Trang tiếng Anh

      Đạo Phật Ngày Nay 

Trang tiếng Việt

   

...... ... .  . .  .  .
Đại sư Tông Khách Ba (1357-1419)
Thích Hằng Đạt

Chương V
Vị Tổ Sư của Phái Hoàng Giáo (Gelugpa, Cách Lỗ hay tân Ca Đương

Ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa là một trong những bậc sư trưởng, và là vị ảnh hưởng rất lớn, cùng có thâm ân sâu sắc đối với Đại Sư. Vì vậy, Đại Sư tôn thờ là "Tôn Sư Căn Bổn" (1). Lần nọ, khi ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa đến Tiền Tạng, Đại Sư bèn qua đó để ngưỡng đón. Lúc dâng cúng "Cáp Đạt" xong, Đại Sư lập tức trình kệ, tán thán ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa:

"Mắt quán xem bậc đại từ bi chẳng thể bàn
Thượng Sư trí vô cấu lợi sanh vi diệu âm
Mật chủ tiêu diệt quần yêu ma chẳng còn thừa
Bậc thắng hiền trên đỉnh Tuyết Lãnh Nhân Đạt Ngõa
Cầu nguyện dưới chân hoa sen Tuyên Nô La Truy".

Xem qua, ngài Kết Tôn Nhân Đạt Ngõa khiêm nhường bảo:

- Ta không có đức độ như thế. Những câu tán thán này phải dành cho ông.

Nói xong, ngài Kết Tôn Đạt Ngõa đổi hai câu kệ cuối để tán thán Đại Sư:

"Mắt quán xem bậc đại từ bi chẳng thể bàn
Thượng Sư trí vô cấu lợi sanh vi diệu âm
Mật chủ tiêu diệt quần yêu ma chẳng còn thừa
Bậc thắng hiền trên đỉnh Tuyết Lãnh Tông Khách Ba
Cầu nguyện dưới chân hoa sen Thiện Huệ Xưng Dương".

Sau này, chư đệ tử của Đại Sư giải thích về những câu kệ này với hai ý nghĩa ẩn và hiển.

Về hiển ý thì câu thứ nhất tán thán công đức đại từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm. Câu thứ hai tán thán công đức trí huệ của Bồ Tát Văn Thù. Câu thứ ba tán thán công đức của Bồ Tát Kim Cang Thủ (mật chủ). Câu thứ tư tán thán Đại Sư có đầy đủ công đức của ba vị Bồ Tát ở trên. Câu thứ năm nói về người trì tụng và cầu nguyện dưới tòa của Đại Sư.

Về mật ý thì có ba loại. Thứ nhất là tướng ví dụ ở bên ngoài; việc này bàn về ba bộ chủ, tức Bồ Tát Quán Thế Âm (bộ Liên Hoa), Bồ Tát Văn Thù (bộ Phật), Bồ Tát Kim Cang Thủ (bộ Kim Cang). Trong tất cả chúng hội của chư Phật và chư Bồ Tát, một vị đại biểu cho tâm đại bi thật thù thắng, một vị đại biểu cho trí huệ thật thù thắng, một vị đại biểu cho thần lực thật thù thắng. Ở Tây Tạng, trong đời mạt pháp, Đại Sư nương tựa theo ba loại công đức thật thù thắng đó.

Thứ hai là công đức nội chứng. Tâm đại bi của tất cả chư Phật, Bồ Tát Quán Thế Âm đều có đầy đủ. Trí huệ của tất cả chư Phật, Bồ Tát Văn Thù đều có đầy đủ. Thần lực của tất cả chư Phật, Bồ Tát Kim Cang Thủ đều có đầy đủ. Công đức bi, trí, lực, Đại Sư đều có đầy đủ.

Thứ ba là Bổn Tôn bí mật. Hiện thân sắc tướng đại bi của chư Phật là Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng không rời chư Phật mà có Bồ Tát Quán Thế Âm. Hiện thân sắc tướng đại trí của chư Phật là Bồ Tát Văn Thù, nhưng không rời chư Phật mà có Bồ Tát Văn Thù. Hiện thân sắc tướng đại thần lực của chư Phật là Bồ Tát Kim Cang Thủ, nhưng không rời chư Phật mà có Bồ Tát Kim Cang Thủ. Hiện thân sắc tướng đại bi, đại trí, đại thần lực của ba vị Bồ Tát đó là Đại Sư.

Tổng quát, công đức bi, trí, dũng của ba vị Bổn Tôn, Đại Sư đều có đầy đủ. Tu trì Mật pháp của ba vị Bổn Tôn này thì mau chóng được cảm ứng, khai mở trí huệ, và hàng phục ma quân.

Xưa kia, tại Tây Tạng có một vị đại Lạt Ma tu hành trong núi Tuyết Sơn. Bên dưới chân núi có một căn nhà luôn bị ma Cụ Cáp Nhĩ gia hoạn. Người trong nhà vì chịu không nổi những sự ưu phiền nên thỉnh mời rất nhiều vị cao nhân đến trị ma, nhưng vẫn không hiệu quả. Ngày nọ, trong thôn có một chú mục đồng, vô tình đi đến nơi vị đại Lạt Ma đang tu hành, và kể lại sự việc về căn nhà đó. Nghe xong, vị đại Lạt Ma này đưa cho chú mục đồng một đôi dép và một xâu chuỗi, rồi dặn dò rằng khi ma đi vào nhà, phải để đôi dép ở trước cửa, và lấy các hạt châu trong xâu chuỗi mà rải chung quanh vách tường. Đêm hôm đó, chú mục đồng vừa thấy ma đi vào bức hại người trong nhà, lập tức làm theo lời chỉ dạy của vị đại Lạt Ma. Trong khoảnh khắc, ma thấy chung quanh căn nhà đều có vô lượng thần Kim Cang hộ pháp, và bên ngoài cổng lại có Bồ Tát Kim Cang Thủ đứng thủ hộ, nên vô cùng sợ hãi. Bấy giờ, đại Lạt Ma cũng vừa đi đến. Ma liền quỳ xuống cầu xin đại Lạt Ma đừng bắt nhốt nó. Vị đại Lạt Ma bảo:

- Có thể tha ngươi ra nhưng với điều kiện là phải tuân theo lời dạy của Ta. Ta cấm ngươi không được làm nhiễu loạn những ai đọc tụng bài kệ này 108 lần.

Ma miễn cưỡng vâng chịu. Xưa kia, ở Tây Tạng, người tu hành nào đạt được chút ít sự tăng thượng hay sắp thành tựu, thì ma Cụ Cáp Nhĩ quyết không tha. Song, hung dữ và đầy oai lực như ma Cụ Cáp Nhĩ mà còn bị hàng phục, nên những con ma khác không còn dám lộng hành. Về sau, bài kệ cầu nguyện của Đại Sư được phổ biến khắp Tây Khương và Tây Tạng. Ai tu trì bài kệ cầu nguyện đó, sẽ được sự gia trì thù thắng của Đại Sư mà tiêu vơi ma chướng, thành tựu phước đức viên mãn.

Xưa kia, vào mùa hạ năm 1399, chư tăng kẻ tục ở Ngưỡng Ba (nyang-po) chí thành ân cần ngưỡng thỉnh Đại Sư đến chùa Đáng Đóa (mdangs-mdo) an cư kiết hạ, cùng chuyển đại pháp luân.

Dọc đường đến Ngưỡng Ba, chiếc mũ màu vàng của Đại Sư bị gió thổi rơi xuống sông, rồi trôi đi mất. Bấy giờ, Đại Sư chỉ chiếc mũ màu vàng mà thọ ký:

- Giáo pháp của Ta sẽ như dòng sông, chảy mãi không đoạn đứt, không khô cạn. Nơi nào chiếc mũ vàng dừng lại, thì nơi đó sẽ kiến lập đạo tràng của học thuyết Trung Quán.

Chiếc mũ màu vàng của Đại Sư cuối cùng trôi dạt đến vùng Tang Tinh Cương của Ngưỡng Ba. Về sau, một đại đệ tử tài ba của Đại Sư quả nhiên kiến lập đạo tràng Đại Thừa Pháp Luân Châu và hoằng dương học phái Trung Quán. Điều này thật phù hợp với lời thọ ký của Đại Sư.

Lúc Đại Sư trú tại chùa Cát Ngõa Đống, Bồ Tát Văn Thù hiện thân phó chúc:

- Chẳng bao lâu, lúc đang giảng kinh tại Nõa Kiếp Lũng, ông sẽ đánh rơi một cái răng. Ông nên đem cái răng đó, đưa cho Khắc Chủ Kiệt để làm điềm lành cho sự hoằng dương chánh pháp, lợi ích loài hữu tình trong tương lai.

Về sau, khi Đại Sư trú tại Nõa Kiếp Lũng, Bổn Tôn của bốn bộ Mật Thừa, cùng ba mươi lăm vị Phật, đều hiện thân gia trì.

Sáng nọ, Khắc Chủ Kiệt bạch Đại Sư:

- Đêm qua, con mộng thấy được Tôn Sư thọ ký, nên hôm nay đặc biệt đến đây khẩn thỉnh. Xin Tôn Sư từ bi vì chúng con mà giảng nhiếp nghĩa của bốn bộ Mật pháp (2).

