LỊCH SỬ THIỀN TÔNG TRUNG QUỐC
Biên dịch: Nguyễn Nam Trân
Chương I: Giai đoạn Thiền hình thành.
|
Tiết 1- Giai đoạn trước Đạt Ma |
Phật
giáo truyền đến Trung Quốc và sự gắn bó với tập quán tu thiền:
Phật giáo đã được truyền
vào Trung Quốc lúc nào thì không ai biết đích xác nhưng có lẽ nhằm thời
điểm trước sau Công Nguyên. Dù khác lạ với hệ thống tư tưởng truyền
thống đã có tại chỗ, nếu Phật giáo được chấp nhận rộng rãi ở Trung Quốc
là vì nó đã được giải thích một cách thích hợp với hoàn cảnh bản xứ. Nói
khác đi, đương thời, dù tư tưởng Hoàng Lão tức tư tưởng có tính thần bí
mới là tư tưởng được giai cấp thượng lưu Trung Hoa coi như trung tâm và
cho phép phổ biến, người Trung Hoa đã biết đồng hóa Phật với Lão Tử, cho
phép Phật được xem như một vị thần bản địa. Quan điểm này giúp cho Phật
giáo đặt được đầu cầu trên đất Trung Quốc. Những người Trung Quốc trước
tiên theo Phật giáo là các hoàng đế, vương hầu và quí tộc nên có thể nói
từ buổi đầu, Phật giáo đã có mối quan hệ tốt đẹp với giới lãnh đạo.
Dần dần, qua đến thời
Hậu Hán (25-220), người ta đã ra công phiên dịch kinh văn. Hai dịch giả
nổi tiếng nhất có lẽ là An Thế Cao (sống giữa thế kỷ thứ 2) và Chi Lâu
Ca Sấm (sống giữa thế kỷ thứ 2). Nhờ đó, mối quan tâm đến kiến thức Phật
giáo mới dần dần được tỏ rõ. Đặc biệt, trọng tâm của mọi sự chú ý là
thiền định, phương pháp tu hành cơ sở của người Ấn. Nhân An Thế Cao
là một người truyền bá giáo lý tiểu thừa cho nên ông đã dịch các kinh
điển như A Hàm và Abhidharma (A Tì Đạt Ma). Mặt khác, Chi Lâu Ca Sấm, vì
là người truyền bá Phật giáo đại thừa, cho nên dịch phẩm của ông là các
kinh điển bát nhã như Đạo Hành Bát Nhã Kinh.Đồng thời, cả hai đều dịch
loại sách vở nói về thiền định mà ta có thể suy ra rằng các kinh
điển đầu tiên do hai ông dịch ấy đã ảnh hưởng rất lớn đến các thế hệ sau.
Một bên là An Bàn Thủ Ý Kinh do An Thế Cao, một bên là Bàn Châu Tam Muội
Kinh do Chi Lâu Ca Sấm dịch. Nhờ có công lao của họ An mà sau đó, vào
thời Ngô (229-280) mới có các người như Trần Huệ (năm sinh năm mất không
rõ) và Khang Tăng Hội (?-280) nghiên cứu về An Bàn Thủ YÙ Kinh. Đến giai
đoạn Ngũ Hồ Thập Lục Quốc (316-439), dưới triều đại Tiền Tần (351-394)
lại có Đạo An (312-385) mà những lời chú về sổ tức quán và tùy
ý quán chép trong kinh đó được ông đem ra giải thích. Người đời sau
như Thiên Thai Trí Khuy (538-597) đã áp dụng chúng như phương pháp tu
hành, những phương pháp ấy đã trở thành cơ sở của Thiền Tông mãi đến
ngày nay. Ngoài ra, đệ tử của Đạo An là Huệ Viễn (334-416), người thời
Đông Tấn (317-419), hoạt động ở vùng Lô Sơn, đã dựa trên giáo lý trong
Ban Chu Tam Muội Kinh để thành lập một đoàn thể (kết xã) tôn giáo ở Lô
Sơn lấy tên là Bạch Liên Xã và ông trở thành tổ của Liên Tông.
Vào thời điểm phương
pháp thiền định Ấn Độ bắt đầu gây được chú ý, ta cũng không nên
quên nhắc đến ảnh hưởng của tư tưởng cổ đại Trung Hoa lên trên nó. Sách
Bão Phác Tử (317) [1]
cho biết từ xưa ở Trung Quốc đã có truyền thống điều khí pháp.
Sách Trang Tử cũng có trình bày về phép tọa vong [2]
, chứng tỏ rằng từ thời Tiên Tần (221TCN), người ta đã có phương pháp tu
dưỡng tinh thần với mục đích đạt đến những thể nghiệm thần bí.
Sau đó, sự quan tâm đến
thiền định càng ngày càng cao. Câu Ma La Thập (344-413) thời Hậu
Tần (384-417) đã dịch Thiền Bí Yếu Pháp Kinh và Tọa Thiền Tam Muội Kinh.
Người thời Đông Tấn là Phật Đà Bạt Đà La (tức Giác Hiền, 350-429) theo
lời yêu cầu của Huệ Viễn đã dịch bộ Đạt Ma Đa La Thiền Kinh. Thế rồi
bước qua thời Nam Bắc Triều (420-589), người nước Tống (420-479) [3]
lần lượt dịch các kinh sách như Quán Phật Tam Muội Hải Kinh, Quán Phổ
Hiền Bồ Tát Hành Pháp Kinh, Quán Hư Không Tạng Bồ Tát Kinh, Quán Di Lặc
Bồ Tát Thượng Sinh Đâu Suất Thiên Kinh, Quán Vô Lượng Thọ Kinh. Vì không
xác nhận được những "quán Phật kinh điển" này đã có các văn bản bằng
Phạn ngữ hay không nên thiên hạ ngờ rằng chúng là những ngụy kinh sáng
tác tại Trung Quốc. Tuy nhiên, khi kinh điển được xem như vật cần thiết
cho cuộc sống đến như thế, có thể suy đoán là người đương thời hẳn rất
quan tâm đến thiền định.
Do đó, ta có thể nhận ra
rằng, thiền định, hình thức tu hành đặc biệt của người Ấn Độ,
ngay sau khi vào Trung Quốc, đã được người trong nước chú ý đến, rồi với
thời gian, đã bám rễ ở đấy. Từ truyền thống đó, sẽ thành hình một trào
lưu tư tưởng mà chúng ta gọi là Thiền Tông.
Ý
nghĩa lịch sử của việc Thiền Tông thành hình.
Bốn chữ "tư tưởng Phật
giáo" có phạm vi rất rộng rãi và hình thức rất đa dạng nhưng phải nói
trong đó, tư tưởng Thiền là một bộ phận có tính độc sáng. Ví dụ thiền
vấn đáp quả thực là những đề tài thảo luận khó khăn không chi sánh
bằng. Dĩ nhiên những phương pháp tu tập phức tạp như thế chỉ xuất hiện
về sau chứ từ thủa xa xưa, lúc mới manh nha, Thiền được chấp nhận nhanh
chóng chính nhờ sự bình dị. Nếu tư tưởng Thiền tông mang một màu sắc độc
đáo như bây giờ là vì nó đã tiếp thu rất nhiều hình thức tư duy của
người Trung Quốc. Điều này cũng là một sự thực khó chối cãi.
Hình như ở Trung Quốc,
người ta bắt đầu chấp nhận việc xuất gia kể từ thời tiền bán thế
kỷ thứ 4, sự kiện đặc biệt biết đến là qua lời yêu cầu của Phật Đồ Trừng
(232-348) được vua nước Hậu Triệu (319-352) là Thạch Hổ (trị vì 334-349)
chấp nhận vào năm 335. Nhờ đó, các giáo đoàn Phật giáo chủ yếu là của
người Trung Quốc, mới được thành lập. Những kinh điển được phiên dịch
sau đó dần dần đã ảnh hưởng vào tư tưởng các giáo đoàn. Có lẽ trong thời
gian ấy, Phật giáo đồ Trung Quốc, thông qua những biến chuyển xã hội bắt
nguồn từ sự hưng vong của các vương triều do dân tộc kỵ mã phương bắc
lãnh đạo hay sự thịnh suy của việc giao dịch với Tây Vực, đã biết giữ
một thế quân bình nào đó giữa tư tưởng Phật Giáo từ Ấn Độ truyền sang và
tư tưởng truyền thống xưa nay của nước mình. Chính thế quân bình này đã
tạo ra cái gọi là tư tưởng Phật giáo Trung Quốc. Thiền cũng đi chung một
đường như vậy. Vào tiền bán thế kỷ thứ 6, dưới thời Nam Bắc Triều, với
việc Bồ Đề Đạt Ma từ Ấn Độ sang, sinh hoạt Phật giáo ở Trung Quốc đã
nhận được một kích thích lớn và những người có đầu óc suy nghĩ cách tân,
khi đón tiếp ông, đã biết kết hợp hai luồng tư tưởng đã có và mới đến,
chỉnh lý, tổ chức lại. Nhờ thế, họ đã phát huy được tư tưởng Thiền Tông
Sự thể như thế không chỉ
xảy đến cho Thiền Tông thôi đâu. Địa Luận Tông, hệ thống tư trưởng chủ
đạo của giới thống trị dưới thời Nam Bắc Triều cũng vậy. Tư tưởng Địa
Luận Tông là sự kết hợp tư tưởng Duy Thức của hệ phái Thế Thân
(Vasubandhu) [4]lúc
ấy vừa mới được truyền từ Ấn Độ sang, với Niết Bàn học và Thành Thực Học
có sẵn tại chỗ. Nó là một sản phẩm chỉ có thể sinh ra từ hoàn cảnh của
Phật Giáo đương thời. Phái Địa Luận Tông, để thực chứng giáo nghĩa duy
thức, cũng chú trọng đến thiền định, và trên thực tế, phương pháp
tu tập này đã trở nên rất phổ biến. Buổi đầu, Thiền Tông phát triển
trong địa bàn của Địa Luận Tông (Bắc Triều) cho nên có thể xem hệ tư
tưởng Địa Luận như một hình thức đặc thù của tư tưởng Thiền. Về điểm
này, ta cần chú ý đến một sự thực là Đại Thừa Khởi Tín Luận, tác phẩm có
sác xuất lớn do phái Nam Đạo của Địa Luận Tông chế tác, đã được Thiền
Tông buổi ban đầu đánh giá rất cao.
Một điều cũng không thể
xem thường là sự xuất hiện suốt thời gian từ cuối đời Nam Bắc Triều qua
đến Tùy, Sơ Đường của những tác phẩm bị nghi ngờ là ngụy kinh (kinh giả
mạo) như Tâm Vương Kinh, Pháp Vương Kinh, Pháp Cú Kinh, Lăng Già Kinh,
Viên Giác Kinh, trong đó rõ ràng là những điều viết ra đã dựa trên thể
nghiệm về Thiền. Chúng cũng xứng đáng được xem như những kinh văn, có
điều chúng được cấu thành với một lối suy nghĩ tự do hơn loại kinh điển
quán Phật trước đó. Hơn nữa, chúng còn khác ở chỗ là hàm chứa rất nhiều
những tư tưởng có trình độ cao như tư tưởng Như Lai Tạng. Chắc chúng
không chỉ được chế tác trong vòng Thiền tông thôi đâu, nhưng dầu sao,
vẫn đóng vai trò điểm tựa cho thiền gia buổi đầu.
