Nhà
Minh dấy nghiệp. Địa vị của Thiền:
Trong những cuộc
phản loạn cuối đời Nguyên có Chu Nguyên Chương (1328-98) , người đi
theo giáo đoàn Hồng Cân, dần dần có thế lực vững mạnh hơn cả, rốt
cuộc đã đuổi được triều đình nhà Nguyên về phương bắc và năm 1368,
lên ngôi ở phủ Ứng Thiên. Đó là vua Thái Tổ nhà Minh (1368-1644) tức
Hồng Vũ Đế (trị vì 1368-98). Ông đóng đô ở Nam Kinh, dùng các Nho
gia như Lục Cơ (1311-1375) và Tống Liêm (1310-81) làm văn thần. Như
truyền thống vẫn có ở Trung Quốc, ông lần lượt chỉnh đốn các định
chế, và để giữ ngôi vị của mình, mở những cuộc thanh trừng chính trị
nhằm loại bỏ các công thần khai quốc vì sợ họ tiếm ngôi.
Khi Hồng Vũ Đế mất
đi, con của hoàng thái tử (mất sớm) lên ngôi tức Kiến Văn Đế (tại vị
1398-1402). Thế nhưng con thứ tư của Hồng Vũ Đế là Chu Đệ
(1360-1425) không phục, dấy binh làm phản (sử gọi là cái biến Tĩnh
Nạn [1]),
phá được Nam Kinh, đuổi cháu là Huệ Đế và lên ngôi tức vua Minh
Thành Tổ, thường được gọi là Vĩnh Lạc Đế (trị vì 1402-24), rồi thiên
đô về Bắc Bình (Bắc Kinh).Trong đời Vĩnh Lạc, Trung Quốc có những
cuộc viễn chinh đại quy mô để nâng cao uy thế quốc gia nhưng các
hoàng đế về sau thì tầm thường, bên trong bị hoạn quan lấn áp, bên
ngoài, về quan hệ ngoại giao chỉ biết giữ thế thủ.
Nhà Nguyên đã xem
Chu Tử Học là hình thức giải thích Nho giáo đúng đắn nhất, lấy nó
làm nòng cốt cho giáo dục nhà nước (quan học hóa).Nhà Minh tuy thừa
kế điều đó nhưng đồng thời Vĩnh Lạc Đế cũng cho biên tập Lý Tính Đại
Toàn, Tứ Thư Đại Toàn, Ngũ Kinh Đại Toàn để mưu đồ việc thống nhất
hệ tư tưởng làm cho Chu Tử Học không phát triển về mặt nghiên cứu
được nữa. Nho gia thời Minh rốt cuộc chỉ còn sử dụng cái học của
mình để thi đậu làm quan.
Khi Hồng Vũ Đế (vốn
có thời nương thân cửa Phật) tức vị, ông đã nghĩ ngay đến việc quản
lý Phật giáo bằng cách đặt Thiện Thế Viện trong chùa Thiên Giới ở
Nam Kinh (dưới thời Nguyên, chùa này có tên là Long Tường Tập Khánh
Tự). (Viện ấy đến năm 1381 lại được đổi tên là Tăng Lục Ty (ty sở
đăng ký chư tăng) và thời Vĩnh Lạc Đế được dời về Bắc Kinh). Mặt
khác, ông tự thảo Tam Giáo Luận, lấy Nho giáo làm chủ, Phật và Lão
chỉ phụ theo, cực lực tán dương một chính sách "tam giáo nhất trí"
dưới hình thức như thế. Để thể hiện điều đó, ông thường cho tổ chức
những pháp hội ở Thái Bình Hưng Quốc Tự trên Tưởng Sơn mà thực ra
chỉ là những buổi lễ trấn quỉ chiêu hồn.
Như vậy Phật Giáo
chỉ còn đóng vai trò vây cánh của quốc gia và nhà Minh đã xác định
và tăng cường tính quốc gia chủ nghĩa của Phật giáo vốn có từ đời
Tống. Để đạt mục đích đó, Hồng Vũ Đế làm sống lại chế độ "thí kinh
độ tăng" buộc tăng sĩ phải thông hiểu kinh kệ và cùng lúc, lập Chu
Tri Sách tức danh bạ các nhà sư. Tất cả nhằm loại bỏ những "ngụy lạm
tăng" (sư giả mạo, lạm dụng) (thời đó, đi tu thì được đãi ngộ về
thuế má). Hơn thế, ở Kim Lăng, ông cho biên tập và san hành Đại Tạng
Kinh (Nam Tạng, 1372-1403) . (Đến đời con ông, Vĩnh Lạc Đế, ở Bắc
Kinh lại biên tập và san hành Đại Tạng Kinh một lần nữa, cũng mất
một khoảng thời gian dài từ 1419 đến 1440. Đó là Bắc Tạng). Nói
chung, đầu đời Minh, vận hội của Phật giáo vẫn còn hưng thịnh và có
nhiều danh tăng xuất hiện.
Trong số tăng lữ nổi
tiếng thời Minh sơ, phái Đại Huệ là đông nhất.Trước tiên phải nhắc
đến các đệ tử của Tiếu Ẩn Đại Hân (1284-1344) như Giác Nguyên Huệ
Đàm (1304-71) và Quý Đàm Tông Lặc (1318-91), cả hai đều trụ trì
Thiên Giới Tự ở Kim Lăng. Đặc biệt Tông Lặc được biết đến như người
đã biên soạn Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Kinh Chú Giải và Bát Nhã Ba
La Mật Đa Tâm Kinh Chú Giải. Ngoài ra còn có đệ tử của Giác Nguyên
Huệ Đàm là Bảo Nham Tịnh Giới (năm sinh năm mất không rõ), người đã
tham gia vào việc biên soạn Nam Tạng và nhập tạng nhiều thư tịch
Thiền Tông.Lại phải kể đến đệ tử của Ngu Am Trí Cập (1311-78) và
cũng là tác giả của Đạo Dư Lục (1412) tức Độc Am Đạo Diễn (Diêu
Quảng Hiếu, 1335-1418), đệ tử của Mộng Đường Đàm Ngạc (1285-1373) và
cũng là tác giả của Phật Pháp Kim Thang Biên (1391) tức Đại Tông Tâm
Thái (1327-1415). Sau các ông một ít năm, có tác giả Thướng Trực
Biên (1440) là Không Cốc Cảnh Long (1393-1443?). Hai quyển Đạo Dư
Lục và Thướng Trực Biên ra đời với mục đích trả lời mà Tống Nho phê
phán Phật giáo, còn Phật Pháp Kim Thang Biên thu thập truyện ký của
các người quy y Phật Pháp qua các thời. Cả ba đều được viết với tinh
thần hộ pháp. Tinh thần ấy cũng được chia sẻ bởi cư sĩ Thẩm Sĩ Vinh
khi ông viết Tục Nguyên Giáo Luận (1385).
Độc Am Đạo
Diễn
Tên thật là Diêu Thiên Hy, quê
ở Trường Châu (Tô Châu thuộc tỉnh Chiết Giang). Xuất gia lấy hiệu là
Độc Am Đạo Diễn, thờ Ngu Am Trí Cập làm thầy và trở thành pháp tự
của ông. Năm 1382, sau khi hoàng hậu của Hồng Vũ Đế mất, ông được cử
đi đến chỗ đóng binh của con trai của Hồng Vũ là Yên Vương Chu Đệ
(sau sẽ là Minh Thành Tổ) làm lễ cầu siêu. Từ đó theo hầu Yên Vương
luôn. Lúc Hồng Vũ Đế băng, ông hiến kế cho Yên Vương tạo ra cái biến
Tĩnh Nạn (1399) chiếm ngôi vua nên được tin dùng, cho cai quản toàn
thể Phật Giáo (Tăng Quan Ty Tả Thiện Thế). Nhà vua lại trọng dụng,
khẩn khoản bắt ông hoàn tục. Do đó Đạo Diễn lấy lại họ cũ, được ban
tên mới là Quảng Hiếu, chức Tư Thiện Đại Phu, Thái Tử Thiếu Bảo. Tuy
vậy ông vẫn không chịu lấy vợ, còn cất dinh ngay trong chùa. Liên
lạc mật thiết với các tăng lữ Nhật Bản và từng viết bài tựa cho cuốn
Shôkenkô (Tiêu Kiên Cảo, 1403), tác phẩm của Zekkai Chuushin (Tuyệt
Hải Trung Tân) và cuốn Chikaku Fumyô Kokushi Goroku (Trí Giác Phổ
Minh Quốc Sư Ngữ Lục, 1404) của Shunnoku Myoba (Xuân Ốc Diệu Ba).
(Nhân đây xin thông tin là người thầy trực tiếp của Zekkei Chuushin
là Quý Đàm Tông Lặc - một tăng lữ đời Minh khác - cũng đã viết lời
tựa cho Kuukashuu (Không Hoa Tập) của Gidô Shuushin (Nghĩa Đường Chu
Tín, 1325-88)và Entsuu Daiô Kokushi Goroku (Viên Thông Đại Ứng Quốc
Sư Ngữ Lục) của Nanpo Shômin (Nam Phố Thiệu Minh, 1235-1308)).
Văn hóa đời Minh có
khuynh hướng phục cổ nên thiếu tính sáng tạo. Nội dung những tác
phẩm đến từ Thiền môn trong thời đại này chỉ có mục đích phản biện
lại những lời bài báng của nhóm người theo Chu Tử Học hay xác nhận
lập trường tam giáo nhất trí trong hệ tư tưởng của mình nghĩa là đáp
ứng những đòi hỏi của chính quyền nhà Minh. Đặc biệt Đạo Diễn lại là
mưu thần của Vĩnh Lạc Đế trong vụ Tĩnh Nạn. Tuy nhiên đây không có
nghĩa là Thiền Tông tìm cách chạy theo đuôi triều đình nhưng hình
như lối suy nghĩ kết hợp hai bên như thế này đã trở thành một thông
lệ trong xã hội đương thời. Ví dụ kiến quốc công thần có công lớn
của triều Minh là nhà nho Tống Khiêm đã từng hỏi đạo Thiên Nham
Nguyên Trường (1284-1357), hiệu Vô Tướng Cử Sĩ, người phái Phá Am.
Tư tưởng của Tống Khiêm do đó nặng màu sắc Thiền Tông (họ Tống có
viết Hộ Pháp Lục). Ông từng soạn các bài minh văn cho Musô Soseki
(Mộng Song Sơ Thạch) và là một nhân vật có liên hệ mật thiết với
người Nhật.
Dù chính quyền tỏ rõ
ý chí muốn kiềm chế Phật giáo nhưng từ đời Minh Anh Tông (trị vì
1435-49) trở đi, con số người xuất gia có độ điệp (độ tăng, gồm có
tư độ và quan độ) thêm lên nhiều. Tiếp đến đời Cảnh Tông, chính
quyền vì cần có nhiều tiền để thanh toán các phí tổn quân sự khi
hành quân ở Oirat [2]
(Ngõa Thích), nên không ngần ngại đem độ điệp đánh đổi lấy tiền,
ngoài ra còn lấy các chức tăng quan làm đồ buôn bán. Hai thói xấu
gọi là "mãi độ", "mãi quan" đó đến đời Hiến Tông (tại vị 1464-87) đã
trở thành chuyện cơm bữa, người ta không còn coi trọng việc đánh giá
nhân cách các "độ tăng" chỉ nghĩ đến việc hốt tiền để bù đắp vào lỗ
trống trong ngân sách. Đến đời Thế Tông (trị vì 1521-66), chính
quyền còn mạnh tay đàn áp Phật giáo, chẳng hạn phong tỏa các giới
đàn (đàn bằng đá xây lên dùng vào việc truyền thụ giới luật cho tăng
ni)...cho nên hoạt động của các thiền tăng vào khoảng giữa đời Minh
chẳng có gì khởi sắc. Không thấy có tác phẩm nào ra đời vào thời này
được lưu truyền hậu thế. Ngay cả nhà hoạt động Phật Giáo có tiếng
thời Minh mạt là Tử Bách Chân Khả thì pháp hệ của ông cũng rất mơ
hồ. Điều đó không phải là không liên quan gì đến việc nhận định rằng
Thiền Tông Trung Quốc bắt đầu suy thoái kể từ thời điểm này.