Đại Sư vui mừng chấp thuận, bảo:

- Ta rất tùy hỶ!

Đại Sư bèn ban truyền yếu chỉ thậm thâm của bốn bộ Mật Thừa cho đồ chúng. Một hôm, vào lúc giữa trưa, Đại Sư lên pháp tòa giảng kinh. Đại chúng thấy từ miệng Đại Sư chợt phóng ra một luồng hào quang, chiếu khắp hư không; có người lại thấy luồng hào quang có đủ năm màu rực rỡ. Bấy giờ, chỉ có các đại đệ tử là đại A Xà Lê Đạt Mã Nhân Cần, trì luật Trát Ba Kiên Tham (3), và tâm tử (4) Khắc Chủ Kiệt đều thấy Đại Sư đánh rơi một cái răng. Khi đó, Đại Sư liền tụng bài kệ:

"Trụ trước diệu cao như núi vàng

Thí cùng ngươi thiện diệu ai bằng (5)".

Tụng bài kệ xong, Đại Sư trao chiếc răng cho Khắc Chủ Kiệt. Đạt Mã Nhân Cần và Trát Ba Kiên Tham thấy vậy bèn cầu thỉnh:

- Bạch Tôn Sư! Xin hãy cho chúng con một chiếc răng khác!

Đại Sư bảo:

- Chẳng phải Ta không muốn cho các ông, mà vì Khắc Chủ Kiệt đã có đầy đủ túc duyên thọ nhận chiếc răng này, ứng với lời huyền ký của bổn tôn Bồ Tát Văn Thù. Nếu các ông khẩn thành cầu nguyện, thì trong bảy ngày, Ta sẽ cho vài vật khác.

Đại Sư vừa nói dứt lời, Khắc Chủ Kiệt mang chiếc răng đó trở về tịnh thất, và ân cần cúng dường. Trong giây lát, chiếc răng đó tự nhiên phóng ra năm luồng hào quang rực rỡ, chiếu khắp mọi nơi. Bảy ngày sau, Đại Sư bảo Khắc Chủ Kiệt mang chiếc răng đó ra xem. Sau khi trần thiết hương hoa vi diệu cúng dường, cùng dùng bao loại lễ tán xong, đại chúng mở hộp đựng răng ra xem, thì chợt thấy từ trong chiếc hộp đựng răng phóng ra ánh sáng năm màu rực rỡ chiếu khắp bốn phuơng, thẳng suốt trời xanh, và nghe có mùi hương vi diệu nhẹ nhàng bay tỏa khắp tự viện. Chiếc răng đó, sớm thần dị biến thành thánh tượng Bồ Tát Văn Thù, tướng hảo trang nghiêm, rất sống động. Toàn thân của thánh tượng đầy cả các xá lợi với nhiều màu sắc. Đại chúng tận mắt thấy được việc này, nên kinh hoàng, và ai nấy cũng lộ vẻ vui mừng hớn hở, cùng cho là việc chưa từng có.

Đại Sư lấy xá lợi trên toàn thân của thánh tượng Văn Thù, như xá lợi ở trên đỉnh đầu có hình xoắn ốc, đưa cho Dũng Mãnh Kim Cang. Lấy xá lợi thánh tượng ở trên trán, như xá lợi bằng thủy tinh đưa cho đại A Xà Lê Đạt Mã Nhân Cần. Lấy xá lợi thánh tượng ở yết hầu, như xá lợi màu vàng kim, đưa cho Tỳ Nại Da Thi La; lấy xá lợi thánh tượng ở ngực như xá lợi màu lưu ly, đưa cho trì luật Trát Ba Kiên Tham. Còn lại chín trăm chín mươi tám hột xá lợi đưa cho tăng chúng trong đạo tràng.

Tuy đồ chúng mỗi ngày một đông đảo, nhưng Đại Sư lại không có đạo tràng giảng kinh cố định. Vì vậy, cứ mỗi kỳ pháp hội, Đại Sư và đồ chúng lại phải nhọc nhằn đi từ chùa này đến chùa khác để thuyết pháp và nghe giảng. Do đó, rất nhiều đại đệ tử thượng thủ cùng các đại thí chủ thường thỉnh cầu Đại Sư kiến lập chùa chiền để có nơi an định cho đồ chúng, cũng như có một đạo tràng căn bản để hoằng dương Phật pháp. Ý kiến trên được mọi người hoan hỶ tán trợ. Có người muốn cúng dường tự viện của họ. Có người muốn cúng dường vật liệu xây cất chùa chiền.

Vui mừng nhận thấy nhân duyên cất chùa đã đến, Đại Sư thành tâm nguyện cầu Phật Thích Ca gia hộ cho Ngài tìm được địa điểm thích hợp để lập chùa. Cầu nguyện xong, Đại Sư quán sát tường tận tướng trạng của các ngọn đèn, rồi kết hợp với những điềm mộng. Kết quả, cạnh vùng núi Vượng Cổ Nhĩ (Drogri) cách Lạp Tát năm mươi dặm về phía đông là nơi thích hợp nhất để lập ngôi A Lan Nhã kiết tường. Thật ra, trong đời tiền kiếp, đấy là nơi mà đức Phật Thích Ca đã từng thọ ký cho Đại Sư lập đạo tràng hoằng dương Phật pháp.

Pháp hội 'Cúng Dường Phật Hiện Thần Biến' vào tháng giêng năm 1409 vừa viên mãn, Đại Sư tự thân đến vùng đất đó để chú nguyện gia trì, rồi phái đại A Xà Lê Đạt Mã Nhân Cần, cùng Trát Ba Kiên Tham (6) dẫn tăng chúng, tôn chiếu theo lời chỉ dạy của Đại Sư mà xây cất chùa Cách Đăng (7) vào năm 1409.

Ban đầu, chư tăng kẻ tục từ bốn phương đổ dồn về. Người có sức thì ra công sức; kẻ có tiền tài thì cúng dường tiền tài. Vì vậy, trong vòng một năm, xây cất hơn bảy mươi ngôi tòa viện. Quy tắc xây cất phòng xá, hoàn toàn y chiếu theo giới luật mà tiến hành. Trước tiên, phải quán sát địa lý mà lập bày, rồi lại phải tuyên bố trước toàn thể tăng chúng. Được tất cả chư tăng chấp thuận rồi, mới bắt tay vào công tác xây cất. Họa đồ xây cất phòng xá, tăng xá, đại điện, nhà ăn, nhà bếp, v.v... hết thảy đều phải phù hợp theo quy định của giới luật. Cách thức xây chùa Cách Đăng, tùy theo mỗi công việc lớn hay nhỏ, Đại Sư đều làm theo quy định của giới luật, tức là tự thân thực tiễn hoằng dương giới luật.

Phái Hoàng Giáo (hay Hoàng Mão) do Đại Sư sáng lập, cũng gọi là phái Cách Lỗ, lấy tên chùa đặt tên tông phái (phái chùa Cách Đăng). Người Tây Tạng gọi danh từ "Phái" là "Lỗ". Gọi tắt câu Cách Đăng Cụ Lỗ là Két Lỗ. Người Tây Tạng khi phát âm thì đọc trật đi thành Cách Lỗ. Vì vậy, Hoàng Giáo xưng là Cách Lỗ Ba. Ngoài ra, có người bảo rằng ý nghĩa của phái Cách Lỗ là phái Thiện Quy, do vì ngôi chùa này đề xướng tôn thủ giới luật nghiêm mật.

Lại nữa, tên phái Cách Đăng này vốn là lời dự đoán của tôn giả A Để Sa khi vào Tây Tạng truyền pháp. Quyển Cát Lôi Bang thứ 26, phẩm Vị Lai Thọ Ký, viết: "Ngọn lửa chánh pháp cuối cùng do Danh Xưng thắp lên, tạo ra vô lượng lợi ích; đó là Thắng Xứ Sĩ".

"Danh Xưng" là pháp hiệu của Đại Sư lúc mới vừa xuất gia. "Thắng Xứ Sĩ" chỉ cho phái Cách Đăng. Danh từ Cách Đăng gọi cho đủ là: "Thắng Địa HỶ Lạc".

Mùa hạ năm 1409, thể theo lời thỉnh cầu của chư tăng và Phật tử ở vùng A Khách, Đại Sư đến chùa Phó Tang Đơn Lãnh (Bsam-gtan-gling) giảng Tập Mật Viên Mãn Thứ Đệ và Ngũ Thứ Đệ Luận. Giảng xong, Đại Sư liền nhập thất để trước tác quyển "Tập Mật Viên Mãn Thứ Đệ Thích".

Lúc viết quyển này, Đại Sư cầu khẩn Sư Trưởng, Bổn Tôn thầm mật gia hộ, nên thường thấy Tập Mật Văn Thù Kim Cang hiện thân tướng trang nghiêm. Đại Sư dùng lời ẩn ngữ mà ghi lại hết những kinh nghiệm đã trải qua.

