọa thiền, ông đã không phải bị Vimarakilty (Duy Ma
Cật) quở trách bao giờ!".
Những lời trên rõ
ràng muốn phủ nhận ý nghĩa của việc tu hành bằng tọa thiền và diễn
tả được tất cả cái mới mẻ nhất trong tư tưởng của Thần Hội.
Cho đến trước đó,
cho dù có thuyết giảng về hai chữ "đốn ngộ" đến thế nào, nói đến
Thiền là thường vẫn ngầm hiểu chỉ có tọa thiền (ngồi thiền) mới là
đúng phép tu thiền. Trong quyển sách truyền lại một cách trung thực
tư tưởng pháp môn Đông Sơn như Tu Tâm Yếu Luận hay nhắc đến "đốn
ngộ" trong tựa đề như cuốn Đốn Ngộ Chân Tông Kim Cương Bát Nhã Tu
Hành Đạt Bĩ Ngạn Pháp Môn Yếu Quyết, vẫn thường thấy thuyết minh về
công phu tu hành cũng như miêu tả trạng thái tâm lý trong lúc tọa
thiền. Điều này cho thấy rằng dù trong pháp môn Đông Sơn và thiền
Bắc Tông đã có sẳn tư tưởng "đốn ngộ" nhưng chữ đó chỉ dùng để biểu
hiện cái cảnh địa cùng cực, kết quả của sự thực tu theo quán pháp
sau một thời gian dài. Ngược lại, phía Thần Hội thì ông phủ nhận
hoàn toàn ý nghĩa của phương pháp tu hành gọi là tọa thiền, ít nhất
trên mặt tư tưởng. Trong các trước tác của ông, không hề có sự miêu
tả tâm lý con người lúc tọa thiền và đi đến mức phủ nhận nốt những
công phu về mặt tu hành theo lối đó.
Có thể nói đây là
một phản đề (antithesis) mà phía Thần Hội tạo ra khi đối mặt với các
chú giải kinh sách có được qua thể nghiệm thiền định mà môn hạ của
Thần Tú và Phổ Tịch đã thực hiện được. Điều đó có nghĩa là Thần Hội
trong quá trình phê phán tính chất quá dựa vào nội tâm của nhóm Phổ
Tịch, đặc biệt nhấn mạnh vào "đốn ngộ" và cuối cùng phủ nhận ý nghĩa
thực chất của việc tu hành. Cho đến thời điểm đó, khái niệm về "đốn
ngộ" được hiểu bằng cách dựa trên nền tảng một trạng thái tâm lý có
thực. Có thể nói nay Thần Hội vứt bỏ cái nền tảng đó đi, chuyển hẳn
nó qua một vấn đề về nhận thức mới với lối nói "phiền não tức bồ
đề". Điều tất yếu mà ông nghĩ là phải đi tìm là cái "tri"
知, có thấy chép
trong văn bản nhan đề Nam Dương Hòa Thượng Đốn Giáo Giải Thoát Thiền
Môn Trực Liễu Tính Đàn Ngữ. "Tri"
知 có nghĩa là
"thức" (hoạt động nhận thức thông thường) và "ngộ" nhưng cần phân
biệt nó với "trí"
智 ở trạng thái
tĩnh. "Tri"
知 phải là hoạt
động nhận thức của cái "ngộ" được sinh ra trong cuộc sống thực sự.
Tư tưởng này được cả môn hạ Thần Hội nhấn mạnh và sau nó đã trở
thành một nét đặc trưng của Hà Trạch Tông, môn phái của ông. Cường
điệu về điều này có nghĩa là một khi đã không nhìn nhận phương pháp
tu hành bằng tọa thiền và thể nghiệm thiền có được nhờ tu theo kiểu
ấy, nếu muốn phân biệt "mê" và "ngộ" thì trước hết phải xác lập,
khẳng định (Setzen, Setzung) được sự tồn tại của chúng.
Điều ấy có nghĩa
rằng Thần Hội phủ nhận khuynh hướng nội tâm hóa thấy nơi môn phái
Thần Tú-Phổ Tịch và muốn hướng ra ngoại giới, chủ trương đem con
người của mình hòa nhập hoàn toàn vào với cuộc sống. Chính từ đó
mới sinh ra một hình thái biểu hiện của tư tưởng Thiền gọi là "ngữ
lục" mà Thần Hội là người đầu tiên coi như đã giúp nó hoàn thành.
Nam Dương Hòa Thượng Vấn Đáp Tạp Vi Nghĩa, tác phẩm của ông mà nhiều
người đặt tên "Thần Hội Ngữ Lục" là nguyên hình trực tiếp của những
ngữ lục về sau.
Hà Trạch Tông từ Thần Hội trở đi:
Hoạt động của Thần
Hội được tiếp nối bởi chư đệ tử. Họ ngụy soạn Ế Phát [1]
Tháp Ký nói về nhân duyên đã khiến Huệ Năng xuất gia cũng như cải
biên Lục Tổ Đàn Kinh và các truyện ký khác về ông. Ngay cả việc tạo
hình ảnh về Lục Tổ Huệ Năng như ta biết ngày nay cũng như hình thành
những định thuyết về "Nam đốn Bắc tiệm", xem Huệ Năng, người thuyết
về thiền đốn ngộ ở Tào Khê phương Nam mới tạo dựng ra hệ tư tưởng
chính thống của thiền và nhóm Thần Tú chủ trương phương pháp tiệm tu
trong vùng lưỡng kinh không thể được xem như đệ tử thừa kế thực sự
của Hoằng Nhẫn. Ngoài ra, liên quan đến Bồ Đề Đạt Ma, hình như chính
họ đã cải biên thuyết "Tây Thiên Nhị Thập Cửu Tổ" để đề xướng "Tây
Thiên Nhị Thập Bát Tổ". Thuyết sau này đã trở thành một định thuyết,
nó được thấy lần đầu trong Bảo Lâm Truyện (năm 801) và sau này môn
đệ phái Hồng Châu của Mã Tổ đã nhúng tay vào sửa đổi thêm.