Dương Minh Học ra đời. Ba vị cao tăng thời Vạn Lịch:
Kể từ giữa đời Minh
trở đi, tiểu công nghệ như nghề dệt, chế đồ gốm, chế đường, làm
giấy...phát triển mạnh. Các đô thị, chủ yếu là vùng Giang Nam, trở
nên phồn thịnh. Một tầng lớp cai trị tên gọi là "hương thân" (thân
hào nhân sĩ địa phương) xuất hiện. Nhờ đó văn hóa được nâng cao và
vai trò của Thiền Tông được chú ý trở lại. Nhân vì trong tư tưởng
của Thiền đã hàm chứa niềm khao khát đi tìm sự tự do tuyệt đối cho
nên nó đem đến cho người thời đại này một cơ hội để vượt ra khỏi cái
khuôn khổ cứng nhắc của Chu Tử Học.
Trong dòng chảy của
thời đại bấy giờ, một nhân tài lỗi lạc đã ra đời. Đó là Vương Thủ
Nhân (Dương Minh, 1472-1528), người đã sáng tạo một Tân Nho Học có
tên là Dương Minh Học. Thủ Nhân khi hãy còn là một thư sinh, đã bỏ
nhiều thời giờ học hỏi về Thiền Tông. Những khái niệm cơ bản trong
hệ tư tưởng của ông như "tâm tức lý", "tri hành hợp nhất", "trí
lương tri" rõ ràng đã nhận ảnh hưởng của Thiền. Ta thấy sự di chuyển
từ "tính tức lý" của Chu Tử Học qua "tâm tức lý" của Dương Minh Học
đã có một quan hệ song song với diễn tiến từ "kiến tính thành Phật"
qua " tức tâm tức Phật" của thiền gia. Còn như "tri hành hợp nhất"
và "trí lương tri" thì có thể nói đó là hai khai niệm tương ứng với
"toàn thể tác dụng" và "bình thường tâm thị đạo" trong ngôn ngữ
Thiền Tông. Thế nhưng, Vương Thủ Nhân khác với Chu Hy ở chỗ là ông
không hề mang nặng tinh thần bè phái (sectarian) để có thể lên tiếng
bài xích Thiền Tông. Tư tưởng nhà Thiền sẽ còn ảnh hưởng trên lớp
người nối tiếp con đường của ông như Vương Kỳ (Long Khê, 1498-1583),
Vương Cấn (Tâm Trai, 1483-1540), Trần Hiến Chương (Bạch Sa,
1428-1500), Lâm Triệu Ân (1517-98) vv...đến độ hun đúc được những
nhà tư tưởng không phân biệt Phật và Nho như Lý Chí [3](Trác
Ngô, 1527-1602).
Cánh tả của
Dương Minh Học
Nếu Nhiếp Báo (Song Giang,
1487-1563) và La Hồng Tiên (Niệm Am, 1504-1564) được coi như là
những nhà tư tưởng thuộc "cánh hữu", Tiền Đức Hồng (Tự Sơn,
1496-1574) đứng ở khoảng giữa, thì Vương Kỳ, Vương Chấn cũng như Chu
Nhữ Đăng (Hải Môn, 1547-1629) thuộc về cánh tả của học phái Vương
Dương Minh. Cánh hữu chủ trương trước khi "lương tri" phát động thì
bản thể phải xác định xong cái đã. Tuy nhiên, phải tả giải thích
rằng "lương tri" là cái từ xưa vốn đã hoàn thành nơi con người,
không cần tu dưỡng mới có, lại nữa, "lương tri" đã nằm sẳn ngay cả
trong dục vọng của con người, cứ sống triệt để thì ngay cả trong
cuộc sống bình thường, "lương tri" cũng có thể bộc lộ ra một cách
trọn vẹn. Nếu nhìn vào, ta thấy lối suy nghĩ này rõ ràng mang dấu ấn
rất sâu đậm của tư tưởng Thiền Tông. Thế nhưng, ngoài điều đó ra, tư
tưởng của các ông cánh tả còn dựa lên cả lập trường tam giáo nhất
trí. Lý Chí (trác Ngô) đi xa hơn nữa với cách suy luận này. Ông kêu
gọi mọi người phải tôn trọng cái tâm nguyên sơ và thuần túy mà ông
gọi là "đồng tâm" (tấm lòng trẻ thơ), lại lên tiếng phê phán những
giá trị quan đã trở thành nền nếp (hình hài hóa). Ông khẳng định vai
trò của dục vọng, xem nó như vật đối kháng với truyền thống Nho
giáo, rồi dựa lên trên những tiêu chuẩn giá trị độc đáo của riêng
mình, đánh giá lại những nhân vật lịch sử trong quá khứ, kể cả Tần
Thủy Hoàng.
Làm như muốn đáp lời
với các nhân vật thuộc trường phái Vương Dương Minh, trong giai đoạn
này, phía Thiền Tông cũng có nhiều nhân tài lục tục tiến ra góp mặt.
Tiêu biểu hơn cả là 3 vị cao tăng thời Vạn Lịch (Vạn Lịch tam cao
tăng): Vân Thê Chu Hoằng (phái Phá Am, Liên Trì, 1535-1615), Tử Bách
Chân Khả (Đạt Quan, 1543-1603) và Hám Sơn Đức Thanh (phái Phá Am,
1546-1623).Nếu tính thêm Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655) của phái Thiên
Thai nữa, ta sẽ có đủ 4 vị làm thành "Minh mạt tứ đại sư".
Duy có điều là tông
phong của các vị không đồng nhất. Hám Sơn Đức Thanh và Tử Bách Chân
Khả thuộc tông phái Đại Huệ Tông Cảo (1089-1163) có lập trường tích
cực tham dự các hoạt động xã hội, chứ như Vân Thê Chu Hoằng thì - có
lẽ là vì tuổi tác hơi cao - trước sau giữ lập trường ôn hòa, chỉ
chuyên chú vào việc tụng kinh niệm Phật. Trong ba vị, riêng Chu
Hoằng được đề cao hơn cả, có thể vì tư tưởng thuận dòng đời của ông
dễ được giai cấp lãnh đạo chấp nhận.
Tử Bách
Chân Khả và Hám Sơn Đức Thanh:
Tử Bách Chân Khả người đất Cú
Khúc (thuộc tỉnh Giang Tô), vốn họ Thẩm, tự Đạt Quan. Năm 17 tuổi
xuất gia, nhân nghe bài kệ của tú tài Trương Chuyết (một cư sĩ sống
vào hậu bán thế kỷ thứ 9) mà đại ngộ. Trụ trì chùa Thanh Lương Tự ở
Yên Kinh (Hà Bắc). Cùng với Hám Sơn và chư tăng trong khoảng năm
1589-1643? đã san hành Đại Tạng Kinh bản đời Vạn Lịch ở Ngũ Đài Sơn
(Sơn Tây) và Kính Sơn (Chiết Giang), lại tích cực truyền giáo. Đại
Tạng Kinh này về sau còn được tăng bổ nhiều thiền tịch và cho in lại
nhiều lần trong đời Khang Hy (Tục Tạng, 1666 và Hựu Tục Tạng, 1676).
Thế nhưng vì hay phê bình nhà cầm quyền nên bị người hãm hại, mang
tội vào thân đến nỗi tự sát trong ngục. Ông để lại nhiều trứ tác thu
thập trong Tử Bách Tôn Giả Toàn Tập (1621) và Tử Bách Tôn Giả Biệt
Tập (1660). Toàn Tập do bạn ông và cũng là người cùng chí hướng, Hám
Sơn Đức Thanh biên tập. Bài minh trên tháp ông cũng do Hám Sơn viết.
Về phần Hám Sơn Đức Thanh, ông
là người họ Sái đất Kim Lăng (thuộc tỉnh Giang Tô). Năm 12 tuổi xuất
gia, 19 tuổi thụ cụ giới rồi sau đó học Thiền. Ông trở thành pháp tự
của Vân Cốc Pháp Hội (1501-1575), đã trụ trì trên Ngũ Đài Sơn (Sơn
Tây) và Lao Sơn ở Thanh Châu (Sơn Đông). Có lúc vì tự tiện mở chùa
riêng nên bị tống giam, sau khi được thả ra mới đến Tào Khê (tỉnh
Quảng Đông) truyền giáo và chuyên lo việc phục hưng già lam cũng như
xuất bản Lục Tổ Đàn Kinh. Tác phẩm của ông đồ sộ, đã được biên tập
lại thành Hám Sơn Đại Sư Mộng Du Toàn Tập.
Vân Thê Chu
Hoằng:
Ông họ Thẩm, quê Hàng Châu
(Chiết Giang). Lấy hiệu là Liên Trì. Năm 31 tuổi xuất gia học
Thiền., trở thành pháp tự của Tiếu Nham Đức Ngọc (1512-81). Năm 37
tuổi vào núi Vân Thê ở Hàng Châu, từ đó, dùng cơ sở này làm bàn đạp
để truyền giáo quanh vùng. Ông nổi tiếng vì đã kết hợp tín đồ thành
hội đoàn. Bài minh trên tháp của ông cũng do Hám Sơn soạn. Về mặt tư
tưởng, trong khi truyền đạo, ông tỏ ra coi trọng Tịnh Độ Giáo, lại
nữa, lối suy nghĩ của ông có nhiều yếu tố Đạo giáo. Do đó, đời
thường xem ông như vị tổ thứ 8 của phái Liên Hoa. A Di Đà Kinh Sớ
Sao, Tri Môn Sùng Hành Lục (1585), Thiền Quan Sách Tiến (1600), Tự
Tri Lục (1605), Trúc Song Tùy Bút (1615)... là những tác phẩm của
ông đã được thu thập lại trong Vân Thê Pháp Vị (1624). Tri Môn Sùng
Hành Lục kể lại và tán dương những tấm gương trung thần, hiếu tử của
tăng đồ. Trong Tự Tri Lục, ông đem khái niệm "công quá cách" [4]
của Đạo giáo vào Phật giáo. Tư tưởng ấy thúc đẩy mạnh thuyết "Tam
giáo nhất trí" vốn đã phát triển tự thời Tống về sau. Ảnh hưởng của
ông lớn lao đến nổi được xem như một vị cao tăng thời Minh mạt mà
không chuyện gì lại không nhúng tay vào. Để đặt qui luật sinh hoạt
cộng đồng cho tăng lữ trong khi tu tập, ông đã soạn "Cộng Trú Thanh
Quy". Mãi đến ngày nay trong tùng lâm Trung Quốc, nội quy này vẫn
được sử dụng như nền tảng cho cuộc sống tập đoàn. Ông đã đính chính
Pháp Giới Thánh Phàm Thủy Lục Thắng Hội Tu Trai Nghi Quĩ do người
đời Tống là Chí Bàn (1220-1275) soạn, phổ biến nghi thức Thủy Lục
Hội hay "cúng cô hồn" để phúng viếng cả những vong linh chết trôi
sông lạc chợ chứ không riêng gì kẻ thuộc gia đình các thí chủ. Về
sau, đến đời Thanh,hoàng đế Ung Chính (trị vì 1722- 35) xem ông như
một tấm gương tốt nhưng có lẽ lý do là tính tình ông ôn hòa, tư
tưởng của ông thường thuận dòng với đường lối của chế độ.
Trong một thời đại
mà Thiền được xã hội chú ý thì không những đại chúng tín đồ Phật
giáo mà cả giới sĩ đại phu cũng có nhiều người đi theo. Phải nói là
ảnh hưởng của Thiền thấm sâu vào mọi giai tầng. Trong số các cư sĩ
chịu ảnh hưởng của Vân Thê Chu Hoằng phải kể đến Phùng Mộng Trinh
(Khai Chi, 1548-1605), Quản Chí Đạo (Đông Minh, 1537-1608), Nghiêm
Nột (Mẫn Khanh, 1511-84), Nghiêm Trừng (Đạo Triệt, 1547-1625). Theo
học Tử Bách Chân Khả thì có Lục Quang Tổ (Ngũ Đài, sống khoảng giữa
thế kỷ 16), Phùng Mộng Trinh, Cù Nguyên Lập (Nhữ Tắc, môn hạ của
Quản Chí Đạo, 1548-1610). Riêng về Hám Sơn Đức Thanh, từ cửa ông có
Dương Khởi Nguyên (Phục Sở, 1547-1599), Chu Nhữ Đăng (Hải Môn,
1547-1629) (Chu Nhữ Đăng cũng từng giao lưu với Đam Nhiên Viên Trừng
và Tử Bách Chân Khả).