Lại nữa, như sẽ nhắc đến
trong phần sau, những thiền gia buổi đầu như người trong nhóm thuộc hệ
phái Tam Luân hay Thiên Thai vẫn thường được phép giao lưu với nhau dưới
nhiều hình thức, và có lẽ điều đó cũng bắt đầu xãy ra từ giai đoạn này.
Ta có thể nói những sự trao đổi ấy là bằng chứng Tân Phật Giáo lúc đó
đang muốn đứng ra lãnh trách nhiệm giải quyết những vấn đề của cộng đồng
Phật Giáo đồ.
Tóm lại, nguyên nhân
căn bản của sự thành lập Thiền Tông không thể giải thích như kiểu nhiều
người hiểu từ trước đến nay là là một hiện tượng ngẫu phát, do công lao
một mình Bồ Đề Đạt Ma từ khi ngài đến Trung Hoa. Có lẽ nên hiểu sự
hình thành Thiền tông như một lời giải đáp cho những đòi hỏi tinh thần
của xã hội thời ấy.
Tiết 2: Đạt Ma và Huệ Khả |
Quan
hệ giữa Đạt Ma, Huệ Khả và Thiền tông đời sau:
Thông thường người ta
cho rằng Thiền Tông đã được khai sanh từ khi Đạt Ma đến Trung Hoa vào
thời Nam Bắc Triều và hệ phổ các tổ đầu tiên của dòng Thiền Trung Hoa
được sắp xếp theo thứ tự: Sơ tổ Đạt Ma, Nhị tổ Huệ Khả, Tam tổ Tăng Xán,
Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn. Thế nhưng, không có bằng cứ lịch sử
nào chứng tỏ được điều này. Dĩ nhiên sự thiếu sót nói trên chỉ có lý do
là sự hạn chế của tư liệu dẫn chứng chứ không thể vì thế mà quyết đoán
rằng rằng cách sắp xếp thứ tự nói trên là vu khoát.
Tuy vậy, một vấn đề về
sự thực lịch sử liên quan đến hệ phổ này vẫn đáng được mang ra mổ xẻ, đó
là sự hiện hữu hay không của Tăng Xán, vị tổ sư đời thứ ba, cũng là đệ
tử của Huệ Khả (giữa thế kỷ thứ 6). Tục Cao Tăng Truyện (giữa thế kỷ thứ
7) trong phần truyện về Pháp Trùng có ghi lại rằng Huệ Khả có một môn đồ
tên Xán thiền sư. Cũng trong sách ấy, phần nói về Biện Nghĩa (541-606),
có nhắc đến một Tăng Xán thiền sư, không hiểu có phải cùng một nhân vật
hay chăng! Hầu hết các quyển lịch sử thiền tông về sau (gọi chung là
Đăng sử) như Lăng Già Sư Tư Ký (khoảng 715), Truyền Pháp Bảo Ký (khoảng
720) đều cho rằng tổ thứ 4 Đạo Tín là người thừa kế Xán thiền sư (hay
Tăng Xán nếu theo Truyền Pháp Bảo Ký). Tuy nhiên, Đạo Tuyên (596-667),
người biên tập Tục Cao Tăng Truyện thì chép về sự tu học của Đạo Tín
(580-651) như sau:
Có hai tăng sĩ không
biết từ đâu đến, tu thiền trên ngọn Hoàn (?) Công Sơn. Đạo Tín nghe thế
bèn tìm tới nơi, tu học 10 năm cạnh họ.
Về sau, người ta mới cho
rằng một trong hai vị tăng đó có người tên Tăng Xán nhưng phải nói lập
luận này có nhiều khả năng là do ý định muốn duy trì sự liên tục của hệ
phổ. Đọc các đăng sử buổi đầu thì thấy truyện ký của Đạo Tín và Hoằng
Nhẫn cũng không ra khỏi khuôn khổ của nội dung Tục Cao Tăng Truyện. Ngay
cả bằng chứng về tác phẩm nhan đề Tín Đạo Minh tương truyền là do Tăng
Xán để lại, cũng không chắc chắn. Sự truyền thừa của nó chỉ được nhắc
lại từ thời Bách Trượng Hoài Hải (749-814) chứ trước đó không được đề
cập tới.
Dù sao đến thời tổ thứ 5
Hoằng Nhẫn, học trò của ông đều nhận mình là học trò đàn cháu của Đạt
Ma. Đi ngược lên Hoằng Nhẫn, đến Đạo Tín thì còn được, móc nối với Đạt
Ma và Huệ Khả đã có hai vị tăng kia, nhưng việc xác nhận nhân vật Xán
Thiền Sư hay Tăng Xán là một trong hai người ấy thì chúng ta chưa đủ dữ
kiện.
Rõ ràng là về mặt hệ
phổ, giữa Đạt Ma, Huệ Khả và thiền tông đời sau có liên hệ hay không là
cả một vấn đề. Thế nhưng điều đó không quan trọng bằng việc thiền gia
đời sau đều ý thức rằng hai ông là những người đã đặt những viên đá đầu
tiên. Do đó, ta không nên tự trói buộc trong việc đi tìm tính cách xác
thực của hệ phổ mà chỉ tập trung vào việc nghiên cứu tư tưởng và hành
trạng của các thiền gia khi nghiên cứu về lịch sử Thiền Tông.
Vấn đề gây trở ngại cho
chúng ta là những gì Đạt Ma và Huệ Khả truyền lại đã bị pha lẫn vào
trong những yếu tố của Thiền Tông đời sau cho nên muốn tìm hiểu về những
cống hiến thuần túy của hai ông không phải là dễ.
Về
hình ảnh của Đạt Ma và Huệ Khả
Cho đến nay, chưa ai tìm
ra được mối liên hệ về hệ phổ giữa Đạt Ma và Thiền Tông đời sau. Dù hệ
phổ ấy có thực thì "tư tưởng Thiền Tông" trong nhận thức của chúng ta
hôm nay cũng không thể có sẵn từ thời Đạt Ma cho được. Trên thực
tế, trước tác của Đạt Ma, gọi chung là Đạt Ma Luận, được truyền lại rất
nhiều, trong đó có tác phẩm cổ hơn hết và là vật duy nhất được suy định
có khả năng do chính tay ông viết, Nhị Nhập Tứ Hạnh (Hành) Luận đã có
khoảng cách lớn so với tư tưởng Thiền tông đời sau. Đến độ đã phát sinh
ra khuynh hướng phủ nhận ngay việc quyển sách nói trên là một trứớc tác
của Đạt Ma.
Về Nhị Nhập Tứ
Hạnh Luận:
Nhị Nhập Tứ Hạnh (Hành) Luận được
xem như là những lời thuyết giáo của Đạt Ma do đệ tử là Đàm Lâm (năm
sinh và mất không rõ) ghi chép lại. Ngoài bản đã được Đạo Tuyên dẫn ra
trong Tục Cao Tăng Truyện, còn có các bản Đôn Hoàng và bản Triều Tiên.
Nói chung, nội dung gồm hai phần gọi là "nhị nhập": "lý nhập" nói về lý
luận và "hạnh nhập" nói về ứng dụng thực tiễn. Người đời sau chia "hạnh
nhập" làm 4 loại để giải thích.Trong "lý nhập" có trình bày về một quán
pháp gọi là "bích quán" (nhìn vách) để gột sạch những bụi bặm che chân
tính của con người. Mặt khác "tứ hạnh" gồm báo oán hạnh (kiên nhẫn chịu
đau khổ vì cái khổ ngày nay là do nghiệp trong quá khứ gây ra), tùy
duyên hạnh (sự vui sướng hôm nay là do nhân duyên trong quá khứ nên
không cần đặt vấn đề), vô sở cầu hạnh (đoạn tuyệt với chấp trước) và
xứng pháp hạnh (hành lục ba la mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tiến, thiền định, trí huệ, trong lý pháp thanh tĩnh). Những điều viết ra
trong Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận này có cái giống, có cái khác với tư tưởng
Thiền tông về sau nhưng đã thấy trong đó đã thấy thái độ nhìn nhận và
tôn trọng tư tưởng và thực tiễn của Như Lai Tạng. Về sau những người học
theo đường lối của Đạt Ma có phát biểu một số lời và được chép thành
Trường Quyển Tử. Tư tưởng trong đó lại được sao lục trong các ngụy kinh
như Kim Cương Tam Muội Kinh (giữa thế kỷ thứ 7). Ảnh hưởng của nó rất
rộng đến nổi sau khi Thiền Tông đã bắt rễ, còn thấy điều nói trong đó
thu lục lại trong Cảnh Đức Truyền Đăng Lục.
Tóm lại, dù cứ y như thế
mà chấp nhận giả thuyết Bồ Đề Đạt Ma là người đã khai sáng ra Thiền
Tông, ta vẫn bó buộc phải nhìn nhận rằng trong lịch sử dài lâu của nó,
Thiền Tông đã tiến bằng những bước dài và bay bổng. Nếu quên đi điều đó
và cứ tin tưởng vào tính cách siêu việt của Bồ Đề Đạt Ma, xem tư tưởng
của ông đồng nhất với tư tưởng của người đời sau thì ấy là một quan điểm
khó lòng chấp nhận.
Vấn đề không chỉ giới
hạn trong lãnh vực tư tưởng. Số là từ xưa, trong chốn thiền môn, người
ta có khuynh hướng xem thiền gia cứ đem nguyên tư tưởngcủa mình mà bộc
lộ qua hành vi cho nên sự biến thiên của tư tưởng của họ chỉ được xét
qua những chi tiết cụ thể (thấy trong sự tích, truyện ký của các thiền
sư). Hơn nữa, bởi vì Thiền tông rất trọng sự truyền thừa theo hệ phổ
(gọi là "tổ thống") và thể nghiệm giác ngộ đạt đến bằng cách "dĩ tâm
truyền tâm" cho nên họ có khuynh hướng không chấp nhận rằng giữa các tổ
sư cũng có sự khác biệt về tư tưởng. Cũng vì lẽ đó, đối với các tổ sư
thời cổ, người đời sau vẫn thường phủ nhận những gì truyền lại từ xưa
trong truyện ký của các vị ấy, rồi thay vào đó, đem gắn những thuyết mới
hợp với thời đại của mình hơn.
Trong bối cảnh ấy, tự
nhiên là do sự đòi hỏi của hệ tư tưởng, sẽ có một sự phân cách giữa các
sáng tác và sự thực lịch sử. Riêng về trường hợp của Đạt Ma và Huệ Khả,
những điều xưa nay ta tin chắc hầu như đều được hậu nhân sáng chế ra.
Việc này đã phản ánh được sự đổi thay rất lớn lao trong dòng lịch sử tư
tưởng Thiền Tông. Tuy nhiên, cũng có một số tư tưởng đã có trước khi
Thiền Tông đặt được nền móng dù với số lượng có khi không đáng kể. Chúng
hãy còn được truyền lại và vẫn ảnh hưởng đến sinh họat của Thiền Tông.
