Tình
trạng xã hội Nam Tống:
Nhà Tống bị diệt sau
cuốn biến loạn trong niên hiệu Tĩnh Khang nhưng năm 1127, em trai
Khâm Tông là Triệu Cấu (1107-1187) lên ngôi ở phủ Ứng Thiên, Nam
Kinh tức vua Tống Cao Tông (trị vì 1127-1162), phục hưng cơ nghiệp
và lấy Lâm An (Hàng Châu Chiết Giang) làm kinh đô mới. Đó là thời
Nam Tống (1127-1279). Như thế đã tạo thành thế ba chân vạc mới: Kim,
Tây Hạ và Nam Tống. Nhà Tống bị đuổi xuống miền Giang Nam, lúc đầu
muốn lấy lại đất đai đã mất nhưng khi đại thần Tần Cối bị Kim bắt và
thả cho về thì phái chủ hòa càng thêm mạnh. Năm 1142, hòa nghị lập
xong, người cầm đấu phái chủ chiến là Nhạc Phi (1103-1141) bị xử
hình.Nội dung hòa ước cho thấy việc Tống chấp nhận số phận khuất
nhục làm bầy tôi của Kim và phải giữ lệ tiến cống. Sau khi việc đối
ngoại đã được dàn xếp, Tần Cối quay vào bên trong để tổ chức chính
quyền theo ý mình. Một trong những chính sách là thu thuế cá nhân
(nhân đầu thuế) có tên là "miễn đinh tiền" của giới tăng lữ
(1145).Lý do đích thực của chính sách này là để khống chế và kiểm
soát Phật giáo qua việc lập tăng tịch để thu thuế.
Năm 1161, vua Kim là
Hải Lăng Vương bất chợt xâm lấn nhưng hiệp ước giảng hòa lại đem đến
lợi thế cho Nam Tống vì nhờ đó, vào đời vua kế tiếp của Tống là Hiếu
Tông (trị vì 1163-89), trong nước hưởng được một thời gian hòa bình
và an định. Thời kỳ này có những tăng nhân hoạt động tích cực như
Mật Am Hàm Kiệt (?-1207), người nối nghiệp Đại Huệ Tông Quả
(1089-1163) và cũng là thời đại Tống Học đại thành với Chu Hy (tức
Chu Tử, 1130-1200). Thế nhưng, đến cuối thế kỷ 12 , ngoại thích là
Hàn Thác Trụ (?-1207) nắm được chính quyền, ra tay đàn áp phái đối
lập (gọi là đạo giáo phái, trong đó có cả Chu Hy). Sử gọi là vụ
"đảng cấm năm Khánh Nguyên". Xã hội rất dao động vì lúc đó Nam Tống
lại đang chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với nước Kim.
Đến năm 1207, Hàn
Thác Trụ bị ám sát. Cuộc hòa nghị với Kim được thành lập nhưng sau
đó, xuất hiện hai tể tướng chuyên quyền là Sử Di Viễn (?-1333) và
Giả Tự Đạo (1213-1275), đến năm 1217 Tống lại khai chiến với Kim,
lúc đó đã bị Mông Cổ làm yếu đi. Từ 1233 qua đến năm sau, Tống hợp
tác với Mông Cổ đánh Kim với mục đích chinh phục lại lãnh thổ, thế
rồi năm 1235 lại phải mở một cuộc chiến tranh phòng ngự trước sự xâm
lấn của Mông Cổ. Tất cả đưa xã hội đến chỗ lung lay.
Năm 1260, Kubilai
(Thế Tổ, tại vị 1260-94) kế nghiệp chức kha-hãn đời thứ 5 của Mông
Cổ, nhưng khác với những người đi trước, ông lại muốn làm hoàng đế ở
trung nguyên. Do đó, năm 1273, Mông Cổ tấn công thành Tương Dương,
năm sau, tuyên chiến với Nam Tống, cử Bayan ( Bá Nhan) mở đầu cuộc
tổng tiến công. Quân Tống thua ở khắp các mặt trận. Năm 1275, Giả Tự
Đạo thống lĩnh trên 13 vạn đại quân ra nghênh chiến bị thua đậm ở Vu
Hồ (An Huy). Giả Tự Đạo mất chức, do dư luận qui cho trách nhiệm về
sự thất trận nên bị giết sau đó.
Năm 1276, quân
Nguyên tiến đến Lâm An và vây hãm. Cung Đế ( tại vị 1274-76) và
chính quyền Nam Tống qui hàng. Hoàng tộc và quan lại trên mấy nghìn
người bị giải từ Lâm An vê Thượng Đô, nơi Khubilai đóng dinh. Tàn
đảng nhà Tống còn cố gắng phò Đoan Tông (tại vị 1276-78) và Vệ Vương
(1278-79) đề kháng nhưng đến năm 1279 thì cuối cùng đã bị tiêu diệt
hoàn toàn ở Nhai Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông.
Đường hướng hoạt động của các phái Thiền:
Kể từ khi triều Nam
Tống bắt đầu, hoạt động của tông Vân Môn dần dần suy yếu. Chỉ biết
sơ lược là có một thiền tăng tên Lôi Am Chính Thụ (1146-1208) đã
biên tập tác phẩm tên là Gia Thái Phổ Đăng Lục (1204) mà thôi chứ hệ
phổ của tông môn thì cuối đời Nam Tống coi như đã tuyệt. Do đó, chỉ
còn có hai tông Lâm Tế và Tào Động là còn tiếp nối được dòng Thiền.
Đặc biệt, phái Dương Kỳ, một phân nhánh của Lâm Tế, hoạt động rất
mạnh mẽ. Trong đám môn hạ từ cửa Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135) có
Đại Huệ Tông Quả (1089-1163) là người tụ tập được nhiều đệ tử hơn
cả. Ông đã khai sáng ra một phái mới gọi là phái Đại Huệ.
Có thể kể đến những
nhân vật phát xuất từ phái này như học trò của Đại Huệ Tông Cảo là
Chuyết Am Đức Quang (tức Phật Chiếu Thiền Sư, 1121-1203), Lãn Am
Đĩnh Nhu (1092-1153), Khai Thiện Đạo Khiêm (Mật Am, năm sinh năm mất
không rõ), Hiểu Oánh Trọng Ôn (1116-?). Riêng đệ tử của Chuyết Am
Đức Quang thì lại có những người như Bắc Giản Cư Giản (1164-1246) và
Chiết Ông Như Diễm (1151-1225). Lại nữa, Bắc Giản Cư Giản có đệ tử
là Vật Sơ Đại Quan (người giữa thế kỷ 13), Chiết Ông Như Diễm đã đào
tạo Đại Xuyên Phổ Tế (1179-1253), Yển Khê Quảng Văn (1189-1263) cũng
như Hối Nham Trí Chiếu (thế kỷ 12-13), người được biết như là nhà
biên tập của Nhân Thiên Nhãn Mục (1183), tác phẩm làm rõ được đặc
sắc của ngũ gia.
Đại Huệ Tông Cảo vì
tích cực giao du với giới sĩ đại phu cho nên trong đám môn hạ có
nhiều người là cư sĩ. Đáng kể hơn cả là Trương Cửu Thành (1092-1159)
vốn được Đại Huệ tín nhiệm nhất. Một số được biết đến nhờ văn tài
lỗi lạc như Lã Bản Trung (1084-1145), Hàn Câu (? -1136), Lý Bính
(1085-1146).
Về Đại Huệ
Tông Cảo:
Năm 16 tuổi ông đã đắc độ, 17
tuổi thụ đủ các giới. Ban đầu ông theo học Động Sơn Đạo Vi tức đệ tử
của Phù Dung Đạo Khải. Sau thờ Trạm Đường Văn Chuẩn (1061-1115) phái
Hoàng Long thuộc tông Lâm Tế làm thầy. Đến khi thầy mất, bắt đầu du
hành và tham học nhiều nơi. Nhận di mệnh của Văn Chuẩn, cùng Trương
Thương Anh (1043-1121) tìm đến phái Dương Kỳ làm đệ tử của Viên Ngộ
Khắc Cần, chẳng bao lâu đã nhận được pháp tự. Năm 1137 về sống ở
Kinh Sơn (Chiết Giang), tập hợp học trò đến cả nghìn người. Do đó,
ông được xem như là người đã phục hưng tông Lâm Tế. Năm 1141, dính
dấp vào một cuộc cạnh tranh chính trị nên bị đày đi Hành Châu (Hồ
Nam) rồi Mai Châu (Quảng Đông). Đến khi được ân xá, ông vào tu ở A
Dục Vương Sơn ở Minh Châu (Chiết Giang). Năm 1158, lại vào núi Kinh
Sơn, mất năm 75 tuổi (1163).
Ông có nhiều trứ tác như Chính
Pháp Nhãn Tạng, Đại Huệ Ngữ Lục, Đại Huệ Pháp Ngữ, Đại Huệ Phổ
Thuyết, Đại Huệ Thư...Ông phê bình kịch liệt mặc chiếu thiền [1]
của phái Tào Động, đồng thời sử dụng những công án có từ đời Ngũ Tổ
Pháp Diễn (? - 1104) đến Viên Ngộ Khắc Cần vào việc dạy dỗ tăng
nhân. Đáng gọi là bậc đại thành công án. Ông còn thừa kế truyền
thống đại tu đại dụng của dòng thiền Mã Tổ, chủ trương Phật pháp và
vương pháp cùng nhất trí, thông qua đám môn đệ là giới sĩ đại phu,
cố gắng tích cực tham gia vào xã hội. Với tư thế năng động như vậy,
tư tưởng của ông đã ảnh hưởng nhiều đến triết học của Chu Hy.
Tuy nhiên sau đó,
dựa vào sức hoạt động của Mật Am Hàm Kiệt, phái Hổ Khâu của Hổ Khâu
Thiệu Long, đệ tử Viên Ngộ Khắc Cần, cũng hưng thịnh lên. Trong đám
môn nhân của Mật Am Hàm Kiệt đặc biệt có hai nhân vật tiếng tăm, đó
là Tùng Nguyên Sùng Nhạc (1132-1202) và Phá Am Tổ Tiên (1136-1211),
mỗi người đứng đầu một phái (phái Tùng Nguyên và phái Phá Am). Phái
Tùng Nguyên có Hư Đường Trí Ngu (1185-1269) trong khi phái Phá Am có
Vô Chuẩn Sư Phạm (tức Phật Giám Thiền Sư, 1177-1249). Hai ông đều có
danh vọng, cùng được hoàng đế Tống Lý Tông (1224-64) ban tử y (áo
tía).
Hư Đường Trí Ngu
cũng có người học trò giỏi là Linh Thạch Như Chi (năm sinh và mất
không rõ) nhưng chính môn đệ của Vô Chuẩn Sư Phạm mới tỏ ra có nhiều
sắc thái hơn cả, bắt đầu với "tứ triết" (bốn người hiền): Biệt Sơn
Tổ Trí (1200-1260), Đoạn Kiều Diệu Luân (1201-1261), Tây Nham Liễu
Huệ (1198-1262), Ngột Am Phổ Ninh (1197-1276) rồi đến Hoàn Khê Duy
Nhất (1202-81) tác giả Ngũ Gia Chính Tông Tán (1254) luận về gia
phong của ngũ gia, Thoái Canh Đức Ninh (năm sinh năm mất không rõ),
Tuyết Nham Tổ Khâm (? - 1287), Vô Học Tổ Nguyên (1226-1286) vv...Lại
nữa, về nhân tài đứng bên ngoài hệ phái của Viên Ngộ Khắc Cần, phải
kể đến Tăng Đĩnh Thủ Trách (tức Trách Tạng Chủ, năm sinh năm mất
không rõ) cũng như người trứ tác cuốn tập ngữ lục Vô Môn Quan (1129)
tức Vô Môn Huệ Khai (1183-1260).
Những thiền tăng trứ
danh kể trên được rất nhiều đồ đệ từ Nhật Bản và Triều Tiên đến tham
học. Con số những người này có khi vượt qua cả con số tăng nhân
Trung Quốc nữa. Người Nhật lưu học ở Trung Quốc trong giai đoạn này
có Nanpo Jômin ( Nam Phố Thiệu Minh, 1235-1291) đã nhận pháp tự của
Hư Đường Trí Ngu, Tôfuku Enni (Đông Phúc Viên Nhĩ, 1202-1280), nhận
pháp tự của Vô Chuẩn Sư Phạm, Mukan Fumon (Vô Quan Phổ Môn,
1183-1260) từng tham học với Đoạn Kiều Diệu Luân, Hakuun Egyô (Bạch
Vân Huệ Hiểu (1228-1297) học trò Hy Tẩu Thiệu Vân.
Mặt khác, phía tông
Tào Động thì Đan Hà Tử Thuần (1064-1117) có hai đệ tử giỏi là Hoằng
Trí Chính Giác (tức Thiên Đồng Chính Giác, 1091-1157) và Chân Yết
Thanh Liễu (1088-1151). Tuy họ vạch được một giới tuyến với tông Lâm
Tế nhưng về ảnh hưởng thì hoàn toàn không bắt kịp tông này. Có điều
là từ hệ phái Tào Động của Thanh Yết Thanh Liễu có Thiên Đồng Như
Tịnh (1163-1228), người đã truyền Thiền cho Dôgen (Đạo Nguyên,
1200-53) của Nhật Bản lúc ấy vừa nhập Tống. Và như ta đã biết, Dôgen
chính là nguyên lưu của tông Tào Động ở Nhật vậy.
Cuối đời Nam Tống
bước qua Nguyên sơ, nhiều thiền tăng lỗi lạc của Trung Quốc đã đến
Nhật. Trong số đó có Lan Khê Đạo Long (1213-78, sang Nhật năm 1246),
của phái Tùng Nguyên, Ngột Am Phổ Ninh (sang Nhật năm 1260, về lại
Trung Quốc năm 1265) và Vô Học Tổ Nguyên (sang Nhật năm 1279), hai
người thuộc phái Phá Am.Trong nhóm này, còn có Nhất Sơn Nhất Ninh
(1247-1317, sang Nhật năm 1299), vốn là người thuộc sứ bộ triều
Nguyên nhưng được người Nhật khẩn khoản mời ở lại. Ngoài ra một số
khác sang Nhật vì tránh cảnh chiến tranh ly loạn dưới thời Nam Tống,
hoặc vì không muốn phục tùng một triều đình do người ngoại quốc đến
chiếm đóng dựng nên.
Một điều quan trọng
cần đề cập đến khi nói về Phật giáo thời Nam Tống là sự thay đổi
trong mối quan hệ giữa phái Thiên Thai và Thiền Tông.Thời Bắc Tống
thì quan hệ đó rất xấu, nhìn vào việc Tứ Minh Trí Lễ (960-1028) thì
rõ, người phái Thiên Thai thường chĩa mũi giáo công kích Thiền Tông.
Thế nhưng đến giai đoạn Nam Tống, ngược lại, họ tích cực tìm cách
tiếp cận. Các tăng Thiên Thai như Thanh Tu Pháp Cửu (?-1163), Trúc
Am Khả Quan (1092-1182), Bắc Phong Tông Ấn (1148-1213) vv...đều đến
tham học với Đại Huệ Tông Cảo, còn Giác Vận Trí Liên (1088-1163) thì
thờ Hoằng Trí Chính Giác làm thầy. Đệ tử của Tông Ấn là Hối Nham
Pháp Chiếu ( 1185-1273) lại hỏi đạo Si Tuyệt Đạo Trùng (1169-1250)
và Hư Đường Trí Ngu. Học trò của họ thường tham học với các thiền
tăng nổi danh ( Pháp Chiếu được biết nhiều vì đã viết lời tựa cho
cuốn Đại Giác Thiền Sư Ngữ Lục của Lan Khê Đạo Long, vị thiền tăng
đã sang Nhật). Hình như lý do các tăng Thiên Thai quan tâm đến Thiền
là vì việc tham thiền có thể giúp cho họ thực chứng được pháp môn
của mình.Đến đời Pháp Cửu thì trong các chùa phái Thiên Thai cũng áp
dụng các thanh qui của thiền viện. (Ví dụ Giáo Uyển Thanh Quy được
truyền đến ngày nay có thể do bản gốc có từ đời Pháp Cửu. Thanh quy
này đã được Nhất Am Nhất Như (năm sinh và mất không rõ) đem vào đất
Nhật hồi đầu nhà Minh, từng được Vân Ngoại Tự Khánh tái biên tập năm
1347). Trong số các nhân vật phái Thiên Thai cũng có kẻ rốt cục đã
chuyển hướng, gia nhập hẳn vào làng Thiền như Mục Am Pháp Trung
(1084-1149) và Tịnh Từ Đàm Mật (1120-1188). Như thế mới thấy vào
thời này, ảnh hưởng của Thiền Tông đến Phật giáo nói chung thật
triệt để, việc phân chia "lưỡng ban" đông tây để vận hành thiền tự
và chế độ "thập phương trụ trì" cũng được các giáo tự cũng như luật
tự bắt chước và phổ biến rộng rãi (Luật Uyển Thanh Quy do tăng Tỉnh
Ngộ biên tập đã được san hành vào năm 1324).