Dầu sao mối giao hảo
đáng được đề cập đến hơn cả là liên hệ giữa thiền tăng và các nghệ
sĩ. Họa gia phái Hoa Đình là Tống Húc (1526-1606) từng học Thiền,
cùng phái với ông là họa gia kiêm thư đạo gia và nhà sưu tập mỹ nghệ
phẩm nổi tiếng Đổng Kỳ Xương (155-1636). Ông này cũng hay qua lại
với Tử Bách Chân Khả. Đổng Kỳ Xương có tập Họa Thiền Thất Tùy Bút
rất nổi tiếng, trong đó ông đã khai triển lý luận về hai họa phái
Nam Tông và Bắc Tông.Ông cho rằng sự dị biệt của tông phong hai dòng
Thiền Nam Bắc đã để lại dấu ấn trên cách diễn tả của hai họa phái.
Về mặt văn học thì Viên Tông Đạo (1569-1610), người đã đề xướng
"Tính Linh Thuyết" [5]
cũng từng có mối quan hệ với Hám Sơn Đức Thanh. Còn như Thang Hiển
Tổ (1550-1616), người đề xướng "Tình Thuyết" và là nhà soạn kịch nổi
tiếng với những vở tuồng như Mẫu Đơn Đình Hoàn Hồn Ký thì thấy trong
văn chương ông đã thấp thoáng hình bóng của hai thiền sư Đạt Quan và
Chu Hoằng. Trong thời buổi ấy, với bối cảnh kinh tế các đô thị phát
triển mạnh, Kim Bình Mai (khoảng 1600), tiểu thuyết viết bằng lối
văn nói thông tục với mục đích luân lý răn đe trộm cắp và dâm đãng
(hối dâm, hối đạo) đã ra đời, nhưng đồng thời, qua nó ta cũng thấy
tư trào đi tìm sự giải phóng cá tính và tình cảm của người đương
thời. Những nhà nghệ sĩ chú ý đến Thiền là vì họ mong sẽ dùng tư
trưởng Thiền Tông để làm cơ sở cho những sáng tác của họ.
Như thế, ta thấy
Thiền đã mượn tư tưởng của Dương Minh Học để phối hợp với nhau làm
thành một cuộc cách tân về mặt tư tưởng. Thế nhưng họ đã gặp phải
những phản ứng bất lợi. Năm 1587, những từ ngữ Phật Giáo đã bị cấm
khỏi trường thi, năm 1595, thiền sư Tử Bách Chân Khả bị vu cáo và
mang tội vào thân. Năm 1602, Lý Chí và Chân Khả "lưỡng đại giáo chủ"
bị bắt giam và chết trong ngục. Thiền cũng như Dương Minh Học sau
một thời cùng nhau rong ruỗi đã đi về phía bế tắc.
Thời thiền tăng thi nhau xuất hiện. Tranh luận được châm ngòi:
Sự mong đợi của
người đời đối với Thiền Tông càng ngày càng lớn. Do đó, vào thời đại
này, có nhiều tăng sĩ xuất chúng ra đời. Không kể 3 vị được gọi là
"Vạn Lịch tam cao tăng", hãy còn nhiều người khác tuy chỉ giới hạn
trong vòng phái Phá Am của tông Lâm Tế và tông Tào Động. Phái Phá Am
tông Lâm Tế có Huyễn Hữu Chính Truyền (1549-1614) và các đệ tử của
ông như Thiên Ẩn Viên Tu (1575-1635), Mật Vân Viên Ngộ (1566-1642),
Ngữ Phong Viên Tín (1571-1647) rồi thêm các đệ tử của Viên Ngộ như
Hán Nguyệt Pháp Tàng (1573-1635), Phí Ẩn Thông Dung (1593-1661), Mộc
Trần Đạo Mân. Tông Tào Động có Vô Minh Huệ Kinh (1547-1617) và Đam
Nhiên Viên Trừng (1561-1626), thêm vào đó, lại có đệ tử của Huệ Kinh
là Vô Dị Nguyên Lai (1575-1630) và Vĩnh Giác Nguyên Hiền
(1578-1657), Hối Đài Nguyên Kính (1577-1630), đệ tử Nguyên Hiền là
Vi Lâm Đạo Bái (1615-1702), đệ tử Nguyên Kính là Giác Lãng Đạo Thịnh
(1592-1659)...
Về những đóng góp
của các danh tăng đó, có thể nhắc tới vai trò Mật Vân Viên Ngộ,
người đã đến trụ trì ở Thiên Đồng Sơn năm 1628, tái tạo cảnh chùa đã
đổ nát vì cơn lũ lớn năm 1587. Ông được xem như là "Lâm Tế thứ hai"
(Lâm Tế tái lai) vì kể từ đó, đệ tử của ông đã nối tiếp trụ trì trên
núi Thiên Đồng này. Ngoài ra, Đam Nhiên Viên Trừng là người giỏi về
trứ tác, đã để lại nhiều sách vở như Lăng Nghiêm Kinh Ức Thuyết [6],
Kim Cương Tam Muội Kinh Chú Giải vv...Cùng với Vô Dị, Đam Nhiên được
xem như người đã trung hưng tông Tào Động. Phần Vô Dị, ông rất năng
nỗ trong công tác xã hội như thu nhặt xương cốt người chết và phát
chẩn cho dân nghèo, còn Vĩnh Giác Nguyên Hiền thì lo giáo dục người
bình dân, dạy họ niệm Phật, giữ giới, phóng sinh.
Cũng cần nói thêm về
các nhân vật như Phí Ẩn Thông Dung, tác giả của Ngũ Đăng Nghiêm
Thống, tác phẩm đã có tiếng vang rất lớn trong giới Phật giáo thời
bấy giờ, hay Hán Nguyệt Pháp Tàng mà trứ tác Ngũ Tông Nguyên (1628)
đã bị sư phụ là Mật Vân Viên Ngộ phê phán trong Tịch Vọng [7]
Cứu Lược Thuyết, cũng như học trò của Hán Nguyệt là Đàm Cát Hoằng
Nhẫn (1599-1638) đã viết Ngũ Tông Cứu (1637) để bênh vực thầy mình.
Đó là chưa kể sự đối lập giữa Mộc Trần Đạo Mân và Kế Khởi Hoằng Trữ
(đệ tử của Pháp Tàng, 1605-72) đã châm ngòi cho những cuộc tranh
luận dai dẳng trong nội bộ Phật giáo thời Minh mạt Thanh sơ.
Phí Ẩn
Thông Dung và ảnh hưởng của ông:
Phí Ẩn người đất Mân (Phúc
Kiến), gốc họ Hà. Mồ côi cha lẫn mẹ rất sớm, 14 tuổi xuất gia học
giáo học. Sau đó chuyển qua Thiền, học các thầy như Đam Nhiên Viên
Trừng, Vô Dị Nguyên Lai, Mật Vân Viên Ngộ, cuối cùng trở thành pháp
tự của Viên Ngộ.Ông trụ trì ở nhiều chùa danh tiếng như A Dục Vương
Sơn (Chiết Giang), Hoàng Bá (Bích) Sơn (Phúc Kiến), Kính Sơn (Chiết
Giang). Đã để lại những tác phẩm như Phí Ẩn Thiền Sư Ngữ Lục (do Phí
Ẩn Long Kỳ biên tập), Ngũ Đăng Nghiêm Thống (1650), Tổ Đình Kiềm
Chùy [8]
Lục, Thiền Tông Ngư Tiều Tập (1652).
Gia phong của tông môn ông là
lối thiền dữ tợn nghĩa là quát mắng và đánh đòn (hát bổng) đúng như
truyền thống của Lâm Tế. Ngay cả đối với người mình có lần thờ làm
thầy là Vô Dị Nguyên Lai hay đồng môn như Hán Nguyệt Pháp Tàng, ông
cũng phê phán. Không những thế, ông thường xuyên tranh luận với các
đệ tử của Đam Nhiên Viên Trừng như Thụy Bạch Minh Tuyết (1584-1641)
và Ngọc Lâm Thông Tú (1614-75). Trong Ngũ Đăng Nghiêm Thống, ông kế
tục cách nhìn của Giác Phạm Huệ Hồng, thừa nhận sự hiện hữu của
Thiên Vương Đạo Ngộ [9],
lại cho rằng hai phái Vân Môn và Pháp Nhãn không xuất phát từ Thanh
Nguyên Hành Tư mà từ Nam Nhạc Hoài Nhượng. Ông còn cho rằng việc
truyền pháp tự giữa thầy trò Vô Minh Huệ Kinh và Vô Dị Nguyên Lai
không được rõ ràng, phủ nhận việc xem Tiến Phúc Thừa Cổ là đệ tử của
Vân Môn (thuyết này từng được Mộc Trần Đạo Mân chủ trương trong
Thiền Đăng Thế Phổ và đã có từ đời thầy của Mộc Trần là Mật Vân Viên
Ngộ).
Nói chung những lập luận của
ông khá đặc biệt, gây được sự chú ý nhưng bù lại, cũng bị nhiều
người phê bình nghiêm khắc. Những người bài bác ông là Giác Lãng Đạo
Thịnh, Viễn Môn Tịnh Trụ (1601-54, người viết Biện Hoặc Biên), Bách
Ngu Tịnh Tư (1610-65, người viết Tịch Mậu Thuyết [10]).
Để trả lời họ, ông có viết Ngũ Đăng Nghiêm Thống Giải Hoặc Biên
(1654) nhưng rốt cuộc, khi bỏ đi, không trụ trì ở Kính Sơn nữa thì
đành phải bỏ mặc kệ bản khắc gỗ của Ngũ Đăng Nghiêm Thống trong tình
trạng cũ. Về sau, khi thấy Hối Sơn Giới Hiển (1610-72), người chia
sẻ ý nghĩ với Phí Ẩn Thông Dung, lại dùng những luận cứ của ông khi
soạn văn bia cho chùa Thiên Vương Tự (tức chùa mang tên Thiên Vương
Đạo Ngộ), Bạch Nham Tịnh Phù (tức Vị Trung Tịnh Phù, năm sinh năm
mất không rõ) đã viết Pháp Môn Sừ Quỹ [11]
(1667) để buộc tội.
Phí Ẩn Thông Dung
cũng như Viên Trừng, Nguyên Lai, Nguyên Hiền đều để lại ngữ lục của
họ nhưng trứ tác đặc biệt của thời này là thể loại đăng sử. Đó là
Chỉ Nguyệt Lục (1602) của Cù Nguyên Lập, Thiền Đăng Thế Phổ (1631)
của Mộc Trần Đạo Mân, Ngũ Đăng Hội Nguyên Tục Lược (1648) của Viễn
Môn Tịnh Trụ, Ngũ Đăng Nghiêm Thống (1650) của Phí Ẩn Thông Dung và
Kế Đăng Lục (1651) của Vĩnh Giác Nguyên Hiền. Thêm vào đó, qua Biện
Hoặc Biên (1654) của Tịnh Trụ, Ngũ Đăng Nghiêm Thống Giải Hoặc Biên
(1654), Tịch Mậu của Đạo Bái, những người này đã muốn chỉnh lý những
vấn đề về mặt tổ thống hãy còn chưa giải quyết. Loại trứ tác nói
trên sở dĩ ra đời nhiều như vậy bởi vì trong bối cảnh đương thời, ý
thức về tông phái trong các nhóm Thiền Tông lên rất cao.Ví dụ tăng
lữ phái Lâm Tế đã cho in các cuốn Nguyên Lưu Tụng trong đó trình bày
truyện ký và các bài tụng của tổ sư mình ( Phí Ẩn Thông Dung có Tào
Khê Nguyên Lưu Tụng), tông Tào Động cũng khẳng định lại thiền phong
của mình với lý luận về "ngũ vị" (Động Sơn ngũ vị: phương pháp đặc
thù tiếp dẫn người học của tông Tào Động) có chép trong Động Thượng
Cổ Triệt [12]
(1644) của Vĩnh Giác Nguyên Hiền. Cùng với Bác Sơn Tham Thiền Cảnh
Ngữ của Nguyên Lai, Động Thượng Cổ Triệt đã ảnh hưởng lớn đến tùng
lâm Nhật Bản thời Edo (1603-1867).
Việc có ý thức cao
về Thiền đã đưa đến sự củng cố tính cách tông phái nhưng không chỉ
đem tới chừng đó hậu quả. Nó còn làm cho phương thức bổ dụng các trụ
trì gọi là "thập phương tuyển hiền" nghĩa là dùng người bên ngoài
đến trụ trì chùa mình mất đi cơ năng. Từ rày về sau các chùa danh
tiếng ở địa phương (thập sát) có khuynh hướng chỉ chọn trụ trì trong
vòng những người cùng một tông phái. Dần dần "nhất lưu tương thừa
sát" trở thành hầu như một định chế. Những tự viện nào theo qui luật
"luân trụ" này được gọi là "truyền pháp tùng lâm". Các chùa Tiêu Sơn
Định Huệ Tự (huyện Đan Đồ tỉnh Giang Tô), Bác Sơn Năng Nhân Tự
(huyện Quảng Phong tỉnh Giang Tây), Cổ Sơn Dũng Tuyền Tự (huyện Mân
tỉnh Phúc Kiến), Thọ Xương Tự (huyện Tân Thành tỉnh Giang Tây) mối
nơi đều bị một trong các phái của Đam Nhiên Viên Trừng,Vô Dị Nguyên
Lai, Vĩnh Giác Nguyên Hiền, Giác Lãng Đạo Thịnh dùng làm cứ điểm.