Do đó, trong quá trình tìm hiểu về sự phát triển của tư tưởng nhà Thiền,
ta bắt buộc phải nhắc tới chúng.
Thời
đại của Đạt Ma và Huệ Khả:
Thiền Trung Quốc bắt đầu
từ khi Đạt Ma đến nước họ, điều đó đã trở thành một định thuyết (dogma)
trong thiền giới. Thật thế, sở dĩ Đạt Ma đào tạo được những người học
trò giỏi như Huệ Khả và Đạo Dục (sống giữa thế kỷ thứ 6) là vì ngoài
kiến thức giáo lý của mình, ông còn có một nhân cách hết sức độc đáo và
hấp dẫn. Tuy vậy, một số nhà nghiên cứu cũng đi hơi quá xa trong việc
đánh giá ông bởi lẽ nếu nhìn từ quan điểm tổng quát toàn thể Phật giáo
thì những hoạt động của ông không quan trọng đến như vậy. Nói cách khác,
vào thời điểm Đạt Ma và Huệ Khả truyền giáo, tư tưởng của hai ông không
được nhìn nhận như một hệ chủ lưu. Để rõ thêm, ta thử nhìn tình huống
Phật giáo vào thời hai vị ấy như thế nào?
Đạt Ma hoạt động ở Bắc
Ngụy (386-534) trong giai đoạn lịch sử gọi là thời Nam Bắc Triều. Trước
tiên, Thái Vũ Đế (tại vị 423-452) chủ trương "phá Phật" nghĩa là đàn áp
Phật giáo nhưng sau khi ông ta chết đi, đến đời Văn Thành Đế (tại vị
452-465) thì Phật giáo đã tìm cách phục hưng. Rồi trải qua triều Hiếu
Văn Đế (tại vị 471-499) lúc triều đình dời đô từ Đại Đồng về Lạc Dương,
cũng như các triều Tuyên Vũ Đế (trị vì 499-515) và Hiếu Minh Đế
(515-528), Phật giáo may mắn gặp những ông vua sùng Phật cho nên đã trở
nên hết sức hưng thịnh. Chùa chiền được xây dựng khắp nơi, nổi tiếng
nhất có Vĩnh Ninh Tự ở thủ phủ Lạc Dương. Ngoài ra, ở vùng Long Môn,
ngoại ô của nó, những công trình đục khắc những tự viện trong lòng núi
(thạch quật tự viện) được phát triển mạnh, chúng được xem như nằm trong
khuôn khổ kế hoạch nhà nước.
Về phía Phật giáo đồ,
cho đến lúc đó, họ vẫn nghiên cứu các kinh điển truyền thống như Niết
Bàn Kinh, Duy Ma Kinh, Hoa Nghiêm Kinh, Trí Độ Luận, Thành Thực Luận, A
Tỳ Đàm Tâm Luận. Thế nhưng, đến thời Tuyên Vũ Đế, nhân Bồ Đề Lưu Chi
(?-527) và Lặc Na Ma Đề (năm sinh và mất không rõ) dịch Thập Địa Kinh
Luận, có một vị tăng tên là Huệ Quang (còn gọi là Quang Thống Luật Sư,
468-537) từng theo học với hai ông, trở thành một nhân vật rất nổi
tiếng, cho nên gây ra được một phong trào nghiên cứu kinh này. Phong
trào ấy mang tên Địa Luận Tông.
Về sau Bắc Ngụy bị tách
ra làm Đông Ngụy (534-550) và Tây Ngụy (535-557), đóng đô ở Nghiệp và
Trường An. Thế rồi Đông Ngụy bị Bắc Tề (550-577) thôn tính, Tây Ngụy bị
Bắc Chu (557-581) chinh phục. Tuy vậy, nhân vì Bắc Tề cũng là một triều
đại hết sức sùng bái Phật giáo cho nên đạo Phật vẫn hưng thịnh. Nghiệp,
thủ đô của họ, đã trở thành trung tâm của Phật giáo thay thế vai trò
trước đây của Lạc Dương.
Hoạt động của các tăng
lữ Bắc Tề rất phong phú, tuy nhiên, đáng kể hơn cả là các môn đồ xuất
thân từ cửa Huệ Quang như Đạo Bằng (488-559), Đàm Tuân (480-564), An Bẩm
(507-583), Pháp Thượng (495-580). Nhờ đó, giáo nghĩa của tông Địa Luận
chiếm ưu thế, có địa vị quan trọng và vững chắc ở Bắc triều. Tuy nhiên,
vị vua anh hùng của Bắc Chu là Vũ Đế (tại vị 560-578) đã giết quyền thần
Vũ Văn Thái (505-556) để nắm trọn quyền bính, chủ trương nỗ lực để phú
quốc cường binh những mong thống nhất đất nước nên lại quay về với chủ
trương "phá Phật". Sau khi diệt được Bắc Tề rồi, Vũ Đế thẳng tay đàn áp
Phật giáo nơi quê cũ làm cho Phật giáo Hoa Bắc rơi vào cảnh tiêu điều.
Về phần Nam Triều thì
Phật Giáo xưa nay vẫn được giai cấp quí tộc chấp nhận, đặc biệt có những
vị vua sùng Phật như Tống Văn Đế (tại vị 424-453), Lương Vũ Đế (tại vị
502-549). Có thể nói, nhìn bên ngoài thì đó là thời điểm Phật giáo hưng
thịnh cùng cực. Các sư như Pháp Vân (467-529) chùa Quang Trạch, Tăng Mân
(467-527) chùa Trang Nghiêm, Trí Tạng (458-522) chùa Khai Thiện, thường
được đời xưng tụng là Lương "tam đại pháp sư", cả ba đóng vai chủ đạo
trong việc nghiên cứu Niết Bàn Kinh và Thành Thực Luận, một phong trào
thời thượng lúc ấy. Tuy vậy, những nghiên cứu đó chỉ đẻ ra nhiều kết quả
về phương diện giáo lý mà thôi, chúng làm cho Phật giáo đương thời nặng
tính cách "giảng đàn", chứ nghèo nàn về mặt thực hành.
Đời nhà Trần của Nam
Triều có vị tăng tên Chân Đế Tam Tạng (499-569) theo đường biển đến nơi,
phiên dịch những kinh điển thuộc hệ duy thức như Nhiếp Đại Thừa Luận
(Nhiếp Luận). Tuy vậy việc làm của ông, một phần do tình hình phong trào
Phật giáo đương thời, phần do nạn đao binh, không được sự chú ý như mong
muốn. Có điều là từ khi có nhiều vị sư vì trốn cảnh đàn áp Phật giáo của
chủ trương đàn áp Phật Giáo (phá Phật) của Bắc Chu bỏ bắc vào nam thì
những sách Chân Đế đã phiên dịch được họ đem ra nghiên cứu và sử dụng.
Rốt cuộc, ta có thể nói là qua sự kiện này, Địa Luận Tông đã bị Nhiếp
Luận Tông đồng hóa.
Trên đây, chúng ta đã
tóm tắt hoàn cảnh của giới Phật giáo Bắc Triều trong thời kỳ hoạt động
của Đạt Ma và Huệ Khả nghĩa là buổi đầu cho đến quãng giữa thế kỷ thứ 6.
Huệ Khả lúc ấy gặp cảnh phá Phật của Bắc Chu và điều đó cũng đã ảnh
hưởng đến hoạt động của ông không ít.
Sự
thực lịch sử về Đạt Ma và Huệ Khả:
Tư liệu lịch sử đáng tin
cậy nhất nhắc đến Đạt Ma lần đầu tiên có lẽ là Lạc Dương Già Lam Ký
(547) của Trần Huyễn Chi, một người sống khoảng giữa thế kỷ thứ 6. Tuy
vậy sách đó không đưa ra nhiều chi tiết về ông trừ việc cho biết Đạt Ma
gốc người Ba Tư, từng ca tụng tháp chùa Vĩnh Ninh (xây năm 516, bị cháy
mất năm 534) và cho biết ông tự xưng đã sống được 150 tuổi.
Tiếp theo đó, sự tích về
Đạt Ma thấy chép trong bài tựa của Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận, do Đàm Lâm
soạn. Qua bài tựa ấy, được biết ông xuất thân miền nam Ấn Độ, có học trò
như Đạo Dục, Huệ Khả, cả chuyện giáo nghĩa của ông bị bài báng và ông đã
cho ghi chép những giáo nghĩa ấy trong Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận.
Phần "Bồ Đề Đạt Ma
Truyện" trong Tục Cao Tăng Truyện phần lớn căn cứ trên Lạc Dương Già Lam
Ký và Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận.Tuy không chép được điều gì mới nhưng ít
nhất liên quan đến Huệ Khả thì có ghi lại một số điều trong mục Tăng Khả
Truyện. Theo đó, Huệ Khả (Tăng Khả) họ Cơ, người ở Hổ Lao, xuất gia năm
40 tuổi, du hành ở trung nguyên, gặp được Đạt Ma và trở thành đệ tử. Ông
theo thầy suốt 6 năm (theo truyện về Bồ Đề Đạt Ma thì lại là 4, 5 năm),
học được nhất thừa (ý nói học được giáo lý Đại Thừa, đặc biệt các lời
dạy trong kinh Pháp Hoa). Cũng trong khoảng thời gian ấy, Đạt Ma đã
truyền cho ông Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận như một "chân pháp" để lấy đó mà
truyền đạo, cũng như trao lại 4 quyển Lăng Già Kinh (do Cầu Na Bạt Đà La
dịch). Sau khi Đạt Ma nhập diệt, không thấy nói đến hành tung của ông
trong một thời gian nhưng kể từ khoảng niên hiệu Thiên Bình (534-537),
nghe ông có đến Nghiệp, kinh đô của Bắc Tề, để bố giáo và thâu nhận các
đệ tử như Na Thiền Sư (không rõ năm sinh năm mất) và Hướng Cư Sĩ (không
rõ năm sinh năm mất). Gặp kẻ ganh tỵ gây khó khăn và cảm thấy nguy cơ
đến tính mạng, ông rời Nghiệp, giả điên để có cơ hội tiếp tục hành đạo.
Sau khi phong trào "Phá Phật" xảy ra , ông cùng với Lâm Pháp Sư [5]
là một học giả có tiếng về Thắng Mạn Kinh, chung sức duy trì Phật pháp.
Vào lúc ấy, cả hai đều bị giặc chặt tay và từ đó, không nghe nói gì tới
họ nữa. Năm sinh năm mất đều không được biết đến rõ ràng [6]
.
Những truyện ký trên căn
cứ vào tư liệu có trước khi Thiền Tông ra đời. Thế nhưng, như sẽ đề cập
trong những trang kế tiếp, lúc đó đã có nhiều nhóm tăng sĩ ngưỡng mộ họ
như những bậc tiền bối cho nên có nhiều khả năng là người đời sau lại
dựa vào thông tin các tăng sĩ ấy cung cấp để thần thánh hóa Đạt Ma và
Huệ Khả. Chuyện thần thánh hóa hình tượng của hai vị khai tổ kia, đối
với chúng ta, có lẽ không quan trọng bằng câu hỏi vì cớ gì uy tín của
hai ông đã làm cho họ được nhiều người ngưỡng mộ đến vậy. Ảnh hưởng to
lớn của Đạt Ma đối với giới tăng sĩ mới đúng là chứng cứ trung thực nhất
để đánh giá tầm cỡ của hai ông.
