- Đại sư Tông Khách Ba
(1357-1419)
- Thích Hằng Đạt
- Chương III
- Hóa Độ Vua Chúa & Tổ Chức
Pháp Hội Cúng Dường
A. Hóa độ vua
chúa
Lúc trú tại chùa Lạp Đảnh, Đại
Sư viết thơ gởi đến cho vua Tây Tạng là Trát Ba Kiên Tham, để khuyên
ông ta nên dùng Phật pháp trị dân (1). Tương truyền, vua Trát Ba Kiên Tham
(2) chính là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù.
Vào mùa thu năm 1399, đại thần Nam
Khách Tang Bố (Namkha Zangapo) cùng đại a xà lê Duyện Kiếp Thô Trì
(dkon-mchog tshul-khrims) của hạ viện chùa Tang Phác (3), v.v... nhờ người
cung thỉnh Đại Sư vào Lạp Tát. Bấy giờ, Đại Sư cũng muốn đến đó
để lễ bái thánh tượng Phật Thích Ca Mâu Ni, nên chấp thuận lời thỉnh
cầu.
Đến Lạp Tát, Đại Sư trú tại
chùa Bố Đạt Lạp (Potala; bấy giờ chưa có cung điện Bố Đạt Lạp
trang nghiêm vĩ đại như ngày nay, mà chỉ là một ngôi chùa thường) và giảng
thuyết Trung Quán Quang Minh Luận, Bồ Đề Đạo Thứ Đệ, Tỳ Kheo Giới
Kinh, v.v... cho hàng trăm tăng chúng tại các chùa Tang Phác, Đệ Ngõa Cẩn,
Cống Đường, Cát Ngõa Đống, Giác Địa Lũng, v.v...
Nam Khách Tang Bố vốn là đại thần
đắc lực nhất của vua Trát Ba Kiên Tham, và cũng là đại thí chủ của
Đại Sư. Tất cả nhu yếu vật dụng trong kỳ pháp hội giảng kinh đó, đều
do đại thần Nam Khách Tang Bố chu cấp.
Mùa xuân năm 1406, Đại Sư dẫn đồ
chúng đến vùng Sắc Nhạ Kiếp Đảnh để chuyên tu. Một hôm, bất chợt
Đại Sư bảo hai vị đệ tử thượng thủ:
- Chúng ta sẽ gặp chút ít nạn,
nên phải đến những nơi khác để ẩn mật tạm cư trong vài tháng, bằng
ngược lại sẽ gặp bao điều chẳng kiết tường.
Họ liền hỏi:
- Chúng ta phải đến đâu để lánh
nạn?
- Hiện tại Ta không thể nói được.
Đến ngày đó, các ông nghe theo lời dặn dò của Ta là được rồi!
Đêm nọ, thấy đại chúng đều
nghỉ ngơi hết, Đại Sư đột nhiên lặng lẽ dẫn hai đại đệ tử leo lên
ngọn núi Nhạ Khách (Raka-Drag) phía sau vùng Sắc Nhạ Kiếp Đảnh, ẩn cư
nhập thất tĩnh tu trong một hang động.
Bấy giờ, Bồ Tát Văn Thù thường
hiện thân giảng yếu nghĩa của Trung Quán và Duy Thức Học, cùng biện biệt
về sự đồng dị và mối quan hệ giữa hai tông này. Cuối cùng, Bồ Tát
phó chúc:
- Hiện tại, ông có thể dùng nghĩa
lý thâm sâu của hai cổ xe lớn là tông Vô Tự Tánh của Bồ Tát Long Thọ,
cùng tướng tông Duy Thức của đại sĩ Vô Trước, để trước tác, hầu
mong hiển minh lý lẽ liễu nghĩa và bất liễu nghĩa trong kinh điển.
Đại Sư y chiếu theo pháp nghĩa của
Bồ Tát, viết thành văn thư, gọi là "Biện Liễu Bất Liễu Nghĩa Thiện
Thuyết Tạng Luận" (4).
Đối với giáo lý Hiển-Mật, Đại
Sư tự thân tu chứng, đạt đến cảnh giới vô thượng thừa, nên thanh
danh ngày càng vang xa, khiến đại chúng ở bốn phương đều ngưỡng mộ.