Thiên Đồng Sơn và A Dục Vương Sơn thì do các đệ tử của phái Mật Vân
Viên Ngộ dùng làm "truyền pháp tùng lâm", Linh Ẩn Tự và Tịnh Từ Tự
là "truyền pháp tùng lâm" của phái Hán Nguyệt Pháp Tàng (nhân vì
Pháp Tàng có vào tu ở Tam Phong Thanh Lương Tự ở Tô Châu (Giang Tô),
môn phái của ông được gọi là Tam Phong Phái. Thời này, khuynh hướng
biên tập các "tự chí" (sách ghi chép về lịch sử một ngôi chùa) trở
nên rầm rộ, chắc cũng chịu ảnh hưởng của tình huống này. (Các tự chí
tiêu biểu nhất có Kính Sơn Chí do Cao Tắc Soạn biên, Thiên Đồng Tự
Chí do Trúc Song Đức Giới biên, Minh Châu A Dục Vương Sơn Chí do
Quách Tử Chương biên, Tịnh Từ Tự Chí do Tế Tường biên và Linh Ẩn Tự
Chí do Giới Hiển biên.
Ngoài những việc nói
trên, có một số trứ tác đáng lưu ý đã ra đời trong giai đoạn này. Có
thể nhắc đến Cư Sĩ Phân Đăng Lục (1631) của Chu Thì Ân (Tâm Không Cư
Sĩ, 1564- ? ), Tiên Giác Tông Thừa của Ngữ Phong Viên Tín và Quách
Ngưng Chi (tiền bán thế kỷ 17). Sự góp mặt của các tác phẩm ấy chứng
tỏ có một trào lưu biên tập truyện ký trong vòng các cư sĩ Thiền
Tông. (Ta còn được biết Ngữ Phong Viên Tín và Quách Ngưng Chi đã
biên tập và san hành Ngũ Gia Ngữ Lục). Chu Thì Ân lại viết một cuốn
thông sử (loại lịch sử tổng hợp) về Phật giáo theo lối biên niên
nhan đề Phật Tổ Cương Mục (1633). Kể từ đời Thanh trở đi, ông đã trở
thành nhân vật tiên khu đáng lưu ý trong phong trào Phật giáo mà lần
này sẽ do các cư sĩ đứng ra đảm đương. Các vị cư sĩ này cũng có mối
quan hệ mật thiết với các giáo đoàn những người xuất gia đến từ giai
cấp hương thân (kỳ hào địa phương). Tuy vậy, lúc ấy cũng là thời
điểm mà những đoàn thể Thiền Tông do nông dân làm trung tâm như Vô
Vi Giáo hay Tây Lai Giáo xuất hiện dưới hình thức kết xã. Các cư sĩ
bài xích họ, cho là mê tín dị đoan, thế nhưng nếu các giáo đoàn kiểu
đó ra đời thì cũng bởi có sự hiện hữu của giới cư sĩ vậy.
Đặc điểm của tư tưởng Thiền cuối đời Minh:
Trước đó, vào giữa
đời Minh, đã bùng nổ ra một phong trào bài Phật của Nho gia. Hồ Cư
Nhân (Kính Trai, 1434-1484) viết Cư Nghiệp Lục (san hành năm 1504)
và La Kham Thuận (Chỉnh Am, 1465-1547) viết Khốn Tri Ký (san hành
năm 1552) với mục đích phê phán Phật giáo. Thế nhưng đến giai đoạn
Minh mạt và qua hình ảnh sự kết hợp giữa Dương Minh Học và Thiền như
đã nói thì tư tưởng "Thiền Nho nhất trí", "Tam giáo nhất trí" đã
vượt qua khỏi cái khung Nho-Phật-Đạo tam giáo và trở thành một
chuyện đương nhiên.
Những nhà nho như
Lâm Triệu Ân (Long Giang, Lâm Giáo tiên sinh, 1517-98), Quản Chí Đạo
(Đông Minh, 1536-1608) và Đồ Long (tiến sĩ khoa 1577) được biết
tiếng như những người chủ trương "Tam giáo nhất trí luận". Lâm Triệu
Ân từng viết Tam Giáo Hội Biên (1562), Đồ Long thì có Phật Pháp Kim
Thang Lục (1602). Chủ trương này ảnh hưởng cả tới khoa cử, đến nỗi
trong kỳ thi Hội năm 1568, triều đình có đặt câu hỏi về tư tưởng
Thiền Tông và dùng cả ngôn ngữ Lão Trang. Về phía tăng sĩ Phật giáo,
có Hám Sơn Đức Thanh ( 1548-1623) viết sách về Nho và Đạo giáo như
Trung Dung Trực Chỉ (1597), Lão Tử Giải (Đạo Đức Kinh Giải, 1607),
Trang Tử Nội Biên Chú (1620)...Vân Thê Chu Hoằng (1535-1615) đã giải
thích trong Tự Tri Lục (1605) của ông nguồn gốc của Đạo giáo, ngoài
ra còn lấy khái niệm "công quá cách" của họ áp dụng vào Phật giáo
(Lúc đó trong vòng Nho giáo cũng chế ra khái niệm "cư quan công quá
cách"). Về phía đạo gia thì Đỗ Văn Hoán (Nguyên Hạc Tử, năm sinh năm
mất không rõ) đã soạn ra sách Tam Giáo Hội Tông.
Thiền gia cũng có
người như Vô Niệm Thâm Hữu (1544-1627) từng theo học và đại ngộ nhờ
Lý Chí (Lý Trác Ngô), nhà nho cánh tả phái Vương Dương Minh. Hồng Tự
Thành (Ứng Minh, sống giữa thế kỷ 16-17) thì viết tập châm ngôn nhan
đề Thái Căn Đàm (1602), trình bày một cách tự nhiên tư tưởng tam
giáo nhất thể. Đọc sách ấy, ta có cảm tưởng tam giáo, xưa kia là 3
hệ tư tưởng khác nhau, nay hầu như không còn có chỗ cho sự dị biệt.
Trong bầu không khí như vậy, đã thấy xuất hiện thêm nhữg cuốn sách
thông tục như Tam Giáo Nguyên Lưu Sưu Thần Đại Toàn, một thứ "thiện
thư" (sách dạy luân lý), khuyên người ta phải tuân thủ luân lý dựa
trên nền tảng của tư tưởng tam giáo nhất trí.
Tự Tri Lục:
Công Quá Cách là một khái niệm
liên quan đến việc tu học có từ thời Kim của môn phái tân Đạo giáo
tên là Tịnh Minh Đạo. Phái này bắt đầu hoạt động khoảng năm 1129 và
do một đạo sĩ tên là Khả Chân Công (năm sinh và mất không rõ), người
tu ở Du Duy Quán, vùng Tây Sơn (phủ Nam Xương tỉnh Hà Nam) đề xướng.
Trong Tự Tri Lục, người ta đã lấy Đại Vi Tiên Quân Công Quá Cách
(1171) của Tịnh Minh Đạo làm cơ sở rồi biến đổi những khái niệm có
trong đó cho hợp với ngôn ngữ nhà Phật. Chẳng hạn thay vì "công quá"
họ dùng chữ "thiện quá", thay vì nói "thiên tôn chân nhân", họ dùng
chữ "chư thiên", đổi "trai tiếu" thành "phật sự".
Tự Tri Lục có nghĩa là phản
tỉnh về hành vi của mình, ghi chép (ký lục) những điều thiện điều ác
mình đã làm, chấm điểm nặng nhẹ theo tiêu chuẩn 20 thứ hạng mỗi
ngày, mỗi tháng, mỗi năm rồi cộng nó lại xem sao. Tư tưởng "thiện
nhân thiện quả", "ác nhân ác quả" đã có sẳn trong dân chúng giúp cho
hình thức tu tập này phổ biến rất nhanh. Thế nhưng, cái gọi là
"thiện" ở đây chỉ là những hành vi đối ứng được với 4 mục "trung
hiếu", "nhân từ", "tam bảo công đức", "tạp thiện" (nếu phạm tới nó
thì hành vi ấy gọi là "quá") cho nên rốt cuộc Tự Tri Lục cũng không
có phương pháp gì khác hơn là xác nhận quan điểm luân lý thông
thường của xã hội và không có vẻ muốn đi tìm một giá trị quan mới
cho Phật giáo.
Khuynh hướng "Thiện
Tịnh song tu" và "Thiền Giáo nhất trí" đã hiện ra rõ nét dưới hai
triều Tống Nguyên vẫn được thừa kế dưới triều Minh, nếu không nói là
còn được củng cố nữa. Quy Nguyên Trực Chỉ Tập (1553) do Thiên Y Tông
Bản (năm sinh năm mất không rõ), tác phẩm gom góp tất cả những lý
luận về Thiền Tịnh song tu từ xưa đến nay đã ra đời trong giai đoạn
này mà những danh tăng như Hám Sơn Đức Thanh cũng từng thực hành lối
tu "Tịnh nghiệp" trên núi Lô Sơn. Lại nữa, nếu đọc Thiền Quan Sách
Tiến của Vân Thê Chu Hoằng, ta còn thấy rằng trong chốn tùng lâm,
người ta cũng rao giảng việc niệm Phật (kiểu Tịnh Độ) như một lối
học tập công án. Đó là hình thức "niệm Phật công án". Chu Hoằng được
đời biết tới với tư cách một tăng sĩ Tịnh Độ hơn là một thiền gia.
Ngoài ra, Ngẫu Ích Trí Húc (1599-1655), người đã dùng tư tưởng phái
Thiên Thai như trung tâm để tổng hợp các lý luận giáo học, nhân vì
có lòng mến mộ riêng đối với Đức Thanh và Chu Hoằng, nên trong thực
tế đã dung hòa sự tu Thiền với việc niệm Phật. Việc văn nhân Viên
Hoằng Đạo (1568-1610) trước từng học Thiền với Lý Chí (Trác Ngô),
sau đi theo Tịnh Độ Giáo và viết Tứ Phương Hợp Luận (1599) cũng là
một hiện tượng đáng lưu ý.
Thiền Quan
Sách Tiến và Niệm Phật Công Án
Vân Thê Chu Hoằng (1535-1615),
một trong "Minh mạt tứ đại sư" đã dùng Thiền Môn Phật Tổ Cương Mục
làm cơ sở để biên tập Thiền Quan Sách Tiến (san hành năm 1600) như
một cẩm nang cơ sở dành cho người mới bắt đầu tu học. Tất cả có 110
chương chia làm 2 tập, tập đầu thu thập lời nói dẫn ra từ các ngữ
lục của những bậc tổ sư), tập sau gồm có kinh luận và lời bàn của
người xưa (Chư Kinh Dẫn Chứng Tiết Lược). Tập đầu lại có 2 phần, một
phần là pháp ngữ (còn gọi là Chư Tổ Pháp Ngữ Tiết Yếu Đệ Nhất)) một
phần giai thoại (còn gọi là Chư Tổ Khổ Công Tiết Lược Đệ Nhị). Những
chương quan trọng đều có kèm theo lời bàn của người biên tập. Lập
trường của Vân Thê Chu Hoằng là tư tưởng Thiền Tịnh song tu rất phổ
biến vào thời đó. Trong sách lại có vài chương như Sư Tử Phong Thiên
Như Tắc Thiền Sư Phổ Thuyết và Trí Triệt Thiền Sư Tịnh Độ Huyền Môn,
cho ông có dịp thuyết giảng về "niệm Phật thiền" (thiền bằng cách
niệm Phật). Trong chương trước, ông viết rằng: "Chỉ dùng 4 chữ A Di
Đà Phật như một thoại đầu (công án) và luôn luôn suy nghĩ về nó để
khỏi sinh ra bất cứ một vọng tưởng nào thì không cần phải bước qua
từng giai đoạn mà có thể thành Phật tức khắc" . Trong chương sau,
lại thấy ông bảo: "Niệm Phật 1 lần, hay là 3, 5, 7 lần, chỉ im lặng
tự hỏi lòng mình để xem tiếng niệm Phật này đến từ đâu hay là cái
chủ thể đang niệm Phật này là ai đây, còn nếu như không biết thì cứ
như thế mà suy nghĩ tiếp..." .