Đêm mồng ba tháng chạp năm 1409, Đại Sư mộng thấy đại mạn đà la của Bổn Tôn (Bồ Tát Văn Thù). Trong mộng, Đại Sư thấy Bồ Tát Văn Thù tay cầm tịnh bình, bảo:

- Nước trong tịnh bình này vốn là nước của pháp nghĩa hòa hợp mà trong đời quá khứ, lúc Ta trú gần bên Na Đường Cổ Thủy, đã cùng A Để Sa và Bồ Tát Di Lặc đồng thảo luận về ba thân như pháp thân, báo thân, ứng thân, cùng hai thân như pháp thân và sắc thân. Từ đời A Để Sa đến nay, trải qua hơn ba trăm năm, không thể tìm được ai để ủy thác. Hiện tại, ông là người đã được tuyển chọn, nên Ta giao cho ông (8).

Đêm mồng bốn tháng chạp năm 1409, Đại Sư mộng thấy Bố Đốn Nhân Ba Thiết ngồi trên bảo tòa cao lớn, và ban truyền "Tập Mật Căn Bổn Kinh" cho đại chúng. Giảng thuyết xong, Bố Đốn Nhân Ba Thiết trịnh trọng phó chúc cho Đại Sư:

- Từ đây về sau, ông sẽ là chủ nhân của bộ kinh này.

Bấy giờ Đại Sư suy nghĩ: "Phần cuối của bộ kinh này có khiếm khuyết hay không?"

Lúc mở ra xem để kiểm tra, từ đầu đến cuối, Đại Sư không thấy một chỗ nào là khiếm khuyết. Chốc lát sau, Bố Đốn Nhân Ba Thiết dùng hai tay, đặt bộ kinh này lên đảnh đầu của Đại Sư, và miệng đọc chân ngôn quán đảnh, cùng dùng ấn thủ gia trì ba lần.

Mồng năm tháng chạp năm 1409, đối với Hòa Hợp Tu Pháp (9) của tổ sư Mã Nhĩ Ba thuộc phái Cát Cử, Đại Sư đều đạt được kiến giải kiên cố không sai lầm.

Mồng sáu tháng chạp năm ấy, Đại Sư lãnh hội được những pháp tu hòa hợp do ngài Mã Nhĩ Ba ban truyền (10), cùng chánh kiến pháp nghĩa về luận Trung Quán của Bồ Tát Long Thọ.

Mồng bảy tháng chạp năm đó, vừa duyệt xem quyển luận Bồ Tát Nhiếp Hạnh Cự của luận sư Đề Bà, Đại Sư sanh khởi định giải thù thắng.

Đầu năm 1410, mái chùa Cách Đăng được xây cất xong. Vào mồng năm tháng hai năm 1410, Đại Sư cử hành đại lễ khai quang cho chùa Cách Đăng (11), cùng giảng Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, Tập Mật Nguyệt Xưng Thích, Ngũ Thứ Đệ, Tập Lượng Luận, Du Già Sư Địa Luận, Nhân Minh Luận, v.v...

Năm đó, Đại Sư trước tác quyển "Tập Mật Tứ Thiên Nữ Thỉnh Vấn Kinh Thích", "Trí Kim Cang Kinh Tập Thích", cùng bắt đầu viết quyển "Ngũ Thứ Đệ Thích".

Xưa kia, tại vùng Tăng Cách Tông ở Niếp Địa, Diệu Âm Thiên Nữ đã từng hiện thân bảo rằng đến năm năm mươi bảy tuổi, Đại Sư sẽ thọ nạn. Bồ Tát Văn Thù cũng đặc biệt phó chúc, bảo rằng trong thời gian đó, phải chuyên tu Mật pháp để đối trị hoạn nạn. Bồ Tát cũng dạy rằng sau khi kéo dài được thọ mạng Đại Sư sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho chánh pháp và chúng sanh.

Năm năm mươi lăm tuổi (1411), để tiêu trừ tai nạn, Đại Sư cùng với hơn ba mươi đại đệ tử nhập thất, chuyên tu Mật pháp Đại Oai Đức Kim Cang (12). Buổi sáng tu pháp tăng ích. Buổi chiều tu pháp diệt tai nạn.

Đại Sư cùng đồ chúng tinh tấn tu trì như thế. Đến năm 1412, tuy người tham gia có trên bốn mươi vị, nhưng vẫn chưa thấy điềm dự báo ngăn ngừa được tai nạn. Tuy nhiên, quả như lời thọ ký của Diệu Âm Thiên Nữ, Đại Sư chứng đắc diệu trí Không Lạc Hòa Hợp, nên đạt được bốn loại hoan hỶ và công đức của tánh Không.

Mùa thu năm đó, thấy chưa có điềm lành tiêu trừ tai nạn, và sợ sang năm sẽ không tránh khỏi họa hoạn, nên Đại Sư bảo đồ chúng:

- Xem tình hình như vầy, từ đây về sau, Ta e rằng sẽ không còn có cách nào tiếp tục giảng kinh cho các ông nữa. Vì cần cầu Mật giáo thạnh hành rộng khắp trên thế gian, hôm nay Ta sẽ truyền trao cho các ông hết những yếu chỉ vi diệu thậm thâm nhất.

Nghe qua lời này, đồ chúng vô cùng kinh hoàng, vì sợ rằng thế gian mất đi chỗ nương tựa lớn, nên ân cần chí thành cầu thỉnh:

- Kỳ tai nạn sắp đến! Chúng con cầu thỉnh Đại Sư từ bi, thương cho chúng sanh không có chỗ nương tựa, mà tạm thời đình chỉ việc giảng kinh, tiếp tục chuyên tu. Đệ tử chúng con tuy ngu muội bất tài, nhưng cũng nguyện tận lực hết lòng hỗ trợ.

Do lời thỉnh nguyện của đồ chúng, vào mồng bảy tháng tám năm đó, Đại Sư cùng với hơn ba mươi cao đệ tiếp tục nhập thất chuyên tu. Những đệ tử khác cũng tận tình hộ thất.

Trung tuần tháng mười một, Đại Sư bị bịnh trầm trọng. Lúc nghiêm trọng nhất là trong hơn hai mươi ngày Đại Sư không thể chợp mắt được. Tuy bịnh nghiêm trọng như thế, nhưng Đại Sư vẫn không bỏ phế công phu tu tập. Bên ngoài, thấy Đại Sư ăn uống đi lại như thường, nên đồ chúng chẳng ai biết rõ bịnh tình của Đại Sư.

Đêm mười ba tháng chạp, trong tam ma địa, Đại Sư thấy được tướng lành kiên cố, nên vui mừng bảo đồ chúng:

- Hôm nay tướng lành đã hiện, hy vọng sẽ thành tựu. Mọi người hãy nên tập trung ý lực, dũng mãnh tu hành.

Bấy giờ, đại A Xà Lê Đạt Mã Nhân Cần cùng toàn thể đồ chúng nhất tâm tu hỗ trợ cho Đại Sư. Dẫu tới đêm giao thừa và ngày đầu năm mà họ vẫn hành trì không gián đoạn. Tăng chúng và Phật tử ở khắp nơi cũng sợ rằng Đại Sư sẽ nhập tịch, nên tận lực hành bố thí, tu phước thiện, để cầu nguyện Đại Sư trụ lại thế gian.

Sau hai năm tu hành liên tục (57 tuổi) Đại Sư bắt đầu chọn bảy đồ đệ đầy đủ tịnh giới để chuyên tu pháp của Bổn Tôn. Những đệ tử đã có chứng lượng nơi Mật pháp Đại Oai Đức Kim Cang cũng vào thất cùng tu với Đại Sư. Ban ngày, Đại Sư tu mật pháp Đại Oai Đức. Chiều tối trụ tại tam ma địa Đại Lạc Bất Không, để phòng ngừa tai nạn do phi nhân và ma quỶ gây nên.

Tạo ra nghịch duyên ngăn trở giáo pháp của Đại Sư, tổng cộng có bốn đại ác ma. Vài năm trước, tại A Khách, đang giảng Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, Đại Sư đã từng hàng phục một đại ác ma. Hắn thề suốt đời không còn làm loạn nữa, và xin an trú nơi tam muội da giới. Lần nhập thất này, lại có một đại ác ma đến cầu quy phục, xin Đại Sư tha tội, cùng phát nguyện mãi mãi hộ trì giáo pháp của Đại Sư.

Lần nọ, vào lúc nhập định, Đại Sư thấy trên hư không, Phật Thích Ca từ thân vàng sáng chói oai đức trang nghiêm, phóng ánh hào quang lớn, và kết ấn hàng phục ma quân. Đại Sư dùng lực thiền định, nhiếp nhập thánh tượng Phật Thích Ca vào thân. Trong khoảng sát na, đối với những chướng nạn, Đại Sư đạt được lực vô úy. Bấy giờ, Đại Sư thấy pháp vương Lục Tý Ma Cáp Lạp và Diêm La dùng dây Kim Cang trói cổ một đại ác ma, dẫn đến trước tòa của Đại Sư mà chặt đầu. Ngay lúc đó, chư đồ đệ đều nghe bên ngoài có tiếng của rất nhiều phi nhân la lớn:

- Bại rồi!

Chúng yêu ma đều biến thành loài chim mà bay đi mất. Hôm sau, Lục Tý Ma Cáp Lạp cũng dẫn một đại ác ma đến và vung đao chém. Thế là nguy nạn của bốn đại ác ma đã được tận trừ. Pháp thể của Đại Sư từ từ được bình phục lại.