Việc nhập
tạng và xuất bản thư tịch Thiền Tông:
Như đề cập đến ở bên trên, vua
Thái Tổ nhà Tống đã ra lệnh chạm khắc bản (điêu tạo) Đại Tạng Kinh
(971) và cho Ần Kinh Viện ấn hành. Đến cuối đời Bắc Tống thì nhờ
kinh tế phát triển nên việc in ấn Đại Tạng Kinh đã được phát triển
rộng ra cả trong dân chúng. Chuyện ấy vẫn được kế tục dưới thời Nam
Tống với sự ra đời của các bản Đại Tạng Kinh của Đông Thiền Tự ở
Phúc Châu (1080-1112), của Khai Nguyên Tự cũng ở Phúc Châu
(1112-1151), bản Tư Khê ở Hồ Châu (khoảng năm 1133), bản Tích Sa
(1231-1315) vv... Cùng với sự xác định vai trò của Thiền Tông trong
đời sống tôn giáo và xã hội, các thiền tịch (thư tịch Thiền Tông)
như Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Truyền Pháp Chính Tông Ký, Truyền Tâm
Pháp Yếu, Lục Tổ Đàn Kinh, Đại Huệ Thiền Sư Ngữ Lục...dần dần được
phép nhập tạng (bảo tồn bảo tàng như văn kiện chính thức) và quảng
bá giống như trường hợp của Đại Tạng Kinh. (Việc cho phép thiền tịch
được nhập tạng sẽ được nối tiếp. Vào đời Nguyên có Trung Phong Hòa
Thượng Quảng Lục, đời Minh có Hộ Pháp Luận và Viên Ngộ Phật Quả
Thiền Sư Ngữ Lục lọt vào trường hợp ấy).
Lệnh cho khắc bản và
ấn hành Đại Tạng Kinh vào đời Tống đã ảnh hưởng tới nhiều nước lân
cận. Liêu, Kim, Cao Lệ đều xuất bản kinh ấy ( ví dụ bản do người
Khiết Đan khắc (1031-64), bản do người Kim khắc (1149-?), sơ điêu
bản (1011-?) và tái điêu bản (1236-1251) của Cao Lệ). Dầu bên Tống
đã nhập tạng kinh ấy, người các nước vẫn tiếp tục in, cùng lúc họ
lại chêm thêm nhiều sách mới vào trong nữa. Điều này góp phần không
nhỏ vào việc đề phòng sự thất thoát các tác phẩm. Ví dụ như hai cuốn
Bảo Lâm Truyện và Truyền Đăng Ngọc Anh Tập tưởng đã mất hẳn nhưng
đến thời cận đại, người ta lại phát hiện ra nó trong Kim Khắc Đại
Tạng Kinh. Việc Tổ Đường Tập đã được tìm ra trong phần phụ lục bản
Đại Tạng Kinh của Cao Lệ là một chuyện nhiều người biết.
Đời Tống, việc xuất
bản rất hưng thịnh, nhiều khi chỉ vì mục đích doanh lợi. Trong bối
cảnh đó, ngoài Đại Tạng Kinh là một thiền tịch trọng yếu, các tác
phẩm khác cũng được in ra. Xin trưng ra hai ba ví dụ nổi tiếng nhất.
Đó là Lục Tổ Đàn Kinh được Phật Nhật Khế Tung (1007-72) san hành vào
năm 1056, Truyền Tông Pháp Yếu được Giác Phạm Huệ Hồng (1071-1128)
san hành (vào năm nào thì không rõ), Trấn Châu Lâm Tế Huệ Chiếu
Thiền Sư Ngữ Lục được Viên Giác Tông Diễn (không rõ năm sinh năm
mất) san hành vào năm 1120. Vân Môn Khuông Chân Thiền Sư Quảng Lục
cũng được Tông Diễn in ra như không rõ vào thời điểm nào.
Đến thời Nam Tống
thì việc san hành thiền tịch càng thịnh vượng, nhất là các ngữ lục.
Đặc biệt nhiều tùng thư chuyên môn về ngữ lục đã ra đời. Trong số
đó, quan trọng hơn hết Trách Tạng Chủ ở Phúc Châu (tỉnh Phúc Kiến)
đã thu thập và ấn hành ngữ lục của 12 người từ đời Đường đến đời
Tống, trong đó có Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) và Đầu Tử Đại Đồng
(819-914), thành tác phẩm Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu (1128-1144). Sách này
sau đó được tăng bổ hai lần vào năm 1178 và 1267 và trở thành cơ sở
để soạn Cổ Tôn Túc Ngữ Lục (trong Nam Tạng, 1403), tác phẩm được
nhập tạng dưới thời Minh. Trong lần tục biên, nó thu thập được lời
nói của 80 vị thiền sư dưới nhan đề "Tục Khai Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu",
đã ảnh hưởng rất lớn đến hậu thế.
Cổ Tôn Túc
Ngữ Yếu và Cổ Tôn Túc Ngữ Lục:
Từ đời Đường đến đời Tống, có
rất nhiều thiền ngữ lục xuất hiện, chúng được lưu truyền lại và có
ảnh hưởng to tát đến đời sau. Trách Tạng Chủ (tức thiền sư Tăng Đĩnh
Thủ Trách, người sống giữa thế kỷ thứ 12), đã ấn hành ở vùng Cổ Sơn
thuộc Phúc Châu (thuộc tỉnh Phúc Kiến) khoảng năm 1140 tác phẩm Cổ
Tôn Túc Ngữ Yếu. Nội dung của nó gồm có:
1) Trì Châu Nam Tuyền Phổ
Nguyện Hòa Thượng Ngữ Yếu (Nam Tuyền Phổ Nguyện).
2) Đầu Tử Hòa Thượng Ngũ
Lục (Đầu Tử Đại Đồng).
3) Mục Châu Hòa Thượng
Ngữ Lục (Mục Châu Đạo Tung).
4) Triệu Châu Chân Tế Hòa
Thượng Ngữ Lục (Triệu Châu Tùng Thẩm).
5) Nhữ Châu Nam Viện
Ngung Hòa Thượng Ngữ Yếu (Nam Viện Huệ Ngung).
6) Nhữ Châu Thủ Sơn Niệm
Hòa Thượng Ngữ Yếu (Thủ Sơn Tỉnh Niệm).
7) Nhữ Châu Diệp Huyện
Quảng Giáo Tỉnh Thường Sư Ngữ Lục (Diệp Huyện Quy Tỉnh)
8) Đàm Châu Thần Đĩnh Sơn
Đệ Nhất Đại Nhân Thiền Sư Ngữ Lục ( Thần Đĩnh Hồng Nhân).
9) Tinh Châu Thừa Thiên
Tung Thiền Sư Ngữ (Thừa Thiên Trí Tung).
10) Thạch Môn Sơn Từ
Chiếu Thiền Sư Phượng Nham Tập (Cốc Ẩn Uẩn Thông).
11) Thư Châu Pháp Hoa Sơn
Cử Hòa Thượng Ngữ Yếu (Pháp Hoa Toàn Cử).
12) Quân Châu Đại Ngu Chi
Hòa Thượng Ngữ Lục (Đại Ngu Thủ Chi)
13) Vân Phong Duyệt Thiền
Sư Ngữ Lục (Vân Phong Văn Duyệt).
14) Viên Châu Dương Kỳ
Hội Hòa Thượng Ngữ Lục (Dương Kỳ Phương Hội).
15) Đàm Châu Đạo Ngô Chân
Hòa Thượng Ngữ Yếu (Đạo Ngô Ngộ Chân).
13) Đại Tùy Thần Chiếu
Thiền Sư Ngữ Yếu (Đại Tùy Pháp Chân).
17) Tử Hồ Sơn Đệ Nhất Đại
Thần Lực Thiền Sư Ngữ Lục (Tử Hồ Lợi Tung).
18) Cổ Sơn Tiên Hưng
Thánh Quốc Sư Hòa Thượng Pháp Đường Huyền Yếu Quảng Tập (Cổ Sơn
Thần Án).
19) Tương Châu Động Sơn
Đệ Nhị Đại Sơ Thiền Sư Ngữ Lục (Động Sơn Thủ Sơ).
20) Trí Môn Tộ Thiền Sư
Ngữ Lục (Trí Môn Quang Tộ).
Sau đó, trong lần trùng
san năm 1178 lại bổ sung thêm 2 cuốn:
21) Thư Châu Bạch Vân Sơn
Hải Hội Diễn Hòa Thượng Ngữ Lục (Ngũ Tổ Pháp Diễn).
22) Từ Châu Lang Da Sơn
Giác Hòa Thượng Ngữ Lục ( Lang Da Huệ Giác).
Đến năm 1267 lại trùng
san. Lần này thêm 5 nhà:
23) Trấn Châu Lâm Tế Huệ
Chiếu Thiền Sư Ngữ Lục (Lâm Tế Nghĩa Huyền).
24) Vân Môn Khuông Chân
Thiền Sư Quảng Lục ( Vân Môn Văn Yển).
25) Thư Châu Long Môn
Phật Nhãn Hòa Thượng Ngữ Lục (Phật Nhãn Thanh Viễn).
26) Bảo Phong Vân Am Chân
Tịnh Thiền Sư Ngữ Lục (Chân Tịnh Khắc Văn).
27) Đông Lâm Hòa Thượng
Vân Môn Am Chủ Tụng Cổ (Trúc Am Sĩ Khuê, Đại Huệ Tông Cảo).
Đến đây, tên sách được đổi
thành Cổ Tôn Túc Ngữ Lục. Thế rồi đến năm 1403 nhân được nhà
Minh tuyển vào Nam Tạng, lại thêm vào đấy 17 cuốn nữa:
28) Nam Nhạc Đại Huệ
Thiền Sư Ngữ (Nam Nhạc Hoài Nhượng).
29) Mã Tổ Đại Tịch Thiền
Sư Ngữ (Mã Tổ Đạo Nhất).
30) Bách Trượng Hoài Hải
Thiền Sư Ngữ (Bách Trượng Hoài Hải).
31) Quân Châu Hoàng Bá
Đoạn Tế Thiền Sư Ngữ, Quảng Lăng Lục (Hoàng Bá Hy Vận).
32) Hưng Hóa Thiền Sư Ngữ
Lục (Hưng Hóa Tồn Tương).
33) Phong Huyệt Thiền Sư
Ngữ Lục (Phong Huyệt Diên Chiểu).
34) Phần Dương Chiêu
Thiền Sư Ngữ (Phần Dương Thiện Chiêu).
35) Từ Minh Thiền Sư Ngữ
Lục (Thạch Sương Sở Viên).
36) Bạch Vân Đoan Thiền
Sư Ngữ (Bạch Vân Thủ Đoan).
37) Phật Chiếu Thiền Sư
Kinh Sơn Dục Vương Ngữ (Chuyết Am Đức Quang).
38) Bắc Giản Giản Thiền
Sư (Bắc Giản Cư Giản).
39) Vật Sơ Quan Thiền Sư
(Vật Sơ Đại Quan).
40) Hối Cơ Thiền Sư Ngữ
Lục (Hối Cơ Nguyên Hi).
41) Quảng Trí Toàn Ngộ
Thiền Sư (Tiếu Ẩn Đại Hân).
42) Trọng Phương Hòa
Thượng Ngữ Lục (Trọng Phương Thiên Luân).
43) Giác Nguyên Đàm Thiền
Sư (Giác Nguyên Huệ Đàm).
44) Phật Chiếu Thiền Sư
Tấu Đối Lục (Chuyết Am Đức Quang).
Trong thời gian ấy, người biên
tập là Định Nham Tịnh Giới (? - 1418) muốn xén bớt một số đoạn cho
nên trong lần san hành Vạn Lịch Bản Đại Tạng Kinh (Gia Hưng Tạng),
người ta có ý phục hồi lại nguyên hình của nó nghĩa là các cuốn từ
36 đến 43 để có bộ mặt như chúng ta thấy ngày nay.
Ấy là những đoạn đường mà Cổ
Tôn Túc Ngữ Yếu đời Tống đã trải qua để trở thành Cổ Tôn Túc Ngữ Lục
hiện hành. Ngoài ra còn có chuyện xảy ra vào năm 1238 là việc Hối
Thất Sư Minh, một người sống vào tiền bán thế kỷ 13, đã hoàn thành
một cuốn Tục Khai Cổ Tôn Túc Ngữ Yếu như một tục biên của nó và đem
vào đấy 80 nhà. Hình như lúc đầu ông có chủ tâm gộp nó với chính
biên để có đủ 100 nhà nhưng ngoài Lâm Tế Lục đặt ở đầu sách, ông đã
xén bỏ gần hết.
Đến đời Tống, nếu
nhìn trường hợp của Phần Dương Thiện Chiêu (947-1024), Thạch Sương
Sở Viên (986-1-39), Tuyết Đậu Trọng (Trùng) Hiển (980-1052), ta thấy
việc biên tập các thiền ngữ lục đã diễn ra ngay lúc các bậc đại sư
còn sống, và đã được sự giám tu của các vị ấy. Ngay sau khi các vị
ấy chết đi, chúng được ấn hành ngay (và cũng có lúc việc này xảy ra
lúc các vị ấy còn sống như trường hợp Hư Đường Lục của thiền sư Nam
Tống Hư Đường Trí Ngu vào năm 1269). Trong trường hợp biên tập sau
khi chết, thường bản thảo sẽ đem trình cho một thiền sư đàn anh để
xin sửa đổi thêm bớt và cho lời tựa và lời bạt rồi mới đem in. Vào
đời Tống, tư tưởng Thiền đã thẩm thấu sâu xa trong xã hội và phải
nói nguyên động lực của nó là việc quảng bá thiền tịch.
Thế những ý nghĩa
của các bản ấn hành vào đời Tống không ngừng lại ở đó. Việc quảng bá
ấn phẩm các ngữ lục Đường Tống còn có ảnh hưởng đến hậu thế nữa. Lục
Tổ Đàn Kinh là một ví dụ điển hình. Đương thời, những ấn bản của
cuốn sách này đã được truyền bá khắp nơi trước khi nó bị nhiều người
cải biên nên ta có thể biết hình thức cổ xưa nhất của nó, rồi qua sự
so sánh với các ấn bản về sau, thấy được tư trưởng Thiền Tông đã
phát triển như thế nào. Do đó, chúng trở thành những tư liệu nghiên
cứu quí giá vì có vai trò lịch sử.
Các ấn bản đời Tống
đã được các học tăng và thương nhân đem từ Trung Quốc về Nhật. Ngày
vẫn còn giữ được một số. Ngoài chất lượng chạm khắc (điêu tạo) cao
làm cho chúng có thêm cả giá trị công nghệ, các "Tống bản" và các
Nguyên bản" cứ được để nguyên như thế mà lưu truyền ở Nhật. Nó trở
thành những "bản lót" (để bản) cho các "bản Gozan" (bản của năm chùa
thiền Nhật hay Ngũ Sơn bản) và đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc xuất
bản thiền tịch Nhật Bản.
Sự hình
thành của các công án Thiền:
Từ khi bước vào thời Nam Tống,
phong trào viết bình luận cho các công án đã bắt đầu. Trong tác phẩm
Chính Pháp Nhãn Tạng [2]
của ông, thiền sư Đại Huệ Tông Cảo đã biên tập lời trước ngữ và bình
xướng cho rất nhiều công án. Tuy vậy, thể loại tụng cổ mới là hình
thức phổ biến nhất. Các vị như Hoằng Trí Chính Giác, Tuyết Am Tùng
Cẩn (1117-1200), Hư Đường Trí Ngu đã viết ra Tụng Cổ Bách Tắc. Cuốn
Tứ Gia Lục (một "tụng cổ tập" thu thập các tác phẩm nổi tiếng của 4
người là Tuyết Đậu Trọng (Trùng) Hiển, Đầu Tử Nghĩa Thanh, Thiên
Đồng Chính Giác, Đan Hà Tử Thuần) cũng được xuất bản. Lại nữa, Thiền
Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập, được xem như tục biên của Thiền
Môn Thống Yếu thời Bắc Tống, đã được biên soạn lần đầu tiên năm 1175
và các tác phẩm phê bình khác thuộc loại tụng cổ, niêm cổ...đã được
ấn loát và phổ biến rộng rãi. Qua đến đời Nguyên, chúng vẫn được
tiếp tục tăng bổ và tiếp tục phát triển.