Truyện ký về Bồ Đề Đạt
Ma, như đã nói, là những văn kiện cổ xưa và rất hiếm hoi. Tuy vậy, cùng
với thời gian và qua sự phát triển của tư tưởng Thiền tông, loại Đạt Ma
Truyện, Huệ Khả Truyện được thêu dệt thêm lên với nhiều sự tích với bối
cảnh lúc ở Ấn Độ, lúc ở Trung Quốc, với dụng ý lý tưởng hóa các tổ sư.
Dù rằng về mặt giá trị sự thực lịch sử, những chuyện này không đáng tin
cậy một chút nào nhưng đứng trên quan điểm công cụ truyền bá tư tưởng
Thiền Tông thì chúng mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Quá trình phát triển của
thể loại Đạt Ma Truyện đã diễn ra đại khái như sau. Trước tiên, các
"đăng sử" thuộc hệ phái Bắc Tông như Lăng Già Sư Tư Ký [7]
và Truyền Pháp Bảo Ký nhấn mạnh về sự liên hệ của Đạt Ma với Tung Sơn
Thiếu Lâm Tự (Hà Nam), sau đó thì có Hà Trạch Thần Hội (684-758) và môn
hạ đề xướng các thuyết Tây Thiên Bát Tổ, Tây Thiên Nhị Thập Cửu Tổ, Tây
Thiên Nhị Thập Bát Tổ. Họ sáng tác những chuyện như hệ phổ (tổ thống)
cùng lúc đã có từ bên Ấn Độ, Đạt Ma truyền áo cà sa (truyền y thuyết),
vấn đáp giữa Đạt Ma và Lương Huệ Vương [8]
. Sách Bảo Lâm Truyện (801) của hệ phái tông Hồng Châu lại cải biên hầu
như hoàn toàn nội dung của thuyết Tây Thiên Nhị Thập Bát Tổ và hoàn
thành Tổ Thống Thuyết, cùng lúc, họ gia thêm những sự tích về Đạt Ma lúc
còn ở Ấn Độ, tô điểm sự liên hệ giữa hoàng thất hai triều Ngụy và Lương,
sửa chữa lại thời điểm Đạt Ma từ Ấn Độ sang Trung Quốc (độ lai) cũng như
quá trình bố giáo và ngày chết của ông (thiên hóa). Tuy những sự sáng
tác với mục đích nâng cao uy tín của Thiền tông như thế hoàn toàn không
dựa trên sự thực nhưng sau khi thế lực của phái Hồng Châu [9]
lan rộng thì dần dần, người ta không còn nghi ngờ gì về chúng nữa. Đến
khi Cảnh Đức Truyền Đăng Lục (1004) và Truyền Pháp Chính Tông Ký (1061)
ghi chép lại thì tất cả được coi như định thuyết. Song song với sự biến
hình của các truyện ký, loại sách Đạt Ma Luận dùng tên ông như mào đầu
đã xuất hiện nhan nhản. Tiêu biểu có Ngộ Tính Luận của hệ Bắc Tông và
Huyết Mạch Luận của Nam Tông. Nội dung những sách đó thường phản ánh lý
luận của hệ phái mình nhưng sở dĩ có nhiều sách mạo danh Đạt Ma (Đạt Ma
giả thác thư) ra đời như vậy là vì với sự phát triển của tư tưởng, tất
nhiên có những quyển không còn hợp thời bắt buộc phải bị đào thải. Đến
khi những ngữ lục, một phương tiện khác ra đời thì sự sáng tác những giả
thác thư cũng đến hồi cáo chung vì đã đóng xong vai trò lịch sử của
mình. Riêng về Huệ Khả, tuy sau đó cũng có nhiều điều thêm thắt về
truyện ký của ông nhưng những truyện như chặt tay cầu đạo (Huệ Khả đoạn
tý) hay việc thu nhận Tăng Xán làm người thừa kế chỉ là những điều viết
ra vì cần thiết của sự phó pháp (để giải thích đạo pháp đã được giao phó
như thế nào) chứ nó chỉ làm yếu đi ý nghĩa lịch sử đặc biệt của nhân vật
Huệ Khả.
Những
nhân vật thuộc hệ phái Đạt Ma Huệ Khả và tính đa dạng của họ:
Cho dù ảnh hưởng của Đạt
Ma và Huệ Khả lớn lao đến nỗi môn đệ của các ông đã lập ra hẳn được một
trường phái, chúng ta vẫn không thể quả quyết họ là những người đã khai
sáng ra cái gọi là Thiền Tông. Không những chuyện đó hãy còn mơ hồ mà
ngay những người có chân trong trường phái của hai ông vốn cũng chẳng
đồng nhất về mặt tư tưởng. Nếu kiểm tra những gì ghi chép trong Tục Cao
Tăng Truyện (Bồ Đề Đạt Ma Truyện, Tăng Khả Truyện, Pháp Trùng Truyện),
ta biết những người trong hệ phái Đạt Ma-Huệ Khả gồm có hai nhóm và
không có liên quan mật thiết với nhau:
Nhóm đầu tiên là những
người đã được Đạt Ma dạy Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận: Huệ Khả, Đạo Dục và
người chấp bút nó là Đàm Lâm. Ngoài ra, về nhóm này, phải kể thêm Hướng
Cư Sĩ là người đã được chỉ dạy qua thư tín.
Nhóm thứ hai là những
người truyền bá 4 quyển kinh Lăng Già. Theo Tăng Khả Truyện, trong đó có
Lâm Pháp Sư (có thể là Đàm Lâm), người đã cùng Huệ Khả hoạt động vào
thời điểm Phật giáo bị đàn áp (thời Phá Phật), học trò Huệ Khả tên gọi
Na Thiền Sư và môn đệ của Na Thiền Sư tên là Huệ Mãn. Trong Pháp Trùng
Truyện, khi đề cập đến những người truyền bá Lăng Già Kinh, còn thấy
viết:
Thiền sư Đạt Ma có
hai học trò là Huệ Khả và Huệ Dục. Huệ Dục Thiền Sư nhận lãnh giáo lý,
chỉ tu hành trong tâm và không phát biểu bằng lời nói. Còn những người
thừa kế Huệ Khả Thiền Sư như Xán Thiền Sư, Huệ Thiền Sư, Thịnh Thiền Sư,
Na Lão Sư, Đoan Thiền Sư, Trường Tạng Sư, Chân Pháp Sư, Ngọc Pháp Sư...
thì dùng lời nói để thuyết về huyền lý nhưng không ghi chép lại bằng văn
từ.
Ngoài ra, những người
thừa kế Huệ Khả Thiền Sư còn có Thiện Lão Sư (viết 4 quyển sao), Phong
Thiền Sư (viết 5 quyển sớ), Minh Thiền Sư (viết 5 quyển sớ) và Hồ Thiền
Sư (viết 5 quyển sớ).
Về những người chịu
ảnh hưởng gián tiếp của Huệ Khả thì có Đại Thông Sư (viết 5 quyển sớ),
Đạo Âm Sư (viết 4 quyển sao)Trùng Pháp Sư (viết 5 quyển sớ), Ngạn Pháp
Sư (viết 5 quyển sớ), Sủng Pháp Sư (viết 8 quyển sớ) và Đại Minh Sư
(viết 10 quyển sớ). Những người nối tiếp Na Thiền Sư là Thực Thiền Sư,
Huệ Thiền Sư, Khoáng Pháp Sư. Hoằng Trí Sư. Tuy trụ trì ở Tây Minh Tự
chốn kinh sư nhưng pháp đã tuyệt. Mặt khác, Minh Thiền Sư lại có những
đồ đệ là Gia Thiền Sư, Bảo Du Sư, Bảo Nghênh Sư, Đạo Oánh Sư, họ nối
tiếp được pháp đăng của hệ phái và vẫn tiếp tục bố giáo cho đến nay.
Theo đó, ta biết những
người đó liên quan với Đạt Ma về Huệ Khả qua trung gian của Lăng Già
Kinh thuộc rất nhiều hệ thống dị biệt. Thế nhưng truyện trên không nhắc
đến những người có liên quan đến Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận như Hướng Cư Sĩ
và về Đạo Dục (Huệ Dục) và Đàm Lâm, nó cũng chỉ nhắc đến một cách hết
sức sơ sài.
Sở dĩ Đạt Ma và Huệ Khả
được các tôn phái đương thời ngưỡng mộ như hai bậc đàn anh có lẽ vì danh
tiếng của họ rất cao và hình tượng của họ được tôn sùng.Đạo Tuyên, người
viết sử về thiền lâm có tiếng, trong phần "Luận" của Tập Thiền Biên, Tục
Cao Tăng Truyện có nhấn mạnh đến tính tiền vệ, viễn kiến (đi trước thời
đại, nhìn xa) của tư tưởng Đạt Ma, đã gây chấn động đối với người đương
thời. Đứng từ quan điểm này mà suy ra thì nếu những người sáng lập Thiền
Tông về sau có dựa vào điều đó để tạo ra uy thế cho mình cũng không phải
là chuyện để ta đáng ngạc nhiên.
Vai trò của
Lăng Già Tông (nhóm thứ hai):
Trong Tục Cao Tăng Truyện, phần
nói về Huệ Khả có cho biết Đạt Ma đã truyền cho ông bản Lăng Già Kinh
gồm 4 quyển.Trong đó còn thấy chép truyện ký của Na Thiền Sư, đệ tử của
Huệ Khả và học trò của Na Thiền Sư là Huệ Mãn, hai trong những người
thừa kế Lăng Già Kinh. Phần nói về Pháp Trùng cũng chép lại hệ phổ những
người thừa kế và nghiên cứu Lăng Già Kinh mà họ đã nhận từ Đạt Ma và Huệ
Khả. Các nhân vật này được gọi chung là Lăng Già Tông. Tuy hệ phổ của
Lăng Già Tông bị bỏ ra ngoài hệ phổ của Thiền Tông, nhưng nhân vì các
văn kiện thư tịch Thiền Tông buổi đầu của Thiền Bắc Tông nhìn nhận những
ghi chép về kinh Lăng Già nên mới có quan điểm cho là Lăng Già Tông cũng
có thể xem như thuộc Thiền Tông lúc nó vừa thành lập. Dù vậy, không thể
nói các văn kiện Thiền Tông buổi đầu đã sử dụng câu chuyện về kinh Lăng
Già như một thông tin có tính tuyệt đối. Có thể hiểu là để xác định vị
trí chính thống của họ, các nhân vật Thiền Tông thường sử dụng những chi
tiết ghi chép trong Tục Cao Tăng Truyện chỉ vì uy tín của tác phẩm này.