Phương pháp nói trên dùng việc
niệm Phật như một đề tài để suy nghĩ (công án) cho nên có tên là
"niệm Phật công án". Chính ra "niệm Phật công án" đã được bắt đầu
với thiền sư đời Tống là Chân Yết Thanh Liễu (108-1151), đến đời
Minh có thêm Sở Sơn Thiệu Kỳ (1403-1473), Độc Phong Quý Thiện (Bản
Thiện, đệ tử của Không Cốc Cảnh Long, 1419-1482) và Hám Sơn Đức
Thanh cổ võ thêm. Tư tưởng này không ảnh hưởng gì đến Thiền Nhật Bản
vốn phát triển riêng rẽ theo hướng khác với truyền thống Thiền đời
Tống. Tuy thế, những lời lẽ của các bậc tôn sư được dẫn ra trong
sách ấy rất nhiệt tình, khích lệ lớp hậu tiến gắng học, cho nên sách
ấy đôi khi vẫn được ấn hành ở Nhật. Được biết thiền sư Hakuin (Bạch
Ẩn, 1685-1768) của Nhật lúc tu chưa thành thường xem nó như cuốn
sách gối đầu.
Đằng khác, tư tưởng
"Giáo Thiền nhất trí" vốn có hai mục đích: một là tìm cách đòi hỏi
các thiền gia xưa nay vốn có cuộc sống tự do phóng dật phải biết chế
ngự bản thân, hai là để có thể trả lời những lời phê phán đến từ bên
ngoài Thiền Tông.Vì đại chúng trong xã hội mong mỏi Thiền sẽ đóng
vai trò điểm tựa về mặt tinh thần cho họ, nếu mà khuynh hướng muốn
hạn chế Thiền có trở nên quan trọng đi chăng nữa thì đó cũng là
chuyện dễ hiểu. Ngoài ra, một đặc sắc của tư tưởng "Giáo Thiền nhất
trí" trong thời kỳ nầy có thể nêu lên ở đây là sự triển khai lý luận
"đốn ngộ tiệm tu" với mục đích giải hòa hai tông phái Nam Bắc, với
kinh Lăng Nghiêm thường được trưng ra như bằng cớ. Nhưng dù nói gì
đi nữa, rõ ràng là trước tư tưởng "Giáo Thiền nhất trí", Thiền buộc
lòng phải tu chính quĩ đạo quá cấp tiến của nó.
Trong thời gian này,
lấy tư tưởng "Giáo Thiền nhất trí" làm cơ sở, nhiều cuộc thảo luận
đã xảy ra giữa các thiền tăng và nhờ đó, một số sách chú thích về
kinh điển đã ra đời. Ví dụ chú thích của Vân Thê Chu Hoằng về kinh
Lăng Nghiêm, kinh A Di Đà và kinh Phạm Võng, của Đức Thanh về kinh
Pháp Hoa và kinh Viên Giác, của Nguyên Hiền về kinh Lăng Nghiêm và
kinh Kim Cương. Khi Chân Khả và Đức Thanh góp sức san hành bộ Vạn
Lịch bản Đại Tạng Kinh (gọi là Gia Hưng Tạng, Phương Sách Bản,
1589-1677), các ông cũng đứng trên lập trường này.
Tình huống đó còn
muốn chứng tỏ thêm một điều nữa là các nhân vật của Thiền Tông đã
hoàn toàn bao che cho Phật Giáo. Kể từ đời Đường trở đi, trong khi
các tông phái suy thoái thì chỉ có mỗi tư tưởng Thiền Tông hãy tiếp
tục duy trì và có thể đứng ra gánh vác giáo lý của nhà Phật. Và cũng
vì lý do đó, Thiền phải đánh mất đi một số bản sắc. Những yếu tố cơ
bản của hệ tư tưởng Thiền Tông như "giáo ngoại biệt truyền", "bất
lập văn tự" vì là phản đề (antitheses) của giáo học nên đã hoàn toàn
đánh mất ý nghĩa.
Không nên bỏ qua một
đặc điểm khác của Thiền Tông thời Minh mạt là sự chú trọng vào giới
luật. Như để hô ứng với sự phục hưng của giới luật, Hán Nguyệt Pháp
Tàng, từng thụ giới với người đã đứng lên kêu gọi trung hưng Nam Sơn
Luật Tông là Cổ Tâm Như Khánh (1541-1615), đã rao giảng thiền phong
"Thiền Giới nhất trí". Bản thân ông đã biên tập sách Hoằng Giới Pháp
Nghi và thường thực hành việc thụ giới (việc tăng Ẩn Nguyên từ Trung
Quốc đến Nhật có viết một tác phẩm cùng nhan đề và thực thi nghi
thức thụ giới có lẽ đã thừa kế việc làm của Hán Nguyệt). Cũng vì lý
do đó mà trong Luật Tông Đăng Phổ, tên của Hán Nguyệt đã được nhắc
đến. Sau ông, phái Tam Phong cũng hết sức bảo trọng giới luật và
trong phái của họ đã xuất hiện một Hối Sơn Giới Hiển (1610-72) chủ
trương phải kiêm tu cả ba thứ Thiền, Tịnh và Luật. Giống như môn
phái của Vô Dị Nguyên Lai, Ngẫu Ích Trí Húc cũng coi trọng giới luật
và có thể xem đây là khuynh hướng chung của cả thời đại.
Ngoài ra, vào đời
Minh, nhân vì có người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha vượt biển đến nơi,
đạo Ki-tô bắt đầu được truyền bá. Trong giới quan lại cao cấp cũng
có những tín đồ như Từ Quang Khải (1562-1633) hay Lý Chi Tảo (? -
1630). Các thiền sư Vân Thê Chu Hoằng, Mật Vân Viên Ngộ, Phí Ẩn
Thông Dung đã đứng lên phê phán kịch liệt đạo Ki-tô. Biện Thiên
Thuyết của Viên Ngộ cũng như Nguyên Đạo Tịch Tà Thuyết của Thông
Dung là những tác phẩm tiêu biểu của loại sách luận chiến về tôn
giáo này. Thế nhưng việc truyền giáo thời đó chỉ giới hạn trong vòng
giới trí thức nên số tín đồ Ki-tô không tăng lên được bao nhiêu và
ảnh hưởng của tôn giáo này chưa đủ làm lung lay địa bàn của Phật
giáo.
Tiết 2: Thiền kể từ đời Thanh |
Chính sách Phật giáo nhà Thanh. Tư thế của Thiền Tông
Hào tộc người Nữ
Chân tên là Nuruhachi (Nỗ Nhĩ Cáp Xích) nhờ mậu dịch mà giàu có, trở
thành tù trưởng rồi kha hãn. Năm 1616, ông dựng nước Hậu Kim, tự lập
làm vua (Thái Tổ, tại vị 1616-1626). Người nối nghiệp ông là
Hontaiji (Hoàng Thái Cực) (Thái Tông, tại vị 1626-1643) chinh phục
các nước lân cận như Triều Tiên, Mông Cổ, vây hãm lãnh thổ nhà Minh,
đổi quốc hiệu là Đại Thanh, mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Cùng lúc đó,
phong trào nông dân phản loạn ở Trung Quốc do Lý Tự Thành
(1606-1645?) cầm đầu cũng lật đổ được vương triều Minh (1644). Thuận
Trị Đế nhà Thanh (Thế Tổ, tại vị 1643-61) thừa thế tiến chiếm Bắc
Kinh, năm sau hạ thành Nam Kinh, hầu như bình định toàn cõi Trung
Quốc. Vua kế tiếp là Khang Hi (Thánh Tổ, tại vị 1661-1722) bình được
loạn tam phiên (1673-81, diệt Bình Tây Vương Ngô Tam Quế), bắt họ
Trịnh ở Đài Loan phải thần phục (1683), củng cố sự thống trị của
Thanh triều. Đời Khang Hi và các đời hoàng đế tiếp sau đó như Ung
Chính (Thế Tông, tại vị 1722-35), Càn Long (Cao Tông, 1735-95) được
xem như là thời đại hoàng kim của nhà Thanh.
Triều Thanh tôn
trọng truyền thống của Trung Quốc, đã hoàn thành một sự nghiệp văn
hóa đại qui mô dựa trên chế độ khoa cử và Chu Tử Học. Đời Khang Hy,
các bộ sách quan trọng như Minh Sử, Khang Hi Tự Điển, Bội Văn Vận
Phủ [13],
Cổ Kim Đồ Thư Tập Thành đã được biên soạn. Đời Càn Long soạn thêm Tứ
Khố Toàn Thư vô cùng đồ sộ. Thế nhưng bù lại là có sự khống chế về
phương diện tư tưởng với những vụ án gọi là "văn tự ngục" và việc
không cho lưu hành loại sách vở gọi là "cấm thư". Phật giáo và Đạo
giáo bị canh chừng nghiêm ngặt. Do đó các hoạt động tư tưởng cuối
thời Minh đã trở thành im ắng khi nhà Thanh bắt đầu cai trị.
Tuy nhà Thanh có cho
san hành Đại Tạng Kinh (gọi là Long Tạng) nhưng nếu nhìn một cách
tổng quát thì họ đánh giá Phật giáo rất thấp và thi hành những chính
sách cấm đoán như không cho xây thêm chùa, không cho tăng lữ bố giáo
ngoài phố, không cho đàn bà trẻ em đi lễ Phật. Đặc biệt vua Ung
Chính đã bãi bỏ chế độ "thí tăng - độ điệp" (kiểm tra trình độ tăng
lữ trước khi cấp giấy chứng nhận) cho nên phẩm chất của người đi tu
ngày càng tồi tệ. Ngòai ra, hoàng đế còn tự mình tham thiền và xưng
hiệu là Viên Minh Cư Sĩ. Ông tự tin đến nỗi một mình biên tập lấy
một tập ngữ lục rieng gọi là Ngự Soạn Ngữ Lục (1733). Ông khen ngợi
thiền sư đời Minh là Vân Thê Chu Hoằng, viết Giản Ma Biện Dị Lục
(1733) tự mình đưa ra ý kiến, để tranh luận với Mật Vân Viên Ngộ, đệ
tử Viên Ngộ là Hán Nguyệt Pháp Tàng và đồ tôn là Đàm Cổ Hoằng Nhẫn,
lại ra tay đàn áp môn phái của Hán Nguyệt (phái Tam Phong), nghĩa là
ông đã sử dụng quyền lực chính trị của mình ngay trong khi đối phó
với lối suy nghĩ của Thiền Tông.
Dưới thời Minh có tệ
nạn bán "không danh độ điệp" (giấy chứng minh làm tăng cho người
không càn biết là ai) và chức tước của tăng quan, chuyện đó càng
ngày càng lậm. Đặc biệt từ đời Gia Tĩnh (1522-66) về sau nếu không
mua độ điệp thì không thể nào xuất gia được cho nên phẩm chất của
tăng lữ trở nên rất tồi tệ. Qua đến đời Thanh, một số di thần cho
việc hợp tác với nhà Thanh là chuyện nhơ bẩn, gây ra phong trào dùng
sự tu hành như hình thức để khỏi phải tham gia với chính quyền
mới.Một khi đã không thực sự có ý hướng tu hành thì đi tu rồi họ vẫn
giữ tộc hệ (quan hệ gia tộc) và thành ra làm rối loạn chốn tùng lâm.
Do đó, Phật giáo càng ngày càng lâm vào bước đường cùng. Cũng vì
chính sách của nhà Thanh mà giới tăng lữ đã đánh mất đi sự tin tưởng
của quần chúng đối với họ,
Chuyện thật đáng
tiếc vì hồi Thanh sơ, thừa hưởng di phong của Minh mạt, hoàng đế
Thuận Trị rất trọng vọng Thiền nên thuở đó có nhiều vị cao tăng xuất
hiện. Những người có liên hệ với vua Thuận Trị là Mộc Trần Đạo Mân
(1596-1674), Hám Phác Tính Thông (1610-66), Ngọc Lâm Thông Tú (đệ tử
của Thiên Ẩn Viên Tu, 1614-75). Ngoài ra còn phải kể đến người biên
tập sách Thiền Hải Thập Trân là Vi Lâm Đạo Bái nữa (Vi Lâm Đạo Bái
có mối giao tình với thiền sư Nhật Bản phái Tào Động là Dokuan Genkô
(Độc Am Huyền Quang).