Bấy giờ, Bổn Tôn hiện thân thọ ký:

- Từ nay, ông phải tu lý Sanh Khởi, để viên mãn hai loại thứ đệ. Chẳng bao lâu, có thể chứng đắc quả vị cứu cánh. Trong các đồ đệ của ông, có bảy người đầy đủ thiện căn; họ cũng sẽ có sở chứng.

Đến mồng năm tháng sáu, thân thể của Đại Sư hoàn toàn khoẻ lại.

Mùa hạ năm 1415, do lời thỉnh cầu của vua Trát Ba Kiên Tham, Đại Sư đến chùa Trát Hy Đóa Khách (Wongyi Tashi Dokar) ở vùng Văn Địa để an cư kiết hạ, và chuyển pháp luân, giảng Trung Luận, Thích Lượng Luận, Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, Nhập Bồ Đề Hạnh Luận cho trụ trì chùa Tư Đường, trụ trì chùa Đơn Tát Thế cùng hàng trăm tam tạng pháp sư danh tiếng.

Do Đại Sư tự thân thực hành giới đức tinh nghiêm và hoằng dương giới luật, nên có rất nhiều người đến dưới tòa mà cầu giới. Lúc trụ tại chùa Trát Hy Đóa Khách, ứng theo lời thỉnh cầu của Tỏa Nam Tang Bố (13) trụ trì chùa Đơn Tát Thế, Đại Sư chánh thức truyền giới tỳ kheo cho Thầy.

Ngày nọ, lúc Đại Sư trú tại chùa Trát Hy Đóa Khách, có một vị đúc tượng (14) đến đúc những thánh tượng. Vị đúc tượng này có tài thiện xảo khéo léo, và đúc tượng rất nhanh. Trong một ngày mà đúc được hai mươi mốt tôn tượng. Những tôn tượng đó rất sống động, và tựa như pháp tướng của Đại Sư. Thấy thế, Đại Sư tán thán:

- Những hình tượng này thật giống như thân của Ta!

Do đó, trong một ngày, Đại Sư cạo tóc hai mươi mốt lần, rồi trộn tóc vào chất thạch cao, để đắp lên các bức tượng đó. Hiện nay các tôn tượng của Đại Sư vẫn còn được lưu giữ tại chùa Trát Hy Đóa Đường.

Vào mùa thu năm 1415, vừa từ chùa Trát Hy Đóa Khách trở về đến chùa Cách Đăng, Đại Sư bèn rút ra tất cả yếu chỉ của tông pháp, trước tác "Tập Mật Nguyệt Xưng Thích Sớ" và "Tập Mật Quyết Đoạn Nhiếp Nghĩa Khoa Phán", để hiển dương thắng nghĩa bất cộng của Tập Mật (Guhysamaja Tantra).

Lại nữa, quyển Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận do Đại Sư trước tác xưa kia, văn nghĩa rất bao la bác học, nên đối với những kẻ hạ căn sơ phát tâm thật khó phụng trì. Vì vậy, Bổn Tôn (Bồ Tát Văn Thù) phó chúc cho Đại Sư rằng phải viết sơ lược lại, để nhiếp thọ những người căn cơ thấp kém. Do đó, rút ra những pháp nghĩa chính yếu (15), Đại Sư trước tác quyển "Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Lược Luận".

Trước tác xong quyển "Tập Mật Nguyệt Xưng Thích Sớ (Chakrasamvara)" và "Tập Mật Quyết Đoạn Nhiếp Nghĩa Khoa Phán", Đại Sư bắt đầu giảng Mật pháp liên tục. Lần nọ, lúc đang ban truyền Mật pháp, Đại Sư tự nhủ: "Trong bộ Mật Tích có lưu ý: Những người chưa đắc Mật pháp quán đảnh, thì nghiệp chướng chưa được thanh tịnh. Đức Phật chế giới cho những người nầy là không được nhìn xem đàn tràng Mật pháp. Hôm nay cử hành Mật pháp cúng dường tại đại điện, thật là không hợp với bổn ý của bộ Mật Tích. Vì muốn tôn chiếu theo giới luật của Mật Tông, phải nên kiến lập thêm một chánh điện Mật pháp".

Thế nên, Đại Sư bắt đầu phác họa xây cất điện Quảng Nghiêm để chuyên tu Mật pháp (16). Do bi nguyện của Đại Sư chiêu cảm, tín chủ bốn phương cúng dường rất nhiều cúng phẩm. Cuối năm 1415, nền móng được xây cất, và qua năm sau thì hoàn thành.

Tháng ba năm 1417, Đại Sư mời thợ đúc tượng đến đúc tôn tượng Phật. Ở trung tầng của điện Quảng Nghiêm, đúc tượng Phật Thích Ca (bằng đồng đỏ) lớn hơn tôn tượng của chùa Đại Chiêu. Thượng tầng của đại điện đều y theo quy thức, kiến lập ba đại mạn đà la như Tập Mật Ba Mươi Hai Tôn, Thắng Lạc Sáu Mươi Hai Tôn, Kim Cang Giới. Trong các mạn đà la của Tập Mật Ba Mươi Hai Tôn và Thắng Lạc Sáu Mươi Hai Tôn, dùng một trăm lượng bạc để đúc làm Tập Mật Kim Cang, Thắng Lạc Luân Kim Cang. Tượng của chư Phật trong năm phương và các thánh tượng của chư Du Già Mẫu cũng dùng bạc để đúc tạo. Đối với những tượng Phật khác và cung điện, thì dùng đồng đỏ để đúc tạo, và bên ngoài thì phết vàng lá. Chủ tôn của Kim Cang Giới Mạn Đà La thì dùng gần cả một trăm lạng bạc để tạo thành. Mười hai tôn tượng Phật khác thì dùng hơn bảy trăm lạng bạc để đúc tạo. Cung điện cũng làm bằng đồng đỏ và phết vàng lá.

Ngoài ra, Đại Sư còn cho đúc bằng vàng các tôn tượng của Bồ Tát Văn Thù, Phật Vô Lượng Thọ, Phật Đại Oai Đức Kim Cang, cao cả ba thước. Phật Đảnh Tôn Thắng, Đại Bạch Tản Cái Phật Mẫu cao khoảng một khủy tay. Dùng lụa tơ, hương dược, v.v... nghiền nhỏ thành bột, rồi nắn thành tượng Phật Đại Oai Đức Kim Cang, cao khoảng mười một ngón tay. Tất cả đều dùng bao loại trân bảo để trang nghiêm tượng Phật.

Đúc xong tất cả thánh tượng, Đại Sư y chiếu theo quy thức của Đại Oai Đức Kim Cang mà làm lễ khai quang, cùng vân tập rất nhiều tăng sĩ, trí sĩ và Phật tử, cử hành pháp hội cúng dường. Lúc làm lễ khai quang, có nhiều tướng lành hiển hiện, thật rất hy hữu. Từ đó, ở Vệ Tạng, suốt bao năm mưa thuận gió hòa, khiến thực phẩm đầy ắp, quốc gia thái bình, nhân dân an lạc. Đó là nhờ một phần công đức xây cất bảo điện Quảng Nghiêm, mới được chư Phật gia trì, thiên thần ủng hộ.

Năm 1418, do tăng chúng ở bốn phương và đồ chúng cung thỉnh, Đại Sư thuyết giảng về Hiển-Mật giáo pháp.

Trong pháp hội, Đại Sư đặc biệt giảng về đại pháp Thời Luân Kim Cang. Thời Luân Mật Pháp có nhiều chỗ không giống với những loại Mật pháp khác. Vì vậy, rất nhiều học giả bài bác quyển Mật pháp này. Nhờ trí huệ vô cấu nhiễm mà Đại Sư biết rõ đây là bộ Mật pháp rất thâm cao, và thù thắng. Pháp Kim Cang Thời Luân khi truyền vào Tây Tạng có hai phái: Một là do luận sư Nguyệt Hỗ. Hai là do dịch giả Nhạ Pháp Cực. Ngài Bố Đốn Nhân Ba Thiết trước tiên tu học giáo thọ của dịch giả Nhạ Pháp Cực tại Kim Cang Tràng, rồi lại y theo ngài Thánh Quang mà học giáo thọ của luận sư Nguyệt Hỗ. Sau này, ngài Bố Đốn Nhân Ba Thiết đem Thời Luân Mật Pháp của hai phái mà truyền trao cho ngài Kiếp Kiết Cụ Ngõa Nhân Ba Thiết. Chuyên tinh tấn tu trì Mật pháp này, rồi về sau ngài Kiếp Kiết Cụ Ngõa Nhân Ba Thiết truyền trao cho Đại Sư.

Nơi pháp hội đó, Đại Sư nỗ lực hoằng dương Thời Luân Mật Pháp. Mật pháp này được thịnh hành tại Tây Tạng, chính nhờ công lao Đại Sư.

Lúc Đại Sư trú tại chùa Cách Đăng vào năm 1418, do đại thiện tri thức Thiện Kiết Tường cúng dường bốn mươi lạng bạc (để đúc tạo mạn đà la), và do nhiều vị đại thiện tri thức tín giải "Nhập Trung Luận" (17), cùng có huệ lực thù thắng, v.v... ân cần cung thỉnh, nên Đại Sư tạo một bộ luận, văn nghĩa đơn giản, hiển bày thông nghĩa chính xác, giải đáp những điểm nghi ngờ, được gọi là "Nhập Trung Luận Thích". Thuận tiện, Đại Sư cũng trước tác sớ sao hiển rõ mật ý. Bộ này được hoàn tất vào năm đó, và được gọi là "Nhập Trung Luận Thiện Hiển Mật Ý Sớ" (18).