Do đó, khi suy luận cần phải phân biệt chuyện này với chuyện nọ. Về sau,
đến thời của chi lưu Hà Trạch Thần Hội thì người ta nhấn mạnh vào cái
Tri (máy động của trí tuệ bát nhã) và chú trọng đến Kim Cương Bát Nhã
Kinh (tục gọi là kinh Kim Cương), đến nỗi chủ trương rằng quyển kinh mà
Huệ Khả đã nhận từ Đạt Ma không phải là kinh Lăng Già mà chính là kinh
Kim Cương vậy.
Liên hệ giữa
Huệ Khả và Niết Bàn Luận:
Những người thừa kế Đạt Ma và Huệ
Khả ở trong nhiều hệ phái khác nhau. Như đã nói trên, đó là hệ phái Nhị
Nhập Tứ Hạnh Luận và hệ phái Lăng Già Kinh. Sau khi Thiền tông đã thành
hình rồi, lại có thêm những nhân vật thuộc hệ phái gọi là Đông Sơn pháp
môn. Đó là chưa kể đến những người được truyền thừa Niết Bàn Luận nữa.
Trong Tục Cao Tăng Truyện, phần phụ truyện của Pháp Thái Truyện cũng như
trong Trí Ngao Truyện, có nói đến việc Trí Ngao (?-601), đệ tử của Chân
Đế Tam Tạng (499-569), trốn cảnh phá Phật ở đất Bắc đã vào miền nam với
nhà Trần (nước do Trần Bá Tiên sáng lập). Ông ta được một người tên Huệ
Khả (?-582?) [10]
giảng cho nghe về Niết Bàn Luận. Sau khi Huệ Khả này mất, ông ra sức
truyền bá tư tưởng của thầy. Huệ Khả nói đến ở đây xem ra có sự trùng
hợp với Nhị Tổ Huệ Khả mà ta vẫn biết nếu căn cứ trên thời điểm ông ấy
hoạt động cũng như những chi tiết chung trong truyện ký của hai người.
Đó là chưa nói đến Niết Bàn Luận mà ông giảng nghĩa lại là tác phẩm đã
được một người tên "Đạt Ma Bồ Đề" nhà Bắc Ngụy phiên dịch ra. Ít nhất
giữa hai Huệ Khả có quá nhiều chi tiết giống nhau để có thể phủ định khả
năng họ cùng là một người. Nếu tin vào chuyện đó, ta còn thấy mối liên
hệ thầy trò giữa Đạt Ma và Huệ Khả còn rộng lớn hơn những điều ta từng
biết về họ. Lại nữa, ta không thể nào làm ngơ trước sự việc Niết Bàn
Luận là lý luận dựa trên Niết Bàn Kinh mà kinh này lại là trước tác cực
kỳ quan trọng, được đem ra dùng làm nền tảng tư tưởng của Địa Luận tông
Nam Đạo phái nữa.
Ý
nghĩa sự góp mặt của Huệ Khả và nguồn cội Thiền tông:
Thế nhưng, dù có nhiều
hệ phái hay nhiều môn đồ đến thế nào, chung qui tư tưởng của Đạt Ma đã
truyền đến họ qua trung gian của Huệ Khả. Phải nói sự cống hiến lớn lao
của Huệ Khả vốn có tính quyết định trong quá trình thành lập Thiền Tông.
Theo đó, việc Huệ Khả nhận được một nguồn cảm hứng, một cú hích từ Đạt
Ma là việc không thể phủ nhận được. Những người về sau muốn đi tìm nguồn
cội tư tưởng của thầy trò Đạt Ma -Huệ Khả, có lẽ phải bắt buộc tìm đến
Huệ Khả nhiều hơn là đi thẳng tới Đạt Ma.
Nếu mọi sự xảy ra như
vậy thì việc xem Thiền Tông như sản phẩm truyền thừa từ Ấn Độ mà thôi
quả là điều nguy hiểm. Trên thực tế, Lăng Già Kinh, trước tác mà Thiền
Tông buổi đầu xem trọng là kinh điểm cơ sở của Địa Luận Tông, một tông
phái chi phối đời sống tôn giáo ở Bắc Triều, nghĩa là địa bàn hoạt động
của Huệ Khả. Không những thế, những Nhị Nhập Tứ Hạnh và tư tưởng Như Lại
Tạng (sau này sẽ là cơ sở của Thiền Tông) cũng là trung tâm của giáo lý
Địa Luận Tông Nam Đạo Phái nữa kia. Còn phải nhắc thêm việc ai nấy đều
biết là trong những văn kiện truyền vào đất Nhật dưới thời Nara
(710-784), đã có mặt Lăng Già Kinh Sớ tương truyền do Bồ Đề Đạt Ma soạn.
Gần đây, người ta đã khám phá ra rằng rõ ràng là nội dung của nó có
nhiều điểm gắn bó mật thiết với tư tưởng Địa Luận Tông Nam Đạo Phái.
Địa Luận Tông, giáo lý
có trước tiên vào thời Nam Bắc Triều, sau một thời gian dài, đã chịu
nhiều thay đổi, biết tiếp nhận tư tưởng Phật Giáo đến từ Ấn Độ và hệ
thống hóa trong một tổ chức do người Trung Quốc chủ trì. Tổ chức này sẽ
là mẫu thai sinh sôi ra những luồng tư trưởng khác của Phật Giáo Trung
Quốc như Thiên Thai Tông, Tam Luận Tông, Hoa Nghiêm Tông, Tịnh Độ
Tông...E rằng hệ thống tư tưởng chủ lưu của những người tự cho rằng mình
vốn là kẻ thừa kế các bậc tiền bối như Đạt Ma và Huệ Khả cũng đều bắt
buộc phải truy tầm ở chính nguồn cội này.
Cội nguồn trực tiếp tư
tưởng chủ lưu của Thiền Tông, như sẽ trình bày trong tiết sau, là những
người thuộc pháp môn Đông Sơn. Liên hệ giữa họ và những người tự xưng là
kế thừa di sản của Đạt Ma và Huệ Khả thật ra không có gì rõ rệt. Dù sao,
ta vẫn phải để ý một điều: trong Trường Quyển Tử, tác phẩm được xem như
xuất phát từ Nhị Nhập Tứ Hạnh Luận, ta thấy có chép nhiều tư tưởng sau
này sẽ được Thiền Tông chấp nhận.
Tiết 3: Pháp môn Đông Sơn hình thành |
Pháp
môn Đông Sơn xuất hiện:
Năm 581, Tĩnh Đế ( trị
vì 579- 581) nhà Bắc Chu nhường ngôi cho Văn Đế ( trị vì 581-604) nhà
Tùy. Văn Đế sau đó đã chinh phục được nhà Trần (557-589) và cuối cùng
thống nhất Trung Quốc. Văn Đế muốn dùng Phật Giáo như nguyên tố để lãnh
đạo một quốc gia thống nhất, mới ra sức giúp nó hưng thịnh. Bắc Triều
xưa nay vẫn trọng sự thiền định từ giáo lý đến thực tiễn, nay nhà Tùy
lại kế tục sự nghiệp đó cho nên đã cho lập Đại Thiền Định Tự ở thủ đô
Đại Hưng Thành (tức Trường An), mời nhà tu tên tuổi từ các địa phương
về. Sau đó, người kế nghiệp Văn Đế là Dượng Đế (trị vì 604-617) cũng
kính nể các cao tăng như Trí Khải (538-597) phái Thiên Thai hay Gia
Tường Cát Tạng (549-623) của Tam Luận Tông cho nên Phật Giáo nhờ đó
không ngừng phồn thịnh.
Tuy Phật Giáo đời Tùy có
những nhân vật chỉ đạo trên tuổi như Tín Hành (540-594) của Tam Giai
Giáo, Trí Khải và Cát Tạng nhưng những người chiếm giữ vị trí trung tâm
của nó vẫn là Huệ Viễn (523-592) ở Tĩnh Chương Tự, Chí Niệm (535-608) và
Đàm Thiên (542-607), người của hệ phái Địa Luận và Nhiếp Luận, vốn có từ
thời Nam Bắc Triều cho đến nay. Nếu chúng ta tin vào những gì chép trong
Tục Cao Tăng Truyện, phần nói về Pháp Trùng, thì sẽ thấy vào thời điểm
đó, những người thuộc Lăng Già Tông - tức hệ phái đi theo Đạt Ma và Huệ
Khả - lẽ ra phải hoạt động rất mạnh mẽ nhưng sao không ai tìm ra bằng
chứng rõ rệt nào về điều đó. Vì hình như không có ký lục nào chép về
việc các nhà tu hành thuộc hệ phái của Đạt Ma được mời đến Đại Thiền
Định Tự, cho nên ta có thể suy đoán rằng những người tu thiền buổi ấy
đều giống như Đạt Ma và Huệ Khả, nghĩa là phải sống một cuộc đời du tăng
chốn sơn lâm, tu luyện ở chỗ không người hay biết.
Thế nhưng đến khi Tùy bị
Đường diệt (618-626) thì sự thể đổi thay theo một chiều hướng khác.Lúc
đó, thầy trò Đạo Tín (580-651) và Hoằng Nhẫn (601-674) xuất hiện. Hai
người ra sức bố giáo quanh địa bàn Kỳ Châu thuộc tỉnh Hồ Bắc và phát
triển hoạt động của mình một cách nhanh chóng, lôi cuốn được sự chú ý
của giới Phật Giáo. Người ta thường gọi đường lối của họ là pháp môn
Đông Sơn, và nếu như ta nhìn tính cách liên tục qua cách thức thầy
truyền pháp cho trò của họ thì thấy họ đúng là những người đã trực tiếp
ảnh hưởng đến sự hình thành của Thiền Tông về sau.
Đạo Tín và
Hoằng Nhẫn:
Theo Đạo Tín Truyện chép trong Tục
Cao Tăng Truyện thì Đạo Tín họ Tư Mã, không rõ là người xuất thân vùng
nào (tuy có sách chép ông người Hà Nội, Trung Quốc). Lên 7 đã theo hầu
một tôn sư trong 5 năm trời, sau đó đến ngọn núi tên Hoàn (?) Công Sơn
tỉnh An Huy, gặp hai vị thầy không biết từ đâu đến và học Thiền với họ
trong vòng 10 năm. Hai vị thầy này bỏ đi đến núi La Phù (Sơn Đông) nhưng
không cho phép Đạo Tín đi theo. Về sau, ông xuất gia, nhập tăng tịch ở
một chùa thuộc Cát Châu. Khi giặc bao vây thành Cát Châu, tương truyền
ông dạy mọi người tụng kinh Bát Nhã nên được vô sự. Ông định bụng xuống
vùng Nam Nhạc, giữa đường bị mọi người cầm chân nên ghé lại chùa Đại Lâm
Tự núi Lô Sơn và ở đó 10 năm. Đạo Tín lại đến Kỳ Châu, vào núi Song
Phong huyện Hoàng Mai (sau được biết là vào khoảng năm 624), chỉ đạo học
trò suốt 30 năm. Đến năm 651 thì mất, thọ 72 tuổi. Theo Lăng Già Kinh Sư
Tư Ký thì Đạo Tín có trước tác Nhập Đạo An Tâm Yếu Phương Tiện Pháp Môn,
được một số người dẫn ra nhưng hầu hết không nói đến cho nên chuyện nó
có thật hay không chưa lấy gì làm chắc.