Mặt khác, được biết
trong thời gian này, có những người như Ẩn Nguyên Long Kỳ, học trò
của Phí Ẩn Thông Dung và Tâm Việt Hưng Thù (1639-96), học trò đàn
cháu của Giác Lãng Đạo Thịnh, vì chán ghét sự cai trị của người Mãn
Châu, không còn lối thoát nên đã bỏ nước sang Nhật. Đặc biệt Ẩn
Nguyên được sự che chở của mạc phủ Tokugawa đã gầy dựng nên một
nhánh Thiền đời Minh gọi là Hoàng Bá (Bích) Tông, đem lại những đóng
góp có ý nghĩa vô cùng to lớn cho lịch sử văn hóa Nhật Bản.
Hơn nữa, nếu đề cập
đến các trước tác đương thời, có lẽ phải kể đến những cuốn đăng sử
như Tổ Thống Đại Thống (1672) của Bạch NhamTịnh Phù (năm sinh năm
mất không rõ), Tục Đăng Chính Thống (1691) của Biệt Am Tính Thống
(người hậu bán thế kỷ 17) và Ngũ Đăng Toàn Thư (1693) của Tế Luân
Siêu Vĩnh (năm sinh năm mất không rõ) cũng như các tập công án như
Tông Môn Niêm Cổ Vựng Tập (1664) của Tịnh Phù và Tông Giám Pháp Lâm
(1714) của Già Lăng Tính Âm (Tập Vân Đường, ? -1726). Đó là chưa kể
trước tác của Thông Dung liên quan đến những cuộc tranh luận về pháp
hệ và cuốn Pháp Môn Sừ Quỹ (1667) của Tịnh Phù. Riêng về cuốn Tổ
Thống Đại Thống, tác phẩm phản ánh lối suy nghĩ của Tịnh Phù về tổ
thống, đã bị Mộc Trần Đạo Mân và Vi Lâm Đạo Bái phê phán. Mộc Trần
đã viết Bảo Đạc Tỉnh Mê Luận [14]
và Đạo Bái viết Động Tông Nguyên Lưu Biện Mậu.Hai bên cứ như thế
tiếp tục mãi cuộc tranh luận cho đến về sau.
Vào thời kỳ này,
việc Thiền đã ảnh hưởng đến xã hội như thế nào cũng là một điểm đáng
lưu ý. Nhà phê bình văn học Kim Thánh Thán (1608-1661), người đã
đánh giá cao loại tiểu thuyết thông tục, nhà văn hóa Vương Sĩ Trinh
(Ngư Dương, 1634-1711), người đã đề xướng Thiền Vận Thuyết xem thơ
và Thiền là một (Thi Thiền nhất vị) cũng như mở ra họa phái sơn thủy
họa Tân An, rõ ràng đã tiếp nhận ảnh hưởng của Thiền Tông. Tứ Họa
Tăng hồi Thanh sơ là bốn ông Hoằng Nhân (1610-64), Khôn Tàn (năm
sinh năm mất không rõ), Bát Đại Sơn Nhân (1624-1705) và Thạch Đào
(1642-1707) qua những sáng tác tác phẩm đầy cá tính của mình đều tỏ
ra rằng trong chiều sâu tâm hồn, họ đã hấp thụ tư tưởng nhà Thiền
Bát Đại Sơn
Nhân và Thạch Đào
Bát Đại Sơn Nhân tên thật là
Chu Đạp, người Nam Xương (thuộc tỉnh Giang Tây). Vốn dòng dõi Ninh
Vương, sau khi nhà Minh bị diệt vong, trở thành tăng rồi thành đạo
sĩ, lấy hiệu là Bát Đại Sơn Nhân. Ông thiện về họa, chịu ảnh hưởng
phong cách vẽ tranh sơn thủy của Hoàng Công Vọng (1269-1354) đời
Nguyên và Đổng Kỳ Xương đời Minh. Ngoài ra ông giỏi vẽ tranh hoa
điểu.Tương truyền, ông rất lấy làm đau đớn phẫn khái trước sự diệt
vong của nhà Minh và bày tỏ điều đó qua hội họa.
Riêng về Thạch Đào thì ông tên
thật là Chu Nhược Cực, hậu duệ của Tĩnh Giang Vương nhà Minh, lúc
xuất gia lấy hiệu là Nguyên Tế. Sau học Thiền, đạo hiệu Thạch Đào.
Ôm lòng phẫn khái vì nhà Minh mất nước, bỏ đi chu du trong thiên hạ,
sống cuộc đời phóng lãng ở Hoàng Châu, Hoa Châu, Kim Lăng, Dương
Châu...suốt đời vẽ tranh sơn thủy. Ông còn nổi tiếng về thư pháp
nữa. Trước tác có Họa Ngữ Lục, chú trọng trạng thái nội tâm trong
khi vẽ.
Thạch Đào và Bát Đại Sơn Nhân
hoàn cảnh giống nhau, tuy họ không hề quen biết nhưng qua giao lưu
thư tín, có trao đổi và hợp tác với nhau, ví dụ trong bức Lan Trúc
Đồ thì Bát Đại Sơn Nhân vẽ lan và Thạch Đào bổ túc trúc và đá.
Ngày tàn của Thiền
Trong bầu không khí
khống chế tư tưởng của chính quyền nhà Thanh, nếu có một điều khả dĩ
gọi là thành quả thì có lẽ là sự thành hình của khoa khảo chứng học
nghĩa là môn học dùng phương pháp khoa học để khảo chứng những lãnh
vực như lịch sử, địa lý, âm vận, kim thạch, thư chí...Những người đi
tiên phong ở Trung Quốc là Hoàng Tông Hi (1610-1695) và Cố Viêm Vũ
(Đình Lâm, 1613-1682), họ sẽ được thừa kế bởi Diêm Nhược Cừ
(1636-1704), Tải Chấn (1723-1777), Tiền Đại Hân (1728-1804). Tuy
nhiên, nếu phương pháp ấy có công thúc đẩy sự phát triển của học
thuật thì nó đã đưa người ta xa rời chính trị và thực tế của cuộc
sống hằng ngày.
Bối cảnh của sự
thành hình khảo chứng chứng học là thời Minh mạt. Nó bắt đầu từ sự
phê phán của các học giả phái Dương Minh đối với những lý luận chẳng
dính líu gì với thực tế nên không được việc gì cả (không lý không
luận). Người ta cho rằng một trong lý do khiến nhà Minh bị diệt vong
nằm trong những lý luận vô bổ như thế. Đến đầu đời Thanh khuynh
hướng phê phán này được sự ủng hộ của triều đình và do các học giả
Chu Tử Học đảm nhận. Thế nhưng chính Chu Tử Học và cả Thiền, hệ tư
tưởng đã ảnh hưởng tới Chu Tử Học lẫn Dương Minh Học, lại trở thành
đối tượng phê phán [15].
Người ta triệt để phủ nhận tất cả các lý thuyết tương tự cũng như
mọi ảnh hưởng tiêu cực mà chúng có thể đem đến.
Khi giai đoạn Minh
mạt bắt đầu, Thiền rất hưng thịnh nhưng đến hồi chung cuộc, nó chỉ
còn đủ sức đáp lại một cách thụ động những đòi hỏi của xã hội. Bề
mặt tuy có vẻ hưng thịnh song bên trong tư tưởng của Thiền đã bị
thông tục hóa, có thể xem như nó chỉ còn giữ được cái phần giá trị
của vai trò mình đảm nhận trong hệ tư tưởng tam giáo nhất trí. Vì lẽ
đó khi khoa khảo chứng học thành hình và bước lên quĩ đạo của chính
sách tôn giáo Thanh triều rồi thì các thiền tăng cảm thấy họ không
còn đất dụng võ nữa. Thêm vào đó, họ lại bị cuộc nổi dậy của Thái
Bình Thiên Quốc (1851-64) xua đuổi. Hồng Tú Toàn (1813-64), lãnh tụ
của thế lực này là một người chịu ảnh hưởng đạo Ki-tô, đã kéo quân
phản loạn chiếm vùng Giang Nam với thế mạnh như chẻ tre. Mãnh đất
trù phú bao đời của văn hóa Thiền Tông với bao nhiêu là chùa chiền
đã chịu một cuộc vùi dập hủy hoại chưa từng thấy.
Có thể nói Phật giáo
đời Thanh không dựa được vào giới tăng lữ mà chỉ nhờ cậy sự nâng đỡ
của số cư sĩ thuộc thành phần trí thức có nhiệt tâm. Trên thực tế,
những cư sĩ như Tống Văn Sâm (?-1702), Chu An Sĩ (1656-1739), Bành
Tế Tĩnh (1740-1796), Tiền Phụ (Y Am, thế kỷ 18-19) đã sẳn học thức,
có trình độ tu hành không thua kém người xuất gia. Họ không đi cầu
học các nhà sư mà chủ yếu tiếp xúc với tư tưởng Phật giáo qua sách
vở. Họ cũng để lại nhiều trước tác của chính mình như trường hợp
Bành Tế Tĩnh biên tập "Cư Sĩ Truyện" (1775), Tiền Phụ viết "Tông
Phạm" (1835)...và tham gia ấn hành kinh điển. Thế nhưng khuynh hướng
tư tưởng đương thời đang thẳng tiến trên đường "Tam giáo nhất trí",
"Giáo Thiền nhất trí", Thiền Tịnh song tu" nên lúc đó không còn có
chuyện khác nhau về tông phái. Vì vậy, trình độ hiểu Thiền của các
cư sĩ đến mức nào và Thiền có một tỉ lệ bao nhiêu trong cách suy
nghĩ của họ thì chẳng ai có thể minh xác được.
Đến cuối đời Thanh,
áp lực của liệt cường từ bên ngoài càng ngày càng nặng nề. Người ta
chỉ còn biết đặt trọng tâm vào sự giải quyết những vấn đề hiện thực
hơn là lo lắng đến cuộc sống tinh thần. Củng Tự Trân (1792-1841) và
Ngụy Nguyên (1794-1856) lại đề xướng Công Dương Học [16],
hướng dẫn các cuộc vận động "dương vụ" và "biến pháp tự cường" (cổ
võ việc học hỏi các nước phương Tây để thay đổi chính sách, đưa nước
nhà đến độc lập tự cường). Họ cũng là những tín đồ Phật Giáo. Sau đó
lại xuất hiện Khang Hữu Vi (1858-1927), Đàm Tự Đồng (1865-1898),
thêm Chương Bỉnh Lân (1896-1936), một tín đồ Phật giáo khác và là
nhà tư tưởng đã vạch được ranh giới rõ rệt đối với Công Dương Học.
Tuy nhiên trung tâm tư tưởng Phật giáo của Chương là giáo lý Duy
Thức và Tịnh Độ, không thấy ông đả động đến Thiền. E rằng vì Thiền
là một hệ tư tưởng Phật Giáo đậm màu sắc Trung Quốc nhất, đã có mặt
trong cuộc sống thường nhật, cho nên Chương không nhìn ra cái cần
phải đánh giá lại chăng?
Sau đó, cuộc Cách
Mạng Tân Hợi (1911) đã đưa đến việc thành lập Trung Hoa Dân Quốc
(1912). Trong tình huống xã hội đang hô hào cận đại hóa để so vai
với liệt cường, khuynh hướng xem Phật Giáo cùng với Đạo Giáo là một
di sản của quá khứ cần được phế bỏ càng ngày càng mạnh. Đặc biệt
cuối đời Thanh đầu Dân Quốc có cuộc vận động "miếu sản hưng học" tức
là biến các chùa chiền đạo quán thành chỗ dạy học. Ảnh hưởng của
phong trào này thực to lớn. Những người chống đối lại chuyện này như
Kính An (Ký Thiền, Bát Chỉ Đầu Đà, 1851-1912) và Thái Hư (1890-1947)
đề nghị một cuộc vận động phục hưng Phật Giáo bằng cách kêu gọi sự
liên đới giữa Phật giáo đồ với nhau, tổ chức đào tạo tăng ni và ấn
hành sách báo làm công cụ truyền giáo. Những sự kiện này có ý nghĩa
trọng đại trong quá trình cận đại hóa Phật giáo.Tuy vậy hai ông đều
không hẳn có ý hướng xác định lại chỗ đứng của Thiền cho dù Kính An
xuất thân thiền sư và là người đã cải cách cơ cấu tổ chức trên Thiên
Đồng Sơn. Ông quay trở lại với chế độ tuyển dụng phóng khoáng gọi là
thập phương trụ trì (và còn được biết như một thi tăng).Tóm lại, sau
một khoảng thời gian dài, ta thấy Thiền đã phải thỏa hiệp với thực
tế cuộc sống bằng nhiều hình thức và như thế, đánh mất đi sức mạnh
tư tưởng cố hữu của nó.