Sự lưu hành của công án đã ảnh
hưởng đến hình thức và nội dung các cuốn đăng sử. Thay vì tiếp tục
viết truyện ký các thiền sư, có những cuốn chỉ chú trọng đến việc
phê bình các công án như Tông Môn Liên Đăng Hội Yếu (1183) chẳng
hạn. Ta thấy trong đó ảnh hưởng nhận được từ Chính Pháp Nhãn Tạng
(1147) và Tông Môn Thống Yếu (1133) rất mạnh.
Công án tập
thành:
Người tiên khu trong việc tập
thành (thâu tóm nhiều thể loại khác nhau) công án, tụng cổ, niêm
cổ...(để gộp thành một tập) có lẽ là thiền sư thời Bắc Tống Huệ
Nghiêm Tông Diễn (năm sinh năm mất không rõ) với tác phẩm Tông Môn
Thống Yếu (1133). Sau đó, Cổ Lâm Thanh Mậu (1262-1329) đời Nguyên đã
tục biên nó dưới cái tên Tông Môn Thống Yếu Tục Tập (1320). Đến đời
Thanh lại có Vị Trung Tịnh Phù tăng bổ chúng trong tác phẩm Tông Môn
Niêm Cổ Vựng Tập (1664). Khuynh hướng tập thành và tăng bổ các công
án ngày càng nhiều ra. Ví dụ sau khi Pháp Ứng (năm sinh và mất không
rõ) đời Tống đã biên tập Thiền Tông Tụng Cổ Liên Châu Thông Tập, năm
1317 sách ấy lại được Lỗ Am Phổ Hội (năm sinh năm mất không rõ) đời
Nguyên tăng bổ. Cuốn Niêm Bát Phương Châu Ngọc Tập (1257) do Tổ
Khánh (măm sinh năm mất không rõ) biên cũng đã dựa trên cơ sở của
những bài niêm lộng (tóm tắt những điều quan trọng của tông môn bằng
những lời bình luận có cá tính của mình) do Phật Giám Huệ Cần
(1059-1117) và Viên Ngộ Khắc Cần (1063-1135) viết năm 1125, vốn được
bổ sung và niêm cổ (lối phê bình các cổ tắc với lời lẽ thông thường
bằng văn xuôi) một lần trước vào năm 1136 với Chính Giác Tông Hiển
(người thế kỷ 12-13). Sách mà Tổ Khánh biên lại có phụ thêm những
lời trước ngữ của thầy ông là Thạch Khê Tâm Nguyệt (? - 1254). Ngoài
ra, như đã nhắc đến nhiều lần, hãy còn có Chính Pháp Nhãn Tạng
(1147) trong đó Đại Huệ Tông Cảo đã viết trước ngữ và bình xướng cho
661 tắc công án. Các thiền sư đời Nguyên như Thiện Tuấn, Trí Cảnh,
Đạo Thái cũng hiệp lực soạn chung một công án tập thành là Thiền Lâm
Loại Tụ (1307).
Từ đời Tống trở đi, thiền lâm
có khuynh hướng chú trọng vào "thể nghiệm khai ngộ" (kinh nghiệm
được sự giác ngộ bằng bản thân của mình) hơn cả. Trong Thiền Bắc
Tống, "thể nghiệm khai ngộ" đã được nâng lên cao nhưng kể từ đời Hà
Trạch Thần Hội (684-758) về sau thì bị miệt thị và đến Mã Tổ Đạo
Nhất hầu như ông không thèm nhắc tới nó. Phải nói thể nghiệm về
thiền được xem là quan trọng trở lại là từ khi các thiền tăng có
khuynh hướng quay vào bên trong để tìm hiểu nội tâm. Một trong những
lý do tạo ra khuynh hướng này là vì những lời bình luận về các công
án đã thấm sâu vào các giai tầng trong tổ chức xã hội của tùng lâm.
Hơn nữa, ngày nay họ không còn có sự tư do đi đây đi đó tham học như
các vân thủy đời trước nên khuynh hướng quay vào bên trong cũng dễ
giải thích.
Sự phổ biến các hình
thức phê bình luận công án và sự chú trọng vào thể nghiệm khai ngộ,
hai thứ đó đã kết hợp lại để sinh ra "thiền công án" hay "khán thoại
thiền", một sản phẩm của thời Nam Tống. Nó đã được manh nha với Ngũ
Tổ Pháp Diễn và Viên Ngộ Khắc Cần, thừa kế bởi Đại Huệ Tông Cảo. Từ
đó, nó trở thành một hình thức tu hành có phương pháp luận hẳn hoi,
qua đó, người tu hành dùng "công án" để bắt buộc mình khơi dậy một
"nghi đoàn" (khối nghi ngờ thực sự) rồi thông qua đó tìm ra sự giác
ngộ (khai ngộ).
Công án ban đầu vốn
thể hiện tâm cảnh giác ngộ qua lời nói và hành động của các thiền sư
vĩ đại trong quá khứ cho nên từ xưa người ta đã dùng nó để đi tìm sự
giác ngộ. Người như Hoàng Long Huệ Nam (1002-1069) chẳng hạn, khi tu
học với Thạch Sương Sở Viên, đã nhờ công án Triệu Châu khám bà [3]
(Triệu Châu tìm hiểu hành động của bà lão) mà ngộ đạo, nên sau đó
thường dùng chính công án này làm giáo khoa chỉ đạo học trò mình.
Thế nhưng khi học
tập bằng "thiền công án", phải xem nó như một dụng cụ (miếng ngói để
gõ cửa, dùng xong thì vứt) mà thôi. Việc tìm hiểu nội dung của nó là
gì không bao giờ là vấn đề chính. Điều trọng yếu nhất chỉ là làm sao
khơi dậy lên được mối nghi ngờ đích thực (nghi đoàn) một cách có
hiệu quả. Để được như thế, phải tập trung tinh thần tìm hiểu một
công án thuộc loại nan giải cỡ Triệu Châu vô tự [4](Chữ
Vô của Triệu Châu). Các bậc sư phó lúc chỉ đạo thường đòi hỏi nơi
học trò một kỹ năng chính xác hơn là cá tính của họ.
Công án thiền vì
trình bày những thành quả nổi tiếng về sự tu tập để đi đến giác ngộ
cho nên được lưu hành sâu rộng. Đặc biệt Đại Huệ Tông Cảo đã dùng
công án để dìu dắt học trò, trong đó có cả giới sĩ đại phu, khiến
cho ảnh hưởng của hình thức tu học này lan ra khắp xã hội. Vì lẽ đó,
Đại Huệ được mọi người xưng tụng là "bậc đại thành về thiền công án"
(công án thiền đại thành giả). Tuy nhiên, việc thiền công án ra đời
đã làm cho Thiền trở nên tầm thường, nhàm chán, và ta không thế phủ
nhận rằng nó là nguyên nhân làm giảm sút sức hấp dẫn của thiền.
Đại Huệ và chư đệ tử
đã để lại nhiều trước tác, kể cả những tập xem như ghi lại các giai
thoại về chốn tùng lâm. Đại Huệ Tông Cảo có Đại Huệ Vũ Khố (do Khai
Thiện Đạo Khiêm biên năm 1186), Trọng Ngôn Hiểu Oánh (đệ tử của Đại
Huệ Tông Cảo, 1116 ? - ?) có La Hồ Dã Lục (1155) và Cảm Sơn Vân
Ngoại Kỷ Đàm (hay Vân Ngoại Kỷ Đàm, khoảng 1179), Đông Ngô Tịnh
Thiện (năm sinh năm mất không rõ) có Thiền Lâm Bảo Huấn (khoảng
1180) , Giả Am Huệ Bân (năm sinh năm mất không rõ) có Tùng Lâm Công
Luận (khoảng 1189), Cổ Nguyệt Đạo Dung (năm sinh năm mất không rõ)
có Tùng Lâm Thịnh Sự (1197). Ngoài những tác phẩm chủ yếu do các
nhân vật nói trên, về sau một chút, lại xuất hiện thêm Nhân Thiên
Bảo Giám (1230) của Tứ Minh Đàm Tú (ông là đệ tử Tiếu Ông Diệu Thậm
(1177-1248)), cũng như Khô Nhai Hòa Thượng Mạn Lục (hay Khô Nhai Mạn
Lục, 1263) của Khô Nhai Viên Ngộ (đệ tử Yển Khê Quảng Văn
(1189-1263)). Đó là những quyển sách ra đời với mục đích khuyến
khích nỗ lực tìm về giác ngộ của những người tu hành. Sự xuất hiện
liên tiếp những tác phẩm thuộc loại này chứng minh rằng ảnh hưởng
của thiền công án đã lan ra rất rộng. Chúng ta còn có thể nhìn thấy
sự thực đó qua nội dung Đại Huệ Thư (do Huệ Nhiên (không rõ năm sinh
năm mất) biên tập năm 1166), tập sách gom góp thư tín Đại Huệ trao
đổi với các đệ tử sĩ đại phu của ông.
Dĩ nhiên, sự có mặt
của những thiền sư tông Tào Động như Chân Yết Thanh Liễu và Hoằng
Trí Chính Giác cho ta thấy hãy còn có một phương pháp khác để tu
thiền ("mặc chiếu thiền" của họ đối lập với "công án thiền"). Thế
nhưng trước sự hấp dẫn của trường phái Đại Huệ, nó không thể nào
phát triển nổi. Trong đám đệ tử của Hoằng Trí, có Tự Đắc Huệ Huy
(1097-1183) đã sáng tác Lục Ngưu Đồ (Sáu bức tranh trâu). Về sau
tông Tào Động ở Trung Quốc đã được duy trì nhờ sức các học trò đàn
cháu của Hoằng Trí.
Mặc chiếu
thiền là gì?
Đó là một phương pháp thiền
đương thời đã bị Đại Huệ Tông Cảo phê phán là "tà thiền". Theo những
người chống đối, mặc chiếu thiền, đúng như cái tên gọi của nó, không
nhắm vào sự giác ngộ chỉ lấy sự trầm mặc ngồi thiền làm quan trọng.
Nhân vì Hoằng Trí Chính Giác có viết Mặc Chiếu Minh cho nên người ta
nghĩ Đại Huệ đã tấn công các nhân vật tông Tào Động phái Hoằng Trí.
Tuy nhiên, giữa Hoằng Trí và Đại Huệ lại có mối thân giao, có lẽ Đại
Huệ tấn công trực tiếp vào người đồng môn của Hoằng Trí là Chân Yết
Thanh Liễu thì đúng hơn. Dù nói gì đi nữa, khó lòng chối cãi một
tiền đề là giữa tông phong của Lâm Tế (phía phê phán) và Tào Động
(bị phê phán) có một sự khác nhau rõ ràng. Về phía Nhật Bản thì quả
là thiền sư Dôgen (Đạo Nguyên) khi đề xướng "chỉ quản đả tọa" [5]
đã thừa hưởng di sản của tư tưởng mặc chiếu thiền của tông Tào Động
Trung Quốc. Việc Đạo Nguyên kịch liệt chỉ trích Đại Huệ Tông Cảo
cũng nằm trong lô-gíc ấy.
Ảnh hưởng của công án: Vô Môn Quan và Thập Ngưu Đồ.
Sự thịnh hành của
thiền công án đã khiến cho nội dung của nó biến chất đi. Điều này ta
có thể thấy khi đọc một tập công án như Vô Môn Quan. Nếu từ trước
đến nay các tập công án nặng tính cách văn học [6],
thiên về sự thưởng thức thì từ nay, khía cạnh đó dã bị thụt lùi,
công án chỉ đặt trọng tâm vào sự thực dụng nghĩa là đóng vai trò
công cụ giúp đỡ và khuyến khích người tu học, nội dung nhấn mạnh vào
việc làm sao cho những người ấy sớm tìm thấy sự giác ngộ.
Từ đây các tập công
án có khuynh hướng trở thành tập cẩm nang, tập bài tập...như trường
hợp các tác phẩm thuộc loại Mục Ngưu Đồ (Tranh chăn trâu) liên tiếp
ra đời. Có lẽ đây là đặc điểm của tư tưởng Thiền thời này. Trong
loại Mục Ngưu Đồ có Tứ Ngưu Đồ, Lục Ngưu Đồ, Bát Ngưu Đồ, Thập Ngưu
Đồ, Thập Nhị Ngưu Đồ vv... đủ mọi hình thức, nhưng nổi tiếng hơn cả
là Thập Ngưu Đồ (Mười bức tranh trâu) của Khuếch Am [7]
Sư Viễn (thế kỷ 11-12). Phải nói tập sách này thể hiện đầy đủ nhất
tính chất của thiền công án.
Vô Môn
Quan:
Thiền sư đời Tống Vô Môn Huệ
Khai trong lúc chỉ đạo các đệ tử ở chùa Long Tường ở Đông Gia (tỉnh
Chiết Giang) năm 1228, đã nhân cơ hội biên tập lại các bài giảng của
mình và ấn hành vào năm sau. Nội dung của nó gồm 48 tắc công án quan
trọng xưa nay có thêm lời tụng và bình xướng của ông. Cùng với Bích
Nham Lục, Vô Môn Quan (Ải Không Cửa) là một tập công án tiêu biểu.
Thiền sư Nhật Bản Shinchi Kakushin (Thiên Địa Giác Tâm, 1207-98),
người đã nhập Tống và nhận pháp tự của Huệ Khai, đã đem sách ấy về
và phổ biến lần đầu tiên trong nước. Sau đó sách đó được tông Rinzai
(Lâm Tế Nhật Bản) yêu chuộng, cho in đi in lại nhiều lần. Đặc biệt
từ thời cận đại trở đi, nó rất được chú ý. Có lẽ vì so với Bích Nham
Lục thì nó ngắn hơn, nội dung rõ ràng hơn, có nhiều chỉ dẫn áp dụng
được cho việc tu học hơn. Trong tập này, nổi tiếng hơn cả là công án
thứ nhất nhan đề Triệu Châu cẩu tử (Con chó của Triệu Châu). Tương
truyền thiền sư đời Đường là Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897) khi có
người hỏi xem con chó có Phật tính hay không thì ông đã trả lời
"Không!". Thoại về con chó này là một thay đổi đột biến trong cách
trình bày công án thiền. Thế nhưng khi so sánh với Bích Nham Lục về
tính văn học nghệ thuật, ta thấy Vô Môn Quan đã đánh mất đi nhiều và
không thể nào xóa trong đầu cái ấn tượng là vì muốn trở thành thực
dụng, nó phải gọn gàng và do đó, nghèo nàn đi.
Thập Ngưu
Đồ:
Do Khuếch Am Sư Viễn soạn. Tác
giả đem "bản lai tự kỷ" (con người xưa nay) giả thác vào con trâu
rồi ví von cách tu hành thiền bằng việc tìm bắt con trâu đi lạc về
chuồng qua mười giai đoạn : 19 Tầm ngưu (Tìm trâu), 2) Kiến tích
(Thấy dấu vết), 3) Kiến ngưu (Thấy trâu), 4) Đắc trâu (Được trâu),
5) Mục trâu (Chăn trâu), 6) Kỵ ngưu qui gia (Cưỡi trâu về nhà), 7)
Vong ngưu tồn nhân (Quên trâu lẫn người), 9) Phản bản qui nguyên
(Quay lại cội nguồn), 10) Nhập triền thùy thủ (Thỏng tay vào chợ).
Mỗi giai đoạn đều được minh họa và kèm thêm lời giải thích và thơ.
Thập Ngưu Đồ đã đến Nhật rất sớm, được ghép vào các tập Tứ Bộ Lục [8],
Ngũ Vị Thiền và đem san hành, phổ biến. Nó được cái tiện lợi là bình
dị, chỉ nhìn một cái đã đủ thấy một cách bao quát ý nghĩa của sự tu
Thiền. Ngày nay tác phẩm này vẫn được mọi người quan tâm cũng vì nó
có đặc điểm giúp cho người ta nắm bắt được cái tính đồng nhất (nhất
nguyên tính) của tâm hồn con người. Khuynh hướng này vẫn là khuynh
hướng chung của các công án thiền và phán ánh được trạng huống của
tùng lâm đương thời. Thế nhưng giản dị, dễ hiểu thì có đấy, ngược
lại, nhìn toàn thể thì không khỏi thấy tư tưởng và khí lực của Thập
Ngưu Đồ quá yếu ớt, nghèo nàn. Bộc lộ được chăng là tính tiêu khiển
của nó. Hơn thế nữa, ta cũng không thể bỏ qua khía cạnh trước tác
này dường như đã cho phép thể chế đang dần dần cai quản tùng lâm len
cả vào bên trong tâm hồn con người và trụ lại vững vàng. Ngoài ra,
hãy còn có một Thập Ngưu Đồ cũng được phổ biến rộng rãi ở Trung
Quốc, đó là tác phẩm của Phổ Minh (ông là đệ tử của Viên Thông Pháp
Tú (1027-90) thuộc tông Vân Môn, năm sinh năm mất không rõ). Tác
phẩm này đã được truyền vào đất Nhật vào thời tiền cận đại. Đến thời
Edo thì có Nguyệt Pha Đạo Ấn (1637-1716) đã dung hợp cả hai của Phổ
Minh lẫn của Khuếch Am để làm thành Thập Ngưu Đồ tiếng Nhật mang tên
là Ushikaigusa (Truyện chăn trâu).