Bấy giờ, Minh Thành Tổ (vua Vĩnh Lạc) xa nghe danh đức, nên sai sứ đến
cung nghinh về triều, nhưng Đại Sư từ chối. Năm 1408, để làm lợi ích
cho dân chúng Trung Quốc, vua Minh Thành Tổ phát tâm thâm tín, phái bốn sứ
thần khâm sai cùng hàng trăm danh sĩ tùy viên, mang rất nhiều cúng phẩm,
ân cần đến Tây Tạng phụng thỉnh Đại Sư. Trên đường đi, vì sợ rằng
nếu biết được, Đại Sư sẽ ẩn lánh, nên họ bí mật tiến vào Tây Tạng,
chỉ bảo là đến lễ bái chư thánh giả mà thôi. Lúc đi ngang qua Bồn
Vũ, họ đi vào ban đêm, rồi bất chợt đến Sắc Nhạ Kiếp Đảnh vào
ban ngày. Nào ngờ, lúc họ đến nơi, tăng chúng trong chùa bảo:
- Thật cáo lỗi cùng quý vị thí
chủ! Đại Sư không có ở trong chùa. Vài tháng trước, Đại Sư bỗng nhiên
không cáo từ mà đi mất. Hiện tại chúng tôi cũng không biết Đại Sư
đi đâu.
Nghe qua lời này, bốn sứ thần
khâm sai như bị côn đánh vào đầu, khiến khởi tâm phiền não oán giận,
nên bắt tội Đại Sư có ý lẫn tránh. Cuối cùng, vua Trát Ba Kiên Tham
xác nhận rằng vào vài tháng trước Đại Sư đã đi ẩn tích mà không ai
biết. Nhờ thế, bốn sứ thần khâm sai tạm thời tín nhận.
Về sau, các tông phái ở Tây Tạng
sai hàng trăm đồ chúng đi tìm Đại Sư khắp nơi. Chẳng bao lâu, họ mới
phát hiện là Đại Sư đang ở trong hang núi Nhạ Khách nhập thất tĩnh tu.
Ban đầu, Đại Sư kiên trì không muốn tiếp khách. Sau này, bốn sứ thần
khâm sai nhờ vua Trát Ba Kiên Tham và đại thần Nam Khách Tang Bố chuyển lời
cầu thỉnh của họ cả ba lần, Đại Sư mới trở về Sắc Nhạ Kiếp Đảnh
mà gặp họ, cùng tiếp thọ sự cúng dường. Lúc gặp bốn sứ thần khâm
sai, Đại Sư từ tốn bảo họ rằng nếu vào nội địa (Trung Quốc) thuận
duyên thì ít, còn nghịch duyên thì nhiều. Đồng thời, Đại Sư cũng viết
thơ gởi đến vua Vĩnh Lạc, bày tỏ rằng đối với sự cung ngưỡng lần
này, tự tri ân vô vàn, và cảm thấy muôn phần thiếu sót, cùng nêu rõ
lý do không đến Trung Quốc được, chẳng phải do coi thường sắc lịnh của
nhà vua, mà vì có các lý do khác (5).
Ngoài việc này ra, Đại Sư chấp
thuận tiếp thọ rất nhiều lễ vật trân quý do vua Vĩnh Lạc cúng dường
như vàng, bạc, ngọc thạch, v.v... Bấy giờ, đại chúng ai ai cũng đều tán
thán Đại Sư, do có thần thông biết trước nên lánh mặt; Đại Sư thi
thiết phương tiện thiện xảo, nên giữ được mối hòa khí giữa Tây Tạng
và Trung Quốc.
Do Đại Sư dùng lời nhu hòa thiện
xảo từ chối không đi, nên bốn sứ thần khâm sai khẩn thỉnh Đại Sư hãy
phái đệ tử thượng thủ đại diện vào kinh để an ủi nhà vua, nếu
không họ chẳng dám trở về triều phụng mạng. Thấy đệ tử thượng thủ
là Thích Ca Dã Hiệp (6) cơ duyên đã thành thục, nên Đại Sư phái vị
này làm đại diện để vào kinh đô.