Sau khi hoàn thành sự nghiệp hy hữu đối với thánh giáo và chúng sanh, cơ duyên hoằng hóa của Đại Sư sắp hết. Để hóa độ những người hữu duyên cuối cùng, và kết nhân duyên thù thắng cho đời vị lai, cùng từ tạ thánh tượng Thích Ca Mâu Ni, Đại Sư chấp thuận lời cầu thỉnh của đồ chúng mà đến Lạp Tát. Vào mùa thu năm sáu mươi ba tuổi (1419), từ chùa Cách Đăng xuất phát, đầu tiên Đại Sư đến chùa Đại Chiêu ở Lạp Tát, lễ bái thánh tượng Thích Ca cùng trần thiết cúng dường, khẩn thành phát nguyện. Phát đại nguyện thanh tịnh xong, Đại Sư đi thẳng đến vùng Ôn Tuyền. Vừa rời Ôn Tuyền, Đại Sư đến vùng Đóa Lũng (Tolung), vân tập chư tăng kẻ tục, tuyên giảng pháp nghĩa, cùng thọ nhận phẩm vật cúng dường, để khiến họ gieo trồng thiện căn, và vun bồi phước duyên thù thắng. Trong kỳ pháp hội, trên hư không ở nơi trụ xứ của Đại Sư, xuất hiện nhiều áng mây tập mật, cùng có ánh sáng năm màu sáng soi rực rỡ. Tham gia pháp hội có khoảng chín ngàn vị tăng, mà trong đó có khoảng hai ngàn vị thông suốt ba tạng giáo điển.

Lần nọ, lúc đi ra một bờ suối ở Đóa Lũng, Đại Sư ngồi dựa vào một tảng đá lớn, và hình tượng của Đại Sư được in ấn vào trong tảng đá đó, mà cho đến ngày nay tín chúng vẫn còn trông thấy. Nơi đó, Đại Sư cũng thấy hóa thân của mười sáu vị đại A La Hán.

Pháp hội ở vùng Đóa Lũng vừa kết thúc thì Đại Sư đến chùa Triết Bang (Drepung), giảng thuyết Bồ Đề Đạo Thứ Đệ, Na Nhã Lục Pháp, Nhập Trung Luận, Tập Mật, cùng các Mật pháp thậm thâm cho hơn hai ngàn tăng chúng, và thọ sự cúng dường của họ.

Lúc xưa, những khi tuyên giảng pháp nghĩa, Đại Sư chỉ hạn cuộc nơi giảng kinh. Đối với những loại pháp yếu quan trọng, Đại Sư không ban truyền nhiều, mà chỉ giảng đến Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận là ngưng. Vì muốn lưu lại hạt giống nhân duyên Văn Thù, Đại Sư mở rộng pháp môn phương tiện, bãi bỏ thông lệ không truyền pháp cho cư sĩ. Lúc giảng kinh, dẫu là chư tăng hay cư sĩ, và số lượng nhiều hay ít, cùng kẻ đến trước người tới sau, Đại Sư đều giảng giải và ban truyền pháp cho họ mà không lưu lại chút nào. Do đó, đại chúng tham gia pháp hội ai ai cũng vui mừng hớn hở, mãn nguyện ra về.

Lần nọ, khi Đại Sư đang giảng giải kinh luận, thì có một luồng tia sáng năm màu sáng rực, từ trên hư không chiếu thẳng xuống đạo tràng. Nhìn xa xa giống như một cây cột trụ.

Lại nữa, vào lúc Đại Sư làm lễ khai quang đại điện Mật pháp ở chùa Triết Bang, đất đai đều chấn động, và chư thánh chúng hiện thân bay vào các thánh tượng, cùng có các tướng lành khác. Những thánh tượng đó làm phước điền thù thắng cho chúng sanh trong đời mạt pháp.

Lần nọ, đang giảng kinh Tập Mật (19), Đại Sư vọng hướng về phía chùa Cách Đăng. Giảng đến phẩm thứ chín, Đại Sư bảo:

- Ta có việc quan trọng, phải trở về chùa Cách Đăng ngay. Kinh Tập Mật giảng đến đây là kết thúc.

Các thí chủ cùng đồ chúng rất thất vọng, nên cầu thỉnh:

- Thỉnh Đại Sư từ bi, lưu lại đây một tháng hoặc nửa tháng, để giảng xong hết quyển kinh Tập Mật. Nếu thật không còn thời gian, xin Đại Sư hãy theo văn nghĩa mà tụng qua một lần, rồi xin kết thúc.

- Hiện tại, Ta phải mau kíp trở về chùa Cách Đăng để giảng Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận cùng Tập Mật Căn Bản Kinh. Những ý nghĩa thâm sâu quan trọng trong quyển kinh này, hôm qua Ta đã giảng xong. Quý vị không cần phải cầu thỉnh!

Đại Sư từ chối lời cầu thỉnh, rồi trở về chùa Cách Đăng. Thật ra, giảng kinh chưa xong mà kết thúc, đó là Đại Sư muốn biểu thị pháp duyên chưa dứt, và để kết duyên với họ trong đời vị lai, khiến Phật pháp mãi mãi trường tồn. Mật ý này, các đồ chúng và thí chủ nào biết rõ.

Trên đường trở về chùa Cách Đăng, Đại Sư cũng ghé lại Lạp Tát, lễ bái thánh tượng Thích Ca Mâu Ni, cùng cúng dường và phát nguyện lần cuối cùng.

Bấy giờ, chùa Sắc Nhạ (Sera) đã được xây xong. Thích Ca Dã Hiệp ân cần thỉnh cầu Đại Sư đến chùa Sắc Nhạ giảng kinh thuyết pháp cho đại chúng. Trong kỳ pháp hội giảng kinh đó, Đại Sư nghĩ đến việc Mật pháp thanh tịnh chân chánh ở Tây Tạng đã lâu bị mai một. Tuy Đại Sư nỗ lực giảng kinh thuyết pháp, ban truyền pháp nghĩa, mà sự hoằng truyền Mật pháp vẫn còn thiếu nền tảng căn bản. Do đó, Đại Sư phó chúc cho Thích Ca Dã Hiệp lập viện Mật giáo, để làm đạo tràng thanh tịnh cho sự giảng giải và nghe về Mật pháp.

Đại Sư lại kết duyên vị lai thù thắng. Tại chùa Sắc Nhạ, thầy trò của Đại Sư làm lễ tụng giới trong nửa tháng (20). Đại Sư cũng giảng hai bộ kinh Tập Mật và Thắng Lạc.

Lần nọ, Đại Sư cầm quyển "Tập Mật Tứ Sớ Hiệp Giải", rồi hỏi đại chúng:

- Ai có khả năng thọ trì quy thức giảng giải và truyền thừa về bộ kinh này?

Đại Sư hỏi ba lần mà trong đại chúng không có ai trả lời. Chốc lát sau, một đệ tử tên là La Truy Tăng Cách (Blo-gros seng-ge; dịch là Huệ Sư Tử), đứng dậy, lễ bái ba lạy, rồi thưa:

- Con xin nguyện thọ trì!

Nói xong, La Truy Tăng Cách tiếp thọ quyển kinh đó trên tay của Đại Sư. Cảm thấy pháp đã được truyền trao, Đại Sư rất vui mừng, và an ủi dặn dò:

- Ông hãy an tâm! Ta đã phó chúc bộ Mật pháp này cho pháp vương Diêm La (21). Trong tương lai, nơi vùng núi Kim Cang Linh Phúc Cái ở Hậu Tạng, có một vị Du Già Sư tu pháp Đại Oai Đức Kim Cang. Người đó sẽ hoằng dương giáo pháp của ông. Lại nữa, trên núi La Sát Nữ Ngưỡng Ngọa có một nữ Dạ Xoa. Bà ta cũng có thể hoằng dương pháp của ông. Những việc khác, sau này ông tự hiểu rõ.

Thọ ký xong, Đại Sư liền vào kho, lấy ra mặt nạ Diêm La, cốt trượng, dây thung, cùng các pháp bảo để trao cho La Truy Tăng Cách, rồi ban truyền pháp quán đảnh "Thọ Trì Giảng Mật Pháp".

Trên đường từ chùa Triết Bang trở về chùa Cách Đăng, để kết duyên lành với chúng sanh trong đời vị lai, dẫu ai cung thỉnh giảng pháp, Đại Sư cũng đều từ bi chấp thuận.

Lần nọ, nhận lời thỉnh cầu của Trát Cát Tổng Chủ, Đại Sư đến vùng Đại Lạc Đảnh giảng kinh. Trong pháp hội, Đại Sư bảo Trát Cát Tổng Chủ:

- Đại Lạc Đảnh là vùng đất thanh tịnh. Ông nên xây cất một đạo tràng y theo giới luật và Mật pháp của tôn giả A Để Sa đã ban truyền.

Đại Sư phó chúc xong, cúng phẩm bốn phương liền đổ dồn về. Trát Cát Tổng Chủ cũng hoan hỶ phát tín tâm, lập tức khởi công xây chùa, và cung thỉnh Đại Sư làm lễ khai quang. Đại Sư bảo:

- Đúng thế! Đúng thế! Lần này không tiến hành lễ khai quang thì e rằng về sau chẳng còn có cơ hội nữa!