Ý nghĩa của sự hình
thành thiền công án thật là to lớn.Vì thành lập được phương pháp
luận để giúp cho người ta tự tìm đến giác ngộ, Thiền đã vượt qua
những dị biệt về văn hóa để truyền đến được cho tất cả mọi người.
Thực tế cho thấy ở Việt Nam, Triều Tiên, Nhật Bản, lịch sử tiếp nhận
Thiền đã bắt đầu từ lâu đời nhưng Thiền chỉ có chân đứng trên các
đất nước đó kể từ thời đại của những ngữ lục trở về sau ( tổ của Tào
Động Tông ở Triều Tiên, Trí Nột (1158-1210), đã soạn Khán Thoại
Quyết Nghi Luận, còn ở Việt Nam thì đối với phái Trúc Lâm mà vua
Trần Nhân Tông (tại vị 1279-1293) là khai tổ thì ảnh hưởng của Đại
Huệ Ngữ Lục rất trọng yếu.
Thời Tam Giáo Nhất Trí Luận thịnh hành và sự ra đời của Chu Tử Học:
Đến đời Tống, trong
chốn tùng lâm, màu sắc chủ nghĩa dân tộc trở nên sâu đậm. Như đã
trình bày ở trên, tư tưởng Nho Thiền nhất trí hay Tam Giáo nhất trí
được đề xướng và biểu dương. Thế nhưng sở dĩ khuynh hướng ấy càng
ngày càng mạnh là vì Thiền có sự ủng hộ của tầng lớp sĩ đại phu. Họ
thuộc lớp quan lại cai trị dân cho nên không thể thờ ơ được với Nho
giáo. Từ đó sinh ra nhu cầu làm cách nào để điều chính, hòa hợp được
quan hệ giữa những tín điều Thiền Tông và giáo lý đạo Nho. Trong các
tác phẩm của các thiền nho, ta thấy họ không ngừng kêu gọi Nho Thiền
nhất trí hay Tam giáo nhất trí, chẳng hạn trong Hộ Pháp Luận của
Trương Thương Anh, Như Như Cư Sĩ Ngữ Lục (năm 1386, dưới thời Minh
được cải biên thành Như Như Cư Sĩ Tam Giáo Đại Toàn Ngữ Lục) của
Nhan Bính (hiệu Như Như Cư Sĩ, ? -1212), Phật Pháp Đại Minh Lục
(1229) của Khuê Đường Cư Sĩ (thế kỷ 12-13) và Tam Giáo Bình Tâm Luận
(tác phẩm đời Nguyên) của Lưu Mật (không rõ năm sinh năm mất).
Người được chú ý vì
lập trường hô hào tam giáo nhất trí có lẽ là Lâm Hy Dật (hiệu Nguyện
Trai, sống giữa thế kỷ 13). Ông chơi thân với đệ tử của Mật Am Hàm
Kiệt là Ẩn Tĩnh Trí Nhu (người hậu bán thế kỷ 12) và Vĩnh Thanh Cổ
Nguyên (không rõ thuộc tông phái nào, 1215-91) dựa trên quan điểm
hợp nhất Nho giáo, Lão Trang và Thiền, trong lục chú thích kinh điển
của Đạo gia (trong Lão Tử Nguyện Trai Khẩu Nghĩa và Trang Tử Nguyện
Trai Khẩu Nghĩa) đã thường xuyên sử dụng thuật ngữ Thiền Tông để
giảng giải tư tưởng của Lão Trang. Các sách đó rất được người trong
tùng lâm yêu chuộng. (Ngay cả phái Gozan (Ngũ Sơn) của Nhật cũng đề
cao chúng).
Về phía các thiền
tăng, vì đi lại với giới sĩ đại phu, họ cũng không thể phủ nhận
những giá trị của Nho giáo. Hơn nữa, dưới thời Bắc Tống, người Trung
Quốc bị các dân tộc phương bắc đàn áp cho nên sau khi dời xuống miền
nam, dưới triều Nam Tống, chủ nghĩa hoa di, tranh luận về đại nghĩa
danh phận và nhương di (đuổi bọn man di) thường được họ nung nấu
trong lòng. Khuynh hướng xem Phật giáo như "giáo lý của di địch" trở
nên mạnh mẻ cho nên Thiền Tông cũng cần thích ứng với tình thế mới.
Do đó, lý thuyết Nho Thiền nhất trí và Tam giáo nhất trí được Đại
Huệ Tông Quả dề xướng buổi đầu đã được các thiền tăng đồng ý và sử
dụng.
Trong tình huống ấy,
sự thành lập của Chu Tử Học cũng ảnh hưởng phần nào đến Thiền Tông.
Chu Hy đã tổng hợp thành công một loạt những giáo lý do các Nho gia
Bắc Tống như Chu Đôn Di (Liêm Khê, 1017-73), Trương Tái (Hoành Cừ,
1020-77), Trình Hiệu (Minh Đạo, 1032-85) và Trình Di (Y Xuyên,
1033-1107) đề ra trước đó. Đó là Chu Tử Học. Như ta đã biết, họ Chu
họ Trình chịu ảnh hưởng rất nặng của Thiền Tông. Chính Chu Hy thời
trẻ cũng theo học Khai Thiện Đạo Khiêm (thế kỷ 12), một học trò của
Đại Huệ Tông Cảo. Ông cũng thích đọc ngữ lục của Đại Huệ, đáng lẽ
ông cũng phải nhìn nhận phần nào những yếu tố có chất Thiền trong
lối suy nghĩ của các bậc tiền bối. Chu Hy lại có một tác phẩm tên
Chu Tử Ngữ Loại có hình thức giống như một ngữ lục của thiền tăng.
Thế mà trên thực tế, Chu Hy đã dựa vào truyền thống nhà nho để phê
phán Thiền Tông kịch liệt.
Trường phái Chu Hy
có thêm nhiều đồ đệ và học vấn của ông được chính quyền công nhận có
lẽ là khi khoa cử, bị bãi bỏ đầu đời Nguyên, được mở ra lại từ năm
1315. Tuy vậy, để phản biện những lời phê bình cứng rắn và ngoan cố
từ phía các người theo Chu Tử Học và cũng vì giữa hai hệ tư tưởng
chính ra vẫn có những điểm tương thông, các thiền tăng đã tích cực
học hỏi Chu Tử Học. Do đó, việc Chu Tử Học hình thành chỉ làm cho
chủ trương Thiền Nho nhất trí càng ngày càng phát động mạnh.
Bỏ qua một bên
chuyện các thiền tăng thời đó ý thức vấn đề đến mức nào, chỉ biết
Thiền Tông tuy phổ biến trong xã hội nhưng đã gặp những khó khăn mà
Chu Tử Học đã biết vượt được lên trên để bỏ Thiền Tông lại đằng sau.
Bởi vì dầu Thiền Tông là một hệ tư tưởng sinh động và cũng muốn đi
tìm một chỗ đứng trong xã hội, ta khó lòng phủ nhận những hạn chế
của nó. Đó cũng là hạn chế của Phật giáo nói chung khi chủ trương
việc "xuất gia". Trong khi ấy, Chu Tử Học đã biết thu nạp hoàn toàn
những điểm ưu việt của Thiền Tông mà vẫn giữ cái gốc Nho Giáo để cho
phép mình tham gia chính trị. Đối với tầng lớp sĩ đại phu mà mục
đích tối hậu không khác gì hơn là trở thành quan lại thông qua khoa
cử, dĩ nhiên Chu Tử Học phải có sức hấp dẫn mạnh hơn Thiền.
Vào lúc ấy, bên
ngoài xã hội, gió đã không còn thuận chiều đối với Thiền Tông nữa.
Những sĩ đại phu đi thi không đỗ đã bỏ nhà đi tu, làm thành ra cả
một phong trào (thiền sư Hối Cơ Nguyên Hi (1238-1319) là một ví dụ
cụ thể). Như thế giới tăng lữ trở thành một lực lượng đối kháng với
Nho gia, và đứng trước họ, Nho gia cảm thấy cần phải phòng thủ. Thêm
nỗi, vì công quĩ thiếu tiền, chính quyền phải đem các thứ độ điệp,
tử y, chức tước nhà chùa.. làm món hàng. Phẩm chất tăng lữ vì thế sa
sút hẳn, trong xã hội họ chỉ còn là những kẻ có địa vị thấp kém
nhất.Ngoài mặt, Thiền Tông đời Tống có vẻ như thịnh vượng hơn đời
Đường nhưng bên trong thì họ đã ở trên con đường suy thoái.
Chế độ quan tự và văn hóa Thiền:
Như đã trình bày, từ
đời Tống trở đi, hệ thống chùa chiền đã trở thành một bộ phận của
thể chế quốc gia. Đời Nam Tống, chế độ "quan tự" (chùa nhà nước) đã
được đưa vào trở lại và ngày càng trở thành một hệ thống chặt chẽ.
Đời Tống Ninh Tông (tại vị 1194-1224), theo lời tâu của Sử Di Viễn
(? - 1233), cho thành lập chế độ "ngũ sơn thập sát" [9].
Cách vận hành các
"chùa nhà nước" cũng theo tổ chức thành lưỡng ban đã có ở các tự
viện thời Bắc Tống. Tuy nhiên nếu nhìn vào các sớ, bảng...tức là
những phương tiện thông tin trong chùa thì ta thấy chúng đã bị quan
liêu hóa. "Sớ" tức tờ trình của cấp dưới lên cấp trên nay lại chia
ra tờ chúc mừng lúc vào chùa (gọi là nhập tự sớ, theo thứ bậc hay vị
trí chia ra thành sơn môn sớ, chư sơn sớ, giang hồ sớ...), tờ xin
tiền nước tắm (lâm hãn sớ), tờ trình việc quyên góp tiền (cán duyên
sớ). Còn "bảng" là yết thị của cấp trên thông tin cho cấp dưới và
khải tráp (khải trát) là thư tín qua lại có tính cách nghi thức giữa
những người cùng đẳng cấp).Chức thư ký khi soạn thảo, ghi chép cũng
dùng thể văn tứ lục (tứ lục biền lệ văn) nghĩa là mô phỏng hình thức
của công văn. Như thế, trong sinh hoạt tùng lâm, thể văn tứ lục trở
thành tất yếu. Do đó, mối quan tâm của các thiền tăng đối với văn
học càng ngày càng lớn. Họ thường tổ chức các hội thơ với mục đích
xã giao, và mỗi lần như thế, ghi chép lại trong những cuốn thơ. Các
thi văn tập xuất hiện trong thời này đáng kể có Bắc Giản Văn Tập,
Bắc Giản Thi Tập (khoảng năm 1238) của Bắc Giản Cư Giản, Vật Sơ Chuế
(?) Ngữ (1267) của Vật Sơ Đại Quan (học trò Bắc Giản Cư Giản), Vô
Văn Ấn (1273) của Vô Văn Đạo Xán. Đặc biệt thi tập và văn tập của
Bắc Giản Cư Giản được người Nhật đánh giá cao.
Tuy vậy, người được
đánh giá cao về mặt văn hóa Thiền trong thời này có lẽ phải nói là
Vô Chuẩn Sư Phạm. Ông chẳng những vẽ tranh rất giỏi mà còn đào tạo
ra Mục Khê (Pháp Thường, ? -khoảng 1280), họa gia được xem như số
một trong chốn tùng lâm. Tác phẩm của Mục Khê đôi khi được các tăng
sĩ Nhật Bản sang Tống du học mang về, đến bây giờ vẫn còn coi như là
những bức tranh hàng đầu. Vô Chuẩn Sư Phạm cũng giao du với Trương
Tức Chi (1186-1266), một nhà thư đạo tiêu biểu đương thời. Đệ tử của
ông nhiều người theo học thư pháp họ Trương. Khi tiễn Tôfuku Enni
(Đông Phúc, Viên Nhĩ) về Nhật, Vô Chuẩn Sư Phạm có tặng ông một bút
tích bằng mực (mặc tích), tương truyền là nét chữ của Trương Thức
Chi. Lại nữa, đệ tử của Vô Chuẩn Sư Phạm là Tùng Pha Tông Khế (người
hậu bán thế kỷ 13) vào thời Tống mạt Nguyên sơ đã thu thập thơ của
các thiền tăng thành Giang Hồ Phong Nguyệt Tập (đầu thế kỷ 14). Tất
cả cho thấy ảnh hưởng văn hóa của Sư Phạm to lớn dường nào.
Ngoài ra, các thiền
tăng đồng thời kỳ với Vô Chuẩn Sư Phạm như Bắc Giản Cư Giản và Hư
Đường Trí Ngu đều có đi lại với Lương Giai (tiền bán thế kỷ 13), một
họa gia ở Họa Viện (tức cơ quan Hàn Lâm Đồ Họa Viện của nhà nước).
Cũng nên biết rằng Mã Công Hiển (sống giữa thế kỷ 12) và Mã Viễn
(thế kỷ 12-13), hai nhân vật thuộc dòng họ Mã (dòng họ này vốn là
cái nôi cung cấp nhân tài cho Họa Viện nhiều nhân tài), cũng thường
vẽ loại tranh gọi là "thiền cơ họa" . Thời đại các đệ tử của Vô
Chuẩn và Trí Ngu là một thời đại văn hóa Thiền rạng rỡ, đến nỗi đời
sau khi nhắc đến đã phê phán bằng cách gọi "cái hào nhoáng của những
năm Cảnh Định Hàm Thuần" (Cảnh Định Hàm Thuần chi phù hoa) .
Hình như vào thời
Nam Tống, số con nhà quan lại và học trò thi trượt vào chốn tùng lâm
tìm một dịp may để ra góp mặt với đời không phải là ít. Như thế,
tùng lâm không đứng bên ngoài giới sĩ đại phu nhưng chính ra kết hợp
làm một với họ. Vì thế, sự giao lưu giữa hai bên ngày một thêm
nhiều, việc trao đổi thi văn, tranh vẻ và bút tích với giới sĩ đại
phu trở thành những hoạt động không thể thiếu được trong cuộc sống
các thiền tăng. (Vào thời này, các thiền tăng cũng tham dự vào các
việc tang tế tại gia cho nên đây cũng có thể coi như nguyên nhân tạo
ra cơ hội).
Ngũ sơn
thập sát:
Vì chính phủ sắp đặt thứ bậc
các chùa thiền chính cho nên họ phải bắt đầu bằng việc tuyển lựa
những người trụ trì từ số cao tăng trong nước và sau đó, ban bằng
sắc bổ nhiệm. Những ngôi chùa được nhà nước công nhận phải làm một
số nghĩa vụ để đền đáp. Đó là việc các "quan tự" tổ chức những buổi
"chúc thánh" (dịch vụ cho nhà nước như cúng tế cầu đảo) cho nhà nước
và đôi khi để các quan chức đến giám sát sinh hoạt thường nhật trong
chùa. Chỉ biết là nếu đứng ra làm lễ cho nhà nước, các quan tự sẽ
được giảm miễn tô thuế chứ còn những liên hệ khác giữa nhà nước và
quan tự như thế nào thì chưa ai rõ cho lắm.
Ở Trung Quốc, "ngũ sơn" tức
là:
1) Kính Sơn , Hưng Thánh Vạn
Thọ Tự (Hàng châu Lâm An phủ thuộc tỉnh Chiết Giang).
2) Bắc Sơn, Cảnh Đức Linh Ẩn Tự
(như trên).
3) Nam Sơn, Tịnh Từ Báo Ân Quang
Hiếu Tự (như trên).
4) Thái Bạch Sơn, Thiên Đồng Cảnh
Đức Tự (Minh châu Khánh Nguyên phủ, thuộc tỉnh Chiết Giang).
5) A Dục Vương Sơn, Mậu Phong
Quảng Lợi Tự (như trên).
Còn "thập sát" tức là:
1) Trung Thiên Trúc Sơn Thiên
Ninh Vạn Thọ Vĩnh Tộ Tự (Hàng châu Lâm An phủ).
2) Đạo Trường Sơn Hộ Thánh Vạn
Thọ Tự (Hồ châu Ô Trình huyện, thuộc tỉnh Chiết Giang).
3) Tưởng Sơn Thái Bình Hưng Quốc
Tự (Kiến Khang Thượng Nguyên phủ, thuộc tỉnh Giang Tô).
4) Vạn Thọ Sơn Báo Ân Quang Hiếu
Tự (Tô châu Bình Giang phủ, thuộc tỉnh Giang Tô).