Vua Minh Vĩnh Lạc thấy Thích Ca Dã
Hiệp học thức và oai đức thâm cao, tướng mạo phi phàm, nên tâm rất
vui mừng, và ban hiệu là "Diệu Giác Viên Thông Tây Thiên Phật Tử Đại
Quốc Sư", cùng thỉnh cầu rất nhiều pháp nghĩa.
Năm 1434, vua Minh Tuyên Tông cũng ban
cho Thích Ca Dã Hiệp danh hiệu là "Đại Từ Pháp Vương". Sau này
Thích Ca Dã Hiệp hoằng dương chánh pháp tại Trung Quốc và Mông Cổ. Trải
qua bao đời, dân chúng đều biết đến danh hiệu "Cảnh Gia Quốc
Sư" của Thích Ca Dã Hiệp (7).
B. Tổ chức
pháp hội cúng dường và cầu nguyện
Đầu tháng giêng năm 1399, từ A Khách,
Đại Sư đến Tinh Kỳ. Y theo truyện Phật Thích Ca Mâu Ni hiện đại thần
thông suốt nửa tháng (1) trong kinh Hiền Ngu Nhân Duyên, Đại Sư cử hành
pháp hội cúng dường cầu nguyện trước thánh tượng Di Lặc.
Trong kỳ pháp hội nầy, Đại Sư
chí tâm khẩn cầu mười phương chư Như Lai mở lòng nạp thọ, và nguyện
hồi hướng tất cả công đức cho thánh giáo được mãi mãi trụ tại thế
gian, để cứu độ chúng sanh, khiến họ được giải thoát an lạc. Vừa dứt
lời cầu nguyện, Đại Sư chợt thấy chư Phật hiện thân biến mãn đầy
khắp vùng trời phương đông; mỗi vị hiện thân tướng hảo trắng trong,
quang minh chiếu khắp, đồng như Phật Tỳ Lô Giá Na. Kế đến vô lượng
chư Phật ở phía nam, tây, bắc cùng thượng phương, cũng theo thứ lớp hiện
thân sắc vàng, đỏ, đen, xanh da trời; các ngài đồng với Phật Bảo
Sanh, Phật Vô Lượng Quang, Phật Bất Không Thành Tựu, Phật Bất Động,
v.v... không khác.
Lúc ấy, Đại Sư tuyên giảng vô lượng
giáo nghĩa Hiển-Mật cho hơn hai trăm vị tam tạng pháp sư (đại A Xà Lê
Đạt Mã Nhân Cần làm thượng thủ), khiến họ đều an trú nơi hợp nhất
của giáo pháp Hiển-Mật.
Lúc còn ở tại Sắc Nhạ Kiếp Đảnh
(1407), Đại Sư dự định vào đầu năm 1409 sẽ tổ chức pháp hội cầu
nguyện tại chùa Đại Chiêu ở Lạp Tát. Bấy giờ, Đại Sư đã từng
phó chúc cho đại thần Nam Khách Tang Bố lo việc hộ trì pháp hội.
Đại thần Nam Khách Tang Bố y chiếu
theo lời dạy của Đại Sư, lập tức chuẩn bị tất cả vật dụng nhu yếu
cho pháp hội, cùng tu sửa chùa Đại Chiêu. Thấy có hư ở đâu, ông đều
chân thành xuất tiền tài và sức lực ra để tu bổ mà không nệ hà. Mùa
thu năm 1408, mái ngói của chùa Đại Chiêu hoàn toàn được sửa chữa tu bổ.
Đầu mùa thu năm 1408, vua Trát Ba
Kiên Tham cung thỉnh Đại Sư đến Chủng Bất Lũng (2), vì tăng chúng cùng
hàng ngàn người Phật tử ở khắp nơi mà giảng pháp nghĩa Bồ Đề Đạo
Thứ Đệ Quảng Luận. Khi ấy, Đại Sư cũng khuyến tấn vua Trát Kiên Ba
Tham hộ trì pháp hội đó.
Vua Trát Ba Kiên Tham cũng có danh hiệu
là Hộ Pháp Đại Vương. Từ khi lên ngôi, nhà vua thường tạo mối giao hảo
với các nước láng giềng, dạy dân chúng làm lành, xây dựng chùa tháp,
khắc kinh tạo luận, cùng hộ trì chư đại đức giảng kinh thuyết pháp.