Truyện ký và hình
mẫu về Huệ Năng mà bọn họ đã tạo ra và truyền lại đã có ảnh hưởng
không nhỏ đối với người đời sau. Nói khác đi, họ đã đưa ra thuyết
phải coi kim Kinh Cương (Kim Cương Bát Nhã Tâm Kinh) như một bộ kinh
tuyệt đối quan trọng (có lẽ đây là một biến hình của tư tưởng về
"tri" ?nơi Thần Hội) rồi đưa yếu tố này vào trong truyện ký về Huệ
Năng và tiếp tục giảng về điều đó hết đời này đến đời khác. Nội dung
của lời giảng ấy một là kim Kinh Cương đã được chư tổ truyền từ thời
Đạt Ma cho đến Huệ Năng, hai là nhờ có chuyện đọc kinh Kim Cương mà
Huệ Năng mới có cơ hội nhập môn Hoằng Nhẫn. Ngoài ra người ta còn
nghĩ rằng Kim Cương Kinh Giải Nghĩa, trước tác được xem là của Huệ
Năng viết, cũng chỉ là một sản phẩm của môn phái Hà Trạch với mục
đích bổ sung và kéo dài lý thuyết mà họ đã đề xướng.
Tương tự với thuyết
về việc truyền thụ Kim Cương Kinh là thuyết cho rằng Huệ Năng là
người đã truyền Lục Tổ Đàn Kinh lại cho đệ tử. Thuyết ấy xem Lục Tổ
Đàn Kinh là những lời chính Huệ Năng đã giảng dạy. Trong các tài
liệu như bản Đôn Hoàng, ở phần cuối quyển kinh lại thấy chép hệ phổ
của những người đã truyền trì nó, cho nên dựa trên bằng chứng đó,
cách nghĩ Lục Tổ Đàn Kinh là một quyển sách chân truyền rất phổ
biến. Tuy nhiên, điều ấy chỉ là làm cho ra vẻ chứ Lục Tổ Đàn Kinh
vốn bị cải biên rất nhiều. Có lẽ những người thuộc Hà Trạch Tông đã
tự họ thêm thắt tư tưởng của mình vào rồi thổi phồng ca tụng để nhằm
nâng cao giá trị của nó.
Có thể thuyết Huệ
Năng truyền kinh này đã rập theo khuôn cái thuyết cho rằng Đạt Ma đã
truyền cho Huệ Khả bộ kinh Lăng Già. Tuy vậy, lý do nó bắt buộc ra
đời phải chăng vì có liên quan đến sự sống còn của các môn hạ Thần
Hội về sau. Bởi vì đám đệ tử Thần Hội tuy có những tên tuổi như Tịnh
Trú Tấn Bình (669-779), Kinh Châu Huệ Giác (708-799), Thái Nguyên
Quang Dao (716-807), Lạc Dương Vô Danh (722-793), Từ Châu Trí Như
(723-811) nhưng không có ai nổi bật, đủ để được xem như là người
thừa kế của Thần Hội.
Như đã trình bày, ta
khó thể sắp xếp thứ tự tông phái Hà Trạch như thế nào cho có hệ
thống theo phạm vi hoạt động của đệ tử ông. Dù thế nào đi nữa, sau
khi Thần Hội mất đi rồi, vì không có nhân vật nào đủ tầm cỡ để lèo
lái tông phái, môn đồ của Hà Trạch Tông có lẽ đã không biết làm cách
gì khác ngoài việc sáng tác "truyền thụ thuyết", gán cho Kim Cương
Kinh và Lục Tổ Đàn Kinh, để cứu tông môn khỏi rơi vào cảnh không duy
trì nổi giá trị của mình.
Lục Tổ Đàn
Kinh là quyển sách như thế nào?
Xưa nay, kinh này vẫn được tin
cậy như một ngôn hành lục của Lục Tổ Huệ Năng, người đứng đầu thiền
Nam Tông. Người ta đã in đi lại lại khắp nơi từ Trung Quốc, Triều
Tiên đến Nhật Bản. Vào thời cận đại, nhờ sự phát hiện được bản Đôn
Hoàng và một số bản khác, mới bắt đầu có mối hoài nghi về thời điểm
kinh ấy ra đời. Mối nghi ngờ ấy ngày nay vẫn được chưa giải tỏa. Về
hình thức nguyên thủy của Đàn Kinh, có nhiều cách nhìn khác nhau. Cứ
như cách giải thích trong kinh ấy thì nó là tập ghi chép những lời
thuyết pháp của Huệ Năng khi ông thọ bồ tát giới ở chùa Đại Phạn Tự
thuộc Thiều Châu (tỉnh Quảng Đông) theo lời yêu cầu của viên thứ sử
Vi Cừ. Thế rồi dựa trên cơ sở đó, các đệ tử của Hà Trạch Thần Hội đã
gia bút, thêm vào đấy cả những lời thuyết giáo của thầy họ nhằm hiển
dương công đức Huệ Năng. Đó là nguồn gốc của bản Đôn Hoàng. Sau đó,
có lẽ người trong Hồng Châu Tông, một môn phải chủ yếu của Thiền
Tông, đã viết thêm lên để ta có bản Lục Tổ Đàn Kinh ngày nay. Như
thế, quyển sách này phản ánh con đường trưởng thành và phát triển
của tư tưởng Thiền Tông với nội dung được cấu tạo bằng nhiều tầng
chồng chất lên nhau cho nên hãy còn gợi ra nhiều đề tài thảo luận.