Vào đêm nọ, đại chúng đều nghe tiếng nện gióng rõ ràng. Tuy nhiên, lúc đi xem xét thì không ai biết âm thanh đó xuất phát từ đâu. Đây chẳng phải là tiếng nện gióng ở cõi người, mà là âm thanh cung thỉnh Đại Sư của chư Thiên. Điềm này hiển thị cho việc Đại Sư sắp nhập Niết Bàn!

Làm lễ khai quang xong, Đại Sư liền từ giả đại chúng để đến vùng Đức Khánh (Dechen) thể theo lời cung thỉnh của Cát Chủ Diệc (Brag-dkar grub-bzhi). Từ Đức Khánh trở về chùa Cách Đăng, Đại Sư lập tức lên bảo điện Quảng Nghiêm, rồi dạy đồ chúng:

- Các ông hãy mau trần thiết cúng phẩm. Hiện tại Ta muốn tu Mật pháp cúng dường mà không thể chờ đợi!

Sau khi cúng dường các cúng phẩm trước thánh tượng đức Như Lai, cùng ba đại mạn đà la Tập Mật, Thắng Lạc, Kim Cang Giới xong, Đại Sư đại diện chư tăng chùa Cách Đăng tiếp thọ sự cúng dường của các thí chủ. Bấy giờ, vì muốn chánh pháp trụ mãi trên thế gian, người đời nay và đời sau tu hành được viên mãn, Đại Sư tự ý giảng "Cực Lạc Nguyện Văn".

Thấy nhân duyên độ sanh đã viên mãn, Đại Sư trở về am thất trong chùa Cách Đăng, rồi tự nhủ: "Hiện nay, mọi việc đã được an bài. Tâm Ta thật rất an lạc!"

Vì muốn cứu độ chúng sanh, xả bỏ chấp thường kiến, nên lúc ấy Đại Sư thị hiện có chút bịnh. Nghe tin Đại Sư lâm bệnh, đại chúng sợ mất nơi nương tựa, nên họp nhau tụng kinh lễ bái cùng làm các Phật sự khác, để cầu nguyện Đại Sư trụ thế lâu dài. Sau buổi trưa, Đại Sư cảm thấy toàn thân đau nhức. Đến tối, Đại Sư lại thị hiện tướng hôn mê. Qua ngày thứ ba, Đại Sư tỉnh lại và phó chúc cho Bảo Tràng Nhân Ba Thiết:

- Từ nay, ông hãy cùng Đạt Mã Nhân Cần trụ trì chùa Cách Đăng!

Ngày hai mươi ba tháng mười, trì luật Trát Ba Kiên Tham và đại A Xà Lê Đạt Mã Nhân Cần quỳ trước tòa của Đại Sư. Bấy giờ, Đạt Mã Nhân Cần buồn bã cầu thỉnh:

- Xin Đại Sư chỉ dạy cho con tâm yếu của sự hoằng hóa lợi sanh trong đời tương lai!

Vì xưa kia đã từng phó chúc cho Đạt Mã Nhân Cần trụ trì chánh pháp, nên nay Đại Sư không cần phải lập lại, mà chỉ lấy chiếc mũ vàng xuống rồi quăng đến ngực của Đạt Mã Nhân Cần, và đưa cho một tấm pháp y (biểu thị cho việc truyền thừa ngôi pháp vị, tức kế thừa Đại Sư mà làm pháp vương quán đảnh), bảo:

- Ông nên hiểu mật ý của việc này mà cố gắng phát tâm Bồ Đề!

Từ đó, Đại Sư thị hiện bịnh nặng, ngày một tăng thêm. Song, trong thời gian quan trọng đó, ngày ngày Đại Sư vẫn tu trì bốn tọa Du Già không gián đoạn.

Lúc Đại Sư thị hiện bịnh hoạn, thân thể có chút gầy ốm. Khi hít hơi thở thô vào, thân thể đột nhiên lại xuất hiện tướng viên mãn, trở thành huyễn thể sáng chói bên trong cũng như bên ngoài. Dung mạo của Đại Sư sáng sủa, trẻ trung, y như đồng tử mười hai tuổi. Bấy giờ, toàn thân Đại Sư phóng ánh sáng rộng lớn, mà người người nhìn thấy không đồng nhau. Có người thấy màu vàng hồng; có người thấy màu vàng trắng bạch; có người thấy màu vàng kim. Tướng hy hữu này, chính là hóa thân của đồng tử Văn Thù Sư Lợi. "Ngoài mặt y phục ẩn trân châu. Trong trụ định đẳng trì".

Khi Đại Sư trụ định quang minh, hư không thanh tịnh lặng lẽ vô cùng, chẳng có chút áng mây hồng. Sau này, trong bốn mươi chín ngày Đại Sư vừa viên tịch, không có một làn gió nào thổi đến. Do đó, những ngọn đèn dầu tô lạc của đại chúng, tuy đặt khắp trong ngoài tự viện, mà không có ngọn đèn nào bị thổi tắt hay cháy phừng lên.

Mỗi ngày, vào nửa đêm khuya, trong hư không tịch tĩnh thường vang lên tiếng nhạc trời vi diệu, nghe rất êm ái. Những đóa hoa năm màu rực rỡ, từ trên không trung bay lã tã xuống như mưa. Những cánh hoa trắng sáng chói như những vầng trăng từ hư không rơi xuống lấp lánh chiếu sáng khắp nơi. Trên đỉnh chùa Cách Đăng xuất hiện cột trụ trắng đứng thẳng tựa như tràng phan. Hai bên hông chùa và trước mặt chùa có những áng mây lành năm màu sáng chói bao phủ.

Đêm ngày hai mươi bốn tháng mười, Đại Sư tu nội cộng pháp của Bạc Già Phạm Thắng Lạc Luận. Khi ấy, tuy xuất hiện nhiều điềm hy hữu, nhưng vì sợ làm động Đại Sư, nên trong đại chúng không ai dám thỉnh vấn.

Rạng sáng ngày hai mươi lăm tháng mười năm 1419, Đại Sư liền nhập đại định, rồi theo thứ lớp mà nhiếp nhập tất cả tánh Không, hiện chứng quang minh pháp thân thắng nghĩa đế. Ngay lúc đó Đại Sư liền thị hiện tướng nhập Niết Bàn.

Sau khi Đại Sư viên tịch, hàng trăm đồ chúng danh tăng, đến trước đàn tràng, dùng ba loại phẩm vật cúng dường ở trong, ngoài, bí mật, mà cúng dường lên Đại Sư; họ phát đại nguyện rằng đời đời kiếp kiếp thường theo và thọ lãnh pháp cam lồ của Đại Sư; họ cũng ước nguyện phụng hành theo giáo pháp và nương nhờ vào huệ lực của Đại Sư để sớm đắc quả vị đại Kim Cang Trì.

Bấy giờ, các đại đạo tràng ở Tây Tạng đều đua nhau bố thí cúng dường, hầu mong tăng thêm phước đức thù thắng. Vì mất đi một đấng đạo sư, có những thiện tri thức ưu sầu đau đớn rơi lệ xót xa, rồi dần dần quên mất cả sự tu hành (22). Khắc Chủ Kiệt thấy thế bèn bảo:

- Lúc vị giáo thọ A Xà Lê viên tịch, có một số người xuất gia, vì buồn thương quá độ, mà làm hoại mất tất cả sự tu hành văn, tư, tu. Họ để tóc quá dài, mặc y phục tang chế của người thế tục, phá hoại tăng tướng, lại còn nằm lăn trong chánh điện mà khóc lóc than van đủ điều, giống như tập tục tang chế của người thế gian. Hiện tại, chúng ta phải tôn chiếu theo lời răn dạy của Đại Sư, xả hết mọi tập tục thế gian, thuận theo giáo pháp của đức Phật. Dẫu là ai đi nữa cũng sẽ gặp lúc "sanh tử vô thường". Vì vậy, chớ nên làm giống như người thế tục. Những việc này chỉ làm tăng thêm sự ưu sầu khổ não, phiền muộn. Kệ viết:

"Tất cả pháp hữu vi
Đều là tướng vô thường
Tích tụ đều tiêu tán
Tôn sùng tức đọa lạc
Hợp hội rồi ly biệt
Có sanh tức có tử".

"Sanh Tử" đối với con nguời, ai ai cũng không tránh khỏi. Do đó, phải thường sanh khởi tâm kinh sợ và chán chường, mà nhất tâm cầu đạo xuất ly, nỗ lực chuyên tu chánh giáo, chứng đạt ba loại pháp luân. Làm Đại Sư vui lòng vừa ý, cũng là một hình thức cúng dường lễ vật lên Đại Sư vậy.

Khắc Chủ Kiệt đầy đủ mắt chánh pháp huệ, dùng những điểm chính yếu của Phật pháp và y theo lời răn dạy của Đại Sư mà khuyên lơn đại chúng nên tránh những tập quán của thế tục, để khiến cho chánh pháp vô cấu nhiễm, mãi trụ tại thế gian.