Được biết Đại Sư định tổ chức đại pháp hội cầu nguyện trùng hưng
cúng dường với nhiều ý nghĩa hệ trọng, nên nhà vua chẳng đắn đo mà
chấp thuận làm vị đại hộ pháp.
Lúc tới Chủng Bất Lũng, Đại Sư
phái các đại đệ tử đến các vùng Chỉ Công, Nhạ Trân, Văn Địa, A Khách,
v.v... giáo hóa tất cả tăng chúng trong các tự viện lớn nhỏ, cùng các
quan lại thí chủ và môn đồ, để khiến họ tăng trưởng tín tâm và tu
phước lành.
Vùng Vệ Tạng tuy dân chúng sống
thưa thớt, nhưng nhờ bi nguyện của Đại Sư chiêu cảm, khiến long thần
hộ trì, nên người người ở các nơi đua nhau đem đồ vật đến cúng dường
không dứt. Đại Sư và các đệ tử trong các pháp hội cúng dường vào
mùa xuân, thường hồi hướng công đức, cùng cầu nguyện cho đàn na tín
thí đều đạt được mọi việc thuận lợi viên mãn.
Y cứ theo kinh Hiền Ngu, phẩm Hàng
Phục Lục Sư Ngoại Đạo viết:
- Phật Thích Ca Mâu Ni xưa kia từ mồng
một cho đến rằm tháng giêng, tại nước Xá Vệ hiển hiện các đại thần
thông, hàng phục sáu loại tà sư tà ma ngoại đạo, cùng các tín đồ u mê,
khiến đoạn đứt thân quyến ma vương, kiến lập đàn tràng chánh pháp.
Đức Thế Tôn hóa thân biến khắp cõi trời Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương,
Sắc Cứu Cánh Thiên, cho đến ba ngàn đại thiên thế giới. Thân Phật
trang nghiêm oai đức cao hiển, phóng hào quang rộng lớn, thuyết pháp cho đại
chúng đang vây nhiễu xung quanh. Do thần biến thiện xảo của đức Như
Lai, nên giải trừ cứu khổ cho vô lượng chúng sanh, xa lìa những nơi tội
ác nhuận sanh bất thiện. Người chưa đủ thiện căn, thì khiến cho họ
trồng thiện căn. Người đã có thiện căn đầy đủ, thì khiến cho thiện
căn tăng trưởng. Người thiện căn chưa thành thục, thì khiến cho họ mau
chóng được thành thục; người có thiện căn thành thục, thì khiến cho họ
hoàn toàn đắc được giải thoát. Lại có chúng sanh nhân đó mà phát tâm
Bồ Đề rộng lớn, đạt đến nơi bất thối chuyển. Lại có chúng sanh
nhân đó mà chứng đắc quả A La Hán. Đó gọi là pháp hội 'Như Lai Hiện
Đại Thần Biến'.
Chư đại pháp sư ở Ấn Độ vào
thuở xưa, mỗi khi gặp những pháp hội thù thắng này, đều thi thiết bao
loại cúng phẩm vật thượng diệu, để cúng dường Tam Bảo, tụng kinh phát
nguyện, ban phước cho chúng sanh. Từ khi Phật pháp được truyền vào Tây
Tạng, chư đại thiện tri thức cũng y chiếu quy củ ở Ấn Độ, theo như
pháp mà cử hành đại pháp hội cúng dường. Giờ đây, nhằm thời mạt
pháp, Phật pháp suy vi, pháp hội cúng dường cũng từ từ mai một. Đại
Sư do đại nguyện trong tiền kiếp, trên vì muốn pháp luân thường chuyển
thánh giáo mãi trụ tại thế gian, và dưới vì khiến chúng sanh tu tập phước
huệ, đạt được lợi ích vô tận, nên phát tâm rộng lớn, trù lượng
trùng hưng pháp hội cúng dường Phật Hiện Đại Thần Biến.