Nói vậy không có
nghĩa là giới trí thức Trung Quốc đã hết quan tâm đến Thiền. Trong
những đại học mới mở vào lúc bấy giờ, đã có những khóa về Thiền cũng
như về lịch sử triết học Trung Quốc. Do đó, Thiền cũng trở thành đối
tượng của các nhà nghiên cứu. Đặc biệt có Thang Dụng Hình
(1893-1964) đã viết Hán Ngụy Lưỡng Tấn Nam Bắc Triều Phật Giáo Sử
(1938) và Trần Viên (1880-1971) viết Thanh Sơ Tăng Tranh Ký (1941),
Hồ Thích viết Thần Hội Hòa Thượng Di Tập (1930) là những trước tác
giải thích về lịch sử Thiền Tông đáng chú ý nhất. Họ đứng trên quan
điểm học vấn Âu Tây để nhìn Thiền thời xưa, cắt đứt với mọi truyền
thống nghiên cứu có từ trước, những mong tìm thấy nơi Thiền một ý
nghĩa mới.
Dĩ nhiên, không vì
thế mà phải loại bỏ tất cả những phương pháp tu hành truyền thống.
Cùng thời với những nhà tư tưởng nhắc đến bên trên vẫn có những nhà
tu hành tên tuổi như Hư Vân (1840?-1959) và Lai Quả (1881-1953). Vào
những năm tiền bán thế kỷ 20, các chùa như Giang Thiên Tự (Kim Sơn
Tự) ở Trấn Giang, Cao Mân Tự ở Dương Châu (Nam Kinh) đã được xem như
những địa điểm trung tâm của Thiền.THế nhưng, ảnh hưởng của nó vẫn
chưa vượt ra khỏi phạm vi Phật Giáo.
Hồ Thích
Ông quê ở Tích Khê (thuộc tỉnh
An Huy), tự là Thích Chi. Năm 1910, sang Mỹ du học ở đại học
Columbia, được sự dìu dắt của Dewey (1859-1952). Sau khi về nước năm
1919, ông giảng dạy tại đại học Bắc Kinh, và hô hào việc sử dụng
bạch thoại trong văn học. Từ 1938 đến 1942, ông nhậm chức đại sứ tại
Hoa Kỳ. Sau đại chiến thứ hai, năm 1948, để tránh cuộc chiến tranh
Quốc Dân Đảng-Cộng Sản, ông lưu vong ở Mỹ, sau về Đài Loan làm viện
trưởng Viện Nghiên Cứu Trung Ương rồi mất ở Đài Loan. Các tác phẩm
của ông là Trung Quốc Triết Học Sử Đại Cương (1919), Bạch Thoại Văn
Học Sử (1928). Về nghiên cứu, sau khi ông mất mới xuất hiện dưới
dạng di cảo Bạt Bùi Hưu Đích Đường Cố Khuê Phong Định Huệ Thiền Sư
Truyền Pháp Bi (1962) là một trước tác buổi vãn niên. Đặc biệt vào
năm 1926, ông đã đến tra cứu tài liệu trong Bảo Tàng Viện Quốc Gia
Paris và Bảo Tàng Viện Đại Anh ở London thu thập từ các cuộc thám
hiểm ở Đôn Hoàng như Nam Dương Hòa Thượng Vấn Đáp Tạp Trưng Nghĩa,
di thư của Hà Trạch Thần Hội (684-758) để soạn ra Thần Hội Hòa
Thượng Di Tập (1930). Đây là một công trình nghiên cứu hết sức nổi
tiếng. Ngoài ra, vào năm 1949, trong cuộc hội thảo lần thứ 2 tên
Đông Tây Triết Học Giả Hội Nghị, ông đã có dịp tranh luận với triết
giả Nhật Bản Suzuki Daisetsu (1870-1966).
Đường hướng của Thiền Trung Quốc thời hậu chiến
Sau cuộc chiến tranh
Trung-Nhật (1937-45), chính quyền Cộng Sản của Mao Trạch Đông bắt
đầu thâu tóm lục địa Trung Hoa. Do đó, Hồ Thích và một số lớn học
giả phải qua Đài Loan ở với chính quyền Quốc Dân Đảng hoặc sang
Hương Cảng lúc bấy giờ thuộc Anh để tìm một môi trường hoạt động tư
tưởng khác. Nhiều tăng lữ cũng muốn duy trì tự do tín ngưỡng nên đã
bỏ quê hương lại đằng sau. Như thế, truyền thống của Phật giáo Trung
Quốc không phải được tiếp nối ở đại lục mà ở Đài Loan và Hương Cảng
vậy. Dù thế, ý thức về Thiền của chư tăng không còn giống như ngày
xưa nữa. Ta sẽ thấy điều đó khi đọc Trung Quốc Thiền Tông Sử (1971)
của Ấn Thuận (Thịnh Chính, 1906 - ?). Ông đã bàn về lịch sử Thiền
Tông một cách có tính học thuật, biết tham khảo ý kiến nhiều học giả
từ bên trong cũng như bên ngoài nên khá khách quan. Không những thế,
loại trước tác kiểu của ông từ đó dần dần có thêm nhiều. Nó cũng
giống như tình hình ở Nhật trong những năm gần đây và đã khơi gợi ra
những vấn đề mới đáng suy nghĩ.
Ấn Thuận
Ông tên thật là Trương Lộc
Cần, quê ở Hải Ninh, thuộc tỉnh Chiết Giang, sinh trong một gia đình
nông dân. Lúc đầu đi dạy tiểu học. Năm 1929, bố mất nên mới xuất
gia, lấy hiệu là Ẩn Thuận. Ông theo học ở Nam Phổ Đà Tự Mân Nam Phật
Học Viện ở Hạ Môn (thuộc Phúc Kiến) nơi Thái Hư làm viện trưởng, rồi
trở thành giảng sư ở đó. Năm 1936, ông về làm giáo sư ở Vũ Xương
Phật Học Viện thuộc tỉnh Hồ Bắc nhưng vì quân Nhật tiến đánh phải tị
nạn về Hán Tạng Giáo Lý Viện ở Trùng Khánh (Tứ Xuyên). Ông chơi thân
với Pháp Tôn pháp sư (1902-80), một học trò khác của Thái Hư từng du
học bên Tây Tạng và hai ông đã xác định được một quan điểm phê phán
đối với Phật Giáo Trung Quốc. Sau đó, ông giữ trách nhiệm viện
trưởng Pháp Vương Phật Học Viện ở Tứ Xuyên nhưng đến lúc đại chiến
thứ hai kết thúc, để tránh tình trạng hỗn loạn ở đại lục, ông tìm
cách sang Đài Loan bằng đường Hương Cảng. Ở Đài Loan, ông chủ yếu
hoạt động truyền giáo ở Hệ Nhật Giảng Đường (thành phố Đài Bắc) và
đôi khi giảng dạy ở đại học nữa. Ông viết trên 10 bộ sách và đã ra
công biên tập toàn tập của Thái Hư. Trong đó có Trung Quốc Thiền
Tông Sử (1971) mà ông đã đệ trình như luận án để lấy tiến sĩ ở Đại
học Taishô (tại Nhật Bản). Đặc điểm của sách này là đã sử dụng và so
sánh nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu Trung Quốc lẫn Nhật Bản
để tìm ra kiến giải mới.
Một mặt, trên phần
lãnh thổ đại lục do Đảng Cộng Sản cai trị, tôn giáo bị coi như một
thứ thuốc phiện và không có giá trị gì. Đặc biệt là dưới thời Văn
Hóa Đại Cách Mệnh (1966-69), chùa chiền hầu như hoàn toàn bị tàn
phá, tăng ni bị bắt buộc hoàn tục, Phật giáo chịu một đòn trí mạng,
đứng bên bờ vực của sự diệt vong. Mọi phán đoán giá trị của các
luồng tư tưởng đều được đánh giá dưới nhãn quan chủ nghĩa Marx và dĩ
nhiên Phật giáo - được coi như một hệ tư tưởng duy tâm - đã bị chỉ
trích nặng nề.
Tuy vậy, năm 1976,
khi Mao Trạch Đông chết đi, Phật Giáo được phép hoạt động trở lại.
Sau đó, Trung Quốc bước vào thời đổi mới về mặt kinh tế, Phật giáo
như nhận được một luồng sinh khí mới. Dưới sự chủ đạo của nhà nước,
các tự viện được trùng tu hoặc thiết lập trở lại, đến nay thì con số
tăng ni đã lên hàng chục vạn người. Thế nhưng, vấn đề cơ bản vẫn
chưa giải quyết. Số người đi lễ bái tuy có đông nhưng phần lớn là
ngoạn cảnh như khách du lịch chứ không có chủ tâm tín ngưỡng. Dĩ
nhiên hãy còn một số tín đồ nhiệt tình đấy nhưng họ chỉ chăm lo vào
việc thờ cúng tổ tiên hoặc cầu xin lợi lộc cho kiếp này chứ người có
quan tâm đến Thiền như một hệ tư tưởng Phật giáo kể ra rất hiếm.Gần
đây phong trào luyện khí công đã đưa một số đông người thuộc thế hệ
trẻ tìm đến với Phật giáo, thế nhưng sự hiểu biết của họ về Phật
giáo và Thiền thật ra hết sức hời hợt.
Mặt khác, Trung Quốc
cũng đã tiếp nhận một cách tích cực ảnh hưởng của phong trào nghiên
cứu Phật giáo từ các đại học và cơ quan nghiên cứu phương Tây cũng
như Nhật Bản. Trong số đó, chủ đề nghiên cứu về Thiền Tông chiếm một
tỷ lệ quan trọng. Tuy vậy, dù những công trình nghiên cứu được thực
hiện ở Trung Quốc nhưng chúng không mảy may dính líu đến cuộc sống
thường nhật cho nên không thể là yếu tố khởi động sinh hoạt Thiền và
Phật giáo trong nước.
Như thế, ngày nay
mối quan tâm đến Thiền và Phật giáo coi như hoàn toàn bị phân cực.
Nhân tố mà người ta nghĩ có thể kết hợp chúng với nhau chỉ có thể là
tầng lớp trí thức mà từ vài năm gần đây đã trở thành trung tâm của
một cuộc vận động mới về Thiền. Nhờ sự mở cửa từ sau thời đổi mới
(khai phóng), các luồng thông tin và tư tưởng mới từ Phương Tây và
Nhật Bản đã tràn vào, giúp đánh giá lại vai trò của Thiền. Những tác
phẩm của Suzuki Daisetsu như Thiền và văn hóa Nhật Bản (Zen to
Nippon Bunka) và Thiền Nhập Môn (Zen Nuyuumon) đã được tiếp nhận
rộng rãi ở Trung Quốc. Ngoài ra, các tác phẩm của học giả người Đài
Loan là Nam Hoài Cẩn cũng đã được giới thiệu với họ.
Có điều đáng tiếc là
về mặt tổ chức giáo đoàn, vẫn không có gì đáng kể. Dầu vậy, một đệ
tử của Hư Vân là Tịnh Huệ (sinh năm 1933) trụ trì chùa Bách Lâm Tự
là nơi ngày xưa Triệu Châu Tùng Thẩm có thời tu hành, đã đề xướng
phong trào mang tên "sinh hoạt thiền" (thiền trong cuộc sống hằng
ngày). Ông đã thành lập viện nghiên cứu về Thiền (Thiền Học Nghiên
Cứu Sở), một tổ chức có nhiều triển vọng.
Hệ phổ
Thiền (6)
Đến đây, hệ phổ Thiền càng thu
hẹp lại với Vạn Phong Thì Úy thuộc Tông Lâm Tế và Tuyết Đình Phúc Dụ
thuộc Tông Tào Động.(Tên có gạch dưới là những người thường được
nhắc đến).
Tông Lâm
Tế:
1 Vạn Phong Thì Úy -> 2
Bảo Tàng Phổ Trì -> 3 Hư Bạch Huệ (?) -> 4
Hải Chu Phổ Từ -> 5 Bảo Phong Huệ Tuyên -> 6
Thiên Kỳ Bản Thụy -> 7 Vô Văn Chính Thông ->
8 Tiếu Nham Đức Bảo -> 9 Vân Thê Chu Hoằng -> 10 Dưỡng
Am Quảng Tâm.