Thế nhưng, giá trị sử liệu của Lục Tổ Đàn Kinh rất cao nếu ta nhìn
nó như một tác phẩm ghi lại được những chặn đường mà Thiền Tông đã
đi qua, nhất là ý nghĩa lịch sử to lớn của nó trong việc xác lập vai
trò chính thống của Huệ Năng và việc tạo dựng lên hình ảnh có tính
truyền thống về ông.
Tiết 3: Ảnh hưởng của Hà Trạch Thần Hội
|
Ngưu Đầu Tông thành hình:
Sự thành công của Hà
Trạch Thần Hội đã ảnh hưởng đến các chi phái của Thiền Tông. Trước
tiên phải nói đến sự thành hình của Ngưu Đầu Tông. Tổ của tông Ngưu
Đầu là Pháp Trì (635-702), một đệ tử của Hoằng Nhẫn, mà trung tâm
hoạt động là núi Ngưu Đầu (tỉnh Giang Tô) thuộc vùng Giang Ninh (Kim
Lăng) xa trung nguyên [2].
Hệ phổ truyền pháp như sau:
Pháp Trì truyền
xuống Ngưu Đầu Trí Uy (646- 722). Sau đời Trí Uy, tông phân làm hai
nhánh: một nhánh với Ngưu Đầu Huệ Trung (683-769) và học trò ông ta
là Phật Quật Duy Tắc (751-830), nhánh kia với Hạc Lâm Huyền Tố
(668-752) và học trò ông là Kinh Sơn Pháp Khâm (714-792).
Đặc biệt nhờ ở Ngưu
Đầu Huệ Trung và Hạc Lâm Huyền Tố là người cùng thời đại với Thần
Hội mà Ngưu Đầu Tông được hưng thịnh, trở thành một thế lực hùng
mạnh đương đầu nổi với cả Bắc Tông lẫn Nam Tông (Hà Trạch Tông). Từ
đó để xác lập quyền uy của mình, tông Ngưu Đầu đã tạo dựng một hệ
phổ hư cấu móc nối với dòng Thiền chính có trước Pháp Trì như sau:
Tứ tổ Đạo Tín ->
Pháp Dung (594-657) -> Trí Nham (577-654) -> Huệ Phương
(629-695).
Như thế, Pháp Dung
trở thành sơ tổ của Ngưu Đầu Tông, sau đó, Trí Nham là nhị tổ, Huệ
Phương, tam tổ, Pháp Trì, tứ tổ, Trí Uy, ngũ tổ và Huệ Trung là lục
tổ.
Sở dĩ môn phái này
phải lập ra một hệ phổ như vậy là để đề cao tính ưu việt của họ đối
với Bắc Tông và Nam Tông. Hai phái trên đều bắt đầu từ Ngũ Tổ Hoằng
Nhẫn cho nên việc tự xưng nguồn gốc của mình có từ Tứ Tổ Đạo Tín
ngầm bảo họ còn có trước hai tông phái kia nữa. Cũng thế, trong hệ
phổ của họ, lục tổ là Ngưu Đầu Huệ Tông. Giữa bối cảnh ở trung
nguyên đang xãy ra vụ tranh chấp xem ai là người mới thực sự gọi là
lục tổ thì việc này hẳn có ý nghĩa đặc biệt. Thuyết về hệ phổ của
Ngưu Đầu Tông có lẽ đã ra đời trong giai đoạn nầy khi họ muốn xác
định cá tính của tông mình trước hai môn phái lớn đương thời.
Bàn về tính
hư cấu của hệ phổ Ngưu Đầu Tông:
Liên hệ giữa Hoằng Nhẫn và
Pháp Trì có chứng cứ trong sử sách, tuy nhiên, hệ phổ trong đó có
viết Pháp Dung truyền xuống Pháp Trì thì hoàn toàn do người đời sau
bịa ra.Trước tiên, câu hỏi xem giữa Đạo Tín và Pháp Dung có liên hệ
gì không thì ngay văn bản cổ nhất có nói đến hai ông là Tục Cao Tăng
Truyện (giữa thế kỷ thứ 7) đã không hề đăng tải cho nên khó tin là
có thật. Hình như Pháp Dung và Huệ Phương có sống trên Ngưu Đầu Sơn
nhưng về Trí Nham thì truyện ký của ông trong Tục Cao Tăng Truyện
không hề nhắc đến việc đó. Huống chi sách ấy lại đăng tải rằng Trí
Nham đã chết trước (vào năm 654) Pháp Dung (năm 657). Do đó, việc
đem ghép Trí Nham vào hệ phổ đã gây ra nhiều bàn cãi. Dầu vậy, trong
cuốn Truyền Pháp Bảo Ký (khoảng năm 720), đăng sử của Bắc Tông, cũng
đã nói đến sự giao lưu giữa Tăng Xán và Bảo Nguyệt (năm sinh năm mất
không rõ) và lại cho biết Bảo Nguyệt là thầy của Trí Nham, việc đưa
tên Trí Nham vào hệ phổ cũng là một cách nhấn mạnh danh giá hệ phổ
của mình. Truyện Trí Nham truyền pháp cho Huệ Phương cũng khó tin
nhưng giữa Pháp Trì và Huệ Phương thì theo Tống Cao Tăng Truyện (năm
988), Pháp Trì sau khi theo học Hoằng Nhẫn lại đến học Huệ Phương,
cho nên liên hệ sư đệ giữa Huệ Phương và Pháp Trì có thể là chuyện
thật. Dù vậy, sách đó có khi đã sử dụng thuyết của Ngưu Đầu Tông đưa
ra không biết chừng nên chưa hẳn đáng cho chúng ta tin.