Cuối mùa thu năm 1408, để trang
nghiêm pháp hội, Đại Sư đặc biệt cho vời họa sĩ đến chùa Đại Chiêu,
tu bổ thếp phấn vàng lên các thánh tượng. Trong thời gian ngắn, các
thánh tượng đều được tu bổ trang nghiêm như xưa. Ngoài ra, Đại Sư nhờ
tất cả thợ thủ công thiện xảo ở toàn Tây Tạng dùng những vải lụa
của các thí chủ cúng dường, may lại hết tất cả y ca sa trên các thánh
tượng Phật và Bồ Tát, cùng các tràng phan bảo cái khiến trang nghiêm lộng
lẫy.
Cuối tháng chạp, công tác chuẩn bị
cho pháp hội vừa được hoàn tất, Đại Sư mới rời Chủng Bất Lũng để
đến Lạp Tát (Lhasa).
Vào đêm trù tịch, Đại Sư vân tập
hơn tám ngàn đại danh tăng, lên chánh điện chùa Đại Chiêu, để làm lễ
cúng dường. Vào ngày đó, Đại Sư cùng đồ chúng cúng dường hết tất
cả vật dụng cho tăng chúng.
Mười lăm ngày đầu tháng giêng
chính là thời gian hành pháp hội Hiện Đại Thần Thông của Phật Thích
Ca. Chư Phật trong đời quá khứ cũng hiển hiện bao loại thần thông khác
nhau trong khoảng thời gian này; các vị đại thí chủ lần lượt thay nhau
cúng dường trong mỗi ngày. Pháp hội cúng dường hôm nay cũng y chiếu theo
pháp thức đó. Mỗi ngày đều có một thí chủ cúng dường các phẩm vật
khác nhau.
Trong kỳ pháp hội, Đại Sư cúng dường
thánh tượng Phật Thích Ca (3) một cái mũ có năm tượng Phật bằng vàng
kim. Trên chiếc mũ có gắn rất nhiều ngọc trai, ngọc quý cùng đá quý;
điêu khắc rất tinh vi, hình lượng cao quý trang nghiêm. Cúng dường các
chiếc mũ có năm tượng Phật vàng kim cho tượng Phật Bất Động Kim Cang
(do công chúa nước Ni Bạc Nhĩ (Nepal) mang sang), cùng tượng Quán Thế Âm mười
sáu mặt (4). Trên các chiếc mũ đó cũng dùng rất nhiều bảo vật trân
quý để trang sức.
Trong hai ngày mồng tám và rằm
tháng giêng, Đại Sư mời các thợ đắp tượng thiện xảo, đến phết phấn
vàng lên trên thân của thánh tượng Phật Thích Ca, Phật Bất Động Kim
Cang, Bồ Tát Quán Thế Âm mười sáu mặt. Vào giữa trưa của những ngày
khác, họ đều chuyên tô đắp những thánh tượng khác.
Ngoài ra, Đại Sư còn cúng dường
lên thánh tượng Phật Thích Ca một bình bát bằng vàng ròng, cùng một tấm
đà la ni bằng bạc; cúng dường y ca sa và bình bát cho các tôn tượng Phật
Bồ Tát có hình tướng xuất gia; cúng dường bảo y và pháp khí cho tôn tượng
Phật hiện báo thân, Bồ Tát, Minh Vương, Hộ Pháp, v.v...
Các chánh điện trong chùa Đại Chiêu
đều được trang nghiêm và sắp đặt y chiếu theo các bộ kinh điển Hiển-Mật.
Phía trên treo những màn dây báu; bên dưới giăng những cờ hiệu, phất
linh, tràng hoa anh lạc, cùng các phẩm vật trang nghiêm. Dọc theo những con
đường lớn vây quanh ngôi chùa có đặt các cột trụ cao. Trên mỗi cột
trụ đều giăng tràng phan lớn. Trên đỉnh năm trụ chính ở các phía Đông,
Tây, Nam, Bắc, và chính giữa đều được an trí tôn tượng Phật Tỳ Lô
Giá Na, Phật Bảo Sanh, Phật Vô Lượng Quang, Phật Bất Không Thành Tựu,
Phật Bất Động, v.v... Đồng thời, trên các tràng phan của mười lăm trụ
khác có vẽ các tấm Đà La Ni dài ngắn của Phật. Vào mỗi buổi tối, đều
y theo nghi thức tu pháp mà cúng dường các phẩm vật bên dưới các cờ hiệu
ở trên đàn tràng. Ngoài ra, trên các con đường lớn dẫn vào chùa, đều
dựng những tràng phan bảo cái, cùng các cây dù màu trắng to lớn. Vào mỗi
buổi tối, cũng y chiếu theo nghi thức mà dâng phẩm vật cúng dường. Nơi
các cây tràng phan, đều y chiếu theo kinh Bát Nhã mà giăng treo những sợi
dây lụa năm màu. Nhìn xa xa, hội trường của pháp hội nổi bậc sáng
chói rực rỡ, khiến ai ai cũng đều sanh tâm hoan hỶ.