5) Tuyết Đậu Sơn Tư Thánh Tự
(Minh châu Khánh Nguyên phủ).
6) Giang Tâm Sơn Long Tường Tự
(Ôn châu Vĩnh Gia huyện, thuộc tỉnh Chiết Giang).
7) Tuyết Phong Sơn Sùng Thánh Tự
( Phúc châu Hầu Quan huyện, thuộc tỉnh Phúc Kiến)
8) Vân Hoàng Sơn Bảo Lâm Tự (Vụ
châu Kim Hoa huyện, thuộc tỉnh Chiết Giang).
9) Hô Khâu Sơn Vân Nham Tự (Tô
châu Bìng Giang phủ).
10) Thiên Thai Sơn Quốc Thanh
Kính Trung Tự (Thai châu, Thiên Thai huyện, tỉnh Chiết Giang).
Chế độ "ngũ sơn thập sát" đến
đời Nguyên vẫn được kế tục, thế nhưng, đến năm 1330, Tok Temul
(Nguyên Văn Tông, tại vị 1329-32) không dùng ly cung ở ngoại ô Kim
Lăng (Kiến Khang, Giang Tô) nữa và biến nó thành Đại Long Tường Tập
Khánh Tự. Ông cho đón Tiếu Ẩn Đại Hân về khai sơn, đặt vị trí của nó
lên trên cả 5 chùa đã có (ngũ sơn chi thượng). Đến đời Minh, chùa
này được đổi tên thành Thiên Giới Thiện Thế Thiền Tự nhưng hầu như
vẫn giữ thế chế cũ. Trong chế độ ngũ sơn thập sát, các chùa cấp dưới
chúng được gọi là "giáp sát" (Nhật Bản gọi là "chư sơn"). Nhật Bản
đã mô phỏng Trung Quốc, tuyển chọn năm chùa ở vùng Kyôto và Kamakura
làm ngũ sơn, lại đặt Nanzenji (Nam Thiền Tự) làm "ngũ sơn chi
thượng" giống như trường hợp của Đại Long Tường Tập Khánh Tự. Khi
chế độ "quan tự" đã hoàn thành rồi thì triều đình đã mở những cuộc
thi chọn tăng quan trụ trì, ấn định nghi thức thi cử chọn người có
năng lực "bỉnh phất" (người cầm phất chủ lên tòa thuyết pháp) và đặt
hệ thống thăng tiến cố định cho các trụ trì. Sự "tấn trụ" (tiến lên
trong việc trụ trì) phải theo giai đoạn, đi từ giáp sát lên thập sát
rồi mới tới ngũ sơn.
Kinh tế chùa thiền và sự buông thả đối với quy luật:
Như thế, vào thời
Nam Tống, ngũ sơn thập sát và các chùa thiền cấp dưới đã đóng vai
trò trọng yếu trong hoạt động văn hóa nhưng mặt khác, phải biết rằng
nếu được như vậy là cũng nhờ vào sự phong phú của kinh tế thiền
viện.Vì nhiều người qui y, Thiền Tông nhận được sự tiến cúng đất đai
để lập chùa. Tự viện nhân đấy đã trở thành đại địa chủ sở hữu những
trang viên (giống như nông trại hay đồn điền) rộng lớn.Tăng lữ cũng
biết kinh doanh bằng cách lấy của cải nhà chùa cho vay sinh lợi cho
nên kinh tế các tự viện đời Tống vượt trội hẳn đời Đường.
Dưới thời Bắc Tống
đã có đạo luật gọi là "hạn điền pháp" (giới hạn số ruộng sở hữu) đối
với tự quán (chùa Phật và đền Đạo giáo). Luật này cho phép các đền
chùa kinh đô được 5 nghìn mẫu, chùa các địa phương 3 nghìn mẫu. Vào
năm 1121, nó cũng qui định quan nhất phẩm trong triều đình được 10
nghìn mẫu là mức cao nhất, từ đó ta có thể suy ra số ruộng đất nhà
chùa chiếm hữu nhiều đến mức độ nào.Trên thực tế, sách vở thời ấy
cho biết trong niên hiệu Bảo Khánh (1225-27) triều Nam Tống, tự sản
(tài sản nhà chùa) của A Dục Vương Sơn, một trong Ngũ Sơn, là 3.895
mẫu ruộng và 12.050 mẫu rừng. Thiên Đồng Tự, nơi khoảng một nghìn
tăng nhân sinh sống thì có 3.284 mẫu ruộng và 18.950 mẫu rừng. Ngoài
ra họ còn sở hữu 36 trang viên, diện tích chung là 13.000 mẫu đất và
từ đó thâu được 35.000 đấu [10]
ngũ cốc.
Kinh tế tự viện sung
túc như vậy không thể không gây ảnh hưởng đến cuộc sống của các
thiền tăng. Có thể thấy qua sự buông thả trong quy luật. Vài thiền
viện cho đến thời điểm đó không cho chư tăng ăn cơm chiều, thường
gọi là "dược thạch", nay cũng bãi bỏ lệnh cấm ấy. Vào thời kỳ này,
không thiếu chi thiền tăng để móng tay dài, để tóc dài . Vì lý do
đó, theo Thiền Uyển Thanh Quy vào thời Bắc Tống, nhà chùa cho phép
các tăng nhân chọn thời giờ tọa thiền theo ý thích, bước sang Nam
Tống thì họ đã đặt ra qui chế "tứ thì" (bốn lần trong ngày) rõ ràng:
hoàng hôn (lúc mặt trời lặn) , hậu dạ (nửa khuya), tảo thần (sáng
sớm), bô thì (buổi trưa, sau giờ Thân). Người ta bắt buộc làm như
vậy có lẽ vì nhiệt tâm tu hành của các tăng đã sa sút do kiểm soát
quá lỏng lẻo. Quy định "đông an cư" (họp đoàn để tu học vào mùa
đông) vốn không có bên Ấn Độ cũng đã được thực thi vào giai đoạn
này.
Sở dĩ có nạn mua bán
độ điệp, tử y, sư hiệu... là bởi vì các tăng nhân sống khá giả, có
của cải, đủ sức mua. Hơn nữa, đôi khi chức trụ trì cũng có thể dùng
tiền bạc mà đoạt được.Ngoài ra, vào đời Nam Tống, các tự viện có
khuynh hướng bỏ qui chế "thập phương trụ trì" (chức trụ trì là người
từ bên ngoài) để trở lại qui chế "đồ đệ viện" (chức trụ trì do người
trong nội bộ đưa lên). Lý do là vì mỗi lần thay bậc đổi ngôi, trụ
trì cũ thường hay đem đồ nhật dụng của chùa đi bán, làm cho tự viện
hoang phế điêu tàn. Nhìn cảnh ấy mới thấy thời đó cái nạn đem của
chung làm của riêng phổ biến biết chừng nào.
Việc bảo vệ tài sản,
đất đai núi rừng của nhà chùa khỏi tay người khác lấn chiếm là việc
chẳng dễ dàng, nói chi trùng tu sửa chữa vốn cũng gây ra hao tốn.
Việc phục hưng đền đài miếu mạo đổ nát hay thiêu hủy vì thiên tai,
hỏa tai đòi hỏi rất nhiều kinh phí. Vì vậy, khi các trụ trì tích cực
giao thiệp với danh sĩ các giới hay những kẻ có thực lực trên chính
trường cũng là vì họ xem đó như một bổn phận khi thừa hành chức vụ.
Người muốn trở thành trụ trì phải sẳn sàng làm việc này chứ không
chỉ có tâm hồn thanh cao hay biết dạy dỗ đệ tử là đủ. Để khỏi phải
đối đầu với những trở ngại như thế, không thiếu gì thiền tăng đã ra
sống ở am riêng, không biết đến ai và không cho ai hay biết. Đó là
kiểu mẫu tu hành gọi là "am cư" như trường hợp Trung Phong Minh Bản,
thiền sư đời Nguyên mà ta sẽ nhắc đến sau.
Tiết 2: Phát triển của Thiền dưới các triều Kim và Nguyên
|
Từ Kim qua Nguyên:
Cho đến cuối thế kỷ
thứ 12, tại Trung Quốc, ba nước Kim, Tây Hạ và Nam Tống đã tiếp tục
duy trì được thế chân vạc nhưng từ khi Mông Cổ hùng cường lên thì sự
thăng bằng trong chính trị của bộ ba đã phải chấm dứt. Temujin
(Thiết Mộc Chân) từ năm 1205 đã thống nhất phân nửa cao nguyên Mông
Cổ, năm sau trong đại hội các tù trưởng (khuriltai), lại được bầu
làm Gengis Khan (Thành-Cát-Tư Hãn). Ông tức là Nguyên Thái Tổ (tại
vị 1206-27) về sau. Gengis Khan chỉnh đốn thể chế quốc gia, trước
tiên chinh phục tất cả các nước vùng Trung Á (1209-11), sau đó thảo
phạt nước Kim, đánh chiếm Trung Đô làm cho triều đình nước này bắt
buộc nam thiên về Khai Phong (1211-15). Sau đó, ông lại chinh đông,
tiêu diệt vương triều Hồi giáo Khwarazm Shah lúc đó đang cai quản
vùng Iran và Afghanistan. .
Trở về cao nguyên
Mông Cổ, Gengis Khan chĩa mũi giáo về phương đông, diệt được Tây Hạ
(1225) nhưng chẳng bao lâu thì ngã bệnh. Ogotei (Oa-Khoát-Đài Hãn,
Nguyên Thái Tông, trị vì 1229-1241) kế vị ông, thanh toán luôn nước
Kim (1234). Nhân vật đóng một vài trò bên cạnh hai kha-hãn Gengis và
Ogotei trong việc thôn tính Trung Quốc là Da Luật Sở Tài
(1190-1244), vốn xuất thân hoàng tộc nước Liêu.Từ đó về sau, triều
đình Mông Cổ vẫn tiếp tục chính sách dùng người dựa trên năng lực,
tích cực sử dụng nhân tài thuộc các sắc dân khác.
Sau Ogotei là Guyuk
(Nguyên Định Tông, tại vị 1246-48). Ông ở ngôi chỉ có 2 năm thì
băng, Mongke (Mông Kha, Nguyên Hiến Tông, tại vị 1251-59) kế vị.
Mongke tự mình dẫn quân tiến đánh Nam Tống nhưng mất trên đường hành
quân. Sau đó đã xãy ra một cuộc tranh ngôi nhưng rốt cục Kubilai
(Hốt Tất Liệt, Nguyên Thế Tổ, 1260-94) thắng lợi trước mọi người và
trở thành kha-hãn đời thứ 5.
Kubilai mở lại cuộc
hành binh đánh Tống. Năm 1276, ông vào thủ đô Lâm An không đổ một
giọt máu. Thế rồi năm 1279, sau khi dẹp tàn đảng của Nam Tống, ông
thống nhất Trung Quốc. Kubilai trở thành hoàng đế của Trung Quốc,
đổi niên hiệu là Trung Thống và dùng chữ Nguyên có trong Kinh Dịch
để đặt quốc hiệu. Ông cho kiến thiết kinh đô, đặt tên là Đại Đô (sau
này trở thành Bắc Kinh).
Vương triều Nguyên
củng cố sức mạnh quân sự để cho phép thiểu số người Mông Cổ cai trị
đa số người Hán. Họ đặt trạm thuế khóa ở những mạch giao thông xung
yếu, thu nạp được nhiều tài hóa.Về pháp luật và thuế chế, chính
quyền trung ương không cần phải nhúng tay vào, họ cứ theo đúng
phương pháp của chính quyền cũ. Do đó họ chỉ việc chỉnh đốn cơ cấu
quan lại Trung Quốc đã có sẳn và đặt người Mông Cổ ở trung khu để
thi hành chính sách truyền thống gọi là "cai trị bên lề" (trắc cận
chinh trị).
Sau khi Kubilai tạ
thế, kha-hãn đời thứ 6, Temul (Nguyên Thành Tông, tại vị 1294-1307)
lên nắm quyền. Sau đó, phe ông đã chiến thắng trong một cuộc tranh
chấp với con cháu Ogotei nhưng ngược lại bản thân ông sinh ra đam mê
rượu chè nên chết sớm, lúc mới 42 tuổi. Từ đó, triều Nguyên chỉ toàn
có các hoàng đế yểu mệnh, những cuộc tranh chấp ngai vàng bùng nổ
thường xuyên làm cho chính trị mất hết sự an định. Đặc biệt là sự
hỗn loạn xảy ra sau cái chết của đời vua thứ 11 là Isun Temul (Thái
Định Đế, 1323-28) mà sử gọi là "cuộc nội loạn năm Thiên Lịch". Người
dàn xếp được cho yên và sau đó lên ngôi là Tok Temul, kha-hãn đời
thứ 12, nhưng ông chỉ làm bù nhìn. Từ đó, quyền lực của triều Nguyên
nằm trong tay quân đoàn cấm binh nhưng họ không phải là người Mông
Cổ.
Irinjibal (Nguyên
Hiến Tông, tại vị 1332) lên ngôi lúc mới 7 tuổi và làm vua có 43
ngày thì mất. Đời thứ 14 là Togon Temul (Nguyên Thuận Đế, tại vị
1333-70). Ông trị vì gần 40 năm nhưng trong thời gian đó, tiền giấy
mất giá làm cho kinh tế hỗn loạn, lại thêm những thiên tai như khí
tượng dị thường và động đất... khiến cho kể từ năm 1350 giặc giã dấy
lên như ong. Nhất là kể từ năm 1342 về sau, mỗi năm sông Hoàng Hà
lại gây ra lụt lội làm cho tín đồ Bạch Liên Giáo nổi lên làm loạn
dưới cờ hai cha con Hàn Sơn Đồng (? - 1351) và Hàn Lâm Nhi (? -
1366), người tự xưng là Phật Di Lặc hạ sinh. Bởi vì họ bịt khăn đỏ
trên đầu nên được gọi là giặc Hồng Cân. Lúc đầu tưởng Hồng Cân đã bị
dẹp yên nhưng nhân vì hoàng thất chia rẽ, thế lực của họ lại bùng
lên mạnh mẻ. Một thủ lãnh Hồng Cân là Chu Nguyên Chương (1328-98),
xưa vốn xuất thần bần nông nhưng biết sử dụng cả lớp trí thức nên
dần dần gây dược thanh thế, lần lượt đánh bại các đối thủ như Trần
Hữu Lượng (1316-1363) và Trương Sĩ Thành (1321-67), khống chế phân
nửa phía nam Trung Quốc. Xong, Chu mới mưu chuyện bắc phạt để dẹp
nhà Nguyên. Đến năm 1368 thì lên ngôi ở phủ Ứng Thiên, đặt quốc hiệu
là Minh với niên hiệu Hồng Vũ. Chu Nguyên Chương trở thành Thái Tổ
nhà Minh, còn gọi là Hồng Vũ Đế (trị vì 1368-98). Cùng năm ấy, ông
xua quân vây hãm Đại Đô và thành công trong việc đuổi người Mông Cổ
về phương bắc.
Phương hướng hoạt động của các phái Thiền:
Các hoàng đế nước
Liêu đời nào cũng qui y Phật pháp nhưng đạo mà họ theo chủ yếu là
các tông thuộc giáo học Phật giáo như Hoa Nghiêm, Pháp Tướng và Mật
Tông. Do đó vai trò của Thiền Tông bị lu mờ. Chỉ đến khi Kim lên thế
Liêu, thế lực của Thiền Tông mới duỗi ra được, đặt biệt vào cuối đời
Kim, nhờ sự có mặt của tăng nhân phái Tào Động là Vạn Tùng Hành Tú
(1167-1246). Ông đã đào tạo nhiều học trò xuất sắc, trong số đó phải
kể Lâm Tuyền Tùng Luân (năm sinh năm mất không rõ), Tuyết Đình Phúc
Dụ (1203-75), Kỳ Ngọc Chí Ôn (1217-67), Lý Bình Sơn (1185-1231), Da
Luật Sở Tài (Đam Nhiên Cư Sĩ). Ngay cả hoàng đế Kim Chương Tông (trị
vì 1198-1208) cũng qui y với ông. Da Luật Sở Tài có công lớn trong
việc sáng nghiệp của triều đình Mông Cổ là điều đã nhắc bên trên
nhưng Tuyết Đình Phúc Dụ cũng rất được Kubilai kính trọng, cho cai
quản hết Thích giáo trong thiên hạ. Vào năm 1255, ông ta đã luận
chiến tay đôi trong cung đình ở Karakorum với đạo sĩ phái Toàn Chân
là Lý Chí Thường (1193-1256) và thắng cuộc. Vì Phúc Dụ sống ở chùa
Thiếu Lâm trên Tung Sơn nên nhiều người phái Tào Động sau đó đã đến
ngụ ở chùa này. Thiếu Lâm Tự trở thành căn cứ của Tào Động ở phương
Bắc (từ giữa thời Minh trở đi, họ tự xưng là Tào Động chính tông)
Lại nữa, Lý Bình Sơn là người đã soạn ra tác phẩm Minh Đạo Tập
Thuyết (1235, Da Luật Sở Tài đề tựa), trong đó có viết phản biện đối
với những điều Tống Nho đã phê bình Phật giáo.