Sau khi Đại Sư viên tịch, trong đại chúng có người đề nghị hãy nên làm lễ trà tỳ; có người bảo rằng hãy nên lưu giữ nhục thân của Đại Sư. Đồ chúng bàn tán xôn xao, không nhất ý. Song, các đệ tử thượng thủ thấy việc lưu giữ nhục thân của Đại Sư là rất có lợi ích cho việc hoằng dương chánh pháp. Lúc xưa khi Đại Sư trú tại Nõa Kiếp Lũng, Bổn Tôn (Bồ Tát Văn Thù) đã từng thọ ký, bảo rằng hãy nên giữ lại nhục thân. Vì vậy, cuối cùng đồ chúng quyết định rằng việc lưu giữ nhục thân Đại Sư là thượng sách hay nhất.

Để an trí nhục thân Đại Sư, các đệ tử dùng hơn chín trăm lạng bạc do bốn phương tín chúng cúng dường, mà kiến tạo một ngôi tháp bằng bạc. Bốn bên ngôi tháp cũng dùng rất nhiều đá quý để trang nghiêm. Nhục thân Đại Sư được an trí bên trong, còn bên ngoài dùng pháp y để đắp lên; gương mặt hướng về phía đông bắc (23).

Tín đồ trong địa phận của vùng Chỉ Công lại vì Đại Sư mà kiến tạo một ngôi pháp điện mới, và cũng đúc một thánh tượng Phật Thích Ca bằng đồng đỏ nạm vàng lá. Thánh tượng Phật này cao hơn thánh tượng Phật ở chùa Đại Chiêu khoảng một khủy tay. Lúc nhục thân Đại Sư được an trí vào pháp điện mới thì trên hư không có hào quang sáng chiếu, trời mưa hoa báu, và nhạc trời vang rền.

Nhục thân Đại Sư lúc ấy thâu nhỏ lại. Bên ngoài có dạng khô cằn, nhưng bên trong da thịt còn mền nhũn. Năm 1928 (24), do tháp thờ nhục thân Đại Sư đến thời kỳ tan hoại, nên đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ XIII cho xây ngôi tháp mới bằng vàng ròng; mặt ngoài được trang nghiêm bằng nhiều bảo vật. Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ XIII thỉnh vị chuyển thế Đại Phật Ông (nghiêm thủ giới luật rất thanh tịnh), chuyển nhục thân Đại Sư sang ngôi tháp mới. Y cứ theo một vị đã từng tham gia lễ ngưỡng thỉnh nhục thân Đại Sư thuật lại, thì Đại Phật Ông bảo rằng khi nâng cánh tay của Đại Sư lên, cảm thấy nhục thân Đại Sư không bị khô kiệt, mà vẫn còn mềm nhũn, giống như vừa mới viên tịch. Tuy nhiên, râu tóc thì mọc dài ra, nên phải cắt bớt. Ngôi tháp thờ nhục thân của Đại Sư trải qua hơn năm trăm năm, thường hiện những điềm lành hy hữu. Thật là phước điền tối thắng cho chúng sanh trong đời mạt pháp.

Vào tháng mười năm 1420, chư vị kim cang A Xà Lê tại chùa Cách Đăng cùng hàng trăm vị danh tăng đồng tu mật pháp Tập Mật Kim Cang, Thắng Lạc Kim Cang, Đại Oai Đức Kim Cang, Hoan HỶ Kim Cang, Thời Luân Kim Cang, Đại Luân Kim Cang Thủ, Vô Lượng Thọ, Kim Cang Đại Nhật Như Lai, v.v.., và cử hành pháp hội cúng dường. Những trận mưa hoa rơi xuống chúc mừng pháp hội; cánh hoa và tràng hoa đầy màu sắc như những hạt trân châu và trong suốt tựa như pha lê, trông đẹp tuyệt vời.

Ngày hai mươi lăm tháng mười, chính là ngày kỶ niệm đệ nhất chu niên Đại Sư viên tịch. Ngày đó, những trận mưa hoa báu rơi không ngừng; trong kỳ này, đặc biệt là hoa rơi thật nhiều và cành hoa thật lớn. Khi hoa rơi xuống mặt đất thì biến thành tuyết trắng bao phủ vạn vật như mỗi độ đông về.

Hôm đó, các quan lại ở vùng Nội-ổ cung thỉnh Thích Ca Dã Hiệp cùng với rất nhiều tăng chúng đến Nhạ Khách Trát để cử hành lễ kỶ niệm ngày Đại Sư viên tịch. Nơi đó, chư Thiên cũng rải hoa cúng dường.

Theo thông lệ, mỗi năm tăng chúng và cư sĩ ở Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Quốc (25), không phân biệt tông phái nào, đều chọn ngày hai mươi lăm tháng mười, đồng đốt đèn dầu tô lạc để cúng dường tưởng nhớ Đại Sư. Trong những năm đầu của lễ kỶ niệm (26), các Phật tử ở vùng Tây Khương thường khắc lên những chén đèn dầu chữ "Viên Căn". Vì vậy, các pháp hội kỶ niệm Đại Sư, đều được gọi là "Hội Đăng Viên Căn".

Trước lúc viên tịch, Đại Sư nhờ thợ đúc thánh tượng Phật Tỳ Lô Giá Na bằng bạc (27). Đúc tạo xong, Đạt Mã Nhân Cần (28) y theo quy thức mà làm lễ khai quang. Bấy giờ, rất nhiều người không biết dụng ý đúc thánh tượng đó của Đại Sư, nên khởi tâm nghi ngờ. Lúc ấy, biết rõ tâm ý của họ, Khắc Chủ Kiệt bèn bảo đại chúng:

- Xưa kia, sở dĩ Đại Sư kiến lập ba đại mạn đà la như ba mươi hai tôn tượng Tập Mật và sáu mươi hai tôn tượng Thắng Lạc, là muốn dùng nhân duyên này, mà vãn hồi sự suy vi của hai bộ Mật pháp (29), để khiến giáo pháp được hưng thịnh. Hiện tại, nếu không tích cực hoằng dương và hành trì bộ Mật pháp này, thì e rằng những bộ Mật pháp khác sẽ dần dần bị mai một ẩn mất. Vì muốn thánh giáo Mật tạng hằng tỏa sáng, nên Đại Sư mới đúc thánh tượng Phật Tỳ Lô Giá Na, để xiển dương Hành Bộ.

Người tu học Mật pháp, nếu chỉ chuyên tu một bộ hoặc hai bộ trong bốn bộ Mật pháp, thì không có cách nào hiểu rõ toàn bộ yếu chỉ của Mật Tông. Chân chánh muốn làm lợi ích chúng sanh, và hiểu rõ giáo nghĩa Hiển-Mật, thì nhất định phải hoằng dương bốn bộ Mật tạng này cùng một lúc. Khắc Chủ Kiệt là người đệ tử hiểu rõ tâm ý của Đại Sư hơn hết. Nhờ sự giải thích của Khắc Chủ Kiệt mà đại chúng mới được tỏ ngộ.

Trước khi Đại Sư xuất thế, các tỳ kheo ở Tây Tạng thường buông lung giới luật. Về sau, nhờ Đại Sư cực lực xiển dương, nên mới vãn hồi được chánh giáo. Để tiếp tục duy trì thánh giáo của đức Như Lai, và e ngại đời sau các tỳ kheo cũng lại bỏ bê giới luật, nên tự thân Đại Sư nghiêm trì giới luật tỳ kheo thanh tịnh để làm gương sáng. Đồng thời, Đại Sư cũng tuyển chọn ra thân trung ấm. Nhờ duyên này, và tu Mật pháp viên mãn vô thượng theo thứ lớp xong, cùng hóa duyên đã hết, thì vừa viên tịch Đại Sư liền hiện chứng pháp thân.

Sau khi viên tịch, đại sư Tông Khách Ba vãng sanh lên cõi trời nội viện Đâu Suất của Bồ Tát Di Lặc, với pháp danh là Diệu Kiết Tường Tạng. Trong đời vị lai, thị hiện thành Phật, hiệu là Sư Tử Hống Như Lai Ứng Cúng Đẳng Chánh Giác.

Lần nọ, Khắc Chủ Kiệt đang giảng kinh, bèn quán sát căn tánh chúng sanh. Một số thì tham dục không ngừng, chạy theo các pháp ác, không chịu chí thành học tập thánh giáo của đức Như Lai. Một số thì tuy phát tâm tu học đạo Bồ Đề, mà thiếu mất huệ nhãn (30) nên không thể phân biệt đâu là chánh pháp đâu là tà pháp. Một số do vì phước đức cạn cợt, nên chạy theo bạn ác, gần gũi ác tri thức; tuy có tâm tốt, nhưng lại chiêu quả khổ. Nghĩ đến những chúng sanh ngu muội nầy, Khắc Chủ Kiệt cảm thấy xót xa thương hại mà không cầm được nước mắt. Lúc trở về tịnh thất, Khắc Chủ Kiệt đứng trước đàn tràng mà suy nghĩ: "Những chúng sanh ngu muội kia, vì đời quá khứ không có đủ phước đức, nên nay chẳng thể y theo các bậc đại thiện tri thức đầy đủ phước huệ.