Tại chánh điện có ba vòng đường
là trong, ngoài và chính giữa. Trong kỳ pháp hội, luôn cúng bốn trăm ngọn
đèn ở vòng trong, một trăm ngọn đèn ở vòng giữa, không kể ngày đêm.
Vòng ngoài, đối diện với tôn tượng Phật Thích Ca đặt một trụ đèn
hình vuông lớn bằng đá, chiều cao hơn mười thước; trên đỉnh trụ đặt
một ngọn đèn thật lớn chứa đầy dầu tô lạc. Ngọn đèn vừa thắp
bèn tỏa sáng cả một vùng trời chiếu xa hàng dặm. Ngoài ra, dọc theo
vòng này còn có vô số trụ đèn nhỏ dài ngắn khác nhau như cánh tay. Ngọn
đèn trên chánh điện Phật, ngày đêm cháy sáng không tắt, khiến ánh
sáng vàng tỏa chiếu, tựa như vầng mặt trời và mặt trăng.
Nước cúng trong chánh điện Phật,
toàn là nước hoa hồng màu vàng kim. Mỗi ngày thay nước cả một trăm lần,
với màu sắc của hoa hồng. Bốn bên chung quanh chánh điện Phật đều dùng
nước hương mà rải, và có các tràng hoa, dù hoa, cùng trầm hương; trong
chánh điện suốt ngày tỏa xông khói hương không dứt.
Bên cạnh các cây đèn dầu tô lạc
ở hai bên trái phải, đều có an trí một trăm đấu phẩm vật bằng đồ
trân báu. Bên trên được trang nghiêm bằng rất nhiều tô dầu hoa. Ngoài
ra, các phẩm vật cúng dường được sắp chồng lên cao hơn ba thước, mà
cả thảy là 108 chỗ; tất cả đều được trang nghiêm bằng các loại hoa
và tô dầu. Ngày ngày, cúng phẩm đều được thay đổi. Những cúng phẩm
đã được cúng dường và thay đổi, đều được đem bố thí cho những
người đói khổ, hoặc những người bịnh hoạn tàn tật, v.v...
Các cúng phẩm thanh tịnh viên mãn
đều do chú ấn tam muội của Đại Sư gia trì, khiến thành đại lạc cam
lộ. Về sau, chư đại tam tạng pháp sư, tỳ kheo trì giới thanh tịnh, y
theo nghi thức được thuyết trong các bộ kinh điển Hiển-Mật mà chí
thành lễ bái tụng kinh cúng dường. Trong mười lăm ngày của pháp hội, mười
phương chư Phật và Bồ Tát cùng chư thánh chúng hải hội, đều giáng
lâm nạp thọ.
Trong pháp hội 'Cúng Dường Phật
Hiện Đại Thần Biến', trên đảnh đầu của Đại Sư có hiện ba tôn bộ
chủ như Bồ Tát Văn Thù (Phật bộ), Bồ Tát Quán Thế Âm (Liên Hoa Bộ),
Bồ Tát Kim Cang Quyền Thủ (Kim Cang Bộ). Bốn bên bộ chủ lại có vô lượng
thiện thần hộ pháp vây nhiễu xung quanh, để phòng hộ sự gia nạn của
yêu ma quỶ quái.
Bấy giờ có một vị đạt đại
thành tựu, tên là Cô Quyết, hiệu Vô Lượng Quang Kim Cang, vừa ra khỏi thất,
từ núi Nhạ Khách ở vùng phụ cận của Lạp Tát đến. Trên đường đi
ngang qua Lãng Cần Đống, vị này gặp ngài Hà Ngõa Nhật Ba (5). Vị này
bèn hỏi:
- Xin hỏi Tôn Giả! Ngài vội đi đâu
vậy?