Trong số những thiền
tăng nổi tiếng thời nhà Nguyên mới dấy nghiệp, ta còn phải kể đến
Hải Vân Ấn Giản (1202-57) của tông Lâm Tế, người được bốn đời
kha-hãn từ Ogotei đến Kubilai trọng vọng. Ông đã nhận được chiếu chỉ
cho phép quản lý toàn bộ Phật giáo (Sau khi ông mất, địa vị này về
tay Phúc Dụ. Các học trò đàn cháu của Ấn Giản vẫn giữ được quan hệ
mật thiết với triều đình nhà Nguyên và do đó, vào khoảng đầu thế kỷ
14, tông phái của họ mang danh hiệu là Lâm Tế chính tông). Tuy
nhiên, năm 1269, khi Paspa (1235-80) được Kubilai tín nhiệm và phong
chức "Đế sư" người Mông Cổ lại hướng về Phật Giáo Tây Tạng nhiều
hơn. Người ta cho rằng sự mù quáng trong lòng tin tôn giáo và sự
hoang phí xa xỉ đã là hai nguyên nhân khiến cho Nguyên triều đi đến
chỗ diệt vong.
Vạn Tùng
Hành Tú
Ông họ Sái, người huyện Hà Nội
thuộc tỉnh Hà Nam. Lúc nhỏ đi tu ở chùa Tịnh Độ ở Hình Châu (Hà
Nam), sau tham học nhiều nơi và nối pháp tự của Tuyết Nham Mãn ( ? -
1206) ở Đại Minh Tự, Từ Châu (Hà Nam). Ông lại về chùa Tịnh Độ, kết
am Vạn Tùng Hiên để tu. Năm 1193, lúc mới 27 tuổi, đã được Kim
Chương Tông mời vào cung thuyết pháp. Ông lên đường thăm nhiều chùa
danh tiếng và dành thời giờ để đào tạo đệ tử. Năm 1223, ông dựng
Thung Dung Am trong khuôn viên chùa Báo Ân ở Yên Kinh. Đầu đời
Nguyên thì nhập tịch. Những bài giảng của ông về Tụng Cổ Bách Tắc
của thiền sư Hoằng Trí Chính Giác (1091-1157) ở Thung Dung Am đã
được chư đệ tử góp nhặt lại và soạn thành Thung Dung Lục (1223).
Sách ấy cùng với Thỉnh Ích Lục (1230) tức tập giảng nghĩa về Niêm Cổ
Cửu Thập Cửu Tắc của Hoằng Trí là hai tác phẩm đại biểu của Thiền
Tông vào thời đại này.
Triều đình Nhà
Nguyên noi theo tập tục của người Mông Cổ nghĩa là để cho các dân
tộc dưới quyền cai trị của mình, mỗi khi có vấn đề tranh chấp nội
bộ, giải quyết vấn đề theo tinh thần luật pháp cố hữu của chính dân
tộc họ (bản tục pháp). Do đó, dạng thức sinh họat và văn hóa của
người Hán từ thời Nam Tống trở đi vẫn cứ y như cũ. Tôn giáo cũng
vậy, nếu không làm gì chống đối lại Mông Cổ thì vẫn được chấp nhận.
Do đó dầu đã bước vào thời Nguyên, đối với người Trung Quốc, khi nói
đến Phật giáo thì hầu như ai cũng nghĩ là Thiền Tông.
Những thiền tăng
danh tiếng thời Nguyên phần lớn thuộc tông Lâm Tế. Phái Đại Huệ thì
có học trò giỏi của Vật Sơ Đại Quy tên là Hối Cơ Nguyên Hi
(1238-1319), đệ tử của Yển Khê Quảng Văn là Vân Phong Diệu Cao
(1219-1293). Đặc biệt trong đám đệ tử của Nguyên Hy có nhiều anh tài
ví dụ như Tiếu Ẩn Đại Hân (1284-1344) tác giả quyển Bồ Thất Tập,
Đông Dương Đức Huy (năm sinh năm mất không rõ) nhà biên tập Sắc Tu
Bách Trượng Thanh Quy (1336-1343), Mai Ốc Niệm Thường ( 1282 - ? )
người đã biên soạn cuốn sử Phật Tổ Lịch Đại Thông Tải (1341), Giác
Ngạn Bảo Châu (1286-1355?) biên tập cuốn sử Thích Thị Kê Cổ [11]
Lược. Riêng về hội họa, Nguyên Hy lại có những học trò như Tuyết
Song Phổ Minh (thế kỷ 13-14). Ngoài ra, từ hệ phổ của Diệu Phong Chi
Thiện (1152-1235) tức một đệ tử của Phật Chiếu Đức Quang, đã xuất
hiện các danh tăng như Sở Thạch Phạn Kỳ (1296-1370), Mộng Đường Đàm
Ngạc (1285-1373) và Ngu Am Trí Cập (1311-1378).
Mặt khác, bên phái
Phá Am, từ cửa Tuyết Nham Tổ Khâm cũng có những nhân vật đáng lưu ý.
Trong pháp hệ của Tổ Khâm, sau thời các nhà truyền giáo năng nỗ như
Cao Phong Nguyên Diệu (1238-95), Trung Phong Minh Bản (1263-1323) đã
có Thiên Nham Nguyên Trường (1284-1357), Trí Như Duy Tắc (? - 1354),
kế thừa. Lại nữa, về phía phái Tùng Nguyên thì những nhân vật quan
trọng nhất có thể kể ra là thiền sư Cổ Lâm Thanh Mậu (1262-1329),
Liễu Am Thanh Dục (1288-1363), Tức Hưu Khế Liễu (1269-1351) và Hổ
Nham Tịnh Phục (năm sinh năm mất không rõ).
Tông Tào Đông phái
Hoằng Trí có Trực Ông Đức Cử (năm sinh năm mất không rõ) và đệ tử là
Vân Ngoại Vân Tụ (1242-1324) . Các tăng người Nhật qua bên nhà
Nguyên du học như Kohô Kakumyô (Cô Phong Giác Minh, 1271-1361), Gida
Daichi (Kỳ Đà Đại Trí, 1290-1366), Betsugen Enshi ( Biệt Nguyên Viên
Chỉ, 1294-1364) đều đến hỏi đạo nơi ông. Ngoài ra, học trò Đức Cử
như Đông Minh Huệ Nhật (1272-1340), học trò Vân Tụ như Đông Lăng
Vĩnh Dư (1285-1365) đã đến Nhật và xây dựng môn môn phái riêng.
Suốt đời Nguyên,
Thiền Tông giữ được một vai trò nhất định, ngũ sơn đảm bảo được
quyền uy của mình nhưng đến những ngày tàn của vương triều, các chùa
danh tiếng như Kính Sơn hay Linh Ẩn Tự đều mắc nạn binh lửa, số đền
đài miếu mạo bị thiêu hủy không phải là ít. Trường hợp thoát được
tai nạn như Tịnh Từ Tự rất hiếm. Phải đợi đến đời Minh, những ngôi
chùa này mới được xây dựng lại.
Trung Phong Minh
Bản:
Thiền sư sống vào đời Nguyên, thuộc
phái Phá Am, dòng Dương Kỳ tông Lâm Tế. Hiệu là Huyễn Trú Đạo Nhân.
Ông người Tiền Đường, Hàng Châu (thuộc tỉnh Chiết Giang), tộc tính
là Tôn. Năm lên 9 đã mồ côi mẹ, 15 tuổi có chí muốn xuất gia. Năm
1226 ông đến tham học với Cao Phong Nguyên Diệu ở Tây Thiên Mục Sơn
Sư Tử Nham, năm sau, rốt cuộc xuất gia với Nguyên Diệu. Năm 1288 thụ
cụ túc giới (giới luật) rồi năm sau lại nhận pháp tự của Nguyên
Diệu. Thầy mất, trối trăn muốn nhượng cho ông Đại Giác Tự nhưng ông
tiến cử người đệ nhất tòa vào chỗ đó và bỏ xuống núi (1295). Từ đó
ông không định cư, đi đến đâu thì kết am tạm thời ở đó, gọi là Huyễn
Trú Am. Lâu lâu lại trở về chùa cũ ở Thiên Mục Sơn sinh hoạt. Trong
thời gian ấy, ông đã từ khước lời mời của hai chùa Kính Sơn và Linh
Ẩn Tự nhưng lại giao lưu thường xuyên với các danh sĩ như Triệu Mạnh
Phủ. Năm 1318, Ayul Baruwada (Nguyên Nhân Tông, tại vị 1311-1320)
ban cho ông kim lan cà sa (áo cà sa dệt bằng tơ vàng) và danh hiệu
Phật Từ Viên Chiếu Quảng Huệ Thiền Sư, đặt thêm viện hiệu là Sư Tử
Chính Tông Tự. Về sau, Shidibara (Nguyên Anh Tông, trị vì 1320-23)
lại qui y với ông, tặng kim lan cà sa và hương liệu. Ngày 14 tháng 8
năm 1323 thì viên tịch, 61 tuổi. Năm 1329, Tok Temul tức Nguyên Văn
Tông ban cho ông thụy hiệu Trí Giác Thiền Sư và tháp hiệu Pháp Vân.
Không những thế, năm 1334, Togon Temul (Thuận Đế) 30 quyển Trung
Phong Hòa Thượng Ngữ Lục đã được phép nhập tạng, riêng ông được gia
phong Phổ Ứng Quốc Sư. Ông được biết đến như người chủ trương "Giáo
Thiền nhất trí" và đã giảng dạy tư tưởng "Thiền Tịnh song tu". Ông
viết nhiều. Trước tác có Huyễn Trú Am Thanh Quy, Nhất Hoa Ngũ Diệp,
Đông Ngữ Tây Thoại, Huyễn Trú Gia Huấn, Hoài Tịnh Độ Thi Bách Biên,
phần nhiều đã được sao lục lại trong Trung Phong Hòa Thượng Quảng
Lục. Có nhiều tăng nhân Nhật Bản nhập Nguyên như Kosen Ingen (Cổ
Tiên Ấn Nguyên, 1295-1374), Enkei Soô (Viễn Khê Tổ Hùng, 1286-1344),
Fukuan Sôko (Phúc Am Tông Kỷ, 1280-1358), Muin Genkai (Vô Ẩn Nguyên
Hối, ? -1358), Myôsô Saitetsu (Minh Tẩu Trai Triết, ? - 1347) đều
đến học với ông. Khi về đến nước nhà, họ cũng làm như ông nghĩa là
sống một cuộc đời phiêu bạt, đi khắp nước để giảng đạo một cách thực
tiễn. Có thể gọi họ với cái tên chung là phái Huyễn Am nhưng điều
đáng quan tâm hơn cả là trong đám họ, thực sự đã có những người theo
đúng chủ trương Thiền Tịnh song tu và nối tiếp trung thực thiền
phong của Trung Phong Minh Bản.
Tình hình trước tác dưới hai triều Kim và Nguyên
Những trước tác thời
này còn lưu truyền hậu thế tiêu biểu hơn cả là các ngữ lục như Cao
Phong Nguyên Diệu Thiền Sư Ngữ Lục của Cao Phong Nguyên Diệu và
Trung Phong Hòa Thượng Quảng Lục của Trung Phong Minh Bản. Về các
tập công án thì có Thung Dung Lục (1224, Hoằng Trí Chính Giác tụng
cổ, Vạn Tùng Hành Tú thị chúng, trước ngữ và bình xướng), mô phỏng
phong cách của Bích Nham Lục, Hư Đường Tập (1295, Đan Hà Tử Thuần
tụng cổ, Lâm Tuyền Tùng Luân bình xướng), Không Cốc Tập (1285, Đầu
Tử Nghĩa Thanh tụng cổ, Đan Hà Tử Thuần trước ngữ, Lâm Tuyền Tùng
Luân bình xướng), Thỉnh Ích Lục (Hoằng Trí Chính Giác niêm cổ, Vạn
Tùng Hành Tú bình xướng) vốn mô phỏng Kích Tiết Lục, Tông Môn Thống
Yếu Tục Tập (1320) do Cổ Lâm Thanh Mậu biên để tiếp nối Tông Môn
Thống Yếu có trước đó. Đệ tử của Vạn Tùng Hành Tú là Tuyết Đường Đức
Gián (sống giữa thế kỷ 13) đã chú thích trong Thiền Uyển Mông Cầu
(chú năm 1255) học giả người nước Kim là Thác Am Chí Minh (thế kỷ
12-13) đã thu thập (1225) để giúp tài liệu những người mới bước vào
làng thiền.
Những trước tác của
Thiền Tông đời Nguyên đáng chú ý là loại sử thư Phật giáo. Chúng đã
nhận ảnh hưởng của phong cách của đời Tống, thời mà việc chép sử rất
hưng thịnh với những tác phẩm và tác giả như Ngũ Đại Sử (1053) của
Âu Dương Tu (1007-72) hay Tư Trị Thông Giám (1084) của Tư Mã Quang
(1019-86). Các bộ sử thiền môn đáng ghi nhớ ấy là Phật Tổ Lịch Đại
Thông Tải của Mai Ốc Niệm Thường và Thích Thị Kê Cổ Lược của Bảo
Châu Giác Ngạn đã nhắc đến bên trên vậy.
Những bộ sử này khác
với các cuốn "đăng sử" có từ trước đến nay. Chúng không chỉ viết về
lịch sử Thiền Tông nhưng về lịch sử đạo Phật nói chung. Lý do có lẽ
là các tác giả đã hiểu rằng trong khi các tông phái khác của Phật
giáo suy thoái thì Thiền Tông phải có nhiệm vụ nâng đỡ họ vì tương
lai chung của hai bên. Chính trong thời này đã có những người biên
tập đăng sử trong tinh thần tổng hợp ấy, ví dụ trường hợp của Đại
Xuyên Phổ Tế với Ngũ Đăng Hội Nguyên.
Một tác phẩm không
thể quên nhắc tới ở đây Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy do Đông Dương
Đức Huy (người tiền bán thế kỷ 14) biên tu, nó đặt nặng tính cách
chủ nghĩa quốc gia còn hơn cả Thiền Uyển Thanh Quy đời Tống như ta
sẽ thấy sau đây.
Thiền Uyển
Thanh Quy và Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy
Thiền Uyển Thanh Quy (1103) là
tác phẩm do thiền sư đời Tống là Trường Lô Tông Trách (người thế kỷ
11-12) thu thập các quy tắc sống thiền trong chốn tùng lâm đương
thời, biên tập và san hành.Lý do của việc làm ấy là vì Tông Trách
lấy làm tiếc khi thấy tác phẩm Bách Trượng Thanh Quy do cao tăng đời
Đường là Bách Trượng soạn không được truyền lại. Nhân sách ra đời
đúng vào niên hiệu Sùng Đức nên còn có tên là Sùng Đức Thanh Quy, và
là cuốn thanh quy tối cổ hiện còn bảo tồn. Nó đã được truyền bá sang
Triều Tiên,Nhật Bản. Bản ở Nhật có nhiều bổ sung nhưng bản Triều
Tiên hãy còn gần gũi với bản gốc hơn cả.
Riêng về Sắc Tu Bách Trượng
Thanh Quy (các tên khác là Chí Nguyên Thanh Quy hay Sắc Quy) là do
Đông Dương Đức Huy biên tập theo mệnh lệnh của Togon Temul (Nguyên
Thuận Đế, tại vị 1333-67). Sau khi được Tiếu Ẩn Đại Hân hiệu duyệt,
sách mới chính thức ra đời vào khoảng năm 1336-43. Nội dung của nó
là một tổng hợp các thanh quy có trước đó như Thiền Uyển Thanh Quy,
Tùng Lâm Hiệu Định Thanh Quy Tổng Yếu (có tên khác là Hiệu Định
Thanh Quy, Hàm Thuần Thanh Quy, 1274) của Duy Miễn (năm sinh năm mất
không rõ), Thiền Lâm Bị Dụng Thanh Quy (có tên khác là Chí Đại Thanh
Quy, 1311) của Trạch Sơn Nhất Hàm (năm sinh năm mất không rõ) vv...