Tuy không biết rõ về
tư tưởng của nhóm Ngưu Đầu Tông nhưng qua quyển sách chính yếu của
họ là Tuyệt Quán Luận (hậu bán thế kỷ thứ 8) cũng như tác phẩm của
Khuê Phong Tông Mật là Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (khoảng năm 822) và
quyển Thiền Nguyên Chư Thuyên Tập Đô Tự (hậu bán thế kỷ thứ 9), thì
ta thấy họ có chịu ảnh hưởng của Tam Luận Tông vốn hoạt động mạnh mẻ
cùng trên một địa bàn, nghĩa là họ xác lập dần dần lập trường không
quán và chịu ảnh hưởng của tư tưởng Như Lại Tạng.
Tư tưởng Như Lai
Tạng [3]
cũng là bộ phận cốt lõi của Thiền Tông nhưng hệ thống pháp môn Đông
Sơn vẫn giữ nguyên một chủ trương có tự thời Ấn Độ là chỉ chấp nhận
các loài hữu tình (động vật) là có Phật tính mà thôi. Riêng một phái
Ngưu Đầu này lại cho rằng cả các loài vô tình (núi sông cây cỏ) cũng
có Phật tính. Đó là quan điểm "vô tình hữu Phật tính". Hình như vì
lý do này mà hai phái Hà Trạch và Ngưu Đầu đã có nhiều cuộc tranh
luận kịch liệt. Dấu tích những tranh cãi ấy vẫn còn thấy chép trong
Tuyệt Quán Luận và Nam Dương Hòa Thượng Vấn Đáp Tạp Trưng Nghĩa.
Nhân vì thuyết "vô tình hữu Phật tính" xưa kia được Tam Luận Tông đề
xướng cho nên có thể nói về điểm này, Ngưu Đầu Tông thừa kế tư tưởng
Tam Luận Tông. Chi tiết ấy cho thấy Ngưu Đầu đã tách ra khỏi giáo lý
truyền thống của nhà Phật và dính dáng ít nhiều với thuyết "vạn vật
tề đồng" của tư tưởng Lão Trang.
Tuyệt Quán
Luận
Theo các thư mục cho đến nay
được biết sách này xưa đã được tăng Saichô (Tối Trừng , 767-822) đem
về Nhật Bản nhưng phải đợi đến bản tìm thấy ở Đôn Hoàng thì mới biết
nội dung của nó có gì. Ngay cả bản Đôn Hoàng cũng có nhiều bản, được
chép và phân đoạn khác nhau, nhưng cũng nhờ vậy mà biết dấu tích sự
tiến triển của nó. Trong sách đó, hai nhân vật tưởng tượng là Nhập
Lý tiên sinh và đệ tử Duyên Môn hỏi và đáp với nhau về "tuyệt quán"
với mục đích giúp người đọc đạt đến tâm cảnh đó. Điểm quan trọng là
nó giúp ta thấy quan điểm "vô tình hữu Phật tính" của họ, đối nghịch
với lập trường Hà Trạch Tông. Sách này tuy đề là "Ngưu Đầu Pháp Dung
soạn" đấy nhưng chắc là không phải một trước tác của Pháp Dung. Nó
chỉ là sản phẩm của ai khác và đặt lên đó cái tên Pháp Dung để tạo
ra uy tín và dùng nó như một đề cương của tông môn mình mà thôi. Sau
khi Ngưu Đầu Tông đã suy thoái thì người ta lại giả thác sách ấy là
do Đạt Ma soạn và ngày nay, một vài bản như thế hãy còn tồn tại.
Ngoài ra, trong các văn bản Đôn Hoàng, có một tác phẩm tên gọi Vô
Tâm Luận, nội dung có nhiều điểm tương tự với nó, nhân đó, được coi
như trứ tác của Ngưu Đầu Tông.
Sự thành hình của Bảo Đường Tông và sự Hà Trạch hóa Tịnh Chúng Tông:
Với tư cách là một
môn phái ngang hàng với Ngưu Đầu Tông và cùng chịu ảnh hưởng của
Thần Hội, những hoạt động của Bảo Đường Tông mà trung tâm là thiền
sư Vô Trú chùa Bảo Đường, cũng đáng được chú ý. Về mặt tác phẩm, tuy
bọn họ chỉ truyền lại được Lịch Đại Pháp Bảo Ký (hậu bán thế kỷ thứ
8) bản Đôn Hoàng, nhưng tư tưởng và sinh hoạt của họ đã được nhắc
đến nhiều trong các sách như Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao của Tông Mật
chẳng hạn. Lại nữa, trong Bắc Sơn Lục của Thần Thanh thỉnh thoảng
cũng có chỗ phê phán lý thuyết của Bảo Đường là ngoại đạo (dị
thuyết). Như vậy, ta biết rằng vào thời của họ, Vô Trú và chư đệ tử
đã được sự chú ý (dù có khi là tiêu cực) của mọi người.
Theo Lịch Đại Bảo
Pháp Ký thì Vô Trú người Phượng Tường, tên thế tục là Lý. Trước
tiên, ông theo học đốn giáo với đồ đệ của Huệ An là Trần Sở Chương,
sau đó lại thờ Thái Nguyên Tự Tại, một đệ tử của Huệ Năng, làm thầy
và xuất gia từ lúc đó. Ông trú ở Ngũ Đài Sơn lẫn Trường An, nhân
nghe tiếng tăm về hành trạng của thiền sư Vô Tướng, đem lòng ngưỡng
mộ. Rốt cuộc đến gặp được Vô Tướng ở Tịnh Chúng Tự và trở thành
người thừa kế của ông ta. Thế nhưng, ngay cả Lịch Đại Bảo Pháp Ký
cũng ghi lai là hai người gặp nhau có mỗi một lần và Vô Trú chỉ là
một trong số tăng tục đến tham gia một buổi lễ truyền pháp do Vô
Tướng tổ chức mà thôi.Khi Vô Trú vào Tứ Xuyên để tập thiền theo
đường lối của Đạt Ma, nếu muốn thành công chắc phải nương cậy vào
quyền uy của Tịnh Chúng Tông, vốn đã có cơ sở vững chắc ở đây. Hình
như Vô Trú cứ thế mà đem Tam Cú Ngữ của Vô Tướng ra truyền lại, điều
này cũng có nghĩa là ông tự mình thể nghiệm phương pháp truyền giáo
của phái Tịnh Chúng để sử dụng nó cho mục đích nâng cao thanh thế
của tông phái.