Đồng 9 Huyễn Hữu Chính Truyền
-> 10 Mật Vân Viên Ngộ -> 11 Lâm Dã Thông
Kỳ ( -> 12 Đạo An Tĩnh -> 13 Tế Luân Siêu Vĩnh).
Đồng 11 Phá Sơn Hải Minh. Đồng 11 Phí Ẩn Thông Dung ( ->
12 Ẩn Nguyên Long Kỳ (sang Nhật). Đồng 11 Mộc Trần Đạo Mân.
Đồng 11 Hán Nguyệt Pháp Tàng ( -> 12 Đàm Cát Hoằng Nhẫn,
12 Cụ Đức Hoằng Lễ ( -> 13 Hối Sơn Giới Hiển). Đồng 10 Ngữ
Phong Viên Tín ( -> 11 Quách Ngưng Chi). Đồng 10 Thiên Ẩn Viên
Tu -> 11 Ngọc Lâm Thông Tú, 11 Nhược Am Thông Vấn ( ->
12 Thiên Trúc Hành Trân -> 13 Vô Am Siêu Cách ->
14 Già Lăng Tính Âm).
Tông Tào
Động:
1 Tuyết Đình Phúc Dụ ->
2 Tung Sơn Văn Thái -> 3 Hoàn Nguyên Phúc Ngộ ->
4 Thuần Chuyết Văn Tài -> 5 Tùng Đình Tử Nghiêm ->
6 Ngưng Nhiên Liễu Cải -> 7 Câu Phong Khế Vũ ->
8 Vô Phương Khả Tùng -> 9 Nguyệt Chu Văn Tải ->
10 Tiểu Sơn Tông Thư -> 11 Huyển Hưu Thường Nhuận, 11
Lẫm Sơn Thường Trung.
11 Huyễn Hưu Thường Nhuận
-> 12 Từ Chu Phương Niệm -> 13 Đam Nhiên Viên
Trừng -> 14 Thạch Vũ Minh Phương ( -> 15 Vị
Trung Tịnh Phù). Đồng 14 Thụy Bạch Minh Tuyết ( -> 15 Phá Ám
Tịnh Đăng -> 16 Cổ Tiều Trí Tiên). Đồng 14 Tam Nghi Minh
Vu.
Đồng 11 Lẫm Sơn Thường Trung
-> 12 Vô Minh Huệ Kinh -> 13 Vĩnh Giác Nguyên
Hiền ( -> 14 Vi Lâm Đạo Bái -> 15 Duy Tĩnh Đạo An). Đồng
13 Vô Dị Nguyên Lai ( -> 14 Tuyết Giản Đạo Phụng, đồng
14 Thê Hác Đạo Khâu). Đồng 13 Hối Đài Nguyên Kính ( -> 14
Giác Lãng Đạo Thịnh -> 15 Khoát Đường Đại Văn
-> 16 Tâm Việt Hưng Thù (sang Nhật)). Đồng 15 Trúc Am Đại
Thành.
Địa lý
Thiền (6)
Bắc Hoàng
Hà:
Thuận Thiên, Bắc Bình, Yên
Kinh (Bắc Kinh) có Minh Nhân Tự (Đạt Quan), Hải Hội Tự, Diên Thọ Tự
(Tính Thông), Thanh Lương Tự (Chân Khả). Hám Sơn (Đức Thanh), Ngũ
Đài Sơn (Chân Khả, Đức Thanh, Chính Truyền).
Nam Hoàng
Hà bắc Trường Giang:
Lao Sơn (Đức Thanh), Phượng
Đài Sơn Bảo Ninh Tự (Huệ Đàm), Phượng Sơn Thiên Giới Tự (Tông Lặc,
Huệ Đàm, Đạo Thịnh, Nguyên Lai), Đạo Dương Sơn Vạn Thọ Tự (Viên
Trừng, Đạo Mân), Tiêu Sơn, Ngũ Vân Sơn Vân THê Tự (Chu Hoằng).
Nam Trường
Giang:
Thường tập trung chung quanh
vùng Nam Kinh và Tô Hàng:
Đăng Úy Sơn Thánh Ân Tự (Pháp
Tàng), Tô Châu Bắc Thiền Đại Từ Tự (Pháp Tàng), Tô Châu Thánh Từ Tự
(Pháp Tàng), Tô Châu Tam Phong Thanh Lương Thiền Tự (Pháp Tàng), Kim
Túc Sơn (Viên Ngộ, Đạo Mân), Hàng Châu An Ẩn Tự (Hoằng Nhẫn), Kính
Sơn (Tâm Thái, Thông Dung, Viên Trừng), Trung Thiên Trúc Sơn (Tông
Lặc, Tâm Thái), Tịnh Từ Tự (Pháp Tàng), Vân Môn Sơn Hiển THánh Tự
(Viên Trừng), Vân Môn Sơn Vân Môn Tự (Viên Tín, Đạo Mân), Phổ Đà Sơn
(Tính Thống), A Dục Vương Sơn (Viên Ngộ, Thông Dung), Thiên Đồng Sơn
(Viên Ngộ, Tính Thống, Đạo Mân, Thông Dung, Kính An), Kim Sơn, Thiên
Mục Sơn (Thông Tú).
Ngoài ra:
Lô Sơn Quy Tông Tự (Chân Khả),
Kiến Xương Thọ Xương Tự (Huệ Kinh, Đạo Thịnh), Bác Sơn (Nguyên Lai),
Cổ Sơn (Nguyên Lai, Nguyên Hiền, Đạo Bái, Đạo Thịnh), Tào Khê Sơn
(Đức Thanh), Hoàng Bá Sơn Vạn Phúc Tự (Thông Dung, Viên Ngộ, Long
Kỳ).
Tu Thiền là một thể
nghiệm tự do và truy cầu hạnh phúc của con người trong cuộc sống tâm
linh. Thiền gia thường có cuộc sống hào hùng và cao đẹp. Bắt đầu từ
đời Tùy-Đường, Thiền đã có những giai đoạn hưng thịnh nhất là từ Ngũ
Đại cho đến Nam Tống. Tuy nhiên, khi hòa nhập vào xã hội, phải va
chạm với thực tế chính trị, lúc thì bị đàn áp không chế, lúc chịu
thỏa hiệp để sống còn, Thiền đã phai nhạt bản sắc cố hữu của mình.
Cuối cùng, trải qua
hai triều Minh và Thanh, Thiền Tông Trung Quốc đã biến chất và đi
đến chỗ suy tàn. Trong thời điểm hiện tại thật khó lòng nghĩ đến một
cuộc phục hưng của Thiền. May mắn thay, có những chi lưu ở nước
ngoài hãy còn gìn giữ được thiền phong ở một mức độ nào đó. Chi lưu
quan trọng hơn cả và đã dần dần tách ra để có một bản sắc riêng là
Thiền Tông Nhật Bản, được biết đến rộng rãi trên thế giới với cái
tên Zen.
(Dịch xong ở Tôkyô ngày 21/06/2009)
Đạo Uyển (Ban biên
dịch), 1999, Từ Điển Phật Học, Nxb Tôn Giáo, Thành Phố Hồ Chí Minh
(in lần thứ 2, 2006)
Hiromatsu Wataru
chủ biên, Iwanami Tetsugaku Shisô Jiten (Từ Điển Tư Tưởng Triết Học
Iwanami), Iwanami xuất bản, Tôkyô, 1998.
Ibuki Atsushi,
2001, Zen no Rekishi (Lịch sử Thiền), Hôzôkan, Kyôto, xuất bản.
Nguyễn Tuệ Chân
biên dịch, 2008, Thiền Tông Phật Giáo, Tủ sách bách khoa Phật Giáo,
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội.
Ômori Takashi chủ
biên, 1992, Zen no Hon (Quyển sách về Thiền), Gakken, Tôkyô, xuất
bản, ấn bản lần thứ 3 năm 1994.
Thông Thiền biên
dịch, 2008, Từ Điển Thuật Ngữ Thiền Tông, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh.
[1] - Tĩnh Nạn tức là cuộc "dẹp loạn vì hoàng thất" đề xướng bởi
Yên Vương Chu Đệ (từ năm 1399 kéo dài đến năm 1402).
[2] - Một bộ tộc gốc Mông Cổ ở vùng Thiên Sơn, toàn thịnh vào
giữa thế kỷ 15. Đến năm 1757 thì bị nhà Thanh tiêu diệt.
[3] - Nho gia đời Minh, nhân vật cánh tả học phái Vương Dương
Minh. Tự Trác Ngô, người Tấn Giang (Phúc Kiến). Thường xưng mình là
"Nho gia phản đồ". Năm 1580 từ quan, xuống tóc và trở thành cư sĩ
tại gia. Tuyệt giao với thế tục, chỉ chuyên chú trứ tác. Vì cách ăn
nói quá khích nên bị buộc tội là đề xướng tà thuyết, năm 76 tuổi bị
hạ ngục, tự sát.Nhà chí sĩ Duy Tân Nhật Bản Yoshida Shôin (Cát Điền
Tùng Âm) lúc bị giam trong ngục thích đọc sách ông viết.Trứ tác có
Phần Thư và Tàng Thư.
[4] - Tên một giới luật đạo đức trong dân gian ở Trung Quốc
thịnh hành từ đời Tống trở về sau, chủ trương việc thiện (công) và
việc ác (quá) của con người có thể đo lường bằng số lượng được. Mục
đích khuyến thiện trừng ác. Sách bàn về nó có tên là "thiện thư".
[5] - Thuyết Tính Linh chủ trương biểu lộ cá tính trong thi văn.
Các nơi khác chép là của Viên Hoằng Đạo (Trung Lang, 1568-1610) chứ
không phải của Viên Tông Đạo (Bá Tu), anh ông, như Ibuki Atsushi
viết ở đây. Viên Trung Lang mới là nhà thiền học nổi tiếng, đạo hiệu
Thạch Đầu Cư Sĩ, chơi thân với Tử Bách Chân Khả và Lý Chí.
[6] - Ức thuyết: nói phỏng chừng.
[7] - Tịch vọng: bài bác việc nói xằng, càn rỡ.
[8] - Kiềm chùy: kềm và chày sắt. Trong ngôn ngữ nhà Phật, ám
chỉ việc rèn luyện học trò một cách nghiêm khắc.
[9] - Về Thiên Vương Đạo Ngộ, xin xem lại bên trên thuyết của
Đạt Quan Đàm Dĩnh được Giác Phạm Huệ Hồng ủng hộ cho rằng có 2 Đạo
Ngộ (Thiên Hoàng Đạo Ngộ và Thiên Vương Đạo Ngộ) nhưng thực ra Thiên
Vương, nhân vật thứ hai nói đến ở đây, có khi chỉ là sản phẩm tưởng
tượng.
[10] - Tịch: bài bác, mậu: lời nói, việc làm sai quấy. Tịch mậu
là bác bỏ những lời nhảm nhí.
[11] - Sừ: cái cuốc, quỹ: kẻ cắp đến từ bên ngoài. Sừ quỹ ý nói
diệt trừ kẻ nói chuyện xằng bậy.
[12] - Động thượng: ám chỉ tông Tào Động. Cổ triệt: lề lối xưa.
[13] - Từ thư Trung Quốc gồm 100 quyển, thêm 106 quyển nhặt sót
(thập di), biên tập theo sắc chiếu. Do Trương Ngọc Thư, Trần Đình
Kính, Lý Quang Địa 76 người hợp soạn (1711) Chép những chữ đôi, chữ
ba quen dùng theo 106 vần ở chữ cuối cùng. Dùng vào việc tham khảo
khi làm thơ hoặc dẫn chứng.
[14] - Bảo đạc: cái chuông quí . Tỉnh mê: đánh thức người mê,
sai lầm.
[15] - Dương Minh Học và Chu Tử Học tuy cùng nguồn gốc Nho giáo
nhưng Dương Minh Học chú trọng đến sự tìm hiểu con người (tâm tức
lý), và thực tiễn trong cuộc sống (tri hành hợp nhất), còn Chu Tử
Học chú trọng đến tính (tính tức lý) và tri thức (cách vật cùng lý).
Trong dòng lịch sử tư tưởng, các môn đệ hai bên đã có nhiều cuộc
luận chiến, tranh giành ưu thế (TĐTH Iwanami).
[16] - Học phái muốn dựa trên Công Dương Truyện (sách chú thích
kinh Xuân Thu của Công Dương Cao) để tìm hiểu ý nghĩa thâm sâu (vi
ngôn, đại chỉ) những lời nói của Khổng Tử . Đời Thanh, bắt đầu bằng
Thường Sơn học phái của Trang Tồn Dữ (1719-88), đến Khang Hữu Vi thì
toàn thịnh.