Trong các loại thanh quy có từ
trước đến nay Sắc Tu Bách Trượng Thanh Quy được xem như có qui củ
nhất, được in đi in lại ở Nhật. Nôi dung gồm 9 chương 1) Chúc ly, 2)
Báo bản, 3) Báo ân,, 4) Tôn tổ, 5) Trụ trì, 6) Lưỡng tự, 7) Đại
chúng, 8) Tiết Lạp, 9) Pháp khí. Mào đầu với Chúc ly là nghi thức
cầu xin cho quốc gia được an thái (Chúc ly hay "Chúc thánh" được đem
vào thanh quy lần đầu tiên với Hiệu Định Thanh Quy), Trong phần Báo
ân lại nhấn mạnh đến nghĩa vụ "báo quốc" cho ta thấy màu sắc của chủ
nghĩa quốc gia được tô đậm. Ngoài ra, quy tắc trong Thiền Uyển Thanh
Quy đòi hỏi người trụ trì khi bổ nhiệm các tri sự hay đầu thủ cần có
sự đồng ý của đại chúng đã biến mất khỏi Sắc Tu Bách Trượng Thanh
Quy. Điều này cho thấy tính cách "cộng đồng thể" (tương đối dân chủ,
LND) còn sót lại trong tùng lâm thời Bắc Tống đến đời Nguyên thì
không còn tồn tại nữa.
Sự phát triển của văn hóa Thiền:
Có thể nói gọn là,
về cơ bản, tư trưởng Thiền Tông đời Nguyên vẫn kế thừa được di sản
đời Tống. Tư tưởng Thiền Tịnh song tu, Giáo Thiền nhất trí, Tam Giáo
nhất trí bắt nguồn từ Ngũ Đại, khai triển dưới đời Tống đã được
quảng bá vào thời Nguyên thông qua các nhân vật như Trung Phong Minh
Bản và Thiên Như Duy Tắc. Nó sẽ còn tiếp tục dưới các triều Minh,
Thanh. Thế nhưng điều đáng chú ý đặc biệt là sự phát triển của thời
đại này về mặt văn hóa. Khuynh hướng này còn mạnh hơn cả dưới thời
Nam Tống.
Văn học rất được
quan tâm. Bằng cớ là thơ của các thiền tăng đã được thu thập thành
những thi tập mà nổi tiếng nhất vẫn là Giang Hồ Phong Nguyệt Tập, ra
đời vào đầu thế kỷ 14, do Tùng Pha Tông Khế (người hậu bán thế kỷ
13, đệ tử của Vô Chuẩn Sư Phạm) biên soạn. Nội dung các "thi kệ" dần
dần thế tục hóa nên không khác thơ người thường là bao. Dĩ nhiên
chúng tăng không quay lưng lại với bổn phận nhưng họ vẫn muốn tự
mình chính thống hóa quan điểm "thi thiền nhất vị" mà họ đã đề
xướng.
Cổ Lâm Thanh Mậu
(1262-1329) còn coi trọng nội dung Phật Giáo của thể loại "kệ tụng"
cho nên định ngăn cản sự phát triển "thi kệ" theo chiều hướng thế
tục hóa nhưng đến thời Tiếu Ẩn Đại Hân ( 1284-1344) xuất hiện thì
văn tứ lục dần dần được tôn sùng. Tác phẩm Bồ Thất Tập của ông là
một khuôn mẫu hành văn cho những ai muốn viết văn kiểu tứ lục và đã
được lưu hành rộng rãi ở Nhật Bản.
Cổ Lâm
Thanh Mậu và Tiếu Ẩn Đại Hân
Cổ Lâm Thanh Mậu họ Lâm, người
Ôn Châu (thuộc tỉnh Chiết Giang), hiệu Kim Cương Tràng (tràng = ngọn
cờ). Năm 13 tuổi xuất gia, tham học nhiều nơi, sau nhận pháp tự của
Hoành Xuyên Như Củng (1222-89). Sau khi trụ trì ở nhiều chùa nổi
tiếng (danh sát) kể cả Bảo Ninh Tự ở Kiến Khang (Giang Tô), ông qua
đời. Học trò có Liễu Am Thanh Dục (1288-1363), Trúc Tiên Phạn Tiên
(1292-1348). Về ngữ lục, ông đã để lại Cổ Lâm Mậu Thiền Sư Ngữ Lục.
Còn được biết đến như người đã biên tập Tông Môn Thống Yếu Tục Biên.
Nói chung là văn tài của ông thuộc loại cao siêu. Những người nối
nghiệp ông ngoài Nguyệt Lâm Đạo Hạo (1293-1351), Thạch Thất Thiên
Cửu (1293-1389), hai người nhận pháp tự, còn có Cô Phong Giác Minh
(1271-1361), Biệt Nguyên Viên Chỉ (1294-1364), Khả Ông Tông Nhiên (?
-1345), Thiết Chu Đức Tế (? -1366), Thiên Ngạn Huệ Quảng (1273-1335)
vv... Các tăng sĩ Nhật Bản khi sang bên nhà Nguyên ngưỡng mộ sự
thông thái như một sĩ đại phu của ông bèn tìm đến cửa ông xin học.
Khi về đến nước nhà, họ vượt qua khỏi khuôn khổ của pháp tự, có
chung một ý thức là những người đã núp dưới bóng Kim Cương Tràng
(Kim Cương Tràng hạ), qua hoạt động văn học tiếp tục giao lưu với
nhau. Tuy vậy, dầu có điểm chung là hoạt động thi văn nhưng trong
khi những người thuộc phái Đại Huệ có khuynh hướng thế tục hóa, Cổ
Lâm Thanh Mậu chỉ giới hạn đề tài của mình trong giáo lý nhà Phật và
"kệ tụng chủ nghĩa".
Về phần Tiếu Ẩn Đại Hân, ông
vốn họ Trần, quê vùng Nam Xương (thuộc tỉnh Giang Tây). Sau khi nhận
pháp tự của Hối Cơ Nguyên Hi, ông theo học Trung Phong Minh Bản và
nhiều vị khác. Ông lần lượt trụ trì các chùa lớn như Đại Báo Quốc
Tự, Trung Thiên Trúc Tự ở Hàng Châu (Chiết Giang), Đại Long Tường
Tập Khánh Tự ở Kim Lăng (Giang Tô). Cũng từng vào cung thuyết pháp.
Năm 1336, được phong Thích Giáo Tông Chủ, cai quản tất cả ngũ sơn.
Ông là một đại gia về văn tứ lục trong chốn thiền lâm. Nhờ có sự
xuất hiện của ông mà văn học thiền lâm đã chuyển từ kệ tụng sang văn
tứ lục. Trước tác có Bồ Thất Tập và Tiếu Ẩn Đại Hân Thiền Sư Ngữ
Lục, Cách viết văn tứ lục trong Bồ Thất Tập đáng mặt giáo khoa thư,
được phái Gozan (Ngũ Sơn của Nhật) hết sức trọng vọng. .
Văn nhân tiêu biểu
đời Nguyên là một nhân vật mang dòng máu hoàng thất nhà Tống. Đó là
Triệu Mạnh Phủ (tự Tử Ngang, 1254-1322), người giỏi từ thi, thư đến
họa và lại là một Phật tử nhiệt thành.Ông giao du thân mật với thiền
sư Trung Phong Minh Bản và không biết phải vì lý do đó hay không mà
các thiền tăng đời Nguyên đều chuộng thư pháp của ông.Những dấu vết
thư pháp (mặc tích) của ông đã được các học tăng sang Nguyên đem về
nước. Ảnh hưởng của ông vì lẽ đó cũng rất sâu rộng ở Nhật
Giới tăng lữ Thiền
Tông biết yêu hội họa không phải là ít. Người dẫn đầu hệ phổ văn
nhân họa Nhật Quan Tử Ôn (? - 1293?) với bức Bồ Đào Đồ cũng như
Tuyết Song Phổ Minh với bức Mặc Lan, Tử Đình Tổ Bách (thế kỷ 13-14)
qua bức Thạch Xương Bồ. Mặt khác, giỏi về tranh chân dung các đạo sĩ
và thiền sư (Đạo Thích nhân vật họa) thì đã có Nhân Đà La (sống giữa
thế kỷ 14) và tăng sĩ người Nhật tên là Mặc Am (? -1345). Ông này đã
sang bên nhà Nguyên học lối vẽ của Mục Khê, sau chết ở đất khách.Tuy
tranh của ông được nhập nhiều vào đất Nhật nhưng Mặc Am thường được
xem như là một họa gia Trung Quốc.
Những người phát
triển họa phong của Triệu Mạnh Phủ và mở đường cho một lối vẽ tranh
sơn thủy mới mẻ là 4 nhân vật trong "Nguyên mạt tứ đại gia": Hoàng
Công Vọng (tự Đại Si, 1269-1354), Nghê Toản (tự Vân Lâm, 1301-74),
Ngô Trấn (tự Mai Hoa Đạo Nhân, 1280-1354) và Vương Mông (tức Hương
Quang cư sĩ, 1308-1385). Tất cả bọn họ đều là những xử sĩ (trí thức
không ra làm quan), lòng hướng về Thiền, cho nên trong tranh sơn
thủy của họ, người ta cảm thấy có sự hòa điệu với thiên nhiên và bộc
lộ được tư tưởng nhà Thiền.
Tuy vào thời Nguyên,
ngoài mặt làm như có sự đoạn tuyệt quốc giao giữa Nhật và Trung Quốc
nhưng bên trong, hai bên vẫn tiếp tục thông thương và thiền tăng qua
lại rất nhiều.Vì lẽ đó, sau khi Nhất Sơn Nhất Ninh tháp tùng sứ bộ
nhà Nguyên lần đầu tiên sang Nhật rồi, các thiền tăng ưu tú như Minh
Cực Sở Tuấn (1262-1336, sang Nhật năm 1329) và Trúc Tiên Phạn Tiên
(1292-1348, đi cùng Minh Cực Sở Tuấn đến Nhật) của phái Tùng Nguyên,
Thanh Chuyết Chính Trừng (1274-1339, sang Nhật năm 1326) thuộc phái
Phá Am cũng lục tục kéo qua. Họ không những truyền bá văn học mà còn
giới thiệu những sản phẩm văn hóa khác. Giới vũ sĩ thượng lưu trong
xã hội Nhật Bản thời đó hình như chỉ có khuynh hướng chú ý đến mặt
văn hóa văn học chứ chưa hẳn đã quan tâm đến Thiền. Nhất Sơn Nhất
Ninh là người đầu tiên đến truyền bá tư tưởng Chu Tử Học nhưng cũng
là người thành thạo về thi, thư và họa, còn như môn đệ của Cổ Lâm
Thanh Mậu là Trúc Tiên Phạn Tiên thì ông vốn đã nổi tiếng về văn học
từ khi còn ở Trung Quốc. Việc ông đem kỹ thuật ấn loát và "phạm
bái" [12]
vào đất Nhật thật có ý nghĩa to lớn trong lịch sử văn hóa. Minh Cực
Sở Tuấn và Thanh Chuyết Chính Trừng đều là những văn nhân lỗi lạc
nhưng nằm trong quĩ đạo bảo thủ của Cổ Lâm tức là thiên về chủ nghĩa
kệ tụng.
Khi các tăng nhân
này sang Nhật cũng là lúc thiền sư Nhật Bản là Mặc Am vào đất
Nguyên. Sau đó, cũng như Mặc Am, sẽ có nhiều tăng Nhật nhập Nguyên
và đem hội họa, mặc tích thư đạo về nước. Như thế, văn hóa Thiền
thời Muromachi (1336 hay 1392-1573, tùy theo quan điểm về sự phân
chia thời đại) đã bắt rễ vững vàng với năm chùa goi là Gozan (Ngũ
sơn Nhật Bản), nó sẽ là một yếu tố quan trọng trong việc thành hình
văn hóa Nhật Bản về sau.
Tân Đạo Giáo xuất hiện. Cuộc tranh luận giữa Thiền Tông- Đạo Giáo:
Thời Nam Tống, trong
quá trình thẩm thấu vào các thành tố xã hội, Thiền đã ảnh hưởng
nhiều đến Nho Giáo, thế nhưng đến đời Kim thì nó lại ảnh hưởng đến
Đạo giáo, giúp tôn giáo này cách tân. Lúc ấy, trên lãnh thổ của Kim
đã lần lượt xuất hiện các giáo phái mới của Đạo giáo như Chân Đại
Đạo Giáo (ra đời năm 1142) của Lưu Đức Ninh (năm sinh năm mất không
rõ) và Toàn Chân Giáo (ra đời năm 1163) của Vương Trùng Dương
(1112-70). Người ta thường gọi hai phái này là Tân Đạo Giáo.
Đặc biệt phái Toàn
Chân khích lệ những hành động như hành cước và tọa thiền cũng như
việc thiết lập "thanh quy" (Toàn Chân thanh quy), việc truy cầu sự
giác ngộ bằng "kiến tính", xem ra không có gì khác với giáo lý của
Thiền Tông. Sau khi giáo chủ Vương Trùng Dương mất, Toàn Chân Giáo
dưới sự lãnh đạo của 4 học trò giỏi (tứ triết) của ông dần dần phát
triển mạnh. Tứ triết gồm Mã Đan Dương (1123-83), Đàm Trường Chân
(1123-85), Lưu Trường Sinh (1147-1203) và Khâu Trường Xuân
(1148-1227). Đặc biệt đạo sĩ Khâu Trường Xuân (tức Khâu Xử Cơ) được
vua Kim Thế Tông và Gengis Khan che chở, không những phó mặc mọi
việc về Đạo giáo cho ông mà còn đi đến độ tha không đánh thuế (giáo
đoàn duy nhất được hưởng ân huệ ấy). Toàn Chân Giáo từ đó về sau là
một thế lực tôn giáo mạnh, đủ sức áp đảo các giáo đoàn khác.
Tuy nhiên đến thời
Lý Chí Thường (1193-1256) thì sự thể đổi khác đi. Nhân có cuộc bình
nghị xem Lão Tử Hóa Hồ Kinh và Lão Tử Bát Thập Nhất Hóa Đồ là của
thật hay của giả, giữa Tín đồ Toàn Chân và Phật Giáo có sự đôi co
(1255-58), đưa đến một cuộc tranh luận trước mặt kha-hãn Mongke. Phe
Toàn Chân bị thua và từ đó xuống dốc.(Thích Tường Mại trong Chí
Nguyên Biện Ngụy Lục (1291) có chép lại đầu đuôi sự kiện này) Thế
nhưng, sau đó Toàn Chân Giáo âm thầm xây dựng lại thế lực , rồi cùng
với Chính Nhất Giáo, một phái Đạo giáo khác, chia nhau ảnh hưởng
suốt một vùng Giang Nam cho đến ngày nay.
Sự thành lập và phát
triển của Toàn Chân Giáo, một tôn giáo biết lấy hầu như toàn bộ tư
tưởng của Thiền Tông làm của mình đã diễn ra giống y trường hợp
thành hình của hệ tư tưởng Chu Tử Học thời Nam Tống.Ta thấy hiện
tượng thuyết Tam Giáo nhất trí thẩm thấu vào trong xã hội kể từ thời
Nguyên trở về sau đã góp một phần không nhỏ cho hai sự thành hình
ấy. Cuộc tranh giành giữa Phật Đạo nhị giáo đến thời Nguyên coi như
là kết thúc, từ đó hai bên sẽ cùng tiến lên trên con đường dung hợp
và không có bên nào còn có ý thức hoàn toàn về bản sắc cố hữu của
giáo lý mình nữa.
Ảnh hưởng của tư
tưởng Thiền trong giáo lý Toàn Chân:
Toàn Chân Giáo đã phủ định mục đích
xưa nay của Đạo Giáo là đi tìm "trường sinh bất tử". Họ chủ trương
muốn "đắc đạo" phải tu hành bằng những phương pháp như "kiến tính",
"thức tâm kiến tính". Hơn thế, khi gọi trạng thái tinh thần (cảnh
địa) đó là "vô tâm", "vô niệm", rõ ràng họ đã dùng những thuật ngữ
đến từ Thiền Tông.Mặt khác, họ giải thích rằng cần phải dùng phương
pháp tu hành như hành cước để đi nhiều nơi học hỏi (biến tham) và
ngồi thiền (đả tọa). Còn về qui luật trong cuộc sống phải theo đúng
"thanh quy" mà trong Toàn Chân thanh quy ấy lại có nhiều cái vay
mượn từ Thiền Tông.
Về phương diện tư tưởng, họ giải
thích rằng "kim đan" phải được hiểu là "bản lai chân tính", như thế
họ đã chấp nhận cái mà Thiền Tông sơ kỳ gọi là Quán Tâm Thích. Lại
nữa, Toàn Chân Giáo cũng lập ra một Tổ thống gọi là Ngũ Tổ có từ
Đông Hoa Đế Quân đến Vương Trùng Dương. Y như Đạo Thống Luận của Chu
Hy đối với Chu Tử Học, họ chứng tỏ mình đã kế thừa Tổ Thống Thuyết
của Thiền Tông vậy. Rồi khi họ nhắc đến 7 người học trò giỏi của
Vương Trùng Dương là "thất chân" và dùng cách nói "ngũ tổ thất
chân", vô hình trung, họ đã rập khuôn cách diễn đạt "ngũ gia thất
tông" của thiền gia. Chưa hết, vào đầu đời Nguyên, từ trong giáo
phái Toàn Chân lại đẻ ra quan niệm Nam Tông và Bắc Tông đối lập
chẳng khác nào câu chuyện Thần Tú-Huệ Năng.