Tuy vậy, đúng như
lời Thần Thanh đã kịch liệt phê bình, tư tưởng của Vô Trú không bắt
nguồn từ hệ phái Tịnh Chúng. Như quá trình tu dưỡng của ông đã để lộ
phần nào, giáo lý của ông có lẽ đến từ tông phái Huệ Năng.Trong Lịch
Đại Pháp Bảo Ký, có nhiều chỗ nhắc tới Hà Trạch Thần Hội cũng như
cuộc thảo luận về tông phái ở Hoạt Đài, lại còn lợi dụng lý thuyết
về truyền y mà Thần Hội đã sáng tạo để chính thống hóa Vô Trú. Những
sự kiện đó cho thấy ta rõ ràng ảnh hưởng to lớn của Hà Trạch Thần
Hội. Ngay việc coi trọng "vô niệm" của họ cũng là một điểm đồng dạng
với đường lối của Hà Trạch Tông, thế nhưng điều quan trọng ta cần
chú ý hơn cả là (theo lời Tông Mật truyền lại) họ hầu như không làm
Phật sự và cũng không chấp nhận việc tu hành. Điều đó cho thấy họ
quay về với phương pháp "đốn ngộ" và nhận thức "phiền não tức bồ
đề", nối tiếp và triệt để chủ trương vô hiệu hóa cách suy nghĩ đặt
trọng tâm vào thể nghiệm tọa thiền rồi cứ như thế mà gắn chủ trương
ấy liền với thực tế.
Điều này có nghĩa
Bảo Đường Tông thành lập được là vì đã tiếp nhận cùng lúc ảnh hưởng
của Tịnh Chúng đã có danh vọng ở Tứ Xuyên cũng như của Hà Trạch Tông
vốn đang tạo được thế đứng vững mạnh ở trung nguyên, và cũng nhờ
nhân cách độc đáo của người lãnh đạo của họ là Vô Trú. Thế nhưng sau
thời Vô Trú, không mấy ai hiểu rõ về những hoạt động của Bảo Đường
Tông. Lịch Đại Bảo Pháp Ký có đưa ra tên tuổi một vài đệ tử của ông,
còn về hoạt động của họ, không thấy ghi chép gì cả.
Cũng vậy, ảnh hưởng
của Hà Trạch Thần Hội đã lan dến Tịnh Chúng Tông ở Tứ Xuyên. Trong
hệ thống của Tịnh Chúng Tông, người hoạt động cuối cùng được biết
tới là Ích Châu Nam Ấn thế nhưng về sau người ta lại tạo ra một hệ
phổ hư cấu ghép ông vào chung với Hà Trạch Tông, như sau:
Hà Trạch Thần Hội -> Từ
Châu Trí Như -> Ích Châu Nam Ấn (? - 821?) -> Toại Châu
Đạo Viên (tiền bán thế kỷ thứ 9) và Đông Kinh Thần Chiếu (776-838).
Dựa vào những điều
này, người ta cho dựng mộ tháp của Thần Chiếu bên cạnh ngôi tháp cũ
của Hà Trạch Thần Hội ở chùa Long Môn. Sở dĩ họ có hành vi như vậy
có lẽ vì Hà Trạch Tông và sau đó là Hồng Châu Tông (môn phái của Mã
Tổ Đạo Nhất) muốn dùng hình thức nương tựa lẫn nhau giữa các tông
phái (hiệu quả hô ứng và ỷ phụ) để gây thanh thế và xác lập quyền uy
của mình.Về sau, trong hệ thống này lại xuất hiện Khuê Phong Tông
Mật, người cổ xúy cho tư tưởng "Giáo Thiền nhất trí" mà những lời
phê phán của ông đối với Ngưu Đầu Tông và Hồng Châu Tông rất đáng
cho ta chú ý.
Đường hướng và hoạt động của Thiền Bắc Tông sau thời Thần Hội:
Những sóng gió mà
Thần Hội gây ra còn để ảnh hưởng đến tận đời sau. Tuy nhiên không vì
ông mà Thiền Bắc Tông bị tiêu diệt.Theo văn bia về Tăng Xán nhan đề
Tùy Cố Kính Trí Thiền Sư Bi Minh Bình Tự do Độc Cô Cập (?- 777) viết
thì Hoằng Chính (năm sinh năm mất không rõ) của Bắc Tông, người thừa
kế Phổ Tịch, đã qui tụ được rất nhiều đệ tử. Ngoài ra, được biết các
đệ tử khác của Phổ Tịch như Đồng Quan (700-770), Pháp Ngoạn
(715-790), Đạo Tuyền (năm sinh năm mất không rõ), Chí Không (năm
sinh năm mất không rõ) đều thu nhận nhiều học trò.
Tựu trung, việc Đạo
Tuyên đưa Thiền Bắc Tông vào Nhật Bản, đệ tử Chí Không là Thần Hành
(704-779) truyền bá đến Triều Tiên là những sự kiện có tầm quan
trọng rất lớn. Lại nữa, đệ tử của Thần Tú tên gọi Hàng Ma Tạng (năm
sinh năm mất không rõ) và học trò Đạo Phúc (655-743) là thiền sư Ma
Kha Diễn (Đại Thừa hòa thượng, hậu bán thế kỷ thứ 8) vào cuối thế kỷ
thứ 8 đã từ Đôn Hoàng vào Tây Tạng rao giảng Thiền Bắc Tông. Cũng
cần ghi lại một sự kiện quan trọng khác là cuộc tranh luận về tôn
giáo của họ với các học tăng người Ấn Độ có tên là "Tây Tạng tông
luận".