Mặt khác, tên tuổi Hoằng Nhẫn như
người học trò đã dựng tháp cho thầy đã được nhắc đến trong truyện về Đạo
Tín của Tục Cao Tăng Truyện. Sau đó nhờ những ghi chép của Lăng Già Kinh
Sư Tư Ký và Truyền Pháp Bảo Ký mà ta mới dần dần biết thêm về hành trạng
của ông. Theo Truyền Pháp Bảo Ký, Hoằng Nhẫn họ Chu, xuất thân ngay ở
Hoàng Mai. Ông đi tu từ nhỏ, năm 12 tuổi (Lăng Già Sư Tư Ký chép là 7
tuổi) đã theo học Đạo Tín, sau được thầy phó thác, đến núi Bằng Mậu (Sơn
Đông) mở trường bố giáo, thu nhận rất nhiều đệ tử, trong đó có tên tuổi
nhất là Pháp Như, Thần Tú và Huệ Năng. Ông mất năm 675, thọ 74 tuổi. Tuy
nhiên, theo các sách như Lăng Già Sư Tư Ký thì ông mất trước đó một năm,
tức 674. Tương truyền, ông có viết tác phẩm nhan đề Tu Tâm Yếu Luận,
nhưng sự thực thế nào thì chưa ai dám quyết.
Pháp môn Đông
Sơn là gì?
Đông Sơn là tên gọi Bằng Mậu Sơn
(hay Ngũ Tổ Sơn), ngọn núi nằm ở huyện Hoàng Mai thuộc Kỳ Châu (tỉnh Hồ
Bắc ngày nay), nơi Hoằng Nhẫn truyền giáo. Cũng trong vùng này, lại có
ngọn Song Phong Sơn, về sau có tên là Tứ Tổ Sơn, nơi Đạo Tín ở, còn được
gọi là Tây Sơn. Do đó cách gọi Tây Sơn - Đông Sơn dùng để phân biệt thầy
trò Đạo Tín - Hoằng Nhẫn. Pháp môn Đông Sơn như thế ám chỉ những hoạt
động hoằng pháp của Hoằng Nhẫn và chư đệ tử, họ đã tạo thành một hệ phái
tư tưởng hẳn hoi trong phạm vi cả nước. Theo Lăng Già Kinh Sư Tư Ký, Tắc
Thiên Vũ Hậu từng phát biểu "Nói về chuyện tu hành thì không có gì vượt
nổi pháp môn Đông Sơn". Lời nói của bà đã diễn tả đầy đủ tầm quan trọng
của môn phái Hoằng Nhẫn. Tuy nhiên, ngày nay, mọi người thường nghĩ rằng
nếu xét thêm về tính xác thực trong quan hệ giữa thầy trò với nhau cũng
như nhìn lại địa bàn hoạt động rất gần gũi của họ, ta có thể gộp cả Đạo
Tín vào pháp môn Đông Sơn vậy.
Ý
nghĩa về sự xuất hiện của pháp môn Đông Sơn:
Pháp môn Đông Sơn hoạt
động trong khoảng Đường sơ (618-713), lúc Phật Giáo nằm trong một thời
kỳ cải cách. Một vị tăng tên Cơ (632-682) dựa trên bản văn Thành Duy
Thức Luận do Huyền Trang (600-664) dịch đã sáng lập một tông phái có tổ
chức là Pháp Tướng Tông. Theo gương đó, nhân Địa Luận Tông và Nhiếp Luận
Tông đều đến hồi suy vi, những người thuộc hai hệ tư tưởng này như Trí
Nghiêm (602-668) và Pháp Tạng (643-712) vì muốn tranh chấp với Pháp
Tướng Tông nên đã lập ra Hoa Nghiêm Tông. Ngoài ra còn có Đạo Xước
(562-645) và Thiện Đạo (613-681) cổ vũ cho Tịnh Độ Giáo, Đạo Tuyên
(596-667) hoàn thành cơ sở của Nam Sơn Luật Tông. Nếu tính cả Thiên Thai
Tông vốn đã ra đời sớm hơn một chút thì ta đã thấy được toàn cảnh của
Phật Giáo Trung Quốc, tất cả tông phái đều đã hiện ra vào thời điểm này.
Sở dĩ có hiện tượng này
có lẽ bởi vì đến lúc đó, Phật Giáo đã hoàn toàn trở thành xương thịt của
người Trung Quốc. Họ đã tổ chức và chấn chỉnh đạo Phật theo một lối mới
theo phong cách và cảm tính của người trong nước. Ta có thể ngầm hiểu
được điều này khi biết rằng những kinh điển dùng làm cơ sở trích dẫn cho
Thiền Tông buổi đầu hầu như đều là tác phẩm do người Trung Quốc soạn,
với cách gọi chung là những "ngụy kinh" hay kinh giả mạo. Có thể kể ra
đây một số tựa đề như Phật Thuyết Pháp Cú Kinh, Phật Thuyết Thiền Môn
Kinh, Phật Thuyết Pháp Vương Kinh, Phật Vị Tâm Vương Bồ Tát Thuyết Đầu
Đà Kinh, Đại Phương Quảng Viên Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh, Đại Phật
Đính Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Chư Bồ Tát Phương Hành Thủ Lăng
Nghiêm Kinh vv...Trừ hai cuốn cuối, các kinh sách này đều được biết rõ
toàn văn là nhờ ở cuộc khai quật các văn thư ở thạch động Đôn Hoàng, thế
nhưng các kinh sách của các tông Tịnh Độ và Hoa Nghiêm đương thời cũng
đã được phép trích dẫn chúng. Do đó, có thể đặt giả thuyết những ngụy
kinh ấy chính là tác phẩm của các nhà tu thiền nặc danh viết ra, và nếu
đặt sự xuất hiện của nó vào bối cảnh của Phật Giáo đương thời vốn đang
trực diện với nhiều vấn đề, thì ta thấy chúng đã đã được tiếp nhận rộng
rãi, vượt lên trên cả sự cách biệt về giáo lý của các học phái. Tóm lại,
phải chăng sự xuất hiện của Thiền là để giúp giải đáp những nan đề mà
Phật Giáo thời ấy đang gặp phải?
Thế rồi, kể từ thời
này,Tam Luận Tông, một giáo phái được chú trong vào đời Tùy, cũng bắt
đầu suy thoái và sau đó tan biến trong dòng Thiền Tông đang trên đường
hưng thịnh.
Về những ngụy
kinh mà Thiền Tông buổi đầu đã sử dụng:
Trong những trước tác vừa nhắc đến
bên trên thì trước tiên có Phật Thuyết Pháp Cú Kinh, đã ra đời vào năm
650. Được xem là một "ngụy kinh" và không liên quan gì đến Pháp Cú Kinh
(Danmapada) vốn là một bộ nằm trong A Hàm Kinh. Nó gồm 14 phẩm (chương),
phẩm thứ nhất có 24 bài kệ làm theo thể ngũ ngôn tứ cú cho nên mới mang
tên là Pháp Cú. Trong đó đặc biệt có những câu nổi tiếng như "Sâm (Sum)
la cập vạn tượng, Nhất pháp chi khả ấn" vẫn thường được đem ra trích
dẫn.
Thứ đến là Phật Thuyết Thiền Môn
Kinh. Kinh này hình như đã xuất hiện khoảng cuối thế kỷ thứ 7 hay đầu
thế kỷ thứ 8, mào đầu có lời tựa của Huệ Quang. Nội dung của nó nhấn
mạnh đến "đốn ngộ", đã được dẫn dụng trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký (hậu bán
thế kỷ thứ 8) của Bảo Đường Tông cũng như Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn Luận
của Đại Chu Huệ Hải (khoảng thế kỷ thứ 8 hay 9).
Phật Thuyết Pháp Vương Kinh không
rõ đã ra đời vào thời nào, chỉ biết chủ yếu bàn về phật tính, nhân được
Bách Trượng Hoài Hải (749-814) dẫn dụng nhiều lần nên có thể phỏng đoán
đã có từ thế kỷ thứ 8. Kinh này cũng đã được dịch ra tiếng Tây Tạng.
Phật Vị Tâm Vương Bồ Tát Thuyết
Đầu Đà Kinh còn được gọi là Tâm Vương Kinh hay Đầu Đà Kinh, từng được
trích dẫn hay nhắc đến tên trong các tác phẩm như Tu Tâm Yếu Luận, Đạo
Phàm Thú Thánh Tâm Quyết (cả hai là bản Đôn Hoàng, thế kỷ thứ 7), Tào
Khê Đại Sư Truyện cũng như Hoa Nghiêm Kinh Hạnh Nguyện Phẩm Sớ Sao của
Khuê Phong Tông Mật (780-841). Ngoài ra, trong phụ lục của một bản chú
thích ở Đôn Hoàng gọi là Ngũ Âm Sơn Thất Tự Huệ Biện Thiền Sư Chú thấy
có chép lại một phần của nó. Tuy nó đặt nặng về hạnh đầu đà [11]
nhưng có đặc điểm là đã thực hành lối giải thích giống như "quán tâm
thích" mà sau này ta thường thấy trong các văn bản của Bắc Tông. Nên để
ý rằng kinh này cũng có một bản dịch ra tiếng Lật Đặc (Soghd), một dân
tộc gốc, Iran xưa sống chung quanh vùng Samarkand và thường xuyên thông
thương với Trung Quốc.
Riêng về Đại Phương Quảng Viên
Giác Tu Đa La Liễu Nghĩa Kinh, gọi tắt là Viên Giác Kinh, được xem đã ra
đời giữa hai thế kỷ 7 và 8, chủ yếu thuyết về cách làm sao đạt được cái
tâm giác ngộ viên mãn (đại viên giác tâm). Nó được xem như một "truyền
pháp bảo ký", sớm được nhắc nhở đến trong thời kỳ tối sơ của lịch sử
Thiền Tông và sau lại được Khuê Phong Tông Mật sử dụng rộng rãi.
Còn như Đại Phật Đính Như Lai Mật
Nhân Tu Chứng Liễu Chư Bồ Tát Phương Hành Thủ Lăng Nghiêm Kinh thì tên
đã được thu gọn thành Lăng Nghiêm Kinh hay Phật Đính Kinh. Đó là một
ngụy kinh gồm 10 quyển ra đời vào thế kỷ thứ 8 và hoàn toàn không dính
líu gì đến một chân kinh do Cưu La Ma Thập dịch nhan đề Thủ Lăng Nghiêm
Tam Muội Kinh. Nó vừa giảng nghĩa về cái lý "viên thông vô ngại", vừa
liệt cử các loại "bệnh thiền" sau đó lại dạy cách làm sao thoát ra khỏi
chúng.
Trong các ngụy kinh vừa kể, nhiều
cuốn chỉ có tầm quan trọng đối với buổi ban đầu của Thiền Tông mà thôi.