Tôn giả Hà Ngõa Nhật Ba đáp:
- Chúng ta, tám mươi bốn nhà đại
thành tựu, ứng theo lời cầu thỉnh của pháp vương Hiền Huệ (6), đi đến
chùa Đại Chiêu. Chư vị có đại thần thông đã đi trước, còn Ta đi chậm
một chút, nên muốn đuổi kịp theo!
Nghe lời này, ngài Cô Quyết cũng
đi theo tôn giả Hà Ngõa Nhật Ba để tham dự pháp hội.
Trong kỳ pháp hội, đang lúc đại
chúng tụng danh hiệu ba mươi lăm vị Phật, thì ngài Cô Quyết thấy trên
hư không, mười phương chư Phật hiện thân đầy khắp. Ở hạ phương, có
ba mươi lăm vị như Dược Sư Thất Phật, Di Lặc Bồ Tát, Vô Lượng Thọ
Phật, Độ Mẫu, Bạch Tản Cái, Diệu Âm Thiên Nữ, tám mươi vị đại thần
thông thành tựu, v.v... hiển hiện những điềm lành hy hữu.
Trong mười lăm ngày đó, Đại Sư
diễn giảng bộ kinh luận Phật Bổn Sanh (7) do Bồ Tát Mã Minh trước tác,
liên tục không gián đoạn. Lần đó, chư tăng kẻ tục đến tham gia pháp
hội cúng dường có cả trăm ngàn người. Ai ai cũng đều rất mực tinh tấn.
Trừ việc nghe giảng kinh, tụng kinh, còn có hàng chục ngàn người phát
nguyện không ăn sáng, cho đến ít ngủ nghỉ, mà lễ Phật liên tiếp. Nhờ
cộng lực tinh tấn tu hành của pháp hội cùng sự gia trì của chư Phật và
Bồ Tát mà vô hình chung chuyển hóa được nhiều kẻ có tâm tánh hung dữ
tàn ác.
Vào đêm nọ, Đại Sư mộng thấy
một người phụ nữ thân hình to lớn, dùng hai tay ôm chầm lấy ngôi chùa
như muốn che lại. Đại Sư thấy vậy bèn hỏi:
- Bà làm gì vậy?
Bà ta đáp:
- Vì muốn phòng hộ tai nạn hỏa
hoạn!
Tối hôm sau, dầu tô trong trụ đèn
đá to trước cửa chánh điện cạn rất mau; vị thầy tri sự quên đổ thêm
dầu vào. Bỗng nhiên, tim đèn cháy phựt dữ dội, chiếu sáng một góc trời.
Những người trong đạo tràng đều run sợ vô vàn. Thấy vậy, Đại Sư liền
vào thất ngay trước mật đàn, mà nhập tam ma địa. Chốc lát sau, bên
ngoài gió ngừng thổi, nên đại chúng lập tức hạ trụ đèn xuống dập
tắt ngọn lửa để tránh hỏa hoạn cho chùa.
Ngày nọ, Đại Sư mộng thấy tại
vùng phụ cận của Lạp Tát có vô số chúng sanh bay đi trên hư không. Đại
Sư hỏi họ:
- Quý vị bay đi đâu vậy?
Họ đáp:
- Trong pháp hội cúng dường, nhờ
cúng dường chư Phật mà chúng con đạt được vô lượng công đức, nên
nay được vãng sanh lên cõi Phạm Thiên!
Những điềm lành trong kỳ pháp hội
đó, nhiều không kể hết. Điều này cho thấy rằng công đức của kỳ pháp
hội cúng dường cầu nguyện do Đại Sư tổ chức, thật rộng lớn vô
biên, mà người phàm phu không tài nào nghĩ thấu.
Lúc ấy, đại thần Nam Khách Tang Bố
cùng với người cháu họ là Ban Giác Kết Bố (Dpal-'byor rgyol-po) nhận
trách nhiệm tiếp đãi quan khách cùng chư tăng từ xa đến, và quán xuyến
mọi việc trong pháp hội. Vua Trát Ba Kiên Tham là đại thí chủ chính của
kỳ pháp hội này.