Những hạng người nầy, ngoài không có những bậc đại thiện tri thức dẫn dắt, bên trong thì đầy dẫy vọng tưởng điên đảo che lấp. Nơi các pháp hữu vi vốn là vô thường mà chấp cho là thường; nơi các pháp vô vi bổn tánh vốn không mà chấp là thật có; nơi tất cả thọ dụng đều như huyễn không thật mà chấp cho là có thật; nơi tất cả danh vọng ở thế gian, mà chấp là cứu cánh. Phí công mệt sức, chạy đuổi truy cầu, mưu đồ thỏa mãn dục vọng cho sáu căn. Song, càng tìm cầu chừng nào thì họ lại càng bị đọa lạc vào hố thẩm khổ đau chừng ấy.

Ngày nay, tất cả giáo pháp Hiển-Mật của Đại Sư đều là lời lành; những chỗ yếu điểm bí mật của Kim Cang Trì đều giúp chúng sanh xa rời những nơi sai lầm vi tế. Song, chúng sanh không đủ căn lành. Tuy ngày ngày Ta thuyết giảng không ngừng, mà họ vẫn y nhiên, và không có cách nào lãnh thọ pháp vị cam lồ vô thượng của Đại Sư. Thậm chí có những người thường gần gũi những kẻ ngu si, thiếu học vô trí, mê lầm nơi thủ xả, đồng với những hạng ác tri thức. Khi nghe qua những pháp này, họ liền phỉ báng chê bai.

Những chúng sanh này, nếu thông đạt được tâm yếu của Phật pháp, thì sẽ đi thẳng đến Phật địa. Song, họ nào nghĩ nhớ đến việc vô thường, mà chỉ mê loạn trong danh văn lợi dưỡng, để bị đọa lạc vào ác đạo, mãi trầm luân trong sanh tử!"

Nghĩ như thế, bất chợt Khắc Chủ Kiệt rơi lệ không ngừng, nhất tâm dâng lễ vật cầu nguyện cúng dường Đại Sư. Vừa dứt lời cầu nguyện, Khắc Chủ Kiệt chợt thấy Đại Sư hiện thân màu trắng, oai nghi lẫm liệt, cao lớn tựa như núi Tuyết Sơn, ngồi trên thớt voi sáu ngà được trang nghiêm bằng các loại châu báu, theo luồng hào quang năm màu, bay xuống trước mặt, trụ trong hư không, tươi cười an ủi:

- Này Khắc Chủ Kiệt! Ta đã biết rõ tâm ý của ông. Tuy vậy, đừng vì thế mà quá ưu sầu! Chúng sanh nếu giống như ông, mà luôn nghĩ nhớ đến chánh pháp và bậc tôn sư, thì sẽ tịnh trừ được bao nghiệp tội cực ác đã tạo trong đời quá khứ, cùng có thể tích tụ vô lượng tư lương phước đức. Xưa kia, Du Già Tự Tại Mật Lặc Nhật Ba cũng nghĩ nhớ đến tôn sư Mã Nhĩ Ba như thế. Tuy vậy, dầu sao đi nữa, ông phải nên tiếp tục sự nghiệp căn bản thượng diệu của Ta để lại, mà hoằng dương chánh pháp.

Ngày nọ, nơi bí yếu thậm thâm của hai pháp Hiển-Mật, Khắc Chủ Kiệt vẫn còn nghi ngờ rối rắm chưa rõ, nên trần thiết cúng phẩm, rồi rơi lệ khải bạch Đại Sư: "Nếu Đại Sư còn tại thế, thì con còn có cơ hội thỉnh hỏi những pháp yếu nầy. Con cầu xin Đại Sư từ bi hiện thân giảng dạy!"

Trong sát na, Đại Sư liền xuất hiện, ngồi trên bảo tòa màu vàng kim, được trang sức bằng vô lượng hạt châu ma ni, và giảng trạch những mối nghi ngờ cùng ban những lời giáo huấn cho Khắc Chủ Kiệt, rồi biến mất.

Lần nọ, Khắc Chủ Kiệt xem qua những quyển luận do Đại Sư trước tác như Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận và Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, rồi suy nghĩ: "Đầy đủ trí huệ vô cấu quảng đại, trừ thầy của Ta ra, chư đại thiện tri thức ở Tây Tạng, không ai biện thuyết được những lời rõ ràng chính xác như thế nầy".

Suy nghĩ xong, Khắc Chủ Kiệt ân cần hướng về Đại Sư mà cầu nguyện. Bấy giờ, Đại Sư hiện thân đồng tử màu sắc vàng kim, được trang nghiêm bằng nhiều loại châu báu, tay phải cầm kiếm, tay trái ôm trắp, cỡi sư tử trắng từ hư không giáng xuống dạy bảo:

- Này Khắc Chủ Kiệt! Hôm nay Ta đặc biệt hiển hiện xuống đây để thuyết pháp cho ông. Đa số chúng sanh trong cõi đời năm trược ác thế thường quên đi lẽ vô thường và niềm đau khổ khi rơi vào ba đường ác, mà chỉ lo tham đắm trong danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, cùng bao sự nghiệp ở thế tục. Đối với những hạng người này, chỉ cần họ biết rõ câu: "Hiện tại làm những việc gì, thì trong tương lai sẽ gặt hái những quả báo đó", là đủ lắm rồi. Lại nữa, nếu họ chịu duyệt xem những bộ trước tác của Ta về các cách sám hối tu phước lành, cùng những pháp nghĩa thậm thâm, mà sanh khởi tâm thâm tín, rồi chuyên tu những pháp đó, thì mau chóng đạt được thành tựu. Song, những hạng người này thật rất ít. Tuy vậy, ở thế gian cũng còn một số người có cơ duyên thâm sâu với Phật pháp. Ông nên nỗ lực tinh cần làm lợi ích cho những người này, tức là hoằng dương Phật pháp cùng chánh giáo của Ta. Thầy trò chúng ta chẳng bao lâu nữa sẽ gặp nhau!

Lần khác, trong lúc cầu nguyện, Khắc Chủ Kiệt chợt thấy Đại Sư, hiện tướng cỡi mãnh hổ, trụ trên hư không, thân và râu tóc màu đỏ hồng, đôi mắt lớn như linh cái bằng đồng, hiển tướng Kim Cang Du Già, tay phải cầm kiếm chỉ thẳng lên hư không, tay trái cầm cành hoa Két Ba Lạp tẩm nước cam lồ áp vào ngực, vẻ mặt mỉm cười hoan hỶ; bốn bên có tám mươi bốn vị thánh giả vây quanh Đại Sư. Bấy giờ Đại Sư khuyên bảo:

- Từ nay, nếu nghĩ tưởng đến Ta, ông hãy duyệt xem tường tận những bộ luận do Ta trước tác như Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, v.v... Đó là những di giáo của Ta. Ông xem những bộ luận đó, tức là đã thấy Ta.

Ngày nọ, Khắc Chủ Kiệt suy nghĩ: "Hy vọng rằng đời sau sẽ vãng sanh qua dưới tòa của Đại Sư. Ta hãy nên cầu thỉnh Đại Sư giáng lâm để thỉnh hỏi rằng hiện tại Đại Sư đang ở tại nơi đâu, cùng những nghi vấn khác".

Khắc Chủ Kiệt liền trần thiết cúng phẩm thượng diệu, cùng tạo một mạn đà la bằng vàng ròng để cúng dường và cầu nguyện:

"Kính lễ tôn sư cùng ba đời chư Phật
Là nơi quy y duy nhất của chúng sanh.
Đồng Tôn Bồ Tát Văn Thù vô năng thắng
Xin thỉnh từ bi giáng lâm xuống nơi đây".

Bấy giờ, Đại Sư liền hiện thân ngồi tòa kim cang trên một vầng mây trắng, trụ tại hư không, thân tướng cũng giống như lúc sanh tiền, hai tay bắt ấn chuyển pháp luân, hai bên phải trái đều có bình hoa Ô Ba Lạp, bên phải có để một thanh kiếm, bên trái có cái trắp và tấm kiếng trí huệ, bảo Khắc Chủ Kiệt:

- Ông hãy nên chuẩn bị tất cả đồ đạc. Ta sẽ phái người đến nghinh đón ông!

Khắc Chủ Kiệt hỏi:

- Xin hỏi Tôn Sư, hiện tại Ngài đang trụ ở nơi đâu?

- Ta hóa thân khắp mọi nơi. Có hóa thân tại thế giới Không Hành (là nơi trụ xứ của người tu Mật Tông thành tựu). Có hóa thân trú trên cung trời nội viện Đâu Suất. Có hóa thân trú tại cõi Nam Diêm Phù Đề. Hiện tại, hóa thân của Ta đang trú ở núi Ngũ Đài (Trung Quốc), và tuyên giảng Trung Quán Luận, Bồ Đề Đạo Thứ Đệ Quảng Luận, Mật Tông Đạo Thứ Đệ Quảng Luận vào mỗi buổi sáng, và giảng Tập Mật Kim Cang, Thắng Lạc Kim Cang, Đại Oai Đức vào mỗi buổi chiều, cho một ngàn tám trăm tỳ kheo kim cang (tức tăng sĩ tu học Mật giáo). Ông nên phát nguyện đến nơi đó. Chẳng bao lâu, thầy trò chúng ta sẽ gặp lại nhau.


Chương | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | Chú thích

 


Cập nhật: 1-8-2000

Trở về mục "Phật giáo năm Châu"

Đầu trang