Thế nhưng riêng Lăng Nghiêm Kinh và Viên Giác Kinh được xem như là hai
tác phẩm thuyết về "giáo thiền nhất trí" nên mãi về sau, cho đến cả các
đời Tống, Nguyên, Minh, vẫn hãy còn được sử dụng. Chuyện tăng Nhật Bản
là Dôgen (Đạo Nguyên, 1200-1253) phê phán thuyết "Giáo Thiền nhất trí"
và phủ nhận giá trị hai cuốn kinh nói trên là một giai thoại khá nổi
tiếng. Ngày nay, trong các thiền viện, người ta vẫn còn tụng Lăng Nghiêm
Chú, xuất xứ của nó chính là quyển thứ 7 trong Lăng Nghiêm Kinh vậy.
Liên quan giữa
Tam Luận Tông và Thiền Tông:
Sở dĩ Tam Luận Tông gây được sự
chú ý là bởi vì phái này soạn rất nhiều kinh sách và người hoàn thành
được hệ tư tưởng của họ, tăng Cát Tạng, vốn được Tùy Dượng Đế trọng
vọng. Tuy nhiên, nguyên lai, Tam Luận là một tông phái lấy thực tiễn làm
trung tâm và Cát Tạng, người chủ trương lấy giáo nghĩa làm chính, là một
ngoại lệ trong nhóm họ. Chính việc coi trọng thực tiễn đã cho phép người
phái này giao lưu với các tăng sĩ thuộc hệ phái Đạt Ma - Huệ Khả. Ví dụ
Huệ Bố (? - 587) của phái Tam Luận, người từng theo học Nam Nhạc Huệ Tư,
cũng đã đến tham vấn Huệ Khả. Người như Pháp Như (638-689), đệ tử của
Hoằng Nhẫn, trước đó đã thờ Huệ Minh (tức Thanh Bố Minh, năm sinh năm
mất không rõ) của Tam Luận Tông làm thầy. Lại nữa, Đại Minh pháp sư (năm
sinh năm mất không rõ), theo học Pháp Lãng (507-581) của Tam Luận Tông
cùng với Cát Tạng, lại được đặt vào hệ phổ của những tăng sĩ theo Lăng
Già Tông (xem Tục Cao Tăng Truyện, truyện về Pháp Trùng). Chính Đại Minh
pháp sư là thầy của Ngưu Đầu Pháp Dung (594-657), người về sau sẽ có một
vị trí trong lịch sử Thiền Tông. Thế nhưng, vì phần giáo lý của Tam Luận
đã đạt tới đỉnh cao nhất với Cát Tạng nên từ đó về sau nó không còn
đường nào tiến nữa mà phải quay trở về với chiều hướng lấy thực tiễn làm
trung tâm. Ở đây, Tam Luận Tông không chứng tỏ được có gì độc đáo trong
phương pháp tu hành trong khi pháp môn Đông Sơn càng ngày càng phát
triển. Bị lấn lướt, đánh mất cá tính, họ dần dần tàn lụn rồi chẳng bao
lâu đã hòa nhập vào dòng chảy Thiền Tông.
Ảnh
hưởng của pháp môn Đông Sơn
Đạo Tuyên, cùng thời đại
với những người nói trên, trong Tục Cao Tăng Truyện đã sớm truyền lại
truyện ký về Đạo Tín, cho biết ông này đã tụ tập được một nhóm đệ tử
trên 500 người, trong đó có Hoằng Nhẫn.Mặt khác, các truyện ký liên quan
đến Pháp Hiển (577-653), Thiện Phục (? - 660), Huyền Sảng (? -653) chứng
tỏ các ông này đều là học trò Đạo Tín. Do đó, ta có thể nói rằng từ thời
Đạo Tín, những hoạt động của nhóm về sau gọi là pháp môn Đông Sơn đã gây
được sự chú ý của giới Phật Giáo.
Người kế thừa và phát
triển sự nghiệp của Đạo Tín là Hoằng Nhẫn. Theo những văn bản của Thiền
Tông buổi đầu, Hoằng Nhẫn có nhiều đệ tử và 10 người đã được ông phó
thác việc truyền giáo trong toàn cõi Trung Quốc. Mười người đó có tên là
"Hoằng Nhẫn thập đại đệ tử". Thuyết này có đáng tin hay không là chuyện
khác nhưng chắc chắn điều này có thể giúp ta ngầm hiểu Hoằng Nhẫn rất
được trọng vọng và ảnh hưởng của ông đã lan rộng trên bình diện cả nước.
Sống cùng thời với Đạo
Tín và Hoằng Nhẫn có Trí Nghiêm, người đã xây dựng cơ sở cho Hoa Nghiêm
Tông. Ông ta phân biệt 5 nhóm trong Phật Giáo: 1) Tiểu thừa (A Hàm,
Abidharma), 2) Đại thừa sơ giáo (tư tưởng Duy thức), 3) Đại thừa chung
giáo (tưởng Như Lai tạng), 4) Đốn giáo, 5) Nhất thừa (tư tưởng Hoa
Nghiêm) và đề ra "Ngũ giáo giáo phán" . Thế nhưng người ta nghĩ rằng
khái niệm gọi là Đốn giáo có thể dùng để ám chỉ pháp môn Đông Sơn lúc đó
đang dần dần bành trướng. Trí Nghiêm cũng tỏ ra là người phóng khoáng và
muốn cách tân khi ông ta đánh giá tốt Tam Giai Giáo, một tôn giáo mới
hưng thịnh vào thời đó. Nhân vì ông và Đạo Tuyên đều sống ở vùng Chung
Nam Sơn, ngoại ô nam của Trường An, ta có thể mường tượng rằng phạm vi
hoạt động của pháp môn Đông Sơn đã lan xa mãi tận đấy.
Thập đại đệ tử
của Hoằng Nhẫn:
Trong Lăng Già Sư Tư Ký có chép
việc Hoằng Nhẫn lúc sắp nhập diệt, chỉ ủy thác 10 người đệ tử truyền
pháp lại cho hậu thế. Tương truyền ông có nêu tên 10 người ấy, đặc biệt
Thần Tú (? -706) và Huyền Sách (?) (thế kỷ 7-8). Truyền thuyết "thập đại
đệ tử" có ghi lại trong Lịch Đại Pháp Bảo Ký, bộ sử của Bảo Đường Tông
cũng như trong Viên Giác Kinh Đại Sớ Sao (khoảng năm 822) của Khuê Phong
Tông Mật nhân chép chuyện bên lề về Hà Trạch Tông. Riêng tên tuổi của 10
vị này thì mỗi sách chép một khác. Hoặc giả trước tiên người ta đặt ra
xưng hiệu "thập đại đệ tử" rồi sau mới điền tên của các vị ấy vào chăng?
Thế nhưng tên của Pháp Như (638-689), Thần Tú, Huệ An (hay Lão An,
582-709), Huệ Năng (638-713), Trí Sằn (539-618) thì sách nào cũng nhắc
đến. Có thể xem như các phái đều đồng ý rằng những vị này là đệ tử quan
trọng bậc nhất của Hoằng Nhẫn. Đặc biệt Lăng Già Sư Tư Ký có ghi chép về
những hoạt động của Huệ Năng ở vùng biên cảnh (Lĩnh Nam) chứng tỏ rằng
người thuộc thiền Bắc Tông cũng không hề coi thường sự tồn tại của vị tổ
sư thiền Nam Tông này. Đó là một bằng chứng hết sức quí giá. Với sự
hoằng pháp của Huệ Năng ở Lĩnh Nam cũng như các hoạt động của Trí Sằn và
Tuyên Thập (năm sinh năm mất không rõ) ở Tứ Xuyên, ta thấy pháp môn Đông
Sơn đã được quảng bá rộng rãi trên đất Trung Quốc.
Nội
dung tư tưởng pháp môn Đông Sơn:
Những người theo Pháp
môn Đông Sơn có cuộc sống hoàn toàn khác với Đạt Ma và Huệ Khả. Trong
khi hai vị tổ sư sống đời du hành rày đây mai đó, nhóm Đông sơn có cuộc
sống định trú. Vì cớ ấy mà pháp môn Đông Sơn đã có điều kiện để đào tạo
cùng một lúc rất nhiều đệ tử. Sở dĩ tên tuổi họ được mọi người biết đến,
phải nói cũng nhờ ở lý do này.
Tuy nhiên ảnh hưởng to
lớn nhất mà cuộc sống định trú đem đến là nó đã khiến cho tư tưởng Thiền
Tông có những thay đổi lớn. Theo một văn bản viết ra sau thời điểm đó là
Lục Tổ Đàn Kinh thì lúc Huệ Năng đến nhập môn Hoằng Nhẫn, ông đã có thời
phụ trách việc giã gạo (đoạn nói về Tăng Quảng, hậu bán thế kỷ thứ 8).
Thiền sinh phái Đông Sơn đi tìm những vùng núi non xa xóm làng để tu
hành mà lại tụ họp đông đảo cho nên không còn có thể sinh hoạt kiểu cầm
bát đi khất thực như xưa. Họ phải canh tác (tác vụ) để sinh hoạt kiểu tự
cấp tự túc. Do đó, song song với việc tu hành, họ còn phải làm ăn sinh
sống. Đây là một đặc điểm của tư duy Thiền Trung Quốc, biết hợp nhất thể
nghiệm thiền với đời thường.
Nếu muốn nhìn vào bên
trong hệ tư tưởng của Pháp môn Đông Sơn, ta có thể dựa vào các sách vở
ra đời sau đó một chút, ví dụ tập yếu lĩnh nhan đề Tu Tâm Yếu Luận, các
tập ký lục như Lăng Già Sư Tư Ký hay Truyền Pháp Bảo Ký. Pháp môn Đông
Sơn rõ ràng là một tổ chức đặc biệt có đường lối tu hành riêng kiểu tập
đoàn. Theo đường lối đó, họ nhắm đạt tới tâm cảnh "giác ngộ" mà họ gọi
là "thủ tâm" (chữ "thủ tâm" này cũng được các tôn giáo đương thời sử
dụng nhưng liên hệ giữa hai khái niệm nói trên không mấy rõ ràng). Chỉ
biết phương pháp tu hành ấy đã dựa trên lời thuyết giáo tên là "Nhất
hạnh (hành) tam muội" có trong Văn Thù Thuyết Bát Nhã Kinh. Cái đặc sắc
của phương pháp này là liên kết việc niệm Phật với phép hô hấp và sự tập
trung tinh thần. Tuy nhiên, vẫn căn cứ theo tư liệu có được, tuy họ nói
đến việc niệm Phật nhưng không thấy đề cập gì đến việc vãng sanh ở cõi
Tây Phương.
Ngoài ra, hãy còn một
điểm liên quan đến Thiền Tông đời sau, đó là chuyện thời ấy đã có các
khái niệm "nhập thất", "phó pháp" và "ấn khả". Những ai tu hành đạt được
đến một cảnh địa nào đó, có quyền một mình đến gặp thầy để trình bày, và
nếu được chấp thuận, sẽ được trao ấn khả.