Dầu vậy, sau thời
Thần Hội, Thiền Bắc Tông bắt buộc phải tổ chức để đối đầu với trào
lưu tư tưởng mới do ông ta dựng nên. Ngày nay, nhờ có Đại Thừa Khai
Tâm Kiến Tính Đốn Ngộ Chân Tông Luận, truyền lại với bản Đôn Hoàng,
chúng ta mới nắm được một bằng chứng về phản ứng đó. Văn kiện này
tương truyền do Huệ Quang, một cư sĩ có pháp danh Đại Chiếu, từng
theo học Huệ An (phái Bắc nhưng ôn hòa) và Hà Trạch Thần Hội (phái
Nam), soạn lại nhưng chính ra nó chỉ "chiên qua xào lại" Đốn Ngộ
Chân Tông Kim Cương Bát Nhã Tu Hành Đạt Bỉ Ngạn Pháp Môn Yếu Quyết
của Hầu Mạc Trần Diễm và những điều ghi chép về người viết nó chắc
chỉ là giả thác. Tuy nhiên ở điểm cố tình nối kết Huệ An với Thần
Hội đã tỏ ra rằng vào thời ấy, người ta cảm thấy việc điều đình giữa
hai tông phái thiền Nam Bắc là một điều cần thiết.
Về Tây Tạng
tông luận:
Tây Tạng (Tibet) nằm giữa hai
khối văn hóa lớn là Ấn Độ và Trung Quốc, tự ngày xưa đã chịu ảnh
hưởng của hai bên, cả việc tiếp thu Phật Giáo cũng cùng một hoàn
cảnh. Trong bối cảnh đó, cuộc thảo luận về tôn giáo được biết đến
với cái tên "Tây Tạng tông luận" đã diễn ra dưới triều vua
Tisondechen (phiên âm) (trị vì 754-796) với tình tiết như sau:
Năm 787, Tây Tạng tấn công Đôn
Hoàng và bắt được thiền sư Ma Kha Diễn đem về. Năm 792, vua ra sắc
lệnh cho phép ông truyền giáo. Giáo lý của Ma Kha Diễn được tiếp
nhận rộng rãi, số tín đồ đi theo đông đảo. Ông còn thâu nhận được đệ
tử là Keku Rinpoche (Bảo Chân) và qui y cho cả hoàng hậu cũng như
phu nhân của nhiều đại thần. Tuy nhiên, các tăng sĩ Ấn Độ vốn bố
giáo ở đó từ lâu đã phản ứng lại. Họ tâu với hoàng đế xin bắt Ma Kha
Diễn mở một cuộc tranh luận với họ về tôn giáo. Sau nhiều cuộc tranh
cãi, phần thắng đã về Ma Kha Diễn, thế nhưng các tăng sĩ Ấn Độ không
chịu thua, còn xúc xiểm và kết hợp với các đại thần cùng nhau gây áp
lực để ông phải ngừng hoạt động.Trước việc đó, các đệ tử theo ông
kháng nghị lại. Đến năm 794, lại có sắc lệnh xác nhận quyền truyền
đạo của Ma Kha Diễn. Bị yếu thế, các tăng nhân Ấn Độ mời tăng
Kamarashiila (phiên âm) (hậu bán thế kỷ thứ 8) qua và một cuộc tranh
luận giữa ông này và Ma Kha Diễn đã được tổ chức. Nhờ có yếu tố
chính trị xen vào, lần này Kamarashiila được xử thắng. Ma Kha Diễn
thì đến năm 797 được trả về Đôn Hoàng. (Tuy vậy, ngày nay nhiều nhà
nghiên cứu ngờ rằng cuộc luận chiến giữa hai ông không hề có thực.
Nếu quan điểm này là đúng thì có lẽ sau khi Ma Kha Diễn rút lui,
Kamarashiila mới được mời đến để thành lập Phật Giáo Tây Tạng dựa
trên cơ sở Phật Giáo Ấn Độ và do đó, các sử thư đời sau mới "nhuận
sắc" để tạo dựng một cuộc tranh luận giữa hai ông và cho Ma Kha Diễn
thua cuộc). Cuộc "tông luận" này được nhắc đến trong các sách vở Tây
Tạng như "Puton Phật Giáo Sử" (phiên âm) (năm 1322) nhưng văn bản
gốc lại là tác phẩm chữ Hán nhan đề Đốn Ngộ Đại Thừa Chính Lý Quyết
(794, văn thư Đôn Hoàng). Sách này do một nhân vật tên Vương Tích,
nhận mệnh của Ma Kha Diễn, biên tập bằng Hán văn những tư liệu liên
quan đến cuộc tranh luận lần thứ nhất, và đã hoàn thành vào khoảng
năm 794, lúc phía Ma Kha Diễn dành được thắng lợi. Văn kiện này là
một tư liệu quí giá, chẳng những để biết cuộc tranh luận trên thực
tế đã xảy ra thế nào mà còn giúp ta tìm hiểu thêm về tư tưởng Thiền
Bắc Tông vào thời điểm hậu bán thế kỷ thứ 8.
Thế chân vạc của Bắc Tông, Nam Tông và Ngưu Đầu Tông:
Như đã trình bày,
giai đoạn từ hậu bán thế kỷ thứ 8 bước qua thế kỷ thứ 9 là lúc Thiền
Tông vừa mới manh nha với sự hiện diện của nhiều tông phái như Bắc
Tông, Nam Tông, Ngưu Đầu Tông, Tịnh Chúng Tông, Bảo Đường Tông
vv...Đây là một thời kỳ vô cùng trọng yếu trong lịch sử Thiền Tông
vì thiền đã bước qua giai đoạn được biết đến một cách rộng rãi và dĩ
nhiên, thiền đã ảnh hưởng cả đến các tôn phái khác.