Nói tóm lại, trong những yếu tố cấu
thành Toàn Chân Giáo đã có rất nhiều quan niệm tương tự từng thấy
nơi Thiền Tông. Tuy nói thế, xin chớ nên quên rằng Toàn Chân Giáo
cũng phải có hệ thống giá trị riêng của nó nữa.
Hệ phổ Thiền (5):
Đến đây thì hệ phổ Thiền Tông thu
lại vào hai tông mạnh nhất là Lâm Tế và Tào Động mà thế lực còn duy
trì mãi đến ngày nay. Tông Lâm Tế dòng Dương Kỳ được đại diện bởi
Đại Huệ Tông Quả và Hổ Khâu Thiệu Long, cả hai đều xuất thân từ cửa
Viên Ngộ Khắc Cần. Trong khi đó, Tào Động dược nối tiếp với hai học
trò của Phù Dung Đạo Khải là Đan Hà Tử Thuần và Lộc Môn Tự Tại.
Đặc biệt con số thiền gia độ lai
(người Trung Quốc đến Nhật) và tăng gốc Nhật Bản nhập Nguyên (sang
bên ấy du học) đã tăng thêm nhiều.Lịch sử Thiền và Zen như thế đã
móc nối thực sự.
Tông Lâm Tế::
Chi lưu của Đại
Huệ:
1 Đại Huệ Tông Cảo -> 2 Chuyết Am
Đức Quang -> 3 Tàng Tẩu Thiện Trân -> 4
Nguyên Tẩu Hành Đoan -> 5 Sở Thạch Phạm Kỳ, đồng 5 Mộng
Đường Đàm Ngạc -> 6 Đại Tông Tâm Thái. Đồng 5 Ngu Am Trí
Cập -> 6 Độc Am Hành Diễn.
Đồng 2 Khai Thiện Đạo Khiêm, 2 Lại
Am Đĩnh Nhu, 2 Lý Bính, 2 Trương Cửu Thành, 2 Hiểu Oánh Trọng Ôn, 2
Khả Am Huệ Nhiên à 3 Như Như Nhan Bính. Đồng 2 Vô Dụng Tịnh Toàn (
-> 3 Tiếu Ông Như Thậm -> 4 Vô Văn Đạo Xán).
Đồng 2 Chuyết Am Đức Quang ->
Đồng 3 Dainichi Nôin = Đại Nhật Năng Nhẫn (Nhật Bản), 3 Vô Tế
Liễu Phái, 3 Chiết Ông Như Diễm -> 4 Đại Xuyên Phổ Tế, 4
Hối Nham Trí Chiêu, 4 Yển Khê Quảng Văn -> 5 Vân Phong
Diệu Cao, 5 Khô Nhai Viên Ngộ. Đồng 3 Bắc Giản Cư Giản ->
4 Vật Sơ Đại Quan -> 5 Hối Cơ Nguyên Hi -> 6
Đông Dương Đức Huy -> 7 Chuugan Engetsu = Trung Nham
Viên Nguyệt (Nhật Bản). Đồng 6 Tiếu Ẩn Đại Hân ->
7 Quý Đàm Tông Lặc, 7 Tôden Seiso = Đông Truyền Chính Tổ (Nhật
Bản), 7 Giác Nguyên Huệ Đàm -> 8 Bảo Nham Tịnh Giới.
Chi lưu của Hổ
Khâu:
Đồng 1 Hổ Khâu Thiệu Long ->
2 Ứng Am Đàm Hoa -> 3 Mật Am Hàm Kiệt -> 4
Tùng Nguyên Sùng Nhạc*, 4 Tào Nguyên Đạo Sinh, 4 Phá Am Tổ Tiên.
4 Tùng Nguyên Sùng Nhạc* ->
5 Diệt Ông Văn Lễ ( -> 6 Hoành Xuyên Như Củng -> 7 Cổ
Lâm Thanh Mậu -> 8 Trúc Tiên Sở Tiên (sang Nhật Bản),
8 Sekishitsu Zenkyuu = Thạch Thất Thiện Cửu (Nhật Bản), 8
Betsugen Enshi = Biệt Nguyên Viên Chỉ (Nhật Bản), 8 Getsurin
Dôkô = Nguyệt Lâm Đạo Hạo (Nhật Bản). Đồng 5 Vô Minh Huệ Tính
-> 6 Lan Khê Đạo Long. Đồng 6 Vận Am Phổ Nham -> 7
Hư Đường Trí Ngu ( -> 8 Nanpo Shômei = Nam Phố Thiệu Minh (Nhật
Bản)), đồng 7 Thạch Phàm Duy Diễn ( -> 8 Thạch Giản Tử Đàm
(sang Nhật)). Đồng 5 Vô Đắc Giác Thông -> 6 Hư
Chu Phổ Độ -> 7 Hổ Nham Tịnh Phục -> 8 Minh
Cực Sở Tuấn (sang Nhật), 8 Tức Hưu Khế Liễu ( -> 9 Ngu Trung
Chu Cập (Nhật Bản)).Đồng 5 Yếm Thất Thiện Khai ->
6 Thạch Khê Tâm Nguyệt -> 7 Đại Hưu Chính Niệm (sang
Nhật), 7 Mushô Seishô = Vô Tượng Tĩnh Chiếu (Nhật Bản).
Đồng 4 Tào Nguyên Đạo Sinh ->
5 Si Tuyệt Đạo Trùng -> 6 Ngoan Cực Hành Di ->
7 Nhất Sơn Nhất Ninh (sang Nhật).
Đồng 4 Phá Am Tổ Tiên ->
5 Thạch Điền Pháp Huân ( -> 6 Ngu Cực Trí Huệ -> 7 Thanh
Chuyết Chính Trừng (sang Nhật)). Đồng 5 Vô Chuẩn Sư Phạm
-> 6 Hoàn Khê Duy Nhất ( -> 7 Kính Đường Giác Viên (sang
Nhật)). Đồng 5 Đoạn Kiều Diệu Luân (...Vân Cốc Pháp Hội ->
Hám Sơn Đức Thanh). Đồng 5 Vân Nham Tổ Khâm*, 5 Tùng Pha Tông Khế, 5
Mục Khê Pháp Thường, 5 Hy Tẩu Thiệu Đàm, 5 Biệt Sơn Tổ Trí, 5 Tây
Nham Liễu Huệ, 5 Thoái Canh Đức Ninh, 5 Tôfuku Enji = Đông Phúc Viên
Nhĩ (Nhật Bản), 5 Vô Học Tổ Nguyên (sang Nhật), 5 Ngột
Am Phổ Ninh (sang Nhật).
Đồng 5 Vân Nham Tổ Khâm* ->
6 Cập Am Tông Tín, 6 Linh Sơn Đạo Ẩn (sang Nhật), 6 Vô Cực
Chí Nguyên ( -> 7 Thiên Chân Duy Trắc -> 8 Bạch
Liên Trí An -> 9 Không Cốc Cảnh Long). Đồng 6 Thiết Ngưu
Trì Định ( -> 7 Tuyệt Học Thế Thành -> 8 Cổ Mai
Chính Hữu -> 9 Mumon Gensen = Vô Văn Nguyên Tuyển (Nhật
Bản)). Đồng 6 Cao Phong Nguyên Diệu -> 7 Trung Phong
Minh Bản -> 8 Thiên Như Duy Tắc, 8 Thiên Nham Nguyên
Trường ( -> 9 Vạn Phong Thì Úy , 9 Daisetsu Sonô = Đại
Chuyết Tổ Năng (Nhật Bản) -> 10 Bạch Nhai Bảo
Sinh. Đồng 8 Enkei Soô = Viễn Khê Tổ Hùng (Nhật Bản), 8 Kosen
Ingen = Cổ Tiên Ấn Nguyên (Nhật Bản) , Fukuan Sôki = Phục Am
Tông Kỷ (Nhật Bản).
Tông Tào Động:
1 Đan Hà Tử Thuần -> 2
Chân Yết Thanh Liễu ( -> 3 Đại Hưu Tông Giác -> 4
Túc Am Trí Giám -> 5 Thiên Đồng Như Tịnh à Eihei Dôgen =
Vĩnh Bình Đạo Nguyên (Nhật Bản). Đồng 2 Thạch Song Pháp Cung.
Đồng 2 Hoằng Trí Chính Giác ->
3 Tự Đắc Huệ Huy -> 4 Minh Cực Huệ Tộ -> 5
Đông Cốc Minh Quang -> 6 Trực Ông Đức Cử ->
7 Đông Minh Huệ Nhật (sang Nhật) -> 8 Betsugen
Enshi = Biệt Nguyên Viên Chỉ (Nhật Bản)). Đồng 7 Vân Ngoại
Vân Tụ -> Đông Lăng Vĩnh Dư (sang Nhật).
1 Lộc Môn Tự Tại -> 2
Thanh Châu Hy Biện -> 3 Đại Minh Bảo -> 4
Vương Sơn Thể -> 5 Tuyết Nham Mãn -> 6 Vạn
Tùng Hành Tú -> 7 Lâm Tuyền Tùng Luân, 7 Da Luật Sở Tài,
7 Tuyết Đình Phúc Dụ, 7 Tuyết Đường Đức Gián, 7 Lý Bình Sơn,
7 Kỳ Ngọc Chí Ôn.
Địa lý Thiền (5)
Bắc Hoàng Hà:
Đại Đô: Báo Ân Hồng Tế Tự (Hành Tú,
Tùng Luân trụ trì), Đại Khánh Thọ Tự (Ấn Giản trụ trì), Mã Yên Sơn
Vạn Thọ Tự (Hành Tú trụ trì).
Nam Hoàng Hà bắc
Trường Giang:
Vân Cư Sơn Thánh Thủy Tự (Minh Bản),
Tứ Châu Đại Thánh Tự (Chính Giác), Tung Sơn Thiếu Lâm Tự (Phúc Dụ).
Nam Trường Giang:
Chú ý là Ngũ Sơn Thập Sát đều nằm
phía nam Trường Giang chung quanh vùng Tô Hàng.
Phượng Sơn và Ngũ
Sơn:
Phượng Sơn Đại Long Tường Tập Khánh
Tự (Thiên Giới Thiện Thế Thiền Tự) (Đại Hân), Kính Sơn Hưng Thánh
Vạn Thọ Tự (Đức Quang, Tông Cảo, Sư Phạm, Trí Ngu, Quảng Văn, Hàm
Kiệt, Diệu Cao, Trí Cập), Bắc Sơn (Linh Ẩn Sơn) Cảnh Đức Linh Ẩn Tự
(Đức Quang, Sùng Nhạc, Phổ Tế, Quảng Văn, Hàm Kiệt), Thái Bạch Sơn
Thiên Đồng Cảnh Đức Tự (Chính Giác, Hoài Sưởng, Như Tịnh, Hàm Kiệt,
Tùng Cẩn), Nam Sơn (Nam Bình Sơn) Tịnh Từ Báo Ân Quang Hiếu Tự
(Quảng Văn, Trí Cập, Cử Giản, Như Tịnh), A Dục Vương Sơn Mậu Phong
Quảng Lợi Tự (Đức Quang, Tông Cảo, Sư Phạm, Trí Ngu, Thanh Liễu, Đại
Quan).
Thập Sát:
Trung Thiên Trúc Sơn (Linh Ẩn Tự)
Thiên Ninh Vạn Thọ Vĩnh Tộ Tự (Đại Hân), Đạo Trường Sơn Hộ Thánh Vạn
Thọ Tự (Cư Giản), Tưởng Sơn Thái Bình Hưng Quốc Tự (Thanh Viễn, Hàm
Kiệt), Vạn Thọ Sơn Báo Ân Quang Hiếu Tự, Tuyết Đậu Sơn Tư Thánh Tự
(Trọng (Trùng) Hiển, Sư Phạm, Quảng Văn), Giang Tâm Sơn Long Tường
Tự (Thanh Liễu, Huệ Khai), Tuyết Phong Sơn Sùng Thánh Tự, Vân Hoàng
Sơn Bảo Lâm Tự, Hổ Khâu Sơn Vân Nham Tự (Thiệu Long, Sùng Nhạc),
Thiên Thai Sơn Quốc Thanh Kính Trung Tự.
Các chùa thiền
danh tiếng khác:
Phượng Hoàng Sơn Bảo Ninh Tự (Thanh
Mậu, Huệ Khai), Lâm An (Hàng Châu) Lục Thông Tự (Mục Khê, Mặc Am),
Gia Hưng Bản Giác Tự (Thanh Dục), Tô Châu Sư Tử Lâm (Duy Tắc), Lô
Sơn Đông Lâm Tự (Minh Bản), Lương Sơn (Sư Viễn), Bách Trượng Sơn
(Hoài Huy), Ngưỡng Sơn (Tổ Khâm), Nam Nhạc Vân Phong Tự, Tây Thiên
Mục Tự (Nguyên Diệu, Minh Bản), Cổ Sơn (Thủ Trách), Mai Châu Tây
Nham Tự (Tông Cảo), Dương Dư Am (Tông Cảo).
[1] - Thiền phong do thiền sư Hoằng Trí Chính Giác phái Tào
Động đề xướng. Mặc là lặng lẽ chuyên tâm tọa thiền, chiếu là dùng
huệ soi tâm tính linh bản lai thanh tịnh chứ không cần đến cổ tắc
công án để nghiền ngẫm như tông Lâm Tế. Đại Huệ Tông Cảo cho mặc
chiếu thiền là tà thiền, là loại thiền xoay mặt vào vách, bỏ mất
việc tham ngộ tu chứng (theo TĐTNTT, Thông Thiền). Sẽ còn nhắc lại
trong những trang sau.
[2] - Sách do Đại Huệ Tông Cảo soạn năm 1147 gồm 3 quyển.
Không nên nhầm với Shôbôgenzô (âm của Chính Pháp Nhãn Tạng), còn gọi
là Vĩnh Bình Chánh Pháp Nhãn Tạng, tác phẩm 12 quyển (có nơi chia
thành 95 quyển) của tăng Dôgen (Đạo Nguyên, 1200-1253) người Nhật
viết trong khoảng năm 1231-53, hoàn thành vào lúc cuối đời ở chùa
Eiheiji (Vĩnh Bình Tự) tỉnh Fukui.
[3] - Xem Vô Môn Quan của Vô Môn Huệ Khai (Nguyễn Nam Trân
có biên dịch).
[4] - Xem Vô Môn Quan của Vô Môn Huệ Khai (Nguyễn Nam Trân
có biên dịch).
[5] - Chuyên tâm tọa thiền, không để ý vào chuyện gì khác như
đốt hương niệm Phật, sám hối, lễ bái, xem kinh, đứng trên lập trường
vô sở đắc vô sở ngộ (TĐTN TT, Thông Thiền). Dĩ nhiên thiền sinh cũng
không cần nghiền ngẫm các công án.
[6] - Qua các ví dụ cụ thể như Bích Nham Lục, Thung Dung Lục,
Lâm Tế Lục...
[7] - Chữ này có 2 cách đọc: Quách hay Khuếch nhưng thiển nghĩ
nên hiểu theo nghĩa "cái am rộng rãi, không tường vách" (Khuếch)
chắc đúng hơn vì có những thiền sư đặt tên như Phá Am, Vô Am, Huyễn
Am...
[8] - Tên gọi tắt của Thiền Thông Tứ Bộ Lục, bốn văn bản cớ sở
tương đối giản dị, được dùng làm cẩm nang cho người tu thiền. Gồm:
Tín Tâm Minh, Chứng Đạo Ca, Thập Ngưu Đồ và Tọa Thiền Nghi.
[9] - Giáo hội gồm 5 ngọn núi và 10 cảnh chùa. Mô phỏng "Ngũ
tinh xá thập tháp" của Ấn Độ. Nhật bản cũng có ngũ sơn thập sát
(theo TĐPH, Đạo Uyển)
[10] - Đấu là đơn vị đo lường nhưng dung lượng biến hóa theo mỗi
thời. Đời Đường tương đương với 6 lít, đời Thanh, 10 lít. Ở Nhật,
khoảng 18 lít.
[11] - Kê cổ nghĩa là tìm hiểu ý nghĩa những việc đã xảy ra để
học tập kinh nghiệm.
[12] - Khúc hát ca tụng công lao, đức hạnh của Phật, theo TĐPH,
Đạo Uyển.