Về tác phẩm Tu
Tâm Yếu Luận:
Tên đầy đủ của nó là Đạo Phàm Thủ
Thánh Ngộ Giải Thoát Tông Tu Tâm Yếu Luận, có hai bản: bản Đôn Hoàng và
bản Triều Tiên, cả hai đều ghi là do Hoằng Nhẫn trứ tác. Riêng bản Triều
Tiên được truyền lại với cái tên Tối Thượng Thừa Luận. Trên thực tế,
sách này là một "cương yếu thư" được lưu truyền trong hệ phái của Pháp
Như , học trò ông, cùng với Đạo Phàm Thủ Thánh Tâm Quyết, một cuốn sách
có tên tương tự. Tuy Lăng Già Sư Tư Ký cho biết Hoằng Nhẫn không có
trước tác nào nhưng việc nhắc đến sách này một cách mập mờ, có thể giải
thích là vì người viết có khuynh hướng đối kháng với hệ phái Pháp Như.
Lý do là tăng Pháp Như (638-689) vốn là nhân vật đã truyền Pháp môn Đông
Sơn sớm nhất ở Trung Nguyên, hơn nữa, sách này được xem như đã ra đời
trước khi quyền uy của Bắc Tông Thiền (phái Thần Tú) được xác lập, cho
nên có thể nói Tu Tâm Yếu Luận là văn kiện truyền đạt tư tưởng của pháp
môn Đông Sơn trung thành hơn cả. Nội dung của sách chủ trương gìn giữ
(thủ) cái tâm bản sinh thanh tĩnh bất lai bất diệt của mình của mình (tự
tâm, sau đó lại được gọi là chân tâm hay tĩnh tâm). Do đó, "thủ tâm"
(gìn giữ tấm lòng) là việc trọng yếu nhất trong tất cả mọi sự tu hành,
tán dương nó là nguồn gốc của Niết Bàn (Niết Bàn căn bản), cánh cửa quan
trọng để vào đạo (nhập đạo yếu môn), khởi điểm của 12 bộ kinh (thập nhị
bộ kinh chi tông), tổ của chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai
(tam thế Phật chi tổ).
Về Lăng Già Sư
Tư Ký và Truyền Pháp Bảo Ký:
Đó là hai tập đăng sử (lịch sử
dòng Thiền) của Bắc Tông, biết đến nhờ có các bản Đôn Hoàng. Lăng Già Sư
Tư Ký (khoảng 715) là do Tĩnh Giác (683-750?) soạn, còn Truyền Pháp Bảo
Ký (khoảng 720) do Đỗ Phỉ (năm sinh năm mất không rõ) viết. Quyển trước
kể lại lịch sử Thiền Tông từ Cầu Na Bạt Đà La (394-468), Đạt Ma cho đến
Thần Tú, tất cả 8 đời, quyển sau chỉ nói về 7 đời từ Đạt Ma đến Thần Tú,
Pháp Như mà thôi. Hai quyển sách này đều coi trọng chi phái của Thần Tú,
xem ông là "thầy của bậc đế vương" (đế sư), có ý muốn xác định Bắc Tông
như một tông môn của Thiền Tông. Những sách vở đời sau viết theo quan
điểm đó là Sư Tư Huyết Mạch Truyện, Bảo Lâm Truyện, Cảnh Đức Truyền Đăng
Lục. Tuy Lăng Già Sư Tư Ký và Truyền Pháp Bảo Ký ra đời vào hai thời
điểm gần gũi nhau và cùng nói về lịch sử Thiền Bắc Tông nhưng cách trình
bày về Cầu Na Bạt Đà La, Pháp Như, Nhị Nhập Tứ Hành (Hạnh ) Luận, cũng
như lập trường đối với ngôn ngữ, đều có điểm dị biệt. Kể từ Hà Trạch
Thần Hội về sau, tư tưởng của những người nằm trong hệ thống Thiền Bắc
Tông trên thực tế cũng trở thành hết sức đa dạng và đó là điều vô cùng
thú vị. Đặc biệt Lăng Già Sư Tư Ký có sự bỏ công đi thu thập tài liệu ví
dụ từ Lăng Già Nhân Pháp Chí của Huyền Trách cho nên có giá trị tư liệu
rất lớn cho những ai muốn tìm hiểu về cuộc sống, tư tưởng và phương pháp
tu hành của các thiền gia buổi đầu.
Hệ phổ
của Thiền (1)[12]
1 Đạt Ma |
2 Huệ Khả
-> |
3 Hướng Cư Sĩ |
|
|
|
2 Huệ Dục |
3 Tăng Xán
-> |
4 Đạo Tín
-> |
5 Hoằng Nhẫn * |
|
2 Đàm Lâm |
3 Huệ Thiền Sư |
|
5 Pháp Hiển |
|
|
3 Thịnh Thiền Sư |
|
5 Huyền Sảng |
|
|
3 Na Thiền Sư * |
|
5 Thiện Phục |
|
|
3 Đoan Thiền Sư
3 Trường Tàng Sư
3 Chân Pháp Sư
3 Ngọc Pháp Sư
3 Thiện Lão Sư
3 Phong Thiền Sư
3 Minh Thiền Sư*
3 Hồ Minh Sư
3 Đại Thông Sư
3 Đại Ấm Sư
3 Pháp Trùng
3 Ngạn Pháp Sư
3 Sủng Pháp Sư
3 Đại Minh Sư |
|
|
Về chi lưu của
các học trò Huệ Khả:
3 Na Thiền
Sư* -> |
4 Huệ Mãn
4 Thực Thiền Sư
4 Huệ Thiền Sư
4 Khoáng Thiền Sư
4 Hoằng Trí Sư |
|
|
|
|
|
|
|
|
3 Minh Thiền
Sư* |
4 Già Pháp Sư
4 Ngọc Du Sư
4 Ngọc Nghênh Sư
4 Đạo Oánh Sư |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Về chi lưu của
các học trò Đạo Tín:
5 Hoằng
Nhẫn* |
6 Tào Khê
Huệ Năng (Nam Tông) |
|
|
6 Ngọc
Tuyền Thần Tú (Bắc Tông) |
|
|
6 Lộ Châu
Pháp Như -> |
7 Đỗ Phỉ |
|
6 Thường Châu
Huyền Trách
-> |
7 An Quốc
Tĩnh Giác |
|
6 Quả Lang
Tuyên Thập
6 Tung Sơn Huệ An
6 Tư Châu Trí Sằn
6 Kim Lăng Pháp Trì
(Ngưu Đầu Tông) [13]
6 Tùy Châu Huyền Chước
6 Việt Châu Nghĩa Phương
6 Việt Châu Tăng Đạt
6 Lưu Chủ Bạ
6 Hoa Châu Huệ Tạng
6 Dương Châu Trí Đức
6 Kỳ Châu Pháp Hiện |
|
|
|
|
Phân bố địa lý hoạt động bố giáo
trong giai đoạn này:
a) Phía bắc
sông Trường Giang:
Nghiệp Quận: (Huệ Khả du hành).
Lạc Dương: (Đạt Ma du hành). Chung Nam Sơn: (Đạo Tuyên, Trí Nghiêm trú).
Song Phong Sơn (tức Tây Sơn, Tứ Tổ Sơn): (Đạo Tín trú). Hoàn (?) Công
Sơn: (Đạo Tín du hành).Bằng Mậu Sơn: (tức Đông Sơn, Ngũ Tổ Sơn) (Hoằng
Nhẫn trú).
b) Phía nam
sông Trường Giang:
Lô Sơn : Đông Lâm Tự (Huệ Viễn trú),
Đại Lâm Tự (Đạo Tín trú).
Ta thấy rõ hoạt động truyền giáo
tập trung ở địa bàn Giang Bắc.
[1] - Bão Phác Tử: tác phẩm của đạo sĩ người tỉnh Giang Tô tên
Cát Hồng (283, 343?) đời Đông Tấn và cũng là đạo hiệu của ông. Sách này
có 72 biên nội ngoại trong 8 quyển. Nội biên nói về các phép tu tiên,
luyện đan, ngoại biên thảo luận đạo đức, chính trị.
[2] - Tọa vong: ngồi im (tọa) để lòng lắng lại, quên đi (vong)
thế giới hiện hữu xung quanh.
[3] - Nam Bắc Triều (439-589) là thời điểm nhà Bắc Ngụy (giống
người Tiên Ti) thống nhất Hoa Bắc, đối lập với nhà Tống (tộc Hán) ở vùng
Giang Nam suốt 150 năm..
[4] - Thế Thân (Vasubandhu) hay Thiên Thân, tăng sĩ sống ở
miền Bắc Ấn Độ khoảng thế kỷ thứ 4 và 5. Trước theo tiểu thừa, sau nhờ
anh là Vô Trước giáo hóa, đổi sang đại thừa. Là người đại thành Duy thức
luận. Viết Câu xá luận, Duy thức thập nhị luân, Duy thức tam thập tụng,
Tịnh độ luận. Được tôn xưng là Thế Thân Bồ Tát.
[5] - Có thuyết cho rằng Lâm Pháp Sư này không ai khác hơn là
Đàm Lâm, người chấp bút ghi chép Nhị Nhập Tứ Hạnh (Hành)Luận.
[6] - Đạt Ma mấy lần bị đầu độc, rụng hết cả răng, Huệ Khả và
Lâm pháp sư bị chặt tay. Những câu chuyện như thể cho ta thấy rằng buổi
đầu, thầy trò Đạt Ma bị ghen ghét và gặp rất nhiều khó khăn trong việc
truyền pháp tới mức độ nguy hiểm đến tính mạng.
[7] - "Sư tư" có nghĩa là các bậc thầy, lại còn có nghĩa là sự
"tiếp nối giữa thầy và trò".
[8] - Ngay cả chuyện "cửu niên diện bích" (nhìn vách 9 năm)
hình như cũng là một chuyện bịa đặt. Theo Nguyễn Tuệ Chân (trong TTPG,
trang 20) thì đặc sắc của Thiền Đạt Ma là phép "an tâm". "Bích quán" chỉ
ngụ ý nói tâm kiên cố bất di như tường vách chứ không phải quay mặt vào
vách mà quán.
[9] - Phái thiền của Mã Tổ Đạo Nhất, sẽ nói đến sau. Hồng Châu
là tên đất.
[10] - Huệ Khả
慧哿
viết khác với Huệ Khả
慧可thường
gặp.
[11] - Đầu đà: phương tiện tu khổ hạnh giúp giảm tối đa nhu
cầu, tăng triển ý chí và rũ sạch những ô nhiễm, ví dụ ăn mặc rách rưới,
khất thực được gì ăn nấy, ăn một lần trong ngày, ngủ đâu cũng được...(theo
TĐPH nhóm Đạo Uyển)
[12] - Dấu hoa thị là những người có học trò nối nghiệp. Gạch
dưới là các vị tổ hay người đứng đầu các tông phái hay thường được nhắc
đến nhiều.
[13] - Nhiều sách cho là Pháp Dung, một học trò của Đạo Tín,
mới là tổ của Ngưu Đầu Tông (theo Nhóm Đạo Uyển và Nguyễn Tuệ Chân...).
Trong hệ phổ do Ibuki Atsushi soạn, chỉ nhắc đến Pháp Trì và xem Pháp
Dung tuy hiện hữu nhưng là một nhân vật chỉ có trong một hệ phổ hư cấu
nhằm móc nối với Đạo Tín.
http://www.buddhismtoday.com/viet/pgtg/lichsuthientong_TQ2.htm