Về ảnh hưởng đó, ta
có thể thấy qua truyện ký về hai nhà truyền giáo quan trọng nhất
thời ấy là Kinh Khê Đam Nhiên (tổ thứ 6 phái Thiên Thai, 711-782) và
Thanh Lương Trừng Quán (tổ thứ 4 phái Hoa Nghiêm). Sự giao lưu của
các ông đã trở thành một giai thoại nổi tiếng trong lịch sử Phật
giáo Trung Quốc. Trong bài văn bia nhan đề Tả Khê Đại Sư Bi viết về
công đức của Tả Khê Huyền Lãng (tổ thứ 5 phái Thiên Thai) và là thầy
của Đam Nhiên, văn hào Lý Hoa (? - 766?), trong phần nhắc lại hệ phổ
Thiền Tông, có đưa ra tên tuổi của Hoằng Chính (Bắc Tông), Huệ Năng
(Nam Tông), Pháp Khâm (Ngưu Đầu Tông). Theo văn bia, Lý Hoa cho biết
mình không những từng theo học Đam Nhiên mà còn thờ Pháp Khâm làm
thầy. Lại nữa, bản thân Trừng Quán (Hoa Nghiêm) đã học thiền Bắc
Tông nơi Huệ Vân (năm sinh năm mất không rõ), sau đó lại học thiền
Hà Trạch với Lạc Dương Vô Danh cũng như thiền Ngưu Đầu với Ngưu Đầu
Huệ Trung và Kinh Sơn Pháp Khâm. Điều đó cho ta thấy các tông phái
Thiền Tông đương thời đã thu hút được sự quan tâm đến mức nào.
Từ những sự kiện kể
trên, ta có thể suy đoán rằng thời ấy có ba tông phái tiêu biểu cho
Thiền Tông tức là Bắc Tông, Nam Tông và Ngưu Đầu Tông. Họ tạo ra một
thế chân vạc. Tuy nhiên, hình thái ấy sẽ biến đổi một cách đột ngột
vào khoảng giữa thế kỷ thứ 8, khi Mã Tổ Đạo Nhất (709-788) và Thạch
Đầu Hy Thiên (700-709) xuất hiện.
Bàn về
Thanh Lương Trừng Quán:
Trừng Quán người Việt Châu Sơn
Âm (tỉnh Chiết Giang), tên thế tục là Hạ Hầu. Xuất gia năm 11 tuổi,
theo học hết tất cả những hệ thống tư tưởng Phật giáo đương thời như
Luật, Tam Luận, Khởi Tín, Niết Bàn, Hoa Nghiêm, Thiên Thai...Đặc
biệt Trừng Quán có thụ giáo với Pháp Sằn (có thể đọc là Pháp Tiên,
năm sinh năm mất không rõ) học trò của tăng phái Hoa Nghiêm là Huệ
Uyển (năm sinh năm mất không rõ) thế nhưng ông lại phê phán nghiêm
khắc Huệ Uyển, cho rằng ông này đã không kế thừa tư tưởng của Huệ
Tạng (643-712). Ông trứ tác nhiều kinh sách ví dụ Hoa Nghiêm Kinh Sớ
(787), Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao, một quyển chú thích thêm về sách ấy,
cũng như Tam Thánh Viên Dung Quán, Pháp Giới Quán Huyền Kính. Khuê
Phong Tông Mật, người có kế hoạch thống nhất Hoa Nghiêm và Thiền
Tông, chính là đệ tử của ông. Trong Tùy Sớ Diễn Nghĩa Sao, Trừng
Quán chỉ trích những nhân vật của Thiền Tông đã vứt bỏ việc học giáo
lý mà chỉ chú tâm vào quán pháp. Ông nhấn mạnh giáo lý và quán pháp
đều cần thiết và cho biết giáo học của mình bao hàm giáo lý của hai
dòng Thiền Nam Bắc lẫn tư tưởng phái Thiên Thai. Ông đưa ra lý
thuyết "chỉ quán", phương pháp "chỉ" thì bắt chước Bắc Tông, "quán"
lại bắt chước Nam Tông, qua việc khuyên thực hành đồng thời "chỉ" và
"quán", ông rắp tâm thống nhất hai dòng thiền Nam Bắc. Việc Thiền
Tông từ bỏ giáo lý là có thật, thế nhưng Hà Trạch Tông cũng từng
nhấn mạnh là "định tuệ đẳng" (nghĩa là coi trọng cả hai) rồi cho nên
khi Trừng Quán đưa ra "chỉ quán", ta không khỏi cảm thấy ông ta như
muốn vơ hết mọi thứ vào cho mình (ngã điền dẫn thủy = tát nước vào
ruộng nhà). Duy, ý đồ của Trừng Quán muốn thống nhất Thiền Tông thì
quả là một điều hết sức mới mẻ và ảnh hưởng của nó đến tư tưởng của
Tông Mật không thể bị coi thường.
Hệ phổ của
Thiền (2)
Hệ phổ này bắt đầu từ Hoằng
Nhẫn.
1 Hoằng Nhẫn
-> 2 Ngọc Tuyền Thần Tú (Thần
Tú sáng lập Bắc Tông) -> 3 Tung Sơn Phổ Tịch
-> 4 Thánh Thiện Hoằng Chính, 4 Thiếu Lâm Đồng Quan, 4 Kính Ái
Pháp Ngoạn, 4 Nhất Hành, 4 Chí Không (Triều Tiên) -> 5
Thần Hành. Đồng 4 Đạo Tuyền* (người sau đó đến Nhật di trú) à
5 Hành Biểu -> 6 Saichô (Tối Trừng của Nhật Bản).
Đồng 3 Tây Kinh Nghĩa Phúc. 3 Tung Sơn Kính Hiền. 3 Đông Nhạc Hàng
Ma Tạng. 3 Không Tịch Đại Phúc -> 4 Ma Kha Diễn. 3 Hầu
Mạc Trần Diễm.
2 Tung Sơn Huệ An* ->
3 Hầu Mạc Trần Diễm (học cả với Thần Tú), 3 Trần Sở Chương ->
4 Bảo Đường Vô Trú (sáng lập Bảo Đường Tông).
2 Tư Châu Trí Sằn* (hay Trí
Tiên) -> 3 Tư Châu Xử Tịch -> 4 Tịnh Chúng
Vô Tướng (Tịnh Chúng Tông) -> 5 Nam Nhạc Thừa
Viễn, 5 Huệ Nghĩa Thần Thanh (cũng học với Bảo Đường Vô Trú), 5 Tịnh
Chúng Thần Hội* -> 6 Ích Châu Nam Ấn -> 7
Toại Châu Đạo Viên -> 8 Khuê Phong Tông Mật. Đồng 7 Đông
Kinh Thần Chiếu* -> 8 Thanh Lương Trừng Quán (Hoa
Nghiêm Tông, cũng học với Lạc Dương Vô Danh).
2 Tào Khê Huệ Năng* (Huệ Năng
là tổ của Nam Tông) -> 3 Nam Nhạc Hoài Nhượng
-> 4 Mã Tổ Đạo Nhất (Mã Tổ khai sáng Hồng Châu Tông).
Đồng 3 Thanh Nguyên Hành Tư* -> 4 Thạch Đầu Hy Thiên.
(Thạch Đầu là tổ của Thạch Đầu Tông). Đồng 3 Tịnh Tàng. 3
Thái Nguyên Tự Tại. 3 Hà Trạch Thần Hội* (sơ tổ của Hà Trạch Tông)
-> 4 Tịnh Trú Tấn Bình, 4 Kinh Châu Huệ Giác, 4 Thái Nguyên
Quang Dao, 4 Từ Châu Trí Như, 4 Lạc Dương Vô Danh -> 5
Thanh Nguyên Trừng Quán (thuộc Hoa Nghiêm Tông, cũng là học
trò Đông Kinh Thần Chiếu thuộc nhánh Trí Sằn (sau là Tịnh Chúng
Tông) và Kinh Sơn Pháp Khâm dòng Pháp Trì (sau là Ngưu Đầu
Tông), và là thầy Khuê Phong Tông Mật).
2 Ngưu Đầu Pháp Trì* (tổ của
Ngưu Đầu Tông) -> 3 Thiên Bảo Trí Uy ->
4 Ngưu Đầu Huệ Trung -> 5 Kim Lăng Huệ Thiệp, 5 Thái
Bạch Quán Tông, 5 Phật Quật Duy Trắc* -> Vân Sơn Phổ
Trí. Đồng 4 Hạc Lâm Huyền Tố* -> 5 Ngô Trung Pháp Kính.
Đồng 5 Kinh Sơn Pháp Khâm* -> 6 Hàng Ma Sùng Huệ. Đồng 5
Tử Sơn Hạo Nhiên.
Phân bố địa lý các
chùa thiền và các thiền tăng trụ trì (một người có thể tu ở nhiều
chùa):
c) Phía bắc
sông Trường Giang:
Trường An: Hưng Đường Tự (Phổ
Tịch), Phúc Tiên Tự (Nghĩa Phúc), Thánh Thiện Tự (Hoằng Chính). Lạc
Dương: Thiên Bảo Tự (Thần Tú), Kính Ái Tự (Phổ Tịch), Hà Trạch Tự
(Thần Hội), Long Môn Tự (có tháp Thần Hội). Từ Châu: Pháp Quán Tự
(Trí Như). Thái Sơn: Đông Nhạc (Hàng Ma Tạng). Hoạt Đài: Đại Vân Tự
(nơi tổ chức tông luận của Thần Hội). Tung Sơn: Thiếu Lâm Tự (Pháp
Như), Sùng Nhạc Tự (Phổ Tịch), Hội Thiện Tự (Kính Hiền). Tử Châu:
Huệ Nghĩa Tự (Thần Thanh). Nam Dương: Long Hưng Tự (Thần Hội). Kinh
Châu: Ngọc Tuyền Tự (Thần Tú), Độ Môn Tự. Ích Châu: Tịnh Chúng Tự
(Vô Tướng, Thần Hội). Tư Châu: Đức Thuần Tự (Trí Sằn), Bảo Đường Tự
(Vô Trú).
d) Phía nam
sông Trường Giang:
Ngưu Đầu Sơn (Pháp Dung, Huệ
Trung), Hạc Lâm Sơn: Hạc Lâm Tự (Huyền Tố). Kinh Sơn (Pháp Khâm).
Thiên Thai Sơn : Phật Quật Tự (Duy Trắc), Nam Nhạc (Hoài Nhượng, Hy
Thiên). Dặc Dương (nơi Thần Hội bị đày). Chung Lăng: Khai Nguyên Tự
(Đạo Nhất). Thanh Nguyên Sơn (Hành Tư). Thiều Châu: Đại Phạn Tự. Tào
Khê Sơn: Bảo Lâm Tự (Huệ Năng). Quảng Châu: Quang Hiếu Tự, Long Sơn:
Quốc Ân Tự.
[1] - Ế phát tháp: tháp chôn tóc.
[2] - Xin hiểu trung nguyên trong nghĩa vùng nam bắc sông
Hoàng Hà, bao gồm các tỉnh Hà Nam, Sơn Đông, đại bộ phận Sơn Tây
cũng như một phần của Hà Bắc và Thiểm Tây. Trung nguyên như vậy có
nghĩa là nơi phát nguyên của văn hóa Trung Quốc.
[3] - Tư tưởng đại thừa, theo đó, chúng sinh đều có Phật
tánh nghĩa là khả năng thành Phật (theo nhóm Đạo